You are on page 1of 7

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2021 – 2022

(Phần dành cho sinh viên/ học viên)

Bài thi học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh Số báo danh: 15

Mã số đề thi: 20 Lớp: 2231HCMI0111


Ngày thi: 01/06/2022 Tổng số trang: Họ và tên: Hoàng Thị Hằng

Điểm kết luận:


GV chấm thi 1:

GV chấm thi 2:

Bài làm:
Câu 1: Chủ nghĩa Mác-Lênin đã góp phần như thế nào vào sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh?

+ Đầu tiên, tìm hiểu về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam; từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng
xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người “

+ Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc Sơ thảo lần thứ nhất của Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa do Lenin soạn thảo. Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
là chủ nghĩa Lênin”.

Có thể thấy trong các nguồn gốc hình thành nên tư tưởng HCM, chủ nghĩa yêu nước là cơ
sở ban đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, còn chủ
nghĩa Mác-Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước lên một bước phát triển mới về chất phù hợp
với thời đại mới. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng
HCM.

Cụ thể, chủ nghĩa Mác- Lenin đã góp phần vào sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh là:

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 1/…..


Chủ nghĩa Mác-Lenin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học
của để Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng cứu nước của mình

Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con
đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới khỏi nô dịch và bóc lột, khỏi đói nghèo và tha hóa về nhiều mặt. Đồng thời,
học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã
hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và
sức mạnh của mình. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản", cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Hồ
Chí Minh đã sớm nhận ra độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội
và ngược lại, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra một hệ thống các quan điểm về mối quan hệ đoàn kết giữa
các nước của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Sự liên minh
của giai cấp vô sản toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung mang tính quốc
tế được Mác và Ăngghen đã chỉ ra chính là chủ nghĩa tư bản. Lênin còn đưa quan điểm về
mối quan hệ gắn kết giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc với cuộc đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa. Lúc này, Hồ Chí Minh thấy rằng không chỉ đoàn kết với
nhau mà còn cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, hình thành liên
minh chống lại chủ nghĩa đế quốc

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận
duy vật biện chứng để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn, tích luỹ kiến thức tìm ra
con đường cứu nước mới.

Chủ nghĩa Mác-lenin cung cấp cho Hồ Chí Minh lý luận cách mạng và khoa học
về con đường giải phóng dân tộc, giai cấp và con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương thời,
với tư tưởng của một người cộng sản có tầm vóc trí tuệ lớn, khắc phục cuộc khủng hoảng
về đường lối giải phóng dân tộc, vạch ra con đường giải phóng dân tộc bằng ‘’con đường
cách mạng vô sản’’

Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới những nhận
thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn, để rồi tiếp thu học thuyết của
các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo điều. Từ
đó, vận dụng sáng tạo và phát triển để giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Trong quá trình hình thành tư tưởng, Hồ Chí Minh luôn xem xét và giải quyết trên
cơ sở của phép biện chứng Mácxit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập
trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng chủ nghĩa
yêu nước truyền thống ở Người lên một tầm cao mới nên vừa đảm bảo được sự đúng đắn,
vừa giải quyết được những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt nam.

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 2/…..


Từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo, truyền bá
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới làm cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động nhận thức được bản chất bóc lột, thối nát của chế độ thực dân, phong kiến và
nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Từ đó, làm chuyển biến phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, phong trào yêu nước từ lập trường dân tộc sang lập trường giai
cấp.

=) Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tìm
ra một lý luận cách mạng và khoa học tiến bộ để giải phóng dân tộc, giai cấp. Đó chính là
chủ nghĩa xã hội khoa học. Và từ đó, Hồ Chí Minh đẩy mạnh hoạt động lý luận chính trị,
tổ chức xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa
học và phong trào công nhân. Có thể thấy, chính chủ nghĩa Mác-Lênin góp phần trong việc
hình thành lý luận cách mạng và khoa học để đưa giai cấp công nhân Việt Nam lên vũ đài
chính trị và trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua lãnh tụ chính trị, đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam

Kết luận:

Hồ Chí Minh đánh giá: Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng;
Chủ nghĩa Lenin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không
những là cái ‘’ cẩm nang’’ thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời
soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Do đó, Chủ nghĩa Mác - Lenin là nhân tố quyết định trực tiếp đến bản chất cách
mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh; không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi
nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Câu 2: Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa quan hệ như thế nào với các lĩnh vực khác?
Liên hệ vấn đề này với thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là đời sống
tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Hồ Chí Minh đã đặt văn hóa ngang
hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội, có
quan hệ mật thiết với nhau. Cho nên, trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn lĩnh vực
này đều được coi trọng như nhau.

 Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa quan hệ với các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội như sau

- Văn hóa trong quan hệ với chính trị:

Chính trị được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở
đường cho văn hóa phát triển

Văn hóa và chính trị đều là những mặt không thể thiếu trong đời sống xã hội. Văn hóa gắn
liền mật thiết với chính trị, cho nên một dân tộc bị đàn áp tức là nền chính trị đang bị đàn
áp và rõ ràng văn hóa cũng sẽ bị đàn áp, nô dịch. Hồ Chí Minh cho rằng: ‘’Xưa kia chính

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 3/…..


trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được’’; Xã hội thế nào thì văn hóa
thế ấy; Văn hóa của dân tộc ta vốn rất phong phú nhưng dưới chế độ thực dân và phong
kiến nhân dân ta bị nô lệ thì văn nghê cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được.’’
Cho nên, phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ
đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí Minh đã
được thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức văn hóa phải tham
gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", hoặc
đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy. Theo
đó, một phong trào văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn ra rất sôi động, góp
phần đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Có thể thấy, mọi hoạt
động của tổ chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa.

- Văn hóa trong quan hệ với kinh tế

Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Xây dựng
kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa.

Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải thích rằng văn hóa là một kiến trúc
thượng tầng. Từ đó, Người đưa ra luận điểm: phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng
cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng văn hóa. Như vậy, cùng với việc xác định bốn vấn
đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều cần được coi trong như nhau, song Hồ Chí Minh
vẫn nhấn mạnh vai trò quyết định của kinh tế đối với văn hóa. Người chỉ rõ: ‘’cơ sở hạ
tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển
được’’. Muốn tiến lên CNXH phát triển kinh tế và văn hóa. Đúng như câu tục ngữ: Có thực
mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước thì mới xây dựng được một nền văn hóa văn
minh, tốt đẹp được. Hồ Chí Minh không bao giờ nói phát triển văn hóa trước kinh tế. Phát
triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta

Tuy "kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được", nhưng điều đó không có
nghĩa là văn hóa thụ động chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới đến lượt mình phát triển.
Văn hóa cũng không thể đứng ngoài bởi phát triển kinh tế bền vững không thể thiếu sự ổn
định về văn hóa. Văn hóa phải đứng trong kinh tế, tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy
việc xây dựng và phát triển kinh tế. Văn hóa không hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, văn
hóa không chỉ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn là hệ điều tiết cho sự phát
triển kinh tế bền vững

▼ Từ mối quan hệ giữa văn hóa với lĩnh vực chính trị, kinh tế có thể kết lại: "Văn
hóa ở trong kinh tế và chính trị"; có nghĩa là chính trị và kinh tế phải có tính văn hóa. Đây
là một đòi hỏi chính đáng của văn hóa hiện đại. Nhưng người làm chính trị, làm kinh tế...
phải có văn hóa.

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 4/…..


- Văn hóa trong quan hệ với xã hội

Xã hội như một bức vẽ phác họa nền văn hóa. Xã hội như nào thì nền văn hóa như
thế ấy. Phát triển văn hóa để tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội

Theo Hồ Chí Minh, giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội, từ đó văn hóa
mới có điều kiện phát triển. Văn học, nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú,
nhưng trong chế độ nô lệ của kẻ áp bức, thì văn hóa cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát
triển được. Vì vậy phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân
dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm
quyền, thì mới giải phóng được văn hóa. Từ đó, văn hóa mới có điều kiện để phát triển

⧭ Tóm lại, sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển;
ngược lại, mỗi bước phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn
hóa. Là nhân tố quan trọng trong nền sản xuất tổng hợp có hàm lượng trí tuệ cao, văn hoá
như chất keo dính kết các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội tạo nên hình hài và bản sắc
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Văn hoá có khả năng bao quát một cách trực tiếp,
đảm bảo tính bền vững xã hội, tính kế thừa lịch sử và không bị trộn lẫn ngay cả khi hội
nhập vào những cộng đồng lớn hơn.

 Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay:

Thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định vị thế quan trọng
của văn hóa, con người trong chiến lược phát triển quốc gia. Văn hóa không chỉ giới hạn
tầm vóc của mình trong chiều sâu những phẩm giá tinh thần mà nó còn là nguồn lực trực
tiếp cho sự phát triển đất nước.

Trong thời đại công nghiệp hóa- hiện đại hóa; các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội tạo nên hình hài và bản sắc nền văn hóa Việt Nam gồm hai dòng thống nhất trong một
cấu trúc và có tác động lẫn nhau: yếu tố ngoại sinh được dân tộc hóa và yếu tố nội sinh
được hiện đại hóa.

Đảng và Nhà nước nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa văn
hóa và kinh tế, chính trị, xã hội trong phát triển đất nước

+ Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hóa Việt Nam", trong đó chỉ rõ Mặt trận văn hoá là
một trong ba mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, và chủ trương phát triển văn hóa theo ba
hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.

Nhận thức của Đảng ta về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc: Văn hóa vừa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, vũ khí của chính
trị, động lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng và văn minh. Xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hóa với tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 5/…..


+ Quan điểm chỉ đạo của nước ta hiện nay đối với các ngành, các cấp là văn hóa phải
được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội

Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
tiến hành đổi mới đồng bộ và toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính
trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.

Nếu muốn giữ gìn, phát triển văn hóa thì phải khắc phụ tư tưởng tư duy kinh tế-xã hội, đó
là chỉ tập trung cho phát triển kinh tế-xã hội mà ít quan tâm đến văn hóa, phải quán triệt
quan điểm: Văn hóa cùng phát triển với kinh tế-chính trị-xã hội

+ Đảng và Nhà nước xây dựng ‘’văn hóa trong chính trị và kinh tế’’; phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng và nhà nước luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa,
nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân
dân; đòi hỏi cán bộ các ngành, các cấp khi tham gia vào kinh tế, chính trị đều phải có văn
hóa tốt. Hơn nữa, Nhà nước còn hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hoá là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hoá
và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa
công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán
bộ, đảng viên.

Thành tựu và hạn chế của văn hóa trong sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã
hội

+ Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu
quả, tích cực.

Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con
người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Trong thời đại kinh tế toàn cầu hóa, chính trị đa cực hóa và kinh tế tri thức đang trên
đà phát triển, văn hóa đã trở thành tài nguyên chiến lược quan trọng và quý báu đối với sự
sinh tồn, phát triển của một quốc gia, một dân tộc và một chính đảng, trở thành nhân tố căn
bản nâng cao toàn bộ tố chất dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hơn lúc
nào hết, chúng ta phải biết xuất phát từ mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” để nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp bách của
việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hùng mạnh.

+ Tuy nhiên, còn có một số hạn chế như:

Chưa khai phá hết những giá trị của văn hóa

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 6/…..


Văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm
một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị

Còn tồn tại cán bộ văn hoá tham nhũng, khiến nền tảng cho xã hội có nguy cơ biến thành
nền tảng của tham nhũng. Càng chi tiền cho văn hoá, càng giáo dục cán bộ đảng viên thì
việc tham nhũng càng ở cấp cao hơn

Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền còn lớn do chênh lệch về
kinh tế.

Tăng cường khai sáng văn hóa cùng mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính
trị, xã hội để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, và phát triển nền văn hoá của dân tộc

Thứ nhất, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kinh tế, chính trị đạt
yêu cầu về văn hóa, và ngược lại những cán bộ làm công tác văn hóa cũng phải có đủ kiến
thức về kinh tế - xã hội (phòng chống tham nhũng, những vấn đề phi văn hóa)

Thứ hai, bảo tồn và phát huy hơn nữa các giá trị văn hóa tiêu biểu gắn với phát triển kinh
tế - xã hội; rà soát, lập kế hoạch quản lý và khai thác một cách phù hợp, khoa học, hiệu quả
các di sản văn hóă vật thể và phi vật thể nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất

Thứ ba, là đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực du lịch văn hóa gắn với tạo ra các sản phẩm mới
mẻ, độc đáo thu hút được sự quan tâm của khách du lịch quốc tế và trong nước để nhằm
phát triển kinh tế-xã hội

Thứ tư, với quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam cần chủ động giao lưu văn hóa với các
vùng khác và quốc tế, tiếp thu có chọn lọc tinh hoă văn hóa nhân loại, không ngừng quảng
bá, giới thiệu văn hóa Việt Nam với thế giới.

Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa phù hợp với nền kinh tế, xã hội trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kiên quyết ngăn chặn những tiêu cực về văn hóa, tư tưởng,
xu hướng xa rời giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập

Họ tên SV/HV: ………………………….………… - Mã LHP: …………………… Trang 7/…..

You might also like