You are on page 1of 23

NHÓM 1 TRẢ LỜI CÂU HỎI THUYẾT TRÌNH

Nhóm 2: Cơ sở lý luận nào được Hồ Chí Minh tiếp nhận vẫn được Nhà nước ta áp
dụng cho đến ngày nay? Chỉ ra điểm tiếp thu và sửa đổi của Hồ Chí Minh để lý luận
đó phù hợp với văn hóa và xã hội Việt Nam.

Trả lời:

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, những chỉ dẫn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận, xây dựng đất nước ở Việt Nam càng
mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là công cụ nền
tảng để xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời,
tìm ra lời giải cho những bài toán hóc búa mà thực tiễn đặt ra, hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp và dân tộc trong thời đại mới.

Cơ sở lý luận được Hồ Chí Minh tiếp nhận vẫn được Nhà nước ta áp dụng cho đến
ngày nay là: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân
loại và chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa yêu nước là sự biểu hiện của tinh thần anh dũng, bất khuất đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược, được hình thành qua ngàn năm lịch sử dân tộc. Trong lãnh
đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một yếu
tố quan trọng trong chủ nghĩa yêu nước là yêu nước gắn với thương dân, dân là gốc của
một đất nước, gốc vững thì cây mới bền. Tư tưởng lấy dân làm gốc từ lâu đời đã trở
thành kim chỉ nam trong truyền thống dựng nước và giữ nước. Trong lãnh đạo nhân dân
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một yếu tố quan trọng
trong chủ nghĩa yêu nước là yêu nước gắn với thương dân, dân là gốc của một đất nước,
gốc vững thì cây mới bền. Tư tưởng lấy dân làm gốc từ lâu đời đã trở thành kim chỉ nam
trong truyền thống dựng nước và giữ nước.

Tư tưởng phương Đông được Hồ Chí Minh tiếp thu kết tinh trong ba học thuyết
lớn: Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Đó chính là những học thuyết có ảnh hưởng sâu
rộng ở phương Đông và ở Việt Nam trước đây. Ở tư tưởng nho giáo, Hồ Chí Minh đã kế
thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức con người, trong công tác xây dựng Đảng và Nhà nước, đồng thời làm cho
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được nâng lên tầm cao mới: truyền thống
kết hợp với hiện đại, dân tộc kết hợp với nhân loại. Ở tư tưởng Phật giáo, Hồ Chí Minh
đã chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu thương con người, khuyến khích
làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng của con người và chân lý,
khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó với đất nước của đạo Phật. Những quan điểm
tích cực trong triết lý Phật giáo được Người vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo
đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh. Hồ Chí Minh khi lựa chọn Lão giáo, đã chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của
Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên,
hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Người kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức
“Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ
Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi
trong Lão giáo.

Chủ nghĩa Mác Lênin được Hồ Chí Minh tiếp nhận cũng ít nhiều có sửa đổi để
phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp tại Việt Nam.
Xuất phát từ mâu thuẫn chi phối toàn bộ cục diện cách mạng nước ta lúc bấy giờ là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân xâm lược Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định con đường cách mạng vô sản tại Việt Nam phải là cách mạng giải phóng
dân tộc rồi mới đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển một cách sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin về
đảng cộng sản vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở nước ta, một đất nước
thuộc địa nửa phong kiến, tuyệt đại đa số là nông dân làm nông nghiệp, vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định, Đảng là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.

Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận Mác - Lê-nin về tập hợp, xây
dựng lực lượng cách mạng. Người khẳng định, động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng nước ta là đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông
dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng về liên minh công - nông của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để quy tụ,
tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của các lực lượng yêu nước với thế trận
chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và đi
lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dựa trên nguyên tắc pháp quyền ở Việt Nam. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên
nền chuyên chính vô sản. Trên nền tảng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một hệ
thống các quan điểm sáng tạo về nhà nước kiểu mới: Tất cả mọi quyền lực đều là của
nhân dân, một nhà nước của nhân dân, chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do
nhân dân cử ra; đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên, được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân.

Ngày nay, trước sự phát triển đáng kinh ngạc về kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội
và nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn; tệ quan liêu, nạn tham nhũng
và nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu; các thế lực thù địch không ngừng chống phá
với âm mưu “diễn biến hòa bình”... Hàng loạt vấn đề đặt ra đòi hỏi Đảng ta phải nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng cho được một nền tảng lý luận phù hợp. Tại Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới, bắt đầu bằng
đổi mới tư duy với quan điểm: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng
và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều năm đổi mới, tư tưởng
Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp
luận của Đảng; bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức của toàn Đảng để thực hiện thắng
lợi mọi nhiệm vụ cách mạng.

Nhóm 3:

1. Về nguyên lý khoa học, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng như thế nào
trong việc xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Trả lời:

Đầu tiên, nguyên lý khoa học: còn được gọi là công lý, tiên đề, định đề, quy luật
nền tảng, là cơ sở của những kim chỉ nam khoa học, và được coi là đúng trong khoanh
vùng phạm vi mà kim chỉ nam khoa học đó phản ánh. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh được chắt lọc, kế thừa, bổ sung và phát triển từ những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; nó có giá trị trường tồn bởi mang
bản chất khoa học và cách mạng, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và
hành động; có giá trị và đóng góp to lớn đối với hòa bình, tiến bộ và phát triển của dân
tộc và nhân loại. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh tiếp tục là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta đi tới thành công, mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại.

Việt Nam là thuộc địa, vì vậy phải giành được độc lập dân tộc. Dưới ánh sáng của Chủ
nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết được nhiều điều quan trọng, trong đó: Thứ nhất, khi
phân chia các loại cách mạng, nếu lấy tư tưởng làm tiêu chí thì có ba loại: tư bản cách
mạng, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục tiêu của từng dân tộc và nhân
loại thì có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới cách mạng. Thứ hai, lý luận do phân
tích kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta từ trước đến nay kết luận thành.
Vì vậy, phải thống nhất chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Chính vì vậy, giúp chúng ta hiểu vì sao đối với dân tộc Việt Nam thì trước hết phải
giành được độc lập dân tộc; là làm dân tộc cách mạng chứ không phải giai cấp cách mạng
như Cách mạng Pháp năm 1789 hay Cách mạng Nga năm 1917. Tư bản cách mạng thì
phải có tư bản ở thành phố (tư bản mới) và tư bản ở hương thôn (địa chủ).

Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta phải làm dân tộc cách mạng là vì mâu thuẫn
dân tộc giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam sống thân phận nô lệ với một bên là
bọn cướp nước là mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa. Giải
quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập, tự do là nhiệm vụ hàng đầu, không giành được
độc lập dân tộc thì không có gì hết.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc đế quốc chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc... Các thuộc địa trở thành nền
tảng của lực lượng phản cách mạng” Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng
chính quốc. CNTB chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền
móng của lâu đài ĐQCN. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin về mối quan hệ
giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc, Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm chủ
nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vòi”, để khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa là một
trong những “cái cánh” của cách mạng thế giới. Những luận điểm của Hồ Chí Minh
không chỉ là sự vận dụng, phát triển sáng tạo mà còn góp phần bổ sung, phát triển, làm
phong phú chủ nghĩa Lênin về cách mạng thuộc địa.

Hồ Chí Minh chỉ rõ giải phóng dân tộc trước hết nhưng theo con đường cách mạng
vô sản, tức là độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH. Cách
làm này vừa tránh được “vết xe đổ” của con đường phong kiến và tư sản ở Việt Nam vừa
không trở thành người bắt chước. Thực chất đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Lênin trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và
CNXH trong điều kiện cụ thể của nước ta. Kết hợp sáng tạo giữa “quy luật nhất định” và
“con đường khác nhau”, Hồ Chí Minh cho thấy có nhiều con đường để đi tới mục tiêu
duy nhất là CNXH (cộng sản). Đó là “sự gặp gỡ giữa dân tộc và thời đại”. Độc lập dân
tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng. “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” Đất nước độc lập là điều kiện tiên
quyết để đi lên CNXH. Còn CNXH là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Bác đã vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách mạng. Trong giai đoạn
ĐQCN, V.I.Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết
lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành
công, đại thành công”. Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết:
đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh
đoàn kết và khả năng thành công. Người chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho
nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”.
Khái niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng một hàm
lượng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lượng cách mạng, chính xác là xây
dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng
tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp, “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”. Người
cũng luôn khẳng định tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.

Ngoài ra, Bác còn vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ. Việt
Nam cùng loại hình phương thức quá độ gián tiếp như nước Nga, nhưng với những đặc
điểm một nước thuộc địa, tiến trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến dân
chủ nhân dân, xây dựng CNXH là sự kế tục một cách mật thiết, đan xen, đồng thời, mặt
này trong mặt kia trong cùng một quá trình vận động các mặt kinh tế-xã hội theo định
hướng XHCN. Tất nhiên có trọng tâm, ở mỗi bước có mặt nổi lên chi phối, không thể
“vượt bỏ giai đoạn”, nhưng cũng không thể “từ từ từng bước”. Đặc điểm đó của chế độ
dân chủ nhân dân, đồng thời cũng liên quan đến đặc điểm của thời kỳ quá độ của một thứ
cách mạng điển hình. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là như thế và nhất định phải như
thế. Chế độ dân chủ nhân dân có thể gọi là “quá độ của quá độ”. Nó không phải là một
chặng đường của thời kỳ quá độ, nhưng là một chế độ có tính chất quá độ, ít nhiều làm
chức năng của thời kỳ quá độ.

Theo Hồ Chí Minh, “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” Nói đặc điểm to nhất có thể hiểu là khó khăn, phức tạp nhất, một
cuộc chiến đấu khổng lồ. Nói tiến thẳng là theo tinh thần của chủ nghĩa Lênin về con
đường phát triển bỏ qua chế độ TBCN trong những điều kiện lịch sử cho phép. Nhưng bỏ
qua không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, chủ quan, nóng vội, phiêu lưu làm ẩu, duy ý
chí.

Đặc điểm to nhất chứa đựng trong đó mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ ở nước
ta là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của CNXH phải có một nền công
nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến với một bên là trình độ
thấp kém, lạc hậu do thực dân, phong kiến để lại. Thực tế lạc hậu của xã hội Việt Nam
cho thấy thời kỳ quá độ ở nước ta xuất hiện hệ thống mâu thuẫn đan xen, phức tạp, vừa
mang tính đối kháng vừa mang tính không đối kháng, xét đến cùng đó là mâu thuẫn giữa
con đường XHCN và con đường tự phát TBCN.

Quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện đồng thời tiến hành hai chiến lược
cách mạng, thực hiện hai quy luật trên một ý nghĩa nào đó là “trái ngược” nhau: xóa bỏ
và xây dựng. Chúng ta phải vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Điều
này chưa có tiền lệ. Theo Giáo sư Nhật Bản, Singô Sibata, “một trong những cống hiến
quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi
được biết, Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới
áp dụng lý luận này”. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy có hai đặc trưng bản chất
của xã hội XHCN ở Việt Nam, đó là đặc trưng kinh tế và đặc trưng văn hóa. Sáng tạo của
Hồ Chí Minh là cụ thể hóa quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của V.I.Lênin trong
điều kiện cụ thể của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát triển.

Về đặc trưng kinh tế. Theo V.I.Lênin, bản chất của CNXH trước hết phải làm cho mọi
người dân sung sướng, ấm no, tức phải đặt yếu tố kinh tế lên hàng đầu. Cách diễn đạt của
Hồ Chí Minh cho thấy rõ điều này: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có
thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước” “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc,
chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Về đặc trưng
văn hóa. Dân chủ và dân làm chủ là vấn đề cốt tử của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh,
trong một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân. Người đã làm sáng tỏ quan hệ giữa dân với Đảng, Chính phủ và cán bộ, đảng
viên. Nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu của mình, còn những người trong bộ máy
cách mạng đều được phân công làm đày tớ cho dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi Chính phủ” “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải
làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít”.

Hồ Chí Minh bàn nhiều đến mối quan hệ giữa người với người và công bằng, bình
đẳng. Công bằng và bình đẳng không hoàn toàn có sự phân biệt rạch ròi, mà thể hiện sự
ngang bằng về bổn phận và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ. Người chỉ rõ “chủ nghĩa
xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không
được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”.
Khi bàn về công bằng, Hồ Chí Minh chỉ rõ lòng tin của nhân dân là điều đáng quan tâm
nhất: “- Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; - Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên”

Khía cạnh “văn minh” trong đặc trưng văn hóa cũng hàm chứa một tư duy sâu sắc.
Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ chính trị một đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo, muốn
xã hội văn minh thì Đảng phải văn minh. Từ văn minh của Đảng lan tỏa ra toàn xã hội.
Chính sức mạnh văn minh của Đảng, của dân tộc, mỗi con người và toàn xã hội với hạt
nhân là lòng dạ trong sáng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ làm nên thắng lợi của cách
mạng. Những phân tích nêu trên chứng minh, làm rõ khẳng định của Đảng: “Trong khi
giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách
mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn từ
nhiều nguyên nhân khác nhau, một trong những nhân tố quan trọng “chính là do cố gắng
vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực
tế Việt Nam”

2. Về nguyên lý bình đẳng, Hồ Chí Minh đã thể hiện như thế nào trong quan
điểm của mình về nhân quyền, bình đẳng giới, bình đẳng dân tộc ?

Trả lời:

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Người đã cống hiến và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng
và giải phóng dân tộc vì độc lập tự do, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân,
Người luôn dành tất cả tình yêu bao la cho đồng bào, đồng chí…Và một trong những vấn
đề mà Hồ Chủ tịch đặc biệt quan tâm đó chính là bình đẳng và nguyên lý bình đẳng được
thể hiện thông qua quan điểm về nhân quyền, bình đẳng giới và bình đẳng dân tộc.

Về nhân quyền, tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh là một tư tưởng tiến bộ,
phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam. Vấn đề về quyền con người được Hồ Chí Minh
tiếp cận xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam cùng bối cảnh thực tiễn cụ thể nước
ta thời bấy giờ. Đồng thời còn là sự kế thừa, chọn lọc và phát triển những quan điểm về
nhân quyền, dân quyền trong các văn bản chính trị tiêu biểu: “Tuyên ngôn độc lập”
(1776) của Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền: (1791) của Pháp.

Hồ Chí Minh cho rằng: quyền con người là quyền mặc định vốn có của con người
từ khi sinh ra, không ai ban phát hay tước đoạt điều đó. Quyền mỗi người gắn chặt và
không tách rời với quyền dân tộc. Từ đó, người đã nâng cao quyền cơ bản của con người
thành quyền cơ bản của cả dân tộc bao gồm cả quyền tự quyết và quyền bình đẳng dân
tộc. Đây là những nội dung mới về quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh thời đại
mới:

Tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh bao hàm nhiều lĩnh vực trong chính trị, xã
hội và được hệ thống theo quan điểm khoa học và cách mạng. Nhân quyền của Hồ Chí
Minh không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà còn nhấn mạnh tới quyền làm
người, quyền hoàn thiện và phát triển con người, cụ thể: quyền học tập, sáng tạo; quyền
mưu cầu hạnh phúc; quyền tự do; quyền dân sự; quyền chính trị-văn hóa, xã hội đồng
thời là quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội: quyền các dân tộc thiểu số,
quyền phụ nữ, quyền trẻ em,... Nhân quyền của Hồ Chí Minh còn phủ rộng trên các khía
cạnh: quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được pháp luật bảo vệ,
quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây dựng gia đình, quyền
sở hữu tài sản, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo.

Tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh là nền tảng cho đường lối của Đảng Cộng
sản. Những quan điểm ấy đã được đưa vào thực tiễn trong đường lối Cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, từ trước đến nay. Trước hết là lời khẳng định của người: “Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” Và quan điểm nền tảng trong
đường lối lãnh đạo của Đảng là: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi người”; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Về bình đẳng giới, lúc sinh thời, Người đã từng khẳng định: “Công dân đều bình
đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội và gia đình”. Theo Người “Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã
hội chưa được giải phóng "; “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã
hội chỉ một nửa". Vì sao Bác lại khẳng định như vậy? Hẳn chúng ta ai cũng đều biết: Phụ
nữ chiếm một nửa nhân loại, nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội. Do đó, hơn ai hết,
Bác Hồ là người hiểu rõ rằng: Trong xã hội, người phụ nữ là người bị áp bức, chịu đau
khổ và thiệt thòi nhiều nhất. Dưới chế độ phong kiến, người phụ nữ không được coi
trọng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Trong khi đó, phụ nữ là lực lượng quan
trọng của cách mạng, sẵn sàng đi với cách mạng. Người phụ nữ còn có chức năng đặc
biệt: tái sản xuất sức lao động cho xã hội, thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ, có vai trò
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của gia đình. Vì vậy, Người đề ra nhiệm vụ cho
Đảng phải chăm lo giải phóng phụ nữ.

Trong hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất
cho nông dân nghèo, các sản nghiệp lớn cho công nhân, các quyền dân chủ tự do cho
nhân dân, mà còn nhằm: "thực hiện nam nữ bình quyền". Mục tiêu này đã được Người
đưa vào Chương trình của Mặt trận Việt minh. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành
công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều
lần tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng: “phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng
với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”. Tư tưởng nam nữ
bình quyền của Người còn được ghi trong luận cương của Đảng, được thể chế hoá sớm
nhất trong điều 9 Hiến pháp năm 1946. Từ đó, quyền bình đẳng nam nữ được công bố và
thừa nhận qua các văn bản quan trọng, Hiến pháp, pháp luật về hôn nhân và gia đình, các
chỉ thị, chính sách… đối với lao động nữ. Tư tưởng của Bác phù hợp với Tuyên bố của
thế giới về quyền của con người: mọi dân tộc trên thế giới đều có quyền hưởng tự do và
bình đẳng.
Đánh giá cao vai trò của phụ nữ khi nhìn nhận họ là một lực lượng lao động đông đảo
của xã hội, Người còn thấy rõ khả năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ.
Người nêu những tấm gương tiêu biểu của phụ nữ như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn
Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Định... Vì vậy, theo Người "phải kính trọng phụ nữ"; "phải
thật sự bảo đảm quyền lợi của phụ nữ". Người còn nhấn mạnh:"để xây dựng được chủ
nghĩa xã hội thì phải thực sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ"; và
Người còn chỉ rõ rằng: "chúng ta làm cách mạng để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái
đều ngang quyền như nhau".
Có thể nói rằng tư tưởng giải phóng phụ nữ, đem lại quyền bình đẳng cho phụ nữ
của Bác có ý nghĩa hết sức lớn lao: tư tưởng ấy đã chỉ dẫn cho người phụ nữ Việt Nam,
cổ vũ chị em trên con đường đấu tranh đi tới bình đẳng tự do cùng nhân loại tiến bộ. Tư
tưởng ấy cũng cho mỗi chúng ta một bài học nhân văn: coi trọng con người, tất cả vì con
người. Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã vận
dụng và phát triển một cách toàn diện tư tưởng của Bác về bình đẳng giới trong công
cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay Đảng và
nhà nước ta đang đồng thời triển khai hai đạo luật về: Bình đẳng giới và Luật phòng
chống bạo lực gia đình chính là thực hiện tư tưởng của Bác Hồ trong sự nghiệp đổi mới –
hội nhập, xây dựng một xã hội Việt Nam giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.

Về bình đẳng dân tộc, Hồ Chí Minh đã đề cập đến quyền bình đẳng dân tộc:
Quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc: Sinh ra trong một dân tộc thuộc địa, mất chủ
quyền và chứng kiến cảnh nhân dân ta lầm than dưới ách áp bức của các thế lực phong
kiến, thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vấn đề phải giành lại chủ quyền
quốc gia và sự bình đẳng của dân tộc. Đây chính là động lực để người thanh niên Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước (1911). Năm 1941, sau 30 năm bôn ba, tìm đường
cứu nước, trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Người chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong của quốc
gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không
đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn mãi
kiếp ngựa trâu mà lợi ích của bộ phận, giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được”
Tư tưởng của Người về quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc, không phân biệt dân
tộc lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, được nhấn mạnh ngay trong phần mở
đầu của Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945: Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ suy rộng ra,
câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc: Trước Cách mạng
Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, chế độ thực dân, phong kiến và bè lũ tay
sai đã duy trì chính sách bất bình đẳng, gây chia rẽ tình đoàn kết giữa các dân tộc để dễ
bề cai trị: “Hồi còn Tây, còn vua quan, đồng bào Kinh ăn hiếp đồng bào Thái, đồng bào
Thái ăn hiếp đồng bào Puộc, đồng bào Xá”, “Vì Tây và vua quan muốn chia rẽ đồng bào,
muốn cho đồng bào yếu đi”(3). Muốn cho các dân tộc đoàn kết để đánh đuổi thực dân
Pháp, phong kiến, tiến lên xây dựng cuộc sống mới, tất yếu phải xóa bỏ tình trạng bất
bình đẳng đó, các dân tộc phải coi nhau như anh em một nhà, không dân tộc nào ăn hiếp
dân tộc nào nữa. Ngày 03-12-1945, Người phát biểu tại Hội nghị các dân tộc thiểu số
Việt Nam: “Anh em thiểu số chúng ta sẽ được: Dân tộc bình đẳng: 1) Chính phủ sẽ bỏ hết
những điều hủ tệ cũ, bao nhiêu bất bình đẳng sẽ sửa chữa đi; 2) Chính phủ sẽ gắng sức
giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt”. Trong phát biểu tại Hội nghị phụ nữ miền núi
ngày 19-3-1946, Người nói: “Từ ngày cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi,
Đảng và Chính phủ đã làm cho gái, trai bình quyền, các dân tộc bình đẳng về chính trị,
các dân tộc đều bình đẳng, dân chủ, đoàn kết”.

Tóm lại, nguyên lý về bình đẳng đã được Hồ Chí Minh thể hiện đầy đủ thông qua
quan điểm của mình về nhân quyền, bình đẳng giới, bình đẳng dân tộc. Dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng, Đảng và
Nhà nước ta đã thực hiện thường xuyên, nhất quán vấn đề nhân quyền, bình đẳng giới và
bình đẳng dân tộc. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện
quyền bình đẳng để phát huy tinh thần đại đoàn kết giữa các dân tộc, tôn trọng quyền
nhân quyền và giới tính trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là bài học vô giá,
trở thành truyền thống quý báu, cần tiếp tục phát huy trong sự nghiệp phát triển của dân
tộc Việt Nam.

Nhóm 4:

1. Cơ sở lý luận nào trong giá trị văn hóa phương Tây khi xây dựng bộ máy nhà
nước có ảnh hưởng sâu sắc đến Tư tưởng Hồ Chí Minh?

Trả lời:

Nhân quyền và Dân chủ là hai cơ sở lý luận trong giá trị văn hóa phương Tây khi
xây dựng bộ máy nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Về nhân quyền - tức là vấn đề quyền con người được Hồ Chí Minh tiếp cận xuất
phát từ truyền thống dân tộc và bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, và là sự kế thừa, chọn
lọc và phát triển những quan điểm về nhân quyền, dân quyền trong các văn bản chính trị
tiêu biểu: “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền:
(1791) của Pháp. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng: quyền con người là quyền mặc định vốn
có của con người từ khi sinh ra, không ai ban phát hay tước đoạt điều đó; quyền mỗi
người gắn chặt và không tách rời với quyền dân tộc.
Thứ hai về dân chủ, giá trị dân chủ người tiếp thu được từ các giá trị văn hóa
phương Tây gồm: Tư tưởng dân chủ tư sản và Tư tưởng trong chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người khái quát “dân chủ” tức “dân là chủ” và “dân làm chủ nhà nước”. Người nhấn
mạnh tính chủ động của nhân dân lao động trong việc quyết định vận mệnh của mình
thông qua hai phạm trù: “làm chủ” và “người chủ”. Hồ Chí Minh còn cho rằng: dân chủ
gắn với lợi ích. Làm chủ là để thực hiện lợi ích của mình. Dân chủ tách rời lợi ích là dân
chủ hình thức. Không quy định rõ quyền cho dân thì không thể nói đến dân chủ.Quyền
cũng đi kèm với nghĩa vụ. Mọi người đều phải nhận thức rõ nghĩa vụ cũng như quyền
hạn của mình mà hoàn thành tốt nó. Dân chủ không chỉ là của dân, vì dân mà còn là do
dân. Dân chủ tức dựa vào lực lượng quần chúng, đi đường lối của quần chúng. Người cán
bộ cũng vì thế phải biết phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng để giải quyết
mọi vấn đề của thực tiễn cách mạng.

2. Lý do Bác lựa chọn Đạo giáo?

Trả lời:

Lão giáo là một tôn giáo quan trọng và là tôn giáo huyền bí tự nhiên, có nhiều
điểm dị biệt so với Phật Giáo và cả Nho Giáo. Giáo lý cơ bản của Lão Giáo là học thuyết
“Vô vi”, khí công, thái cực quyền, dịch cân kinh, tẩy tủy kinh. Đó là con đường giải thoát
khỏi mọi dục vọng, từ đó đi sâu vào cõi chân thân, qua chân thân tới Đạo.
Học thuyết Vô vi là một trong những tư tưởng quan trọng, chi phối toàn bộ nền
triết học Đạo gia. Một cách khái quát “Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không
làm gì, không có hoạt động gì, mà là phương pháp sống một cách tự nhiên, thuần phác,
hòa hợp với thiên nhiên, không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt động mang tính giả
tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Trong khí công, khí được hiểu là vật chất, tức không
khí ta hít thở hàng ngày. Công có nghĩa là luyện tập. Như vậy, khí công là tập luyện nâng
cao chức năng sinh lý của cơ thể nói chung, của cơ quan nội tạng nói riêng và tập thở.
Luyện thở cũng là một trong những nội dung quan trọng của phương pháp khí công, nội
dung chủ yếu của khí công là luyện hoạt động của hệ thần kinh. Còn Thái Cực quyền là
một môn võ thuật cổ truyền của Trung Quốc với đặc trưng là các động tác trường quyền
uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với điều hoà hơi thở.
Tư tưởng vô vi giúp con người có thái độ sống hòa hợp với thiên nhiên. Vô vi còn
hướng con người đến lối sống đạm bạc không ham giàu sang phú quý, tự tu dưỡng bản
thân mình. Qua đó ta có thể thấy Bác đã áp dụng học thuyết này vào đời sống của mình
qua lối sống giản dị, từ nơi ở, cách ăn mặc đều rất mộc mạc, đạm bạc. Bác cũng là người
khởi xướng Tết trồng cây, để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con
người, sống chan hòa cùng thiên nhiên. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng
thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng
viên ít lòng tham muốn về vật chất, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và
hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mỗi một người dân yếu, tức là cả nước yếu,
mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”. Người nhận định: “Giữ gìn
dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm
thành công”. Trong suốt thời gian hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng cuối
đời, dù trong điều kiện thời gian, hoàn cảnh nào, Người cũng luôn chú ý đến việc rèn
luyện sức khỏe để hoạt động cách mạng lâu dài. Lúc ở Liễu Châu (Trung Quốc) Bác Hồ
vẫn tập luyện thể dục đều đặn, nhiều hôm Bác tập Thái Cực quyền và chạy bộ 4-5 km, rồi
xuống sông tắm cho dù có nhiều hôm trời rất giá rét. Nhờ rèn luyện sức khoẻ thường
xuyên như vậy, nên Bác đã qua được cơn hiểm nghèo trong lần ốm nặng trước khi Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 nổ ra. Ngay sau khi đất nước giành độc lập, mặc dù bận
trăm công ngàn việc quốc kế dân sinh, Bác Hồ vẫn giữ nền nếp dậy sớm tập thể dục. Bác
thường xuyên cùng cán bộ, chiến sĩ rèn luyện thể lực bằng cách chạy, đi bộ, bơi lội, leo
núi, đánh bóng chuyền… Theo lời các đồng chí cận vệ của Bác kể lại, suốt bốn mùa dù
trời mưa hay trời rét, sáng nào cũng vậy, Bác thức dậy từ lúc 5 giờ, tập thể dục xong, đi
đánh răng rửa mặt, ăn sáng rồi đi làm việc. Có những hôm Bác đi công tác về rất khuya,
sáng ra, các đồng chí giúp việc giữ yên tĩnh để Bác ngủ, nhưng đến 5 giờ Bác đã dậy
cùng tập với mọi người như thường lệ. Những năm sau, Bác Hồ tuổi càng cao, sức yếu
dần đi, nhưng sáng sáng Bác vẫn tập đều. Bác rất chú ý tập đi bộ. Có khi chân bị tê thấp,
rất yếu, Bác vẫn tập đi từng bước, từng bước, hoặc ngồi tĩnh tại luyện khí công. Vì Tổ
quốc, vì nhân dân, vì đồng bào miền Nam mà Bác Hồ luôn luôn cố gắng tập luyện để
quyết thắng bệnh tật.
Qua những hành động và việc làm của Hồ Chí Minh, ta có thể thấy Người luôn cố
gắng vận dụng những tư tưởng của Đạo giáo vào đời sống của mình một cách lành mạnh,
nâng cao sức khỏe và giúp cho tinh thần minh mẫn, trí tuệ sáng suốt. Bác cũng cố gắng
lan tỏa và động viên những cán bộ, chiến sĩ cùng mình rèn luyện. Chính những cố gắng
trong việc rèn luyện bản thân và tinh thần của Người trong tư tưởng Đạo giáo đã góp
phần hình thành một vị lãnh tụ tài đức, thông tuệ, có sức khỏe dẻo dai, bền bỉ, dẫn dắt
dân tộc và đất nước ta đi đến bến bờ của độc lập tự do. Bác đã có một tầm nhìn bao quát
và xa rộng, nhìn thấy những giá trị tốt đẹp mà Đạo giáo có thể mang lại, từ đó kế thừa,
vận dụng và phát huy phù hợp với hoàn cảnh. Những giá trị của Đạo giáo dù qua bao lâu
vẫn còn những giá trị cốt yếu không thể phai mờ, ngay cả ở thời hiện đại, những tư tưởng
và hành động mà Bác đã kế thừa Đạo giáo vẫn còn giá trị thực tiễn trong đời sống của
cán bộ và nhân dân.

Nhóm 9:

1. Ưu và nhược điểm của việc tiếp nhận các giá trị văn hóa phương Tây khi xây
dựng bộ máy nhà nước Việt Nam là gì ?

Trả lời:

Trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh không
ngừng làm giàu trí tuệ bằng vốn văn hóa – tư tưởng của nhân loại. Người đã học và sử
dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ, dùng những ngôn ngữ ấy trong việc nghiên cứu lịch sử
và văn hóa phương Đông, phương Tây. Người đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn
hóa nhân loại rồi vận dụng các tinh hoa đó phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước
nhằm mục đích không chỉ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn góp phần tích cực nhất
vào sự nghiệp giải phóng con người trên thế giới.

Trong quá trình giao lưu với văn hóa phương Tây, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
thu những lý tưởng về nhân quyền, dân quyền và vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê
phán chế độ thực dân tàn bạo, đòi hỏi những quyền lợi đó cho các dân tộc thuộc địa.
Nhân quyền của Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà còn
nhấn mạnh tới quyền làm người, quyền hoàn thiện và phát triển con người, cụ thể: quyền
học tập, sáng tạo; quyền mưu cầu hạnh phúc; quyền tự do; quyền dân sự; quyền chính trị-
văn hóa, xã hội đồng thời là quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội: quyền các
dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền trẻ em,... Nhân quyền của Hồ Chí Minh còn phủ
rộng trên các khía cạnh: quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được
pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây
dựng gia đình, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn
giáo.
Tư tưởng dân chủ trong chủ nghĩa Mác Lênin nêu rõ: Dân chủ chỉ được thực hiện
đầy đủ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội mà thực chất là sự tham gia ngày càng rộng
rãi và bình đẳng, thiết thực của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước. Kế thừa những
giá trị đó, tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh tầm nhìn bao
quát, sâu rộng mà còn là tư tưởng để thực hành trong thực tiễn nhằm xây dựng chế độ
dân chủ trên một đất nước vừa được giải phóng khỏi sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân
và chủ nghĩa đế quốc cách đây 75 năm. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được
phản ánh một cách chắt lọc, cô đọng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hành, biểu hiện ở ba vấn đề
cốt lõi: Thứ nhất, khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị dân chủ;
Thứ hai, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Thứ ba, giải
quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặt nền móng tư tưởng pháp quyền cho Nhà nước và xã hội Việt Nam. Tuyên
ngôn độc lập 2/9/1945 và bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận ý tưởng đặc sắc,
phản ánh những nhân tố Nhà nước pháp quyền trong cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, thực hiện một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh vừa tiếp thu tư tưởng " lấy dân làm gốc " của Khổng Tử, Mạnh Tử, của Trần Hưng
Đạo, Nguyễn Trãi " Dân là nước chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền ", vừa tiếp thu
những tinh hoa của tư tưởng dân chủ phương Tây để xây dựng nên tư tưởng dân chủ của
mình. Hồ Chủ tịch đã viết: " nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Người đã thấy tất cả sức mạnh của chính quyền
Nhà nước là ở nhân dân: " Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng
xong”.

Như vậy, ta thấy rằng những giá trị tinh hoa văn hóa phương Tây đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc để vận dụng vào tình hình của đất nước ta. Đặc biệt,
với sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp
đất nước thoát khỏi khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Việc vận dụng những tri thức về nhân quyền và dân quyền vào công tác xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền là rất cần thiết và bổ
ích. Đó chính là quan điểm kết hợp hài hòa những giá trị đạo đức tiến bộ của nhân loại
với giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn học tập
lòng nhân ái, đức hy sinh và những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo - tinh hoa văn hóa
phương Tây. Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về lòng thương người, thương
dân, thương các chiến sĩ ngoài mặt trận – đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị
cao cả mang tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.

Trong những năm qua, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt. Dân chủ, nhân quyền là
chiêu bài mà chúng vẫn dùng để lợi dụng kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định
chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có thể nhìn nhận rõ, các thế lực
thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay đều
lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế
độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Tham dự vào lực lượng này còn có những người theo
các trào lưu tư tưởng và đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội tại
các nước phương Tây; những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại
Việt Nam. Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, lợi dụng chiêu bài dân
chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về
dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, như: phủ nhận thành tựu, thực tiễn các giá trị lý luận,
quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền với những luận điệu như kích
động vấn đề dân tộc thiểu số; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân
chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo, ngăn cản tự do ngôn luận, tự do hội họp; lợi dụng
những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành
đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo,
kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội… Hay
như chúng tung hô, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và
phương Tây, tuyệt đối hóa quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ
quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị
của quyền con người; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người,
chèn ép “những người bất đồng chính kiến”… Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong
nước vẫn đang có những diễn biến phức tạp nên “dân chủ”, “nhân quyền” vẫn là chiêu
bài được các thế lực bên ngoài lợi dụng một cách triệt để, núp bóng dưới nhiều hình thức
nhằm gây mất ổn định, can thiệp vào nội bộ chính trị, xã hội ở Việt Nam. Đứng trước
những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, chúng ta
cần làm quyết liệt, nhìn nhận rõ và đập tan thủ đoạn của chúng qua những nhiệm vụ trong
thời gian tới.

2. Điểm chung của các giá trị văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh tiếp nhận vào
công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước là gì ? Vì sao ?

Trả lời:

Điểm chung của các giá trị văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh tiếp nhận vào
công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước là tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng
của nền văn hoá dân chủ và cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng, tư
tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Một thanh niên
yêu nước tham gia cuộc đấu tranh quyết liệt chống thực dân phương Tây xâm lược, ngay
từ đầu lại hướng tới phương Tây để làm quen với văn minh, văn hóa phương Tây quả là
một điều kỳ lạ, riêng có. Sau này, như Người đã chỉ rõ: “Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho
loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp
lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người
bạn thân thiết”. Nguyễn Tất Thành “Tây du” với đầu óc rộng mở, tấm lòng rộng mở và
với tinh thần khoan dung văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Gần
một phần ba thế kỷ bôn ba nước ngoài, chủ yếu là ở Pháp, Nga và một số nước châu Âu,
Người đã tiếp thu nền văn hóa châu Âu thế kỷ XVIII-XIX, trong đó có nhiều tư tưởng
tiến bộ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá
nhân thiêng liêng trong bản tuyên ngôn của nước Mỹ. Sau này Người đã phát triển nó
thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các
dân tộc. Đến với nơi đầy ắp lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái, Hồ Chí Minh đã được
tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô,
Mông-tét-xki-ơ,... những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp
luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô,... Nhờ quá trình rèn luyện trong
phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, động viên, dẫn lối trực tiếp của nhiều nhà cách
mạng, trí thức tiến bộ người Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô,...
mà Hồ Chí Minh dần ngày một trưởng thành. Người đã tiếp thu những lý tưởng về nhân
quyền, dân quyền, pháp quyền của thời kỳ Khai sáng ở Pháp và vận dụng nó vào cuộc
đấu tranh, phê phán chế độ thực dân tàn bạo, đòi hỏi những quyền lợi đó cho các dân tộc
thuộc địa. Hơn thế, Người còn tiếp thu tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân
chủ của riêng mình từ thực tiễn trong cuộc sống. Con người vĩ đại ấy trên hành trình cứu
nước đã làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ của thời đại Đông và Tây, vừa tiếp thu, vừa
chắt lọc để có thể tư duy với những trí thức nhân loại, đồng thời là chọn lọc, kế thừa và
đổi mới, vận dụng và phát triển. Có thể thấy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa nhân loại rồi vận dụng các tinh hoa đó phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước, dân tộc nhằm mục đích không chỉ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn góp
phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc trên toàn thế giới.

3. Hồ Chí Minh đã gặp những thách thức như thế nào khi tiếp thu những cơ sở lý
luận phương Tây trong quá trình hình thành tư tưởng của mình?

Trả lời:

Tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết ở sự lựa chọn hướng
đi mới. Người không sang phương Đông “truyền thống”, mà đi sang phương Tây - nơi
sinh ra chủ nghĩa thực dân, những kẻ áp bức các dân tộc thuộc địa, đồng thời cũng là nơi
phát sinh ra những trào lưu tư tưởng cách mạng, điển hình là tinh thần tiến bộ của Cách
mạng Pháp đòi “Tự do, bình đẳng, bác ái” cho con người.

Hồ Chí Minh đã gặp những thách thức khi tiếp thu những cơ sở lý luận phương
Tây trong quá trình hình thành tư tưởng của mình. Đây là sự dấn thân vào một thế giới
còn rất mới lạ với nhân dân ta, một thế giới mà văn hóa, học thuật hoàn toàn khác với các
giá trị truyền thống của Việt Nam, nếu không muốn nói là đối lập và hoàn toàn chưa có
sự giao lưu nào cả. Đó là một thách thức lớn trong hành trình tiếp thu của Bác. Có thể
nói, chính sự táo bạo và dũng cảm ấy đã tạo điều kiện cho Bác thu dần thế giới vào tầm
mắt và làm phong phú dần nhận thức của mình về một cuộc cách mạng tương lai - cách
mạng vô sản.

Trải qua quá trình bôn ba tìm đường cứu nước đầy khó khăn, gian khổ, Hồ Chí
Minh đã tiếp thu lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin - “Chiếc cẩm nang thần
kỳ” chỉ ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước, đó là con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù coi hệ thống lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin là cái “cẩm nang
thần kỳ”, nhưng từ sự quan sát, nghiên cứu thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của các nước
thuộc địa, Người cho rằng, nhiều vấn đề lý luận của các nhà kinh điển đưa ra chỉ đúng
đối với điều kiện Châu Âu, mà Châu Âu không phải là cả thế giới. Cho nên, Người đã
phải đưa ra quan điểm cần phải nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận tổng kết thực
tiễn, để vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn.

Nhóm 10:

1. Tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh đã được vận dụng vào đường lối cách
mạng Đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào ?

Trả lời:

Quyền con người bảo đảm tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa; bảo đảm cả quyền cá nhân và quyền tập thể; bảo đảm tự do và công bằng, bình đẳng,
quyền con người thống nhất với quyền công dân. Các quyền ấy được thể hiện ở các nội
dung chủ yếu sau:
Một là, tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn chỉ đạo về tư tưởng,
đường lối và hoạt động cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Ví dụ, đặt quyền con người
lên vị trí trung tâm của cách mạng: Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, quyền con người là
mục tiêu, là động lực của cách mạng. Người luôn khẳng định rằng: “Mục đích của Đảng
là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người”. Hay xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, nơi quyền con người được tôn trọng và bảo vệ: Theo
tư tưởng của Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó “mọi người
đều có quyền làm người, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người đã
đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm xây dựng một xã hội như vậy, trong đó có việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; bảo đảm quyền
tự do, dân chủ của nhân dân; thực hiện công bằng xã hội, xóa bỏ mọi bất công, phân biệt
đối xử. Và tuyên truyền, giáo dục nhân quyền cho nhân dân: Hồ Chí Minh luôn coi trọng
việc tuyên truyền, giáo dục nhân quyền cho nhân dân. Người cho rằng, nhân dân cần
được hiểu biết về nhân quyền để có thể thực hiện và bảo vệ quyền của mình.

Hai là, tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí
Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng, coi đó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng. Ba là, tư tưởng nhân quyền của Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động”. Trong các văn kiện của Đảng, quyền con người luôn được đề cao và bảo
đảm, coi đó là mục tiêu, động lực của cách mạng. Bốn là, tư tưởng nhân quyền của Hồ
Chí Minh đã được vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó luôn coi trọng bảo đảm quyền con người.

Cụ thể, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, thể hiện ở các mặt
sau: Thứ nhất là Quyền con người về chính trị, dân sự được bảo đảm. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành
độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Người dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập hội, tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được pháp
luật bảo vệ. Thứ hai là Quyền con người về kinh tế, xã hội được bảo đảm. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, từng
bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người dân Việt Nam có quyền
làm việc, quyền được hưởng lương, quyền được bảo hiểm xã hội, quyền được học tập,
quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật,
khoa học, giáo dục. Thứ ba là Quyền con người về môi trường được bảo đảm. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam bảo vệ môi trường, xây dựng môi
trường sống an toàn, lành mạnh cho nhân dân. Người dân Việt Nam có quyền được sống
trong môi trường trong lành, không bị ô nhiễm, bị tác động xấu đến sức khỏe, đời sống.

Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đề ra
những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người,
thể hiện ở các nội dung sau: Đổi mới tư duy về quyền con người. Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục đổi mới tư duy về quyền con người, coi quyền con người là giá trị phổ quát,
là mục tiêu, động lực của cách mạng.

Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó bảo đảm
quyền con người là một trong những nguyên tắc cơ bản của nhà nước. Bên cạnh đó, còn
Tăng cường giáo dục, tuyên truyền về quyền con người. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục tăng cường giáo dục, tuyên truyền về quyền con người, nâng cao nhận thức của nhân
dân về quyền con người. Và cuối cùng là Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo
đảm quyền con người. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.

2. Ngoài kế thừa những điểm tiến bộ, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những điểm hạn chế
nào trong Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1765-1783) và
Cách mạng Tư sản Pháp (1789) ?

Trả lời:

Trong quá trình kế thừa những tư tưởng tiến bộ về nhân quyền và dân chủ trong hai cuộc
Cách mạng Tư sản Pháp và cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc
Mỹ, Hồ Chí Minh đã nhận thấy cả hai đều không xóa bỏ ách bóc lột, giải phóng con
người mà chỉ đơn thuần thay thế chế độ bóc lột này bằng một chế độ khác tinh vi hơn.
Cụ thể: đối với cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1765-
1783), trong bản Hiến pháp năm 1787, dù đã có tư tưởng tiến bộ về chính trị (“Tất cả mọi
người sinh ra có quyền bình đẳng”) nhưng cái quyền ấy bị hạn chế đối với phụ nữ, người
da đen và người da đỏ bản địa (những người không được xem là công dân và cũng không
có quyền tham gia các hoạt động chính trị). Bên cạnh đó, đã nêu cao quyền con người
(“quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”) nhưng sau cuộc cách mạng tư
sản Mỹ, chế độ nô lệ da đen vẫn tiếp tục duy trì và phần lớn thành quả, đất đai thuộc về
bộ phận người da trắng chiếm số lượng ít trong xã hội đến tận những năm 1860 (cuộc nội
chiến Hoa Kỳ).

Cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) được xem là cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất
nhưng trong vấn đề dân chủ, cuộc cách mạng vẫn chưa mang lại quyền tự do dân chủ cho
toàn thể nhân dân trong nước (việc tham gia bầu cử chỉ những cử tri có đủ điều kiện về
tài sản, được xếp vào hàng “công dân tích cực” mới được hưởng quyền lợi ấy, còn lại
phần đông công dân không đủ “tư cách” tham gia hoạt động chính trị). Ngoài ra, cuộc
cách mạng tư sản Pháp cũng chỉ mới lật đổ chế độ phong kiến và đưa giai cấp tư sản lên
nắm quyền, sự tồn tại của một chế độ bóc lột vẫn còn đó, phần lớn công dân vẫn chưa
được hưởng những thành quả cách mạng của mình.

Nhóm 12. Tư tưởng của Lão Tử có điểm gì phù hợp với đường lối của Hồ Chí Minh
trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa ?

Trả lời:

Tư tưởng của Lão Tử là một trong những tư tưởng xưa và sâu sắc nhất của Trung
Quốc và phương Đông. Ông được coi là người sáng lập ra hệ thống triết học của Đạo
giáo (Tôn giáo dạy về chữ Đạo) - một tôn giáo với triết lý sống theo nguyên lý tự nhiên,
hòa bình và không gây phiền não cho người khác. Lão giáo so với Phật giáo và Nho giáo
thì có nhiều điểm dị biệt và khó hiểu, được thể hiện rõ trong tác phẩm kinh điển Đạo Đức
Kinh, ghi lại những lời dạy, quan điểm của Lão Tử về cuộc sống, con người và thiên
nhiên.

Đường lối của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là một
đường lối độc đáo, sáng tạo, biết chọn lọc và tiếp thu những cái tốt, loại bỏ những cái xấu
để phát triển, kế thừa và bổ sung để phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng hiện đại của dân
tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chọn lọc các giá trị văn hóa từ nhiều quốc gia trong quá
trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phương Đông. Đối với Lão giáo, có thể thấy với
tính chất thần bí nên tôn giáo này khá là khó hiểu và khó tiếp cận, tuy nhiên trong tư
tưởng của Lão Tử lại có khá nhiều điểm phù hợp với đường lối của Hồ Chí Minh trong
việc tiếp thu và kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại:
Tư tưởng "dĩ bất biến ứng vạn biến" của Lão tử phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh
về việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách chọn lọc, sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Lão tử cho rằng, thế giới luôn vận động, biến đổi không ngừng, do đó con
người cần có tư duy linh hoạt, nhạy bén để thích ứng với những thay đổi đó. Hồ Chí
Minh cũng luôn coi trọng việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của các nước khác, nhưng Người
luôn nhấn mạnh rằng phải tiếp thu một cách có chọn lọc, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh
và điều kiện của Việt Nam, lấy những giá trị đó vận dụng vào công cuộc phát triển đất
nước.

Tư tưởng "vạn vật đồng quy" của Lão tử phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh
về việc coi trọng sự thống nhất trong sự đa dạng. Lão tử cho rằng, tất cả các sự vật, hiện
tượng trong vũ trụ đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều có chung một bản chất. Hồ
Chí Minh cũng vậy, Người cho rằng các dân tộc trên thế giới đều có những điểm chung,
đều là một phần của nhân loại. Trên cơ sở những điểm chung đó, các dân tộc cần phải
đoàn kết, hợp tác với nhau để cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển.

Tư tưởng "kính trọng tự nhiên" của Lão tử phù hợp với quan điểm của Hồ Chí
Minh về việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Lão tử cho rằng, tự nhiên là môi trường sống
quan trọng của con người, do đó con người cần phải kính trọng và bảo vệ tự nhiên. Hồ
Chí Minh cũng khuyên con người sống gắn bó, hòa đồng với thiên nhiên và coi trọng
việc bảo vệ môi trường sống. Người kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng
cây” để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Người cũng đã
từng nói: "Môi trường là tài sản vô giá của đất nước và nhân dân". Bên cạnh đó, Hồ Chí
Minh còn chú ý và kế thừa, phát triển tư tưởng thoát khỏi mọi ràng buộc của vòng danh
lợi của Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất, thực
hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành
động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội. Ngoài ra, tư tưởng của Lão tử còn có nhiều điểm
khác phù hợp với đường lối của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, như: Tư tưởng "đạo đức là gốc của văn minh", tư tưởng "tình yêu thương con
người", tư tưởng "tự do, bình đẳng, bác ái".

Tóm lại, tư tưởng của Lão tử là một nguồn tư tưởng quý giá đối với đường lối của
Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng của Lão tử đã góp
phần giúp Hồ Chí Minh có một tầm nhìn rộng lớn, toàn diện về thế giới, từ đó có thể tiếp
thu tinh hoa văn hóa của các nước khác một cách phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
--------------------------------------Hết----------------------------------

You might also like