You are on page 1of 6

Câu 1: Phân tích khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” theo quan điểm đại hội đại

đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng? Ý nghĩa?
Đến Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001), tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm phần quan
trọng trong đường lối chiến lược của Đảng. Lần đầu tiên, khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh được trình bày khá đầy đủ trong Vǎn kiện của Đại hội, trong phần "Con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Đó là: "Tư tương Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiệu cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa vǎn hoá của nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn nền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về
phát triển kinh tế và vǎn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chǎm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân... 

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi,
là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta" (10). 

Vǎn kiện còn khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh."(11). Việc khẳng định một lần nữa: Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ Nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. 

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnhd dạo đã chỉ ra
rằng : mọi thắng lợi của cách mạng đều gắn liền với đường lối cách mạng mang tính
triệt để và sáng tạo của Đảng ; trong đó : tư tưởng Hồ Chí Minh là một yếu tố cực kỳ
quan trọng đảm bảo cho đường lối của Đảng luôn mang tính cách mạng và sáng tạo
trong mọi hoàn cảnh. Ngày nay, khi công cuộc đổi mới càng triển khai toàn diện, đi
vào bề sâu thì Đảng ta càng tìm thấy ở tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa
Mác-Lênin nhiều quan điểm, kinh nghiệm quý báu. Bởi vậy, Đảng ta, một lần nữa
trong các vǎn kiện Đại hội IX đã trình bày khá toàn diện về nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh, ở một vị trí cực kỳ quan trọng trong vǎn kiện : "Về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta". Đây là một sự khẳng định và một sự đảm bảo chắc thắng cho
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng
và dân tộc ta. Cố Thủ tướng Phạm Vǎn Đồng đã có lần chỉ cho chúng ta giá trị của
nguồn tài sản này : tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng đầy quý báu, là di sản chứa
đựng biết bao giá trị, gia trị đó nói cho cùng là giá trị vǎn hoá mà chúng ta khai thác
chưa được bao nhiêu./.

Câu 2: Phân tích khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh” theo quan điểm đại hội đại
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2001) của Đảng? Ý nghĩa?

Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và cách
mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta ngày càng đẩy mạnh học tập,
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì các thế lực
chống đối Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam cũng luôn xác định khâu đột phá của
chiến lược này là mặt trận tư tưởng chính trị, với mục tiêu số một là xóa bỏ nền tảng
tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đấu tranh phòng,
chống các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh là một chủ trương kiên quyết và nhất
quán của Đảng ta. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù
địch, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình của các thế lực thù
địch và cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Như tinh thần Đại hội Đại biểu lần thư XIII
đã xác định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là
phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối
đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng,
hợp tác, cùng có lợi, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là
nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động” (1).
Vậy để bảo vệ một cách đúng đắn những tư tưởng - di sản quý báu mà lãnh tụ
Hồ Chí Minh để lại cho Đảng, cho dân tộc, trước tiên cần hiểu một cách chính xác Tư
tưởng Hồ Chí Minh là gì?
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành cùng với quá trình lãnh tụ Hồ Chí
Minh sống và hoạt động cách mạng. Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí được hình thành
cùng với quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta về ý nghĩa, giá trị của tư tưởng
này.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951), Đảng ta bắt đầu kêu gọi:
“toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong, đạo đức cách mạng của
Hồ Chủ tịch” và khẳng định: “sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng
mạnh và làm cho cách mạng mau đi đến thắng lợi hoàn toàn” (2).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), lần đầu tiên Đảng nêu lên khái
niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư
tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của dân
tộc”. Cương lĩnh 1991 khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động.
Sau 10 năm, với những thành tựu to lớn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ở
trong và ngoài nước, trong Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khoá VIII thông qua
tại Đại hội đại biểu lần thứ IX (4-2001), Đảng ta có bước phát triển trong nhận thức và
tư duy lý luận khi khẳng định:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về phát triển kinh tế và
văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” (3).
Đến năm 2011, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta khái quát trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và
phát triển):
 “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4).
Từ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh qua các văn kiện Đảng chúng ta cần hiểu
đúng và nắm vững một số ý cơ bản sau:
1. Về cấu trúc: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
“Hệ thống” là tập hợp những bộ phận có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống có nghĩa là bao gồm nhiều bộ phận, nhiều quan điểm,
quan niệm có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Hệ thống quan điểm đó vừa
đề cập “toàn diện” đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của cách mạng Việt Nam; đồng
thời ở mỗi lĩnh vực, mỗi vấn đề của cách mạng lại được bàn một cách “sâu sắc”, vừa
có tính liên tục, vừa có sự nhất quán. Như Đại hội IX đã chỉ rõ, đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh
của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.... Từ di sản Hồ Chí Minh, các nhà nghiên
cứu còn làm rõ nhiều nội dung có giá trị to lớn khác không chỉ về cách mạng Việt
Nam mà cả về cách mạng thế giới như tư tưởng dân chủ; tư tưởng ngoại giao; tư
tưởng hội nhập, hòa bình, hợp tác và phát triển; phương pháp cách mạng và phong
cách,…
Tuy tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc nhưng
là về “những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” chứ không phải về “tất cả các
vấn đề của xã hội Việt Nam”, bởi ở thời kỳ Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách
mạng có những vấn đề chưa đặt ra cấp thiết hoặc chưa nảy sinh như hiện nay (ví dụ
như vấn đề bùng nổ dân số, chênh lệch giới tính khi sinh, vấn đề phòng chống đại dịch
COVID – 19…).
Nhận thức như trên sẽ tránh được các khuynh hướng sai lầm và xuyên tạc cho
rằng không có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh mà chỉ một vài phát biểu ngắn gọn của
Người; hoặc cái gì cũng quy về tư tưởng Hồ Chí Minh, lạm dụng thuật ngữ “tư tưởng
Hồ Chí Minh” mà không hiểu tư tưởng của Người chỉ gắn với những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Đồng thời cũng cần cảnh giác và phản bác lại những ý kiến
cho rằng hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, không có trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay chúng ta khẳng định quyết tâm của Đảng và nhân dân ta là xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nếu phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội thì đồng
nghĩa với việc phủ nhận công cuộc đổi mới.
2. Về nguồn gốc, trong khái niệm nêu lên Tư tưởng Hồ Chí Minh “là kết quả
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại”. Điều đó cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ
được hình thành từ những suy nghĩ chủ quan của Hồ Chí Minh mà dựa trên những cơ
sở khoa học, những tiền đề tốt đẹp cả trong nước và trên thế giới. Điểm đặc biệt nằm ở
chỗ Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc, phát triển và vận dụng
một cách sáng tạo “vào điều kiện cụ thể của nước ta” chứ không áp dụng “rập khuôn,
máy móc”.
Sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với các giá trị truyền thống của
dân tộc thể hiện ở chỗ không chỉ tiếp thu một cách có chọn lọc các giá trị tốt đẹp, tiến
bộ mà còn nâng những giá trị ấy lên một tầm cao hơn, phù hợp với thời đại cách mạng
mới. Điển hình như chủ nghĩa yêu nước - giá trị xuyên suốt trong bảng giá trị tinh thần
của người Việt, đến thời đại Hồ Chí Minh không chỉ dừng ở việc đấu tranh chống
ngoại xâm bảo vệ đất nước mà còn là xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn, Người khẳng
định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu CNXH, vì có tiến lên CNXH
thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh
thêm" (5). Hay như truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của nhân dân ta cũng
được Hồ Chí Minh phát triển thành chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc;…
Sự kế thừa có chọn lọc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua việc tôn
trọng và tìm ra mặt tích cực, điểm chung của tất cả các học thuyết, các tôn giáo mà
Người có dịp tìm hiểu chứ không hề có sự thành kiến. Người tiếp thu, kế thừa một
cách có chọn lọc, có phân tích, đánh giá sàng lọc, phát huy điểm tích cực và loại bỏ
những điểm không phù hợp để áp dụng vào cách mạng Việt Nam, đồng thời hoàn
thiện tư tưởng riêng của mình. Hồ Chí Minh từng phân tích:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng cá nhân.
          Tôn giáo của Chúa Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao?
Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay
họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết” (6).
Tính sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách
mạng Việt Nam được thể hiện rõ trên nhiều vấn đề như: sáng tạo trong nhận thức và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng
dân tộc ở một đất nước thuộc địa; sáng tạo trong vận dụng và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa; những sáng tạo về nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong thời kỳ quá độ ở một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa; những luận điểm mới về xây dựng Đảng, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm
quyền; chiến lược “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” trong tập hợp lực lượng; sáng tạo
trong lựa chọn mô hình nhà nước phù hợp với thực tiễn của dân tộc;…
3. Về nội dung, trong khái niệm được nêu ra tại Đại hội IX của Đảng đã liệt kê
ra những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó, cần nhận thức được
nội dung xuyên suốt nhất tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người; đây cũng chính là lý tưởng cách mạng cả đời của Người.
Các nội dung “giải phóng dân tộc”, “giải phóng giai cấp”, “giải phóng con
người” được đưa ra theo trình tự phù hợp với tiến trình cách mạng Việt Nam, từ một
xã hội thuộc địa nửa phong kiến bị thực dân Pháp đô hộ thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa và cao hơn nữa là xây dựng xã hội
cộng sản. Nắm vững điều này giúp chúng ta xác định được mục tiêu cụ thể của từng
giai đoạn cách mạng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, không để các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, đánh lạc hướng.
4. Về ý nghĩa, giá trị, Đảng ta khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Lịch sử đã chứng minh, cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường
lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành
thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong 35 năm đổi mới và hội nhập
quốc tế.
Nhận thức rõ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có cơ sở để phản bác lại
những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, người “bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài
nước đã lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo và bôi nhọ thân thế, sự
nghiệp, xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận những giá trị cơ bản,
đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời cũng chống lại những quan điểm “cực
đoan”, “tuyệt đối hóa” tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng
Hồ Chí Minh là đủ. Phải thấy được, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ tư tưởng “mở”,
những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, vận
dụng một cách linh hoạt trong điều kiện mới cho phù hợp.
Tóm lại, nắm vững khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chiếc chìa khóa
để việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
được thực hiện một cách khoa học, toàn diện và sâu sắc. Kết luận 01-KL/TW ngày
18/5/2021 đã khẳng định: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là động lực,
nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực, vượt
qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và
mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”. Vì vậy, việc tiếp tục giương cao ngọn
cờ tư tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ
là yêu cầu tất yếu khách quan cho sự tồn tại của một Đảng chân chính, cách mạng mà
còn là yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam./
 

You might also like