You are on page 1of 158

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐÀ NẴNG, NĂM 2020


Chương 1

KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Mục tiêu cầu đạt.


- Sinh viên trình bày lại được một số vấn đề về khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của môn học.
- Biết vận dụng một số vấn đề có tính phương pháp luận của môn học vào
việc học tập, nghiên cứu bộ môn và rèn luyện trong thực tiễn.

Tài liệu học tập

1. Giáo trình
TL1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên
soạn, Nxb Chính trị quốc gia, 2020
TL2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên
soạn, Nxb Chính trị quốc gia, 2009 (Được tái bản các năm 2010 – 2015)
TL3. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình Quốc gia các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, 2004.

2. Tài liệu tham khảo.


TK1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011;
TK2. Đĩa CDROM HCM;
TK3. Tư tưởng HCM và con đường cách mạng Việt Nam, Võ Nguyên Giáp,
Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1997.
TK4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, IX, XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991,
2011, 2016.
TK5. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991.
TK6. Hoàng Chí Bảo: Phương pháp tiếp cận và quan niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Sinh hoạt lý luận, 4/1998.
TK7. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm và hệ thống, Cộng sản,
1/1993

NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ


MINH.

1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh.


- Khái niệm tư tưởng được hiểu là toàn bộ những quan điểm, quan niệm
đã phát triển thành hệ thống, được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất
định, nhằm lý giải các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người.
Các khái niệm “chủ nghĩa”, “tư tưởng”, “học thuyết” tuy nội hàm có
những điểm khác nhau, nhưng có ý nghĩa gần tương đồng nhau, nên trong
những trường hợp cụ thể, chúng có thể được dùng để thay thế cho nhau.
- Khái niệm nhà tư tưởng (quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin): Một
người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự phát của
quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược, sách lược
của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng (Lênin).
Như vậy: Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng điển hình theo truyền thống
lý luận phương Đông và theo quan điểm của Lênin
- Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh chính thức được nêu ra tại Đại hội
VII, Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1991 và luôn được bổ sung, hoàn thiện
trong các kỳ Đại hội:
+ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) lần đầu tiên
Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin, và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.21)
+ Sau đại hội VII của Đảng, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được triển khai sâu rộng ở trong và ngoài nước
+ Đại hội IX: Đảng ta khẳng định lại tính đúng đắn của Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại
hội VII và nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 2001, tr.83). Nếu như Đại hôi VII mới chỉ
dừng lại một cách đơn giản và sơ lược về khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh, đó
là “kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào điều kiện cụ
thể của nước ta”, thì Đại hội IX vừa làm sâu sắc thêm khái niệm, vừa chỉ rõ
nguồn gốc, nội dung và giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội IX ghi rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào điều
kiện lịch sử cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
về sức mạnh của nhân dân; của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế và
văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
về đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân…. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc
ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự
Thật, Hà Nội, 2001, tr.83-84)
+ Sau Đại hội X, ngày 7 tháng 11 năm 2006, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng
Bí Thư Nông Đức Mạnh đã ký ban hành Chỉ thị số 06 – CT/TƯ về tổ chức cuộc
vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Đại hội XI (2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, là tài sản vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 2011, tr.173)
Chúng ta thống nhất định nghĩa được nêu tại Đại hội lần thứ XI Đảng
Cộng sản Việt Nam:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”
Ta cũng có thể hiểu khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh trên 3 nội dung
chính:
+ Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là hệ
thống các luận điểm toàn diện và sâu sắc, phản ánh những vấn đề mang tính quy
luật của cách mạng Việt Nam.
+ Nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác
- Lênin, giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
+ Giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí
Minh: soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần to lớn
của Đảng và dân tộc ta.
- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh gồm:
+ Tư tưởng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
+ Tư tưởng về xây dựng một chế độ mới theo con đường XHCN.
+ Tư tưởng kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người.
+…

2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.


a. Đối tượng nghiên cứu.
Là hệ thống các quan điểm lý luận được thể hiện trong các di sản của Hồ
Chí Minh và quá trình vận động hiện thực hoá các quan điểm lý luận đó trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Để nắm vững các vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
cần tìm hiểu thông qua:
+ Các “công trình” (tác phẩm, bài nói, bài viết) do Hồ Chí Minh để lại đã
được tập hợp trong bộ sách: Hồ Chí Minh, Toàn tập, 15 tập
+ Tìm hiểu thông qua đường lối chính sách của Đảng ta được thể hiện
trong các văn kiện Đảng.
+ Tìm hiểu thông qua việc làm và cách làm của Hồ Chí Minh.
+ Tìm hiểu thông qua lời kể, những kỷ vật... của những người đã từng
sống, làm việc, sinh hoạt gần gũi với Hồ Chí Minh...
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của một quá trình tìm tòi, kế thừa có
chọn lọc tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Vì vậy, phải nắm vững
truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, phải tự nâng trình độ của mình
lên thì mới có thể nhận thức đúng và đầy đủ về tư tưởng của người.
- Cần lưu ý tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống “mở’’, nó đòi hỏi
chúng ta phải thường xuyên nghiên cứu, bổ sung và phát triển tư tưởng của
người, làm cho tư tưởng của Người đã và mãi mãi tỏa sáng.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu.


- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm
trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
- Quá trình quán triệt và vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua
các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.
- Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng,
lý luận cách mạng thế giới.

3. Vị trí môn học

Với đối tượng và nhiệm vụ đã xác định ở trên, bộ môn tư tưởng Hồ Chí
Minh có quan hệ chặt chẽ với Hồ Chí Minh học, các khoa học xã hội và nhân
văn, và đặc biệt là với các môn học lý luận chính trị.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin, là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, môn tư
tưởng Hồ Chí Minh và môn Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, Lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, Muốn nghiên cứu, học tập tốt
môn này cần nắm vững môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Hồ Chí Minh là người sáng lập, rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một bộ phận tư tưởng nền tảng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng ta. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để nắm vững kiến thức về đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1. Cơ sở phương pháp luận.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cần quán triệt các nguyên tắc
có tính phương pháp luận sau:
- Cơ sở phương pháp luận chung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - lênin mà chủ yếu thế giới
quan và phương pháp luậnduy vật biện chứng và duy vật lịch sử, voeis các quan
điểm:
+ Bảo đảm sự thống nhất tính Đảng và tính khoa học.
+ Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc Lý luận phải gắn với thực tiễn.
+ Quan điểm lịch sử cụ thể.
+ Quan điểm toàn diện và hệ thống.
+ Quan điểm kế thừa và phát triển.
- Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm kinh điển với thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của Hồ Chí Minh.

2. Các phương pháp cụ thể.


- Phương pháp là cách thức đề cập đến hiện thực, cách thức nghiên cứu
các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Có thể khái quát: phương pháp là hệ
thống các nguyên tắc điều chỉnh nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn xuất
phát từ các quy luật vận động của khách thể được nhận thức.
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài các vấn đề có tính phương
pháp luận chung cần chú ý một số phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp xuyên suốt trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là kết
hợp phương pháp lịch sử với phương pháp lôgíc. Phương pháp lịch sử giúp
chúng ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy Hồ Chí Minh, ngược lại nếu
thiếu phương pháp lôgíc, chúng ta không thể tìm ra cái cốt lõi trong tư duy Hồ
Chí Minh và hướng phát triển mà tư duy Hồ Chí Minh đã đạt tới.
- Ngoài ra việc vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, phân
tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử...cũng là những
phương pháp cần thiết trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.

III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN
Việc học tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa:
- Là cơ sở để nhận thức sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác- lênin và đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác.
- Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị
Chương 2

CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH


VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Mục tiêu cầu đạt.


- Sinh viên trình bày lại được các vấn đề về điều kiện lịch sử - xã hội, các
nhân ố khách quan và chủ quan tác động đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh, Các giai đoạn cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh..
- Có khả năng thuyết trình được vai trò của các nhân tố khách quan đối
với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- Phân tích được các vấn đề: Vai trò của tư tưởng văn hóa truyền thống
dân tộc và của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh

Tài liệu tham khảo.


1. Trần Văn Giàu: Sự hình thành về cơ bản tư tuởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1991
2. Đặng Xuân Kỳ: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cộng sản, 3/1992.
3. Song Thành: Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở khoa học và thực tiễn, Cộng sản,
3/1992.
NỘI DUNG

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

Các yếu tố con người, dân tộc, thời đại và sự nghiệp gắn bó chặt chẽ với
nhau. Con người, dân tộc, thời đại chi phối sự nghiệp của cá nhân. Sự nghiệp cá
nhân vừa là kết quả hoạt động của cá nhân, đồng thời là kết quả hoạt động của cả
dân tộc, của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện trong các điều kiện sau:

1. Cơ sở khách quan
a) Cơ sở thực tiễn
- Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Nghiên cứu lịch sử xã hội Việt Nam trong thời gian hơn một thế kỷ có rất
nhiều vấn đề cần được xem xét kỹ. Trong giới hạn của phần này, chúng ta cần
nắm vững hai kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, cuối thế kỷ XIX, Việt nam bị thực dân Pháp xâm lược (1858
-1884), Việt Nam trở thành xứ thuộc địa nửa phong kiến với sự biến đổi căn bản
về giai cấp và tầng lớp xã hội.
Thứ hai, do sự bóc lột nặng nề của cả đế quốc và phong kiến, các phong
trào kháng chiến chống Pháp nổ ra ở khắp nơi, song do không nhận thức đúng
bản chất của kẻ thù, do bế tắc về đường lối nên tất cả các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta đều thất bại
Các phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tư tưởng phong kiến
(Phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế…) lần lượt thất bại chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước yêu cầu của thời đại mới.
Các phong trào đấu tranh dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và tiểu
tư sản (Phong trào của cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học…) cũng lần lượt bị thất bại chứng tỏ cha ông ta vẫn chưa nhận thức đúng
bản chất của kẻ thù nên chưa thể xác định đúng con đường đi cho dân tộc.
Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng
đường lối cứu nước. Thực tiễn đặt ra vấn đề muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, cách mạng Việt Nam phải tìm ra một con đường mới.
- Quê hương và gia đình Hồ Chí Minh.
+ Quê hương (nghĩa hẹp), vùng Nghệ Tĩnh là vùng rất giàu truyền thống
yêu nước, cách mạng, truyền thống hiếu học. Điều này đã sớm hình thành tình
yêu quê hương đất nước, tinh thần ham hiểu biết, ý chí phấn đấu vươn lên ở Hồ
Chí Minh.
(Hương ước của xã Kim liên quy định hai nhóm người được kính trọng
nhất là người cao tuổi và người có học. Trong 56 kỳ thi Hương, xã có 82 vị khoa
bảng, trong đó làng Kim Liên có 53, làng Hoàng Trù có 29 (tính từ 1635-1890).
+ Gia đình Hồ Chí Minh có đặc điểm đáng chú ý:
Gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình nhà nho yêu nước gần gũi với nhân
dân sống có trước có sau, có tình có nghĩa. Ý chí kiên cường, tư tưởng thương
dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách chính trị xã hội của cụ
Bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của Nguyễn Tất
Thành.
Tuổi thơ của Bác có may mắn được đi khắp các vùng trong nước (5 tuổi
theo cha vào Huế, 15 tuổi đến Thái Bình, từ 1909-1911 đi tiếp vào phía Nam).
Người đã có dịp chứng kiến nhiều cảnh đau lòng, thấu hiểu nỗi thống khổ của
đồng bào mình... Trong đó, thời kỳ sống ở Huế (1895-1901;1906-1909) là thời kỳ
có ý nghĩa đặc biệt nhất, giúp Hồ Chí Minh hình thành cơ bản nhân cách của
mình.
+ Hồ Chí Minh có may mắn được học với những người thày giáo yêu nước
thương dân, có trình độ uyên bác (Bác học chữ Nho với các cụ Vương Thúc Quý,
Vương Thúc Oánh; học tiếng Pháp với ông Phạm Ngọc Thọ). Chính từ những
người thầy này mà trình độ hiểu biết, lòng yêu nước của Hồ Chí Minh được nhân
lên. Có thể khẳng định trước khi sang Pháp, trình độ học vấn, hiểu biết xã hội của
Hồ Chí Minh đã thuộc loại hiếm của xã hội lúc bấy giờ.
Những nhân tố trên đã tác động mạnh đến Hồ Chí Minh, để khi xuống tàu
sang Pháp là khác với cha, ông ta (dựa vào các tầng lớp trên của xã hội). Hồ Chí
Minh đã bắt đầu sự nghiệp của mình từ một người thợ (mặc dù Người xuất thân
trong một gia đình Phó bảng, bản thân là thầy giáo), điều này chứng tỏ ngay từ
đầu, con đường, phương pháp ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh đã rất
khác so với những gì mà ông cha ta đã làm trước đó.
- Thời đại
Nguyễn Ái Quốc bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh thế giới:
+ Chủ nghĩa MLN đã thâm nhập sâu rộng vào phong trào công nhân và
bước đầu có xu hướng thâm nhập vào các nước thuộc địa
+ CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Chính sách xâm chiếm thuộc địa của các nước đế quốc đã khiến cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống
lại sư xâm lược của nước khác, mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc.
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành dù chưa nhận thức được đặc
điểm của thời đại, song Anh đã thấy rõ được con đường cứu nước của các bậc
tiền bối là không phù hợp. Nguyễn Tất Thành đã vượt 3 đại dương, 4 châu lục,
đến khoảng gần 30 nước, làm nhiều nghề, trở thành đảng viên Đảng Xã hội
Pháp, Người cùng những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi Bản Yêu sách
đến Hội nghị hòa bình tại Vécxây..., để rồi rút ra kết luận: Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình và chủ nghĩa tư bản,
đế quốc ở đâu cũng cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng
bị áp bức, bóc lột, đầy đọa, Người khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.
Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (T1,
266)
+ Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công mở đầu thời đại mới,
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
+ Quốc tế III được thành lập (3/1919). Đặc biệt, đến 7/1920, khi Báo L`
humanitê đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam.
Đêm kết thúc Đại hội Tua (30/12/1920) đánh dấu bước ngoặt trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng mở ra bước chuyển biến cho bao thế hệ
người Việt Nam: từ người yêu nước trở thành người cộng sản

b. Cơ sở lý luận
- Tư tưởng và văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho dân tộc ta
một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững. Cụ thể:
+ Truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước. Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành hạt nhân của truyền thống dân tộc và là
giá trị cao nhất chi phối mọi giá trị khác của dân tộc Việt Nam.
Đánh giá rất cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam, Hồ Chí Minh
viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (T6, 171).
Giải thích về lý do Hồ Chí Minh tin và đi theo Quốc tế III, Người viết:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải CNCS đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ III”(T10, 128)
+ Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong
hoạn nạn, khó khăn.
+ Truyền thống lạc quan, yêu đời.
+ Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo, ham học hỏi, luôn
mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa dân tộc là cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì
chính xuất phát từ truyền thống văn hóa của dân tộc, đặc biệt là khát vọng cứu
nước, giải phóng dân tộc, Hồ CHí Minh đã đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước;
cũng trên cơ sở văn hóa truyền thống mà Hồ Chí Minh đã bắt gặp và tiếp nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin và khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam,
Người luôn xuất phát từ điều kiện thực tiễn, từ văn hóa Việt Nam để kế thừa và
sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
- Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây
+ Tư tưởng văn hóa phương Đông
* Nho giáo:
Người quan niệm học Nho không phải để ra làm quan, mà Nho giáo là
một kinh nghiệm về đạo đức và cách ứng xử. Người sử dụng hầu như tất cả các
khái niệm, phạm trù đạo đức của Nho giáo.
Nho giáo có những mặt tích cực: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế,
hành đạo, giúp đời, mong muốn một xã hội bình trị (một xã hội không sợ thiếu
chỉ sợ không công bằng), tư tưởng trọng dân “dân vi quý xã tắc thứ chi quân vi
khinh”... đề cao văn hóa, lễ giáo, đã tạo nêna truyền thống hiếu học, tu thân
dưỡng tính... Nho giáo từng giữ vai trò là đường lối trị nước độc tôn trong các
triều đại phong kiến Việt Nam.
Nho giáo có hạn chế: phân chia xã hội thành đẳng cấp, yêu cầu sự phục
tùng tuyệt đối của kẻ dưới đối với người trên (tam cương), trọng nam khinh nữ,
coi khinh lao động chân tay.
* Phật giáo:
Bên cạnh mặt tiêu cực như thủ tiêu đấu tranh, chịu khuất phục trước kẻ
thù... Hồ Chí Minh nhận thấy Phật giáo cũng có những mặt tích cực, như tư
tưởng vị tha, từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân;
tinh thần dân chủ bình đẳng chất phác chống phân chia xã hội thành đẳng cấp
“Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”; chủ trương sống có đạo đức,
trong sạch, giản dị chăm làm điều thiện; đề cao lao động, chống lười biếng; chủ
trương sống gắn bó với dân với nước...Hồ Chí Minh rất coi trọng những giá trị
tích cực của Phật giáo, đặc biệt là những quan niệm về thiện – ác; chân, thiện,
mỹ và nhận rõ Phật giáo vào Việt Nam rất sớm, đồng hành với lịch sử dân tộc,
đã có thời kỳ trở thành quốc giáo.
* Lão giáo:
Lão giáo cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, nhân cách Hồ Chí
Minh. Những mặt tích cực của Lão giáo như con người cần phải biết sống hòa
hợp với tự nhiên, không tham lam vượt quá khả năng của mình... được Hồ Chí
Minh rất coi trọng. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán quan điểm không
cần biết, không quan tâm, không dạy cho dân biết nhiều của Lão giáo.
Nếu tư tưởng Nho giáo và Phật giáo có ảnh hưởng khá lớn đế sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, thì tư tưởng Lão giáo lại có ảnh hưởng rất nhiều
đến sự hình thành lối sống của Người.
* Tư tưởng phương Đông cận đại: Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm nghiên cứu
chủ nghĩa Tam dân và các chính sách của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đánh
giá: chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã tiếp cận đến con đường cách
mạng vô sản, tán thành mục tiêu của chủ nghĩa tam dân: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, nhưng chủ trương phải gắn chúng với cách
mạng vô sản và chủ nghĩa xã hội dựa trên hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
+ Về văn hóa phương Tây:
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều
đến tư tưởng “tự do bình đẳng bác ái”, trong cách mạng tư sản Pháp và tư tưởng
tư sản nói chung. Người nói: khi tôi 13 tuổi, tôi đã nghe thấy các từ tự do, bình
đẳng, bác ái. Từ khi nghe, tôi luôn nghĩ và tìm cách ra đi xem ở nước ngoài,
người ta làm như thế nào. Tư tưởng tự do bình đẳng bác ái có sức hấp dẫn rất lớn
đối với Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng văn hóa tiến bộ của phương Tây đã chi
phối sự lựa chọn chí hướng cứu nước của Hồ Chí Minh (tìm đường cứu nước
phải đi phương Tây, không đi các nước phương Đông).
Tuy nhiên khi sang Pháp, Hồ Chí Minh phát hiện những từ ngữ mỹ miều
đó cũng chỉ là những khẩu hiệu không hơn không kém.
Sau nhiều năm tìm đường cứu nước, Người cũng đã hấp thu được những
tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân chủ, cách làm việc dân chủ
trong cuộc sống thực tiễn.
Có thể khẳng định rằng tinh hoa văn hóa nhân loại có ảnh hưởng rất lớn đề
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc điểm ở Hồ Chí Minh là khi tiếp thu
văn hóa nhân loại, Người luôn nhận thúc được cả hai mặt ưu và nhược điểm, luôn
nâng niu, quý trọng và kế thừa ưu điểm trong các học thuyết của nhân loại.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin - Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh tiếp thu văn hóa nhân loại, song tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ có được sự chuyển biến về chất, khi Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò quyết định sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh bởi vì:
Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến
bộ của truyền thống dân tộc, tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống
tư tưởng của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận diện chính xác bản chất
của kẻ thù từ đó giúp Người vạch ra được đường lối cứu nước đúng đắn
Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh nhận thức được quy luật vận
động của lịch sử và hàng loạt các vấn đề về phương pháp cách mạng.
+ Con đường Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin có đặc điểm:
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một vốn học vấn chắc
chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Trong mười năm đầu bôn ba tìm đường cứu
nước, Người đã hoàn thiện cho mình một vốn văn hóa, vốn chính trị và vốn thực
tiễn phong phú mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi nào có thể so sánh được.
Cái bản lĩnh đó đã giúp Hồ Chí Minh nâng cao khả năng độc lập, tự chủ,
sáng tạo khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin để không rơi vào sao
chép, giáo điều, mà biết tiếp thu, vận dụng có chọn lọc những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam.
Phương pháp tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh là nắm
cái tinh thần, cái bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương,
giải pháp, đối sách phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở chủ yếu nhất, chủ
nghĩa yêu nước là cội nguồn sâu xa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước có quan hệ mật thiết với nhau. Yêu nước
chân chính như Hồ Chí Minh, chắc chắn sẽ đưa Người đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, và khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thì Người là người
yêu nước chân chính nhất và chủ nghĩa yêu nước đã được nâng tầm về chất. Vì
vậy, ai phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng là phủ nhận tư tưởng Hồ Chí
Minh từ gốc.
Mặc dù Hồ Chí Minh không nói cụ thể về nguồn gốc hình thành tư tưởng
của mình, song ta có thể tham khảo một số nhận xét của chính Người, cũng như
của những người đã từng sống và làm việc với Hồ Chí Minh:
Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân, Cơ đốc
giáo có ưu điểm là lòng nhân ái, chủ nghĩa Mác - Lênin có ưu điểm là phép biện
chứng trong công việc, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
phù hợp với Việt Nam. Khổng Tử, Jesuis, Mác, Tôn Dật Tiên có ưu điểm chung
là nghĩ về nhân loại, mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Nếu như hôm nay còn
sống trên đời này, họ sẽ họp lại với nhau... Tôi, Hồ Chí Minh nguyện làm học trò
nhỏ của họ.
Một học giả Pháp, chuyên gia nghiên cứu Hồ Chí Minh đã viết: Ở Hồ Chí
Minh, mỗi người đều tìm thấy ở Người biểu hiện của một nhân vật cao quý nhất,
bình dị nhất và được kính yêu nhất... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh,
với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác
và nhiệt tình cách mạng của Lênin.

2. Nhân tố chủ quan (phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh)


- Các nhân tố khách quan tác động đến mọi người sống trong cùng một
thời đại, nhưng mỗi người có thái độ, cách lý giải, biểu hiện khác nhau. Điều này
phụ thuộc hai yếu tố :
+ Sự hiểu biết, tầm văn hóa và trình độ nhận thức của mỗi người
+ Cái tâm của người đó với dân với nước.
- Các nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh được thể hiện:
+ Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo khả năng phê phán tinh tường sáng suốt
không để bị đánh lừa bởi cái vỏ hào nhoáng bên ngoài của chủ nghĩa tư bản.
Tư duy độc lập: ở Hồ Chí Minh là không lệ thuộc, không phụ thuộc,
không bắt chước, không theo đuôi.
Tư duy tự chủ của Hồ Chí Minh là tự mình làm chủ suy nghĩ của mình,
làm chủ bản thân và công việc của mình, việc của mình, tự mình thấy trách
nhiệm trước đất nước và dân tộc,
Tư duy sáng tạo: đổi mới của Hồ Chí Minh là sẵn sang từ bỏ những cái
cũ đã được thực tiễn kiểm nghiệm là không đúng, những gì đã lạc hậu, những
cái cũ đã đúng trước kia nhưng đến nay không còn phù hợp, tìm tòi đề xuất
những cái mới có thể trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Cái mới
sáng tạo của Hồ Chí Minh bao hàm những giá trị của cái cũ, nhưng lại vượt lên
trên cái cũ, bổ sung thêm những giá trị mới. Cái mới chứa đựng tinh thần khoa
học, bao gồm một hệ thống tri thức xuất phát từ thực tế Việt Nam và xu thế thời
đại, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam (Bùi
Đình Phong, Nghiên cứu Hồ Chí Minh – Một số công trình tuyển chọn, Tập 1:
Chính trị - tư tưởng – Tổ chức, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2020, tr.115-
116)
+ Khả năng hấp thụ, xử lý, chuyển hóa tri thức của nhân loại thành bản
lĩnh và năng lưc trí tuệ cá nhân và kinh nghiệm đấu tranh của bản thân phù hợp
với cốt cách người Á Đông, người Việt Nam, không thỏa hiệp vô nguyên tắc,
không làm biến chất tư tưởng gốc.
+ Sự khổ công học tập và khả năng đưa những tri thức thu nhận được vào
trong quần chúng nhân dân, trước hết là vào những lớp người tiên tiến nhất trong
dân tộc, thực hiện bước chuyển từ người đi tìm đường cứu nước trở thành người
dẫn đường. Ở Việt Nam có nhiều người đi tìm đường cứu nước, song chỉ có Hồ
Chí Minh sớm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn nhất và trở thành người dẫn
đường cho dân tộc ta.
+ Vốn sống và năng lực hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú
+ Tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sỹ cộng sản nhiệt
tình cách mạng, thương dân, tin tưởng vào nhân dân, sẵn sàng chịu đựng những
hi sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự “vượt gộp” tư tưởng văn hóa cổ
kim đông tây. Trước hết, Hồ Chí Minh phải “gộp”, tức là tiếp thu lý luận của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, tinh hoa văn hóa Đông - Tây, nhưng nếu chỉ
“gộp” thôi thì chưa đủ, chưa có gì là của mình cả. Vấn đề là sau gộp, phải vượt
lên, nghĩa là phải vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển lên.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH.

Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được chia làm 5 giai đoạn:

1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước. ( trước
5/6/1911)
Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mang tính quyết định đối
với việc hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh.
Trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh có điều kiện tiếp thu và hình thành cho mình
một vốn văn hóa Quốc học, Hán học và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, đồng thời chứng kiến nỗi thống khổ, tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng
bào mình, nhờ đó Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho mình một hướng đi, cách đi
đúng, vì vậy đã sớm thành công.

2. Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. (1911 -
30/12/1920)
- Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Người lấy tên là Văn Ba xuống con tàu nước
Pháp, bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước. Quá trình ra đi tìm đường cứu nước
của Hồ Chí Minh, có những lưu ý sau đây:
+ Có bốn bước ngoạt, bốn cột mốc dẫn đến việc ra đi tìm đường cứu
nước: Trong khoảng 6 năm từ lúc theo học lớp Dự bị Trường tiểu học Pháp ở
Vinh (9-1905) cho đến khi ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, Người đã nung
nấu một hoài bão cứu nước cứu dân. Hoài bão đó được thể hiện qua 4 cột mốc
chính:
Bước ngoạt đầu tiên: trong thời gian học tập tại Lớp dự bị Trường Tiểu
học Pháp ở Vinh (1905-1906), lần đầu tiên được nghe những từ Pháp như Tự do
– Bình Đẳng – Bác ái, Nguyễn Tất Thành đã muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những chữ ấy.
Bước ngoạt thứ hai: khi đang học ở Trường Quốc học Huế (1908),
Nguyễn Tất Thành không tiếp tục học nữa mà theo cha vào Bình Định. Hoài
bão đó được nung nấu suốt trong thời gian ở Bình Định, học thêm tiếng Pháp ở
Quy Nhơn ư
Bước ngoạt thứ ba: là khi học tiếng Pháp ở Quy Nhơn, nghe tin cha bị
triều đình bãi chức triệu hồi về Huế, Nguyễn Tất Thành bỏ học ở Quy Nhơn vào
Sài Gòn, có một thời gian ngắn dừng chân ở Phan Thiết, dạy học tại trường Dục
Thanh
Bước ngoạt thứ tư: có tính quyết định là Nguyễn Tất Thành với tên gọi là
Văn Ba lên một chuyến tàu có tên Latsuso Torevin từ cảng Sài Gòn đi Mác xây,
rời Tổ quốc sang Pháp.
+ Tầm nhìn, cách nhìn và cách làm của Hồ Chí Minh trong quá trình ra đi
tìm đường cứu nước cũng hết sức đặc biệt, độc đáo, mang sắc thái riêng, diện
mại và dấu ấn riêng của Hồ Chí Minh.
Tầm nhìn: Đó là một tầm nhìn xa trông rộng – tầm nhìn đại dương xuyên
thế kỷ. Người ra biển lớn, đi tới mọi châu lục, khám phá nhiều nền văn hóa khác
nhau. Tầm nhìn Hồ Chí Minh từ thế kỷ XX xuyên qua thế kỷ XXI, rọi chiếu tư
duy và hành động của chúng ta trong thế giới toàn cầu hóa, đặt hòn đá tảng cho
hội nhập và tiếp biến văn hóa” (Bùi Đình Phong, Nghiên cứu Hồ Chí Minh –
Một số công trình tuyển chọn, Tập 1: Chính trị - tư tưởng – Tổ chức, Nxb Tổng
hợp Tp Hồ Chí Minh, 2020, tr.76)
Cách nhìn Hồ Chí Minh rất khoa học và cách mạng. Người dám từ bỏ tư
duy cũ, con đường cũ, cách làm cũ của thế hệ trước bậc cha chú, chỉ giữ lại lòng
khâm phục những người đi trước để đạt được mục đích giành độc lập dân tộc.
(Bùi Đình Phong, Nghiên cứu Hồ Chí Minh – Một số công trình tuyển chọn,
Tập 1: Chính trị - tư tưởng – Tổ chức, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2020,
tr.76)
Cách làm của Hồ Chí Minh là quan sát, học hỏi, tìm hiểu, từ cuộc sống
công nhân hóa đến trí thức hóa, làm nhiều nghề, nhiều địa bàn khác nhau, hoạt
động thực tiễn kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu lý luận. Lấy dân tộc làm địa bàn
xuất phát, ra nước ngoài xem họ làm như thế nào, tìm hiểu mọi học thuyết, mọi
thứ chủ nghĩa, chắt lọc trong đó những cái hay, cái tốt, chọn thời cơ trở về nước,
đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đưa ra đấu tranh giành tự do độc
lập. Đó là phương pháp “dĩ ngoại đột nội” (lấy ngoại đột nội)” (Bùi Đình
Phong, Nghiên cứu Hồ Chí Minh – Một số công trình tuyển chọn, Tập 1: Chính
trị - tư tưởng – Tổ chức, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2020, tr.78)
- Tháng 7 năm 1911, Hồ Chí Minh đến Pháp. Người có điều kiện đi
nhiều nước làm nhiều nghề khác nhau..., những điều đó đã giúp Người nhận
thức được rằng, các khẩu hiệu tự do dân chủ do CNĐQ nêu ra chỉ là những
khẩu hiệu giả tạo, đồng thời khẳng định ở đâu cũng có hai hạng người, và
nguồn gốc của mọi khổ đau của nhân loại là ở các nước chính quốc. Các dân
tộc muốn được giải phóng, chỉ có thể dựa vào chính sức lực của mình.
Cuối năm 1917, từ nước Anh, Hồ Chí Minh trở lại Pháp. Người ủng hộ
nhiệt tình cách mạng Tháng Mười. Năm 1919, cùng một số người thuộc các dân
tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cùng một số người Việt Nam yêu nước ở Pháp soạn
thảo và gửi Bản Yêu sách đòi tự do dân chủ tới Hội nghị Vécxây, song các nước
thắng trận thế chiến thứ nhất đã hoàn toàn phớt lờ các đề nghị chính đáng của
Nguyễn Ái Quốc. 1
Đầu năm 1919, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp với lý do là đảng
duy nhất lúc đó ủng hộ thuộc địa.

1
“Bản yêu sách của nhân dân An Nam”: Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý
tưởng chuyển thành hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng lêng của các dân tộc được thừa
nhận thực sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông – Pháp xin trình bày với quý
chính phủ đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đang kính nói riêng những yêu sách
nhỏ sau đây:
1. Ân xá tất cả chính trị phạm người bản xứ. 2. Cải cách nền công lý Đông Dương bằng cách
ban cho người bản xứ cũng được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu,
bãi bỏ hoàn toàn và triệt để các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ
phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam. 3. Quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận. 4.
Quyền tự do lập hội và hội họp. 5. Quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch nước ngoài. 6. Quyền
tự do giáo dục thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản
xứ. 7. Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. 8. Đoàn đại biểu thường trực của
người bản xứ bầu ra tại nghị viện Pháp để giúp cho nghị viện biết được nguyện vọng của người
bản xứ”
- Hồ Chí Minh tiếp nhận Luận cương của Lênin (đăng trên báo “Nhân
đạo” số ra các ngày 16, 17/71920) và kể từ đây, con đường cứu nước của Hồ
Chí Minh đã được xác định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
(1921 - 1930)
Một người sẽ trở thành nhà tư tưởng khi người đó đi trước phong trào tự
phát của quần chúng, chỉ đường cho quần chúng, vạch ra đường lối chiến lược,
sách lược của cách mạng và xây dựng cho quần chúng một tổ chức cách mạng
(Lênin).
Thông qua một loạt các cuộc tiếp xúc, các hoạt động xã hội phong phú
các cuộc hội thảo nghiên cứu sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
tích lũy cho mình một số vốn tri thức cách mạng hết sức phong phú. Từng bước
hình thành ở Người tư tưởng đúng đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ
đó, lý luận chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa,
nửa phong kiến đã từng bước được hình thành.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện
thông qua hàng loạt các bài viết, các tác phẩm và đặc biệt là thông qua các văn
kiện Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... do Hồ Chí Minh soạn thảo và
được Hội nghị hợp nhất 3 Đảng Cộng sản ở Việt Nam thông qua ngày 3 tháng 2
năm 1930.
Từ khi trở thành đảng viên cộng sản, Người đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về nước, chuẩn bị tích cực cho việc thành lập chính đảng vô
sản ở Việt Nam như cho xuất bản Báo “Người cùng khổ” (1921), “Bản án chế
độ thực dân Pháp” (1925), “Tạp chí Thanh niên”(1925-1927), “Đường Kách
mệnh” (1927)... Từ ngày 3-7/2/1930, Hồ Chí Minh trực tiếp chủ trì Hội nghị
Thành lập Đảng, thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
4. Thời kỳ Hồ Chí Minh vượt qua thử thách, kiên định con đường đã xác định,
tiến tới giành thắng lợi đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. (1930-1945).
- Những khó khăn thử thách đối với Hồ Chí Minh trong thời kỳ này:
+ Ngày 6/6/1931, Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng (số 186 phố Tam
Lung), thực dân Pháp rất mừng vì trước đó chúng đã kết án tử hình vắng mặt
Hồ Chí Minh. Đượ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và các cá nhân yêu chuộng
hoà bình, công lý, Hồ Chí Minh đã được tuyên bố vô tôi và Người đã đến
Mátxcơva an toàn.
+ Do bất đồng về quan điểm với khuynh hướng “tả” khuynh của Quốc tế
Cộng sản về đường lối cách mạng Việt Nam và cách mạng ở các nước thuộc địa
nói chung, sau khi đến Liên xô, Hồ Chí Minh được Quốc tế Cộng sản cử đi học
tại trường Quốc tế Lênin. Tốt nghiệp, Người được cử đi học tiếp lớp nghiên cứu
sinh về khoa học kinh tế và lịch sử.
Ngày 6/6/1938, Hồ Chí Minh viết thư gửi Quốc tế Cộng sản xin về nước.
29/9/1938, Quốc tế Cộng sản quyết định Hồ Chí Minh thôi làm nghiên cứu sinh
và chuẩn bị cho Người về nước.
Vì sao có sự thay đổi này? vì hai nguyên nhân: qua thực tế ở Việt Nam (Xô
viết Nghệ Tĩnh) và phong trào quần chúng trên thế giới, chứng tỏ quan điểm của
Hồ Chí Minh là đúng. Hơn nữa, lúc này, phong trào cộng sản quốc tế phải lựa
chọn không phải là giữa dân chủ vô sản hay dân chủ tư sản mà là giữa chiến tranh
và hòa bình. Đường lối của Quốc tế Cộng sản thời kỳ này là đoàn kết tất cả các
lực lượng yêu chuộng hoà bình, chống chủ nghĩa phát xít.
- Trong thời kỳ này, đáng chú ý nhất đối với hoạt động của Hồ Chí Minh
chính là việc Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt,
Chương trình vắn tắt và Lời kêu gọi và trong thời gian ở Liên xô, Người đã giữ
vững được các nguyên tắc của mình, song cũng hết sức mềm dẻo, linh hoạt
trong xử trí các quan hệ quốc tế: đề xuất đúng mức, biết phục tùng, biết chờ đợi.
5. Thời kỳ tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội (1941-1969)
- Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8, đặt mục
tiêu độc lập dân tộc lên trên hết.
- Ngày 2/9/1945, thay mặt quốc dân đồng bào, Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn độc lập. Người được quốc dân đồng bào bầu làm Chủ tịch nước đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tư tưởng cách mạng và khoa học
của Người đã từng bước được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật.
- Xây dựng đường lối kháng chiến kiến quốc (1945-1954). Hàng loạt
những tư tưởng về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tư tưởng quân
sự, tư tưởng về Đảng cầm quyền... đã hình thành và phát triển.
- Lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây CNXH ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh từ trần và để lại cho dân tộc ta bản Di
Chúc lịch sử cùng toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người.

III. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.


1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân
tộc.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam.

- Tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu những giá trị văn hoá vĩnh cửu
của nhân loại, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một
cách linh hoạt, khoa học hiệu quả, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại, của
cách mạng Việt Nam và của thế giới hiện nay.
- Tư tưởng của Người đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá khứ và
hiện nay nó đã trở thành hệ thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của cách mạng Việt Nam.
Một cuộc cách mạng chỉ có thể thành công triệt để khi nó có một hệ thống
lý luận đúng đắn soi đường. Từ năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hệ
thống lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hóa, đất nước và con
người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn Việt Nam. Do đó, tư
tưởng của Người đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo có hiệu quả đối
với việc thực hiện những nhiệm vụ của thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
Chính vì vậy, có nắm được tư tưởng Hồ Chí Minh mới hiểu được đường lối cách
mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết nhờ có chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời cũng là nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nâng cao nhận thức- tư tưởng, cải
tiến phương pháp và phong cách công tác... góp phần đưa công cuộc đổi mới đi
tới thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng của thời đại là hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi.
Người đã có những cống hiến xuất sắc trên hàng loạt các vấn đề lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách
mạng giải phóng dân tộc, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải
phóng…góp phần làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa M-Lênin.
- Tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người khỏi ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân
Cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ xác định con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định con đường cách mạng,
một hướng đi, một phương pháp thức tỉnh người dân các nước thuộc địa.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ từ rất sớm,
Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, trên cơ sở đó, Người đã
hoạt động không mệt mỏi nhằm gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào phạm trù cách mạng vô sản. Rồi chính từ
kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: “…trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và
đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và
đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống
nhất, với sự đồng tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của
phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, nhân dân đó nhất định thắng lợi” (T9 – 315,
316)
- Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.
Trong lòng nhân dân thế giới, Hồ Chủ tịch là “lãnh tụ của thế giới thứ ba”;
“cuộc chiến đấu của Người là kim chỉ nam cho tất cả các cuộc đấu tranh”,
(Bumêđiên - Thủ tướng Angiêri), “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ
vũ đối với tất cả các chiến sĩ đấu tranh cho tự do” (Chủ tịch Ăng-go-la). Tuy
Người đã mất, nhưng “Tư tưởng chỉ đạo của Người vẫn mãi mãi soi sáng cuộc
đấu tranh cho tới khi tất cả bọn xâm lược và bọn áp bức bị đánh bại hoàn toàn”
(Tổng thống Tan-da-ni-a)…
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế dẫn đến ra đời Tư
tưởng Hồ Chí Minh?
2. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong những giai đoạn đó, giai đoạn nào tư tưởng Hồ Chí Minh có ý
nghĩa vạch đường đi cho cách mạng Việt Nam? Hãy chứng minh.
3. Phân tích vai trò của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam đối với
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
4. Tại sao nói văn hóa tiến bộ phương Tây có ảnh hưởng chi phối đến
việc lựa chọn con đường cứu nước của Hồ Chí Minh?
5. Phân tích các nhân tố góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhân tố nào là quan trọng nhất, quyết định bản chất tư tưởng của Người? tại
sao?
6. Thuyết trình lý do Hồ Chí Minh ra nước ngoài và các mục tiêu mà Hồ
Chí Minh đã đạt được ở mỗi giai đoạn cụ thể (trong 5 giai đoạn hình thành tư
tưởng của Người)
7. Tại sao nói tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một sự ăn may, ngẫu
nhiên?
Chương 3

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Mục tiêu cầu đạt.


- TRÌNH BÀY lại được các luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về CNXH và về thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam.
- THUYẾT TRÌNH được một số luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc và về quan hệ giữa độc lập dân tộc với
CNXH
- PHÂN TÍCH được các vấn đề: sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc, cách mạng giải phóng dân tộc và về các động lực cơ bản của CNXH Việt
Nam, bước đi, biện pháp tiến hành xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam.
- Có khả năng VẬN DỤNG một số quan điểm của Hồ Chí Minh về
CNXH và thời kỳ quá độ trong thực tiễn học tập và công tác.

Tài liệu tham khảo.


1. V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1977.
(Các bài: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa, Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản, Báo cáo của tiểu ban về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
2. Nguyễn Duy Quý: Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC


1. Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
- Tư tưởng và văn hoá truyền thống của dân tộc. (Hạt nhân là chủ nghĩa
yêu nước…)
- Cách mạng tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa. Nội dung Luận cương Lênin: cách mạng vô sản là con
đường duy nhất giải phóng các dân tộc thuộc địa.
- V.I. Lênin chủ trương giải phóng toàn thể các dân tộc thuộc địa thoát
khỏi ách áp bức của Chủ nghĩa đế quốc và Chủ nghĩa thực dân. (giúp Hồ Chí
Minh nhận ra sự gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới)
- Con đường cứu nước duy nhất của dân tộc Việt Nam là cứu nước theo
con đường cách mạng vô sản; đồng minh của cách mạng vô sản Việt Nam là
giai cấp vô sản toàn thế giới. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động,
phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc …”)
- Trách nhiệm của các Đảng Cộng sản ở các nước chính quốc là phải giúp
đỡ phong trào giải phóng dân tộc và làm cho các phong trào này phát triển theo
con đường cách mạng vô sản.
- Các cuộc cách mạng và các phong trào giải phóng dân tộc và con đường
cứu nước của các nhà yêu nước nổi tiếng của Việt Nam và thế giới.
- Hồ Chí Minh đã khảo sát rất kĩ các phong trào đấu tranh trong nước,
Người nhận định:
+ Phan Bội Châu – “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
+ Phan Chu Trinh – “Xin sỏ thực dân pháp rủ lòng thương cũng không
đòi được độc lập”.
+ Hoàng Hoa Thám – “Thực tế hơn hai cụ Phan, nhưng Cụ còn nặng cốt
cách phong kiến”.
- Khảo sát các phong trào đấu tranh cứu nước của các dân tộc phương
Đông:
+ Thổ Nhĩ Kỳ - “Thành công không đến nơi”.
+ Ấn Độ (Gandi) – “Không thể thực hiện độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ”
và “Ganđi không phải là một nhà cách mạng, Ganđi chỉ là một nhà cải cách”.
+ Trung Quốc (Tôn Trung Sơn) – cách mạng Trung Quốc “Gần gũi” với
Việt Nam và đường lối của Tôn Trung Sơn đã “tiếp cận” đến con đường cách
mạng vô sản.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc

- Quan điểm của C.Mác và Ph.Anghen:


+ Làm rõ nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của dân tộc và sự hình thành
dân tộc trong lịch sử gắn liền với Chủ nghĩa tư bản.
+ Vấn đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp và luôn được xem xét
giải quyết theo lập trường giai cấp
+ Áp bức giai cấp là nguồn gốc của áp bức dân tộc, muốn xóa bỏ tình
trạng dân tộc này áp bức nô dịch dân tộc khác trước hết phải xóa bỏ chế độ xã
hội có áp bức và đối kháng giai cấp
+ Giải phóng giai cấp là tiền đề giải phóng dân tộc
+ Chưa có điều kiện bàn đến vấn đề dân tộc thuộc địa

- Quan điểm của Lênin:


+ Khi Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề
dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề lớn của thời đại cần phải được giải quyết.
+ Chỉ rõ hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong chủ nghĩa tư
bản:
Thứ nhất: Sự thức tỉnh của ý thức dân tộc, của phong trào đấu tranh
chống áp bức dân tộc sẽ dẫn tới việc thành lập các quốc gia dân tộc độc lập;
Thứ hai: Sự phá hủy hàng rào ngăn cách dân tộc, thiết lập sự thống nhất
quốc tế của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được mâu thuẫn giữa hai xu hướng
này. Chỉ có cách mạng vô sản và Chủ nghĩa xã hội mới khắc phục đươc mâu
thuẫn đó.
+ Bước đầu giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc thuộc địa với đường lối
kết hợp cách mạng vô sản chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa.
+ Hạn chế: chưa thấy hết tính chủ động sáng tạo và tiềm năng cách mạng
to lớn của các dân tộc thuộc địa, đặt cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc
vào cách mạng vô sản chính quốc, chủ trương ưu tiên cho cách mạng vô sản
chính quốc

b. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.


* Thực chất vấn đề dân tộc thuộc địa
- Mác, Ăngghen, Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp chống chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa đế quốc.
- Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các thuộc địa và có nhiều sáng tạo lý luận độc đáo về vấn đề này
- Thực chất vấn đề dân tộc thuộc địa gồm:
+ Đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập
+ Lựa chọn con đường phát triển đúng đắn cho dân tộc:
Giải phóng dân tộc gắn liền với việc lựa chọn con đường phát triển của
dân tộc.
Phương hướng phát triển dân tộc quy định nội dung và yêu cầu của cuộc
đấu tranh giành độc lập, gắn liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp lãnh đạo
nhất định
Từ thực tiễn của phong trào cách mạng thế giới và xu thế vận động của
thời đại, Hồ Chí Minh khẳng định: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Phương hướng phát triển đúng đắn của các dân tộc trong thời đại mới là
chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát triển tiến bộ nhất của thời đại.
* Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc;
- Thứ nhất: Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất
cả các dân tộc. Các dân tộc muốn được tự do, bình đẳng thì không còn con
đường nào khác là phải tự đứng lên giành lấy độc lập tự do, phải “đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”. Người nói “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền tự do, quyền hạnh phúc”.
Quyền dân tộc thực chất là quyền con người mở rộng – quyền của cộng
động người. Quyền con người phải thống nhất với quyền dân tộc, không được
tách rời hoặc đi ngược với quyền dân tộc.
- Thứ hai: độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn. Các dân
tộc có quyền lựa chọn chế độ xã hội và con đường phát triển thích hợp với dân
tộc mình. “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lập!”; "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập”
Hồ Chí Minh nêu lên 2 tiêu chí của độc lập thật sự:
Một là, dân tộc đó phải có quyền quyết định trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Trong đó, trước hết và quan trọng
nhất là độc lập về chính trị. Năm 1948, Pháp lập chính phủ bù nhìn; năm 1949,
Pháp đưa Bảo Đại về làm Quốc trưởng và tuyên bố Việt Nam đã có độc lập, Hồ
Chí Minh đã kịch liệt phản đối thứ độc lập giả hiệu đó.
Hai là, dân tộc đó phải được bình đẳng với các dân tộc khác. Quốc tế không
thể can thiệp vào công việc nội bộ của một nước nếu không có đại diện chân chính
của nước đó tham gia. Người khẳng định nhân dân Việt Nam hoan nghênh mọi sự
giúp đỡ của các nước khác, đồng thời phản đối mọi sự can thiệp thô bạo vào công
việc nội bộ của Việt Nam.
- Thứ ba, Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân
dân.
Độc lập thực sự phải là nền độc lập mà mọi phần tử quốc dân đều được
hưởng thành quả của nó. Trong thư gửi ủy ban hành chính các cấp, Hồ Chí
Minh viết:“Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì”.
Độc lập dân tộc thực sự, hoàn toàn là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí
Minh.Với tinh thần ấy, trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
Hồ Chí Minh kêu gọi: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.. .
- Thứ tư, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính (thầy ơi, đoạn
này em không rõ trong buổi họp tổ, thầy xem giúp em xem phải có nội
dung này không thầy nha, em lấy từ đề cương cũ đưa sang đây nội dung
thứ 4 này thầy ạ)
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh giành và bảo vệ nền
độc lập, chủ quyền quốc gia; đồng thời Người cũng là hiện thân của khát vọng
hòa bình trong độc lập tự do. Trên cơ sở kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc,
Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng về những
giải pháp hòa bình tránh xung đột, tránh chiến tranh.
Với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp Việt - Pháp bằng con đường
hòa bình, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta chủ động ký Hiệp định sơ bộ 6-3, rồi
Người trực tiếp ký Tạm ước 14- 9 với Chính phủ Pháp.
Trong thư gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp ngày 7-1-1947, Hồ
Chí Minh khẳng định nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt Nam là muốn có
hòa bình để kiến thiết quốc gia với sự cộng tác của những người Pháp chân
chính. Người nói, chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận
độc lập và thống nhất của Việt Nam thì ngay lập tức chiến tranh sẽ chấm dứt,
hòa bình sẽ trở lại.
Cũng với tinh thần như vậy, trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Giônxơn
ngày 15-2-1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha
với độc lập, tự do và hòa bình... Chính phủ Mỹ đã gây ra chiến tranh xâm lược
Việt Nam thì con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là Mỹ phải chấm dứt
xâm lược... Phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt
Nam ... phải để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình”.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của chủ nghĩa dân tộc
- Chủ nghĩ Mác – Lênin không có điều kiện nghiên cứu đầy đủ về sức
mạnh và vai trò của chủ nghĩa dân tộc.
- Quốc tế cộng sản do lập trường tả khuynh nên có những quan điểm sai
lầm về chủ nghĩa dân tộc: Coi chủ nghĩa dân tộc là sự xa rời chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, đối lập với chủ nghĩa quốc tế, là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia tư sản
- Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
dân tộc chân chính, coi đó là động lực to lớn mà nếu không dựa vào nó thì sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc không thể thành công.
Năm 1924, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn,
một động lực vĩ đại, duy nhất của người Việt Nam, nước Việt Nam”. Người
cộng sản cần phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc, giương cao ngọn cờ dân tộc trong
cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột thực hiện Chủ nghĩa cộng sản. “Chủ nghĩa
dân tộc chân chính, khác với chủ nghĩa dân tộc tư sản, nó không xa rời, không
đối lập với chủ nghĩa Mác – Lê Nin mà “chủ nghĩa dân tộc sẽ biến thành chủ
nghĩa Quốc tế vô sản”.
Vì sao Chủ nghĩa dân tộc có sức mạnh như vậy? Ở các nước tư bản chủ
nghĩa mâu thuần chủ yếu của xã hội là mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa tư sản
và vô sản…nên động lực của cách mạng là đấu tranh giai cấp. Ở các nước thuộc
địa, mâu thuẫn giữa dân tộc và đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu vì vậy
chỉ có chủ nghĩa dân tộc mới quy tụ được mọi giai cấp và tầng lớp xã hội vào
một mặt trận chung chống đế quốc thực dân… Đó là nguồn gốc sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc.
c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp
- Trong quan hệ dân tộc và giai cấp, cả C.Mác và Ph.Anghen đều nhấn
mạnh tới vấn đề giai cấp, coi giải phóng giai cấp là tiền đề giải phóng dân tộc.
- V.I. Lênin: Đề cao cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên phạm vi toàn
thế giới, đặt Cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng vô sản,
chủ trương ưu tiên cho cách mạng vô sản chính quốc.
- Quốc tế cộng sản tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc,
coi chủ nghĩa dân tộc là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh:
+ Cần phải kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trên cả
bình diện quốc tế cũng như từng quốc gia,
Tùy theo điều kiện từng nước kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp với dân tộc,
song phải dựa trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân.
+ Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm mới là thống nhất lập trường giai cấp
với lập trường dân tộc, thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc.
+ Với các nước thuộc địa thì phải ưu tiên cho giải phóng dân tộc trước,
đặt lợi ích dt lên trên hết, trước hết, lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích dân
tộc. đấu tranh giai cấp phục tùng đấu tranh giải phóng dân tộc.
+ Chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp… và là tiền đề
giải phóng giai cấp.
Cơ sở của vấn đề này là:
Thứ nhất, trước những kẻ áp bức, quyền lợi của những người lao động là
thống nhất, gắn bó với nhau: đó là tự do bình đẳng, hòa bình ấm no hạnh phúc.
Thứ hai, đặt vấn đề dân tộc hay lợi ích dân tộc lên trên hết, theo Hồ Chí
Minh là không mâu thuẫn với việc kết hợp hài hòa giữa hai lợi ích này và cũng
hoàn toàn đúng tinh thần các quan điểm của C. Mác và Ph.Anghen
Thứ ba, ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc và tay sai, nổi trội hơn cả, do đó không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước
rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước phương Tây. Trái lại, chỉ có
giải phóng dân tộc, mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao
hàm một phần của việc giải phóng giai cấp, và là tiền đề của giải phóng giai
cấp. Như vậy, với Hồ Chí Minh quyền lợi dân tộc với quyền lợi giai cấp là
thống nhất, quỳền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ
phận trong dân tộc cũng không thực hiện được.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chỉ có giữ vững độc lập dân tộc
mới có điều kiện xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ trương đấu tranh giành độc lập cho dân tộc mình và độc lập cho
các dân tộc khác. Kiên quyết giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn
trọng độc lập của các dân tộc khác
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo
con đường cách mạng vô sản.

a. Quá trình khảo nghiệm, lựa chọn đường lối giải phóng dân tộc
- Thời kỳ trước 1911, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu kỹ về các phong trào đấu
tranh cứu nước giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần yêu
nước, ý chí đấu tranh đòi độc lập của các nhà yêu nước tiền bối. Song, theo Hồ
Chí Minh, bằng những con đường đó, không thể đi đến thành công được. Hồ
Chí Minh nhận xét: Phan Bội Châu hy vọng vào sự giúp đỡ của đế quốc Nhật để
đánh Pháp là “đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau”; Phan Chu Trinh “xin sỏ
thực dân Pháp rủ lòng thương” cũng không đòi được độc lập dân tộc; cụ Hoàng
Hoa Thám, thực tế hơn hai cụ Phan, song cụ còn “nặng cốt cách phong kiến” vì
vậy cũng không đòi độc lập được.
- Trong thời gian tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu khá
kỹ các cuộc cách mạng tư sản ở Mỹ, Pháp và đi đến kết luận cách mạng tư sản
không triệt để, không giải phóng được nhân dân lao động, cách mạng Việt Nam
không thể đi theo con đường cách mạng tư sản. (Về Cách mạng giải phóng dân
tộc của nhân dân Bắc Mỹ, Hồ Chí Minh: người An Nam cần phải học tập nhân
dân Bắc Mỹ đứng lên giành độc lập. Song, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, cách
mạng Bắc Mỹ thành công đã 150 năm, mà đời sống nhân dân lao động vẫn cực
khổ, vẫn phải lo làm cách mạng lần thứ hai. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, cách
mạng Mỹ là cách mạng tư sản, đã là cách mạng tư sản thì đó là cách mạng
không triệt để, cách mạng không đến nơi. Về cách mạng tư sản Pháp 1789,
giống như cách mạng Mỹ, là cuộc cách mạng không đến nơi, mang danh là
cộng hòa, dân chủ kỳ thực thì trong là bóc lột công nông, ngoài thì áp bức thuộc
địa... cách mạng Việt Nam nên nhớ lấy điều ấy.)
- Cuối 1920, Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin tìm được con
đường cứu nước đúng đắn – con đường của cách mạng vô sản. Người nhận thấy
trong thế giới bây giờ chỉ cách mạng Nga là thành công và thành công đến nơi,
nghĩa là người dân được hưởng tự do, hạnh phúc, bình đẳng thực sự. Cách mạng
Nga đã xóa bỏ xã hội phong kiến, bóc lột đồng thời giúp đỡ các dt thuộc địa giải
phóng mình. Từ đó đi đến kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường của cách mạng vô sản.

b. Quan điểm Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân
tộc Việt Nam
- Chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức.
Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải trở thành
bộ phận của cách mạng thế giới.
- Tính chất của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là cuộc đấu tranh
tự giải phóng theo tinh thần “đem sức ta giải phóng cho ta”
- Mục tiêu của Cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc, thành lập chính quyền của nhân dân.
- Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc là phản đế và phản phong
trong đó phản đế là nhiệm vụ chủ yếu, phản phong phải phục tùng nhiệm vụ
phản đế.
- Cách mạng Việt Nam phải trải qua 2 giai đoạn: Cách mạng giải phóng
dân tộc có tính dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa đất nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Theo Hồ Chí Minh muốn giải phóng dân tộc trước hết cần phải có Đảng
cách mạng, Đảng có vững, cách mạng mới thành công
- Sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam chứng tỏ chúng ta
vừa thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn vừa thiếu một chính Đảng cách
mạng chân chính
- Yêu cầu khách quan, cấp thiết của cách mạng Việt Nam là phải thành
lập được một đảng cách mạng chân chính của giai cấp cách mạng tiên tiến có tổ
chức chặt chẽ, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, có mối liên
hệ mật thiết với quần chúng nhân dân.
- Chỉ có Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam mới có đủ điều kiện lãnh
đạo cách mạng đi đến thành công vì giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến,
cách mạng triệt để, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ.
- Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng thuận lợi cho
quá trình lãnh đạo cách mạng. Thực tế đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời đã nắm giữa độc quyền lãnh đạo cách mạng và đã dẫn dắt cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
(Trong mục này em đặt lại các dấu + để cho rõ ý hơn, thầy xem có được
không thầy nha)
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin: Quần chúng nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử
- Hồ Chí Minh: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, không
có gì lớn mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, có dân là có tất cả.
- Cách mạng là "việc chung của cả dân chúng”, vì vậy lực lượng của
cách mạng giải phóng dân tộc phải là toàn dân tộc.
- Để huy động sức mạnh của toàn dân, phải đánh giá đúng vị trí của các
giai cấp các tầng lớp xã hội:
+ Trong thời đại mới, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất
lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh hoàn toàn đặt niềm tin vào giai cấp công
nhân Việt Nam.
(Trước các ý kiến cho rằng giai cấp công nhân số lượng còn nhỏ bé, trình
độ còn thấp kém, không thể lãnh đạo được, Hồ Chí Minh khẳng định: “lãnh
đạo được cách mạng hay không là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do
số lượng nhiều hay ít”, “Đặc tính của giai cấp công nhân là kiên quyết, triệt để,
tập thể và có tính kỷ luật” và Người kết luận: về mọi mặt chính trị, tư tưởng, tổ
chức, hành động giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo. Để giai cấp công
nhân đảm đương được sứ mệnh của mình, cần không ngừng giáo dục chủ nghĩa
Mác – Lê Nin và tinh thần yêu nước cho họ)
+ Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giai cấp nông dân trong cách
mạng Việt Nam, coi đó là lực lượng to lớn nhất. (họ là lực lượng chiếm đa số,
tiềm tàng nhiều khả năng cách mạng. Vì vậy, “Giải phóng dân tộc thực chất là
giải phóng giai cấp nông dân”, Nếu giai cấp công nhân không “thu phục” được
giai cấp nông dân thì không thể nắm quyền lãnh đạo cách mạngvà không thể
đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi được. Nếu giai cấp công nhân thu phục,
lôi kéo được nông dân thì nông dân sẽ làm xoay chuyển trời đất, bao nhiêu thực
dân cũng bị đánh bại.)
+ Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là “gốc”, là “quân chủ lực của
cách mạng” và sự liên minh của 2 giai cấp này là “nền”, là “gốc”, là “cơ sở” chủ
yếu của mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Đối với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản:
Theo Hồ Chí Minh, tính chất cách mạng nước ta là cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới. Vì vậy, tư sản dân tộc là lực lượng của cách mạng.
Với địa chủ vừa và nhỏ cũng phải lôi kéo hoặc trung lập họ
Chỉ tập trung đánh đại địa chủ phản động và tư sản mại bản có lợi ích gắn
bó với đế quốc thực dân. Chủ nghĩa xã hội
- Kết luận: Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp mọi lực lượng có thể tập
hợp được nhằm mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng, đồng thời
phân hóa kẻ thù, cô lập và tập trung lực lượng đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- C.Mác và Ph. Ăngghen chưa đề cập đến cách mạng giải phóng dân tộc
nhưng cho rằng giải phóng giai cấp là tiền đề giải phóng dân tộc.
- V.I Lênin phát triển các quan điểm của Mác trong điều kiện chủ nghĩa đế
quốc, đã nhận thức rõ hơn về vai trò của thuộc địa đối với sự tồn tại của chủ
nghĩa đế quốc, về quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc.
Tuy nhiên, V.I.Lênin chưa thấy được tính chủ động, sáng tạo của các dân tộc
thuộc địa. Người cho rằng cách mạng thuộc địa phụ thuộc hoàn toàn, trực tiếp
vào cách mạng vô sản ở chính quốc, cách mạng giải phóng dân tộc chỉ thắng
lợi, khi cách mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi. (Thực ra, cả Mác, Ăngghen
và Lênin đều không coi thường vấn đề giải phóng dân tộc, song do các ông
phải tập trung giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh
giai cấp ở châu Âu nên chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu về các phong trào
dân tộc thuộc địa.)
- Quốc tế cộng sản trong những năm 20 - 30, tiếp tục phát triển các quan
điểm của Lênin theo khuynh hướng “tả” khuynh, đặc biệt chú trọng đến cách
mạng chính quốc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc, là hậu bị quân của cách mạng chính quốc, đặt lợi ích của dấu tranh
giải phóng dân tộc dưới lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp. (Đại hội VI Quốc tế
cộng sản - 1928: "Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”)
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về khả năng thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc:
+ Nội dung

Thứ nhất, cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc quan hệ
bình đẳng, phải được coi trọng ngang nhau và phối hợp nhịp nhàng với nhau.
Người viết:
"Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản
chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu
người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô
sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đi lại sẽ mọc ra"
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng
tạo, vì xét về tính chất đây là cuộc đấu tranh tự giải phóng, nên không thể phụ
thuộc máy móc vào cách mạng vô sản chính quốc.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản chính quốc.
Thứ tư, luận điểm này của Hồ Chí Minh đã được cách mạng Việt Nam
chứng minh và làm bùng nổ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Cơ sở khách quan của luận điểm Hồ Chí Minh:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc có sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc là bộ phận của cách mạng thế giới.
Ba là, sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản thuộc địa làm tăng thêm tinh thần
phản kháng và cách mạng của các dân tộc thuộc địa... Hồ Chí Minh: “Người
Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng
người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và
sự đàn áp tàn bạo là những người thày duy nhất của họ... Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét
và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt
giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (T.1, tr.28)
Bốn là, thuộc địa là mắt khâu yếu trong hệ thống chủ nghĩa tư bản thế
giới.
+ Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan điểm của Hồ Chí Minh:

Thứ nhất, luận điểm của Hồ Chí Minh là một sự sáng tạo to lớn, bổ xung
và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về cách mạng thế giới.
Thứ hai, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn làm tăng thêm tính chủ động, sáng
tạo của cách mạng Việt Nam, dẫn đến thắng lợi của cách mạng giải phóng dt ở
Việt Nam và ở nhiều nước trên thế giới.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: việc giành chính quyền bằng
bạo lực cách mạng là tất yếu và phổ biến. Trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, bạo lực được coi là “bà đỡ” cho một xã hội cũ đang thai nghén một xã
hội mới trong lòng. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác chỉ rõ vai trò của bạo lực chỉ là
phương tiện chứ không phải nguyên nhân hay mục đích của cách mạng.
- Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc
không thể thành công triệt để nếu không sử dụng tới bạo lực. Bởi vì ở đây sự
tàn bạo của Chủ nghĩa đế quốc đã đạt tới mức cao nhất, chúng không từ bỏ một
thủ đoạn nào, kể cả việc dìm các phong trào đấu tranh tay không của nhân dân
thuộc địa trong biển máu. Tư tưởng cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh là bạo
lực cách mạng của quần chúng nhân dân cũng khác với tư tưởng khủng bố cá
nhân, tư tưởng say mê bạo lực vũ trang...
- Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là
sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố là lực lượng chính trị của quần chúng và lực
lượng vũ trang nhân dân
- Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó và thống nhất với tư tưởng nhân
đạo và hòa bình. Cơ sở của sự thống nhất này là lòng yêu thương con người, coi
con người là vốn quý nhất và phải ra sức bảo vệ con người.
- Hồ Chí Minh coi chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng và khi
phải tiến hành chiến tranh chính nghĩa, một mặt phải kiên quyết dùng bạo lực
cách mạng với mọi phương tiên có thể có “… Bất kể đàn ông, đàn bà, bất kể
người già người trẻ, không chia đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đồng lòng đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng có gươm thì dùng cuốc, thuỗng,
gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”
- Mặt khác phải tranh thủ mọi khả năng hòa bình đề giải quyết xung đột,
kết thúc chiến tranh, nhằm giảm thiểu hy sinh xương máu cho con người.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

a. Con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội trên cơ sở học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội và quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin . Học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã chỉ rõ lịch sử phát triển của loài
người là một quá trình lịch sử tự nhiên của các phương thức sản xuất nối tiếp
nhau, từ cộng sản nguyên thủy đến chủ nghĩa cộng sản. C.Mác và Ph. Ăngghen
viết: “Đối với chúng ta – chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần
phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực cần phải tuân theo.
Chúng ta coi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi
trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những
tiền đề hiện đang tồn tại” (Mác, Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, ST, 1980, tr.297)
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam để kế thừa các tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh đã luôn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác và không rơi vào
chủ nghĩa giáo điều, máy móc. Xuất phát từ thực tiễn nước ta để tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một luận điểm rất quan trọng: Mỗi
dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội có những nét đặc thù riêng, không thể máy móc
thực hiện như nhau với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống lịch sử , văn hóa
của phương Đông và Việt Nam. Nhờ đó phát hiện những nét khá tương đồng …
với chủ nghĩa xã hội, và đi đến nhận định hết sức mới mẻ và táo bạo: “Chế độ
cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng
không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan tâm hiện nay... Bây giờ hãy xét
những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu
Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu” (T1, tr.33-35).
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện văn hóa , đạo
đức (cách tiếp cận mới) – chủ nghĩa xã hội phải là xã hội tiêu biểu về văn hóa,
đạo đức, phát triển cao về văn hóa đạo đức.

b. Tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội xuất phát từ quy luật vận động, phát triển
khách quan của lịch sử xã hội loài người, từ tính chất và xu thế vận động tất yếu
của thời đại
- Chủ nghĩa xã hội ra đời từ “sự tàn bạo của Chủ nghĩa tư bản”. Chính sự
bóc lột nặng nề của chủ nghĩa thực dân đã bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính
bẩm sinh không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư bản, và đó chính là cơ sở
để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh của mình đối với quốc gia dân tộc,
chờ thời cơ để vùng dậy, thủ tiêu xiềng xích thực dân, thực hiện giải phóng dân
tộc, giải phóng chính họ thoát khỏi bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào, và
đây chính là điều kiện quan trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.“Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị
đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công
cuộc giải phóng nữa thôi” (T1,tr.28)
- Dưới góc độ giải phóng: độc lập dân tộc chỉ mới là cấp độ đầu tiên, đi
lên chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được giai cấp, giải phóng con người.
- Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ
nghia Mác - Lênin để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của nước ta.
- Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam xuất phát từ tương quan
so sánh lực lượng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong cách mạng giải
phóng dân tộc.
c. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Chủ nghĩa Mác – Lênin đưa
ra những đặc trưng cơ bản như:
- Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản xuất.
- Có một nền đại công nghiệp cơ khí, một nền khoa học công nghệ hiện
đại có khả năng cải tạo nông nghiệp.
- Thực hiện sản xuất có kế hoạch
- Phân phối theo lao động, thực hiện công bằng trong lao động và hưởng
thụ.
- Khắc phục sự khác biệt về giai cấp, tiến tới xóa bỏ sự khác biệt giữa
nông thôn với thành thị, lao động trí óc và lao động chân tay, xây dựng một xã
hội thuần nhất về giai cấp.
- Giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nâng cao trình độ văn hóa
của nhân dân tạo điều kiện cho mọi người tận lực phát triển năng lực sẵn có.
- Sau khi đã đạt được những điểm nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì
chức năng chính trị của Nhà nước cũng dần dần tiêu vong...

* Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Sáng tạo của Hồ Chí Minh là xuất phát từ thực tiễn đất nước, Người đã
đưa ra những quan niệm về của chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể, với
những nội dung chủ yếu sau:
- Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người (cộng đồng và cá
nhân). Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mà mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều
hướng tới mục tiêu giải phóng con người, đảm bảo cho con người được phát
triển tự do, toàn diện.
- Chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng bản chất như sau:
Thứ nhất, đó là một chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân là chủ, làm
chủ, mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở nơi dân, có nhà nước của dân, do
dân, vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân.
Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dân giàu nước
mạnh, có khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
Thứ ba, Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn áp bức, bóc lột, bất công
dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện phân phối theo
lao động
Thứ tư, Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo
đức, có hệ thống quan hệ xã hội dân chủ, bính đẳng, công bằng, con người được
giải phóng, phát triển tự do, toàn diện trong sự hài hòa giữa xã hội với tự nhiên.
Thứ năm, Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân
dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đó là một chủ nghĩa
xã hội của dân, do dân, vì dân, là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch
sử nhân loại.
Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội là một quan
niệm hoàn chỉnh, bao quát các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con
người...trong đó nổi bật nhất là quyền làm chủ của nhân dân, và phát huy năng
lực sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân nhằm thực hiện Chủ nghĩa xã hội của
dân, do dân, vì dân dựa trên hệ thống giá trị nền tảng là độc lập, tự do, dân chủ,
bình đẳng, công bằng, đoàn kết, hữu nghị và tôn trọng quyền con người.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ
nghĩa xã hội, Cương lĩnh của Đảng (năm 1991) đã khẳng định những đặc trưng
cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở nước ta: nhân dân lao động làm chủ; có một nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người được giải phóng khỏí áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới. Cương lĩnh sửa đổi (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI- 2011) đưa
thêm đặc trưng: dân giàu nước mạng, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và
có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
d. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam
* Mục tiêu:
- Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội: Độc lập, tự do cho dân tộc,
hạnh phúc cho nhân dân, là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. (Hồ Chí Minh quan niệm
nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm
tính chất xã hội chủ nghĩa của lý luận và chính sách thực tiễn)
- Mục tiêu về các lĩnh vực chủ yếu:
+ Mục tiêu về chính trị của chủ nghĩa xã hội là xây dựng chế độ chính trị
dân chủ, do nhân dân làm chủ, xây dựng nhà nước của dân do dân và vì dân,
quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện và không ngừng phát huy. Dân là
chủ và làm chủ nên phải coi việc nước như việc nhà, phải có trách nhiệm lo toan
gánh vác việc chung, phải tôn trọng pháp luật, bảo vệ của công, không ngừng
học tập nâng cao trình độ mọi mặt để xứng đáng với địa vị người làm chủ.
+ Mục tiêu về kinh tế, “Phải biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên
tiến”. Điều quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh quan tâm đến là vấn đề năng suất
lao động, mà muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tiến hành công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên theo Hồ Chí Minh, công nghiệp hóa có thể được
tiến hành bằng nhiều con đường khác nhau, chứ không nhất thiết là phải bắt đầu
từ sự phát triển công nghiệp nặng.
+ Mục tiêu về văn hóa, theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội phải là một
xã hội cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản về văn hóa và giải phóng con người, văn
hóa phải “soi đường cho quốc dân đi”, phải lấy hạnh phúc của đồng bào, của
dân tộc làm cơ sở. Khi được hỏi bằng nhân tố nào phát triển Chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh trả lời: bằng văn hóa (T10, 392). Phải xây dưng nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa kế thừa truyền thống dân tộc. Văn hóa không phụ thuộc máy móc
vào kinh tế cho nên có thể đi trước một bước để mở đường cho cách mạng
công nghiệp.
+ Mục tiêu về xây dựng con người: muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa phải là con
người có năng lực cách mạng, có lý tưởng và phẩm chất đạo đức cách mạng, có
tinh thần và năng lực làm chủ dám nghĩ, dám nói dám làm…Phải đặt lên hàng
đầu mục tiêu xây dựng con người và giải phóng con người mà trước hết là giải
phóng sức lao động và tiềm năng sáng tạo của con người, phải đặc biệt quan
tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
* Động lực của chủ nghĩa xã hội
- Tất cả các nguồn lực, như: nguồn lực về vốn, khoa học kỹ thuật, con
người... Trong đó nguồn lực con người là bao trùm và quyết định nhất. Vì tất
cả đều phải thông qua con người; nguồn lực này là vô tận, trong đó trí tuệ con
người càng khai thác càng tăng trưởng.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặc biệt chú trọng, phát huy động lực con
người trên cả phương diện cộng đồng và cá nhân:
+ Phát huy sức mạnh cộng đồng, thực hiện đại đoàn kết dân tộc và có
chính sách đúng đắn về giai cấp, dân tộc, tôn giáo…
+ Phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng dân tộc là động lực chủ yếu
để phát triển đất nước. Cần phải:
Thứ nhất, đảm bảo lợi ích của dân, thực hành dân chủ và đặt quyền lợi
của dân lên trên hết.
Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của cá nhân người lao động.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải coi trọng các giải pháp:
1) Các giải pháp tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích vật
chất của người lao động (khoán, khen thưởng, xử phạt về vật chất).
2) Các giải pháp kích thích về chính trị, tinh thần (thi đua, phát huy tinh
thần yêu nước.)
3) Thực hiện công bằng xã hội
Kết luận: Theo Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đoàn kết
toàn dân gắn bó hữu cơ với nhau, là cơ sở là tiền đề của nhau tạo nên động lực
mạnh mẽ nhất trong hệ thống động lực cuả chủ nghĩa xã hội.
- Chú trọng khai thác các nguồn ngoại lực: Hợp tác, đặc biệt là với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, ...
- Đi đôi với động lực cần nhận diện và khắc phục các lực cản của chủ
nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh đã chỉ ra những lực cản chủ yêu nhất:
Thứ nhất là chủ nghĩa cá nhân - căn bệnh “mẹ”, “bệnh gốc”, “kẻ thù hung
ác nhất của chủ nghĩa xã hội” từ đó “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm”.
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo
quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc,
đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh,v.v.”, Người khẳng định:
“Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” (T.9, 291).
Chú ý là Hồ Chí Minh chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng không chống lợi
ích cá nhân. Người chú trọng đảm bảo lợi ích cá nhân chính đáng, song phải
chống chủ nghĩa cá nhân „chỉ vì mình, quê mình mà kết thành phe cánh“, “đó là
những điều rất nguy hại cho chủ nghĩa xã hội ”.
Thứ hai là “Giặc nội xâm”: tham nhũng, lãng phí, quan liêu (bệnh gốc).
Thứ ba là tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết làm giảm sút uy tín và sức
mạnh của Đảng, của cách mạng.
Thứ tư là tệ chủ quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập lý luận, học
tập cái mới.
Việc phát huy động lực, khắc phục được các lực cản trong xây dựng Chủ
nghĩa xã hội phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu quả
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
a. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ

* Quan điểm của Mác - Ăngghen:


Khẳng định giữa chủ nghĩa tư bản - chủ nghĩa cộng sản tất yếu phải có
một thời kỳ quá độ nhằm chuyển xã hội nọ sang xã hội kia. Bản chất thời kỳ
quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng không ngừng trên toàn bộ đời sống xã hội.
Thời kỳ quá độ là một quy luật phổ biến với mọi nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Về thực chất vẫn là thời kỳ cải biến cách mạng không ngừng…
Chú ý: Thời kỳ quá độ mà Mác và Ăngghen đề cập ở đây, chủ yếu là thời
kỳ chuyển biến lên Chủ nghĩa cộng sản ở các nước tư bản phát triển và quá độ ở
đây, chủ yếu là quá độ chính trị.

* Quan điểm của V.I.Lênin:


+ Khẳng định tính chất khó khăn, phức tạp lâu dài của thời kỳ quá độ lên
CNXH – (những cơn đau đẻ kéo dài)
+ Lênin nêu lên hai loại hình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa
xã hội:
Thứ nhất, quá độ trực tiếp: đối với những nước đã qua chủ nghĩa tư bản
phát triển cao (thời kỳ quá độ tương đối ngắn, ít khó khăn trở ngại)
Thứ hai, quá độ gián tiếp:
Đối những nước qua chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình (thời kỳ quá
độ tương đối dài và gặp nhiều khó khăn, trở ngại...)
Đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa có thể quá độ gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội không cần phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, với
hai điều kiện: có Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng và đã giành được chính
quyền; có sự giúp đỡ của những nước tiên tiến đã đi vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc điểm, bản chất, và tính chất
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

* Đặc điểm của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Hồ Chí Minh khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Đặc
điểm “to nhất” của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Đây là đặc điểm cơ bản, bao trùm, chi phối các đặc điểm khác…
của thời kỳ quá độ
- Khó khăn cơ bản: xuất phát điểm thấp kém về kinh tế, xã hội và sự
phá hoại của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước. Vì vậy thời kỳ quá độ
phải kéo dài, đầy khó khăn, phức tạp…
(Thời Hồ Chí Minh, chúng ta xây dựng chủ nghĩa trong điều kiện vừa có
hòa bình vừa có chiến tranh, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.)

* Bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá trình cải biến cách mạng
toàn diện sâu sắc, triệt để toàn bộ đời sống xã hội trong đó trọng tâm là cải biến
nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn hiện đại xã hội chủ nghĩa. Đây
là một cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp trong điều kiện mới, so sánh lực
lượng trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi chúng ta phải áp dụng
toàn diện các hình thức đấu tranh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Mâu thuẫn của thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển cao
của đất nước theo con đường tiến bộ (Chủ nghĩa xã hội) với thực trạng kinh tế 0
xã hội thấp kém, lạc hậu của đất nước cùng với các thế lực cản trở phá hoại sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Biện chứng của mâu thuẫn: cái hôm nay
không phải là lạc hậu thấp kém thì ngày mai sẽ trở thành cái lạc hậu, thấp kém
đòi hỏi phải tiếp tục cải biến...
* Tính chất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình dần dần, khó khăn phức
tạp và lâu dài, vừa phải cải tạo xã hội cũ, vừa xây dựng xã hội mới. (Hồ Chí
Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chất tuần tự, lâu dài của thời kỳ này). Tính chất
phức tạp và khó khăn, lâu dài của thời kỳ quá độ được Hồ Chí Minh lý giải trên
các cơ sở sau:
+ Thứ nhất, đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã
hội, đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn khác nhau và luôn gặp phải
sự chống đối của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
+ Thứ hai, hình thức quá độ gián tiếp từ một nước lạc hậu tiền tư bản chủ
nghĩa trong khi xuất phát điểm kinh tế xã hội của ta rất lạc hậu thấp kém.
+ Thứ ba, xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc hoàn toàn mới mẻ,
chúng ta chưa có kinh nghiệm phải vừa làm vừa học và không thể tránh được
thiếu sót, sai lầm, thậm chí thất bại tạm thời, cục bộ... (Lênin: chúng ta phải trả
học phí cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội)

c. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung, nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
* Nội dung:
- Nội dung tổng quát:
“Tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải một sớm, một chiều cứ muốn là
được…phải thiết thực từng bước vững chắc…chớ đem cái chủ quan thay cho
thực tế. Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Làm cho người nghèo
thì đủ ăn; người đủ ăn trở nên khá, giàu; người khá, giàu thì giàu thêm”.
- Các nội dung cụ thể:
Về chính trị: Nội dung quan trọng nhất là giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Về kinh tế:
+ Tăng gia sản xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, nâng cao năng xuất
lao động trên cơ sở tiến hành công nghệp hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Xác định cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, coi trọng thương nghiệp
+ Phát triển kinh tế nhiều thành phần
+ Thực hiện phân phối theo lao động.
Về văn hóa: Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc,
khoa học, đại chúng.
Về xây dựng quan hệ xã hội: dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con
người
* Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ:
+ Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; Xây dựng
các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
+ Kết hợp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trong đó xây dựng là
chủ yếu và lâu dài.
* Những nhân tố đảm bảo thắng lợi cho nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam gồm:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
+ Phát huy tính tính cực chủ động của các tổ chức quần chúng, tổ chức
chính trị xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
d. Một số nguyên tắc, bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ.

* Những nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:


+ Quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm
của các nước nhưng không được giáo điều, máy móc. Phải giữ vững độc lập dân
tộc, tự chủ, tự cường.
+ Căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng
thực tế của nhân dân để xác định bước đi cho phù hợp.

* Về bước đi cụ thể của thời kỳ quá độ:


Trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chưa nói rõ các bước đi cụ thể, song
tìm hiểu kỹ tư tưởng của Người, chúng ta có thể hình dung ba bước sau:
Thứ nhất: Ưu tiên phát triển nông nghiệp, chúng ta vừa ra khỏi chiến
tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của Đảng không
thực hiện được”(T7, tr. 532), “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế
nói chung thì phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” (T10,
tr.180); phải ưu tiên phát triển nông nghiệp còn bởi vì chúng ta có “thiên thời”
(khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng lao động nông nghiệp). Vì vậy,
“Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ta phải dựa vào nông nghiệp và
phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng” (Bài phát biểu tại hội nghị trung
ương bàn về phát triển công nghiệp, T10, tr.34);
Thứ hai: phát triển tiểu công nghiệp và công nghiệp nhẹ
Thứ ba là phát triển công nghiệp nặng
Người viết: "Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông thôn, bây giời mới có
thành thị...nếu muốn công nghiệp hóa gấp là chủ quan...Ta cho nông nghiệp là
quan trọng và ưu tiên, rồi tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới
đến công nghiệp nặng, 'làm trái với Liên Xô cũng là Mácxít"
- Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước (nhiều chặng đường). Bước
dài, bước ngắn là do hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn
- Phương hướng chung là phải tiến lên dần dần, từ thấp đến cao, đi bước
nào vững chắc bước ấy, phải coi trọng các khâu trung gian, quá độ nhỏ.
- Không ham làm lớn, làm mau, không được chủ quan, nóng vội ‚‘‘đốt
cháy giai đoạn‘‘ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu
cán bộ đảng viên tránh nôn nóng, chủ quan, “đốt cháy giai đoạn” trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Phải kiên nhẫn bắc những nhịp cầu nhỏ và vừa,
phải chọn những giải pháp trung gian và quá độ” (T7, tr.538), “Phải trải qua
nhiều bước, dài, ngắn là tùy hoàn cảnh. Mỗi bước, chớ ham làm mau, ham rầm
rộ. Làm ít mà chắc, đi bước nào, vững bước ấy tiến tới dần dần” (T7, tr.540).

* Về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội

- Trong điều kiện chiến tranh, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng
thời 2 nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng miền Nam; vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa bảo vệ chủ nghĩa xã hội
- Biện pháp cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ gồm:
+ Kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó xây dựng là chủ yếu và lâu dài
+ Thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các
thành phần kinh tế, thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển
+ Phương thức chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội là “đem tài dân, sức
dân, của dân mà làm lợi cho dân”; “đó là chủ nghĩa xã hội nhân dân'', không
phải là chủ nghĩa xã hội Nhà nước“; xây dựng chủ nghĩa xã hội không thể bằng
mệnh lệnh từ trên xuống.
+ Coi trọng vai trò quyết định của biện pháp tổ chức thực hiện và phát
huy nỗ lực chủ quan trong việc thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội. Hồ Chí Minh
chủ trương: chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi,...có như thế kế
hoạch mới hoàn thành tốt được

IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG


GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
- Độc lập dân tộc là giá trị tinh thần, là ước mơ, hoài bão bao đời nay của
dân tộc Việt Nam.
- Độc lập dân tộc tạo ra nguồn sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa
2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện vững chắc để đảm bảo nền độc lập
dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn
- Chủ nghĩa xã hội với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ dẫn đến xoá
bỏ hoàn toàn, tận gốc mọi sự áp bức, bóc lột, bất công về giai cấp, dân tộc.
V. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Giữ vững mục tiêu chủ nghĩa xã hội


2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn
lực, trước hết là nội lực để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5. Đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống,
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1 Trình bày các vấn đề cơ bản về vấn đề dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc,
chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2. Thuyết trình vấn đề: “Mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng nhân đạo hòa
bình với tư tưởng bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh” và “Mối
quan hệ biện chứng giữa vần đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh”
3. Phân tích các luận điểm sáng tạo cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc,
cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4. Thuyết trình: Phân tích con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh lựa chọn cho
dân tộc Việt Nam? Các giai đoạn tiến hành, kết quả trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam, ý nghĩa và liên hệ trong giai đoạn hiện nay? (em bổ sung thêm câu
này thầy ạ. Thầy xem được không ạ)
Chương 4

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢNVIỆT NAM VÀ


NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

Mục tiêu cần đạt được.


- Sinh viên TRÌNH BÀY được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, về nhà nước kiểu mới.
- PHÂN TÍCH được những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực xây
dựng Đảng, xây dựng nhà nước và mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong
xây dựng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- BIẾT VẬN DỤNG để có thể tham gia công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
1. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Trương Minh Dục, Hồ Chí Minh bàn về đảng cầm quyền qua cuốn
sách “Sửa đổi lối làm việc”, Lịch sử Đảng, số 5, 1992.
3. Phạm Văn Đồng, Một số vấn đề về Nhà nước, Nxb ST, Hà Nội, 1980.
4. Nguyễn Duy Quý, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện nay, Triết học, số
10, 2002.
5. Đoàn Trọng tuyến, Quán triệt những quan điểm cơ bản về nhà nước
vào việc cải cách nền hành chính nhà nước, Quản lý Nhà nước, số 4, 1995.
6. Nguyễn Ngọc Thanh, Về xây dựng một chính phủ - điện tử ở Việt Nam,
Giáo dục lý luận, số 1, 2003.

NỘI DUNG

I . TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam (trong mục này, em thấy cần làm rõ hơn
vai trò của Đảng theo tthcm, có vai trò về lý luận và thực tiễn. Trong vai
trò của Đảng về lý luận, em thấy HCM có nhắc đến có Đảng trước khi cách
mạng thành công cần làm gì, và sau khi thành công vẫn cần có Đảng lãnh
đạo. Trong thực tiễn, vai trò của Đảng thể hiện trong việc lãnh đạo cách
mạng Việt Nam dành thắng lợi từ 1930 đến nay. Cho nên trong mục này,
em nghĩ có thể phân thành các ý nhỏ như này được không ạ. Thầy xem
giúp em với nha Thầy).
* Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là đội tiên
phong chiến đấu của giai cấp công nhân và là nhân tố quyết định đối với quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
* Vai trò của Đảng về mặt lý luận, theo Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ:
- Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều chính đảng,
nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổi ra ở khắp nơi, song đều thất bại,
nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một chính đảng có bản chất cách mạng triệt để,
thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn.
- Khi có Đảng, để cách mạng thành công Đảng tập hợp, tổ chức, giáo dục,
lãnh đạo quần chúng tham gia cách mạng:
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh đó chỉ có
được khi quần chúng nhân dân được tổ chức lại, và có một đường lối lãnh đạo
đúng đắn. Vì vậy yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một
chính cách mạng chân chính.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “Cách
mệnh trước hết phải có cái gì?’’ và Người khẳng định cách mạng “Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tôc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy ‘’ (T2,
267 - 268)
+ Sự ra đời, tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa đáp ứng yêu cầu
cấp thiết của cách mạng Việt Nam vừa phù hợp với quy luật vận động, phát
triển của xã hội Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là đội ngũ
tiên phong là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của cả nhân dân, có khả năng lôi
kéo, tập hợp các tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng.
- Sau khi cách mạng thành công, vẫn cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Bởi vì:
+ Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước
và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.
+ Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng
vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động đến
thắng lợi cuối cùng” (tập 8, tr.273-274, 2011)
* Vai trò của Đảng trong thực tiễn, theo Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ:
Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, ngoài ra Đảng không có mục đích nào khác. Trước
những sai lầm, Đảng đều phát hiện sớm và kịp thời sửa chữa với một thái độ
kiên quyết nhất. Nhờ vậy, Đảng đã trở thành nhân tố quyết định hàng đầu mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ 1930 đến nay.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp lí luận Chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. (Trong mục này em chưa thấy nói đến phong trào công nhân ở Việt
Nam, theo thầy mình có nên bổ sung ý đó không ạ?)
- Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin khái quát quy luật hình
thành và phát triển các Đảng Cộng sản là do sự kết hợp phong trào công nhân
với lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh phát hiện ra quy luật đặc thù sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự kết hợp lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công
nhân và phong trào yêu nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vẫn tuân theo quy luật phổ biến sự hình
thành Đảng Cộng sản trên thế giới đồng thời có thêm một yếu tố đặc thù là
phong trào yêu nước
- Cơ sở khách quan dẫn đến quy luật đặc thù sự hình thành Đảng Cộng
sản Việt Nam:
+ Yêu nước là cái trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam là yếu tố có
trước và là một phong trào thực sự to lớn, thúc đẩy phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân, nhất là khi giai cấp công nhân mới ra đời
+ Phong trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc; quyền lợi giai cấp công nhân và quyền lợi của toàn thể dân
tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước trên lập trường giai
cấp công nhân, và chỉ có kết hợp với phong trào yêu nước của dân tộc, giai cấp
công nhân mới có thể đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
+ Phong trào công nhân và phong trào yêu nước đều có yêu cầu khách
quan là kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Ở Việt Nam phong trào yêu nước của tầng lớp trí thức phát triển rất sôi
nổi và chính bộ phận trí thức yêu nước tiên tiến là những người đầu tiên tiếp thu
được Chủ nghĩa Mác - Lênin và họ đã ra sức hoạt động thúc đẩy sự kết hợp giữa
Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đẫn
đến sự xuất hiện những tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và trên cở sở đó
thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vừa
quán triệt một cách sâu sắc học thuyết Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng
sản, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nó có ý nghĩa quan trọng đối
với cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng có ý nghĩa to lớn đối với các nước có
hoàn cảnh tương tự như Việt Nam.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là đảng của giai
cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân (Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa
đặt ra vấn đề Đảng Cộng sản có phải là đảng của dân tộc hay không)
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Thứ nhất, Hồ Chí Minh phải xây dựng một Đảng Cộng sản vững mạnh
trong điều kiện một nước thuộc địa lạc hậu, nơi mà giai cấp công nhân còn rất
non trẻ và nhỏ bé
+ Với Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết là Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, trước sau như một.
- Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chiến đấu và là tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin – hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động.
+ Đảng Cộng sản được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dựa trên
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
+ Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.
+ Thứ hai, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Do lợi ích của
giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động, của cả dân tộc Việt
Nam chỉ có thể được đảm bảo khi toàn thể dân tộc đoàn kết dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Như vậy, cần phải xây dựng một Đảng Cộng sản vừa là Đảng của giai cấp
vừa là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của
Đảng, Hồ Chí Minh: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân
và của nhân dân lao động và dân tộc là một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam
là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là đảng
của dân tộc Việt Nam“ (T6, 175)
Như vậy, cần phải xây dựng một Đảng Cộng sản vừa là Đảng của giai
cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân lao động, của cả dân tộc. Đây là luận
điểm sáng tạo giúp cho Hồ Chí Minh xây dựng thành công một Đảng Cộng sản
vững mạnh cho dù giai cấp công nhân rất nhỏ bé và non trẻ.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh:
+ Về lý luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân là thống nhất,
lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của các tầng lớp nhân dân
lao động, vì vậy, Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của nhân
dân lao động, của toàn thể dân tộc
+ Về thực tiễn, nếu Đảng Cộng sản chỉ là Đảng của giai cấp công nhân
thì cơ sở xã hội của Đảng sẽ hạn chế, Đảng không thể quy tụ được toàn bộ
những người ưu tu nhất, giác ngộ cách mạng nhất trong dân tộc, ngược lại nếu
Đảng Cộng sản vừa là Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân
lao động và cả dân tộc thì cơ sở xã hội của Đảng sẽ rộng mở, Đảng sẽ được các
tầng lớp nhân dân coi như Đảng của chính mình, nhân dân sẽ bảo vệ Đảng, ủng
hộ và tham gia xây dựng Đảng, Đảng sẽ lớn mạnh không ngừng
- Ý nghĩa: luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng có ý nghĩa
to lớn. Về lý luận, đó là một luận điểm mới, sáng tạo về xây dựng Đảng, góp
phần bổ xung, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Về mặt thực tiễn, nó có ý nghĩa chỉ đạo quá trình xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhờ đó Đảng đã lớn mạnh không ngừng và dẫn dắt cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm
quyền
- Đảng cầm quyền là Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công
giành được chính quyền và trở thành lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
- Đảng cầm quyền nhưng bản chất, mục đích, lý tưởng của Đảng vẫn
không thay đổi.
- Đảng cầm quyền là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền cách mạng. Vị
trí của Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, của dân tộc.
Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh dân tộc.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân. Hồ Chí Minh căn dặn: ‘’Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch,
phải xưng đáng là người lãnh đạo là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân’’ (T12, 510)
+ Với tư cách là người lãnh đạo, Đảng phải có trí tuệ, tầm nhìn xa, trông
rộng, có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, thể hiện vai trò tiên phong
cả về lý luận và hành động thực tiễn, biết giáo dục, thuyết phục quần chúng
nhân dân.
+ Với tư cách là người đầy tớ (người phục vụ), Đảng phải tận tâm, tận lực
phục vụ nhân dân, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân
+ Theo Hồ Chí Minh làm lãnh đạo và làm đầy tớ thống nhất với nhau
theo tinh thần “lãnh đạo tốt là đầy tớ tốt”
- Đảng cầm quyền, nhưng dân là chủ, dân làm chủ, điều đó đòi hỏi Đảng
phải làm tốt những yêu cầu sau:
+ Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối liên hệ máu thịt với
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân
+ Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân,
vì dân, cán bộ công chức Nhà nước là công bộc của nhân dân
+ Đảng phải tôn trong và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phải tích
cực nâng cao dân trí vì nó gắn liền với việc thực hành dân chủ và là cơ sở của
Đảng trí
+ Đảng phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân nhưng không
được theo đuôi quần chúng (quần chúng nhân dân gồm nhiều bộ phận: tích cực,
trung gian, lừng khừng, lạc hậu, chậm tiến và có lúc không được tổ chức, hành
động tự phát, bị kích động, lợi dụng...)
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sạch vững mạnh
a. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mới
- Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khi
viết và nói về vấn đề này, người ta thường sử dụng các cụm từ “việc chính’’,
“việc cần kíp’’, “việc phải làm ngay’’, “trước tiên’’, “trước hết’’...
- Hồ Chí Minh quan niệm những khuyết điểm, thiếu sót trong Đảng là
việc bình thường. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng không phải là giải pháp tình thế mà là
một công việc thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Đảng.
(Người quan niệm, Đảng là một bộ phận của xã hội, những thiếu sót
khuyết điểm của xã hội đều ít nhiều thể hiện trong Đảng, hơn nữa những thiếu
sót trong Đảng còn là những thiếu sót của những người đi tiên phong khai phá)
- Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu thường xuyên, vừa cấp bách
vừa lâu dài, bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của các giai đoạn cách
mạng khác nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Trong các trường hợp sau đây thì chỉnh đốn Đảng mang tính cấp bách:
+ Khi Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm hoặc gặp khó khăn (giúp cán bộ, đảng
viên củng cố lập trường, quan điểm, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan giao
động).
+ Khi cách mạng trên đà thắng lợi (giúp xây dựng những quan điểm tư
tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngùa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và bệnh
“kiêu ngạo cộng sản’’, công thần, địa vị.)
+ Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới có tính bước ngoặt. (giúp
Đảng nâng cao tầm
lãnh đạo cả về chính trị, chuyên môn đảm bảo cho Đảng có được những
phẩm chất và năng lực lãnh đạo mới... đảm bảo cho Đảng luôn giữ được vai trò
tiên phong)
- Mục đích đổi mới, chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng luôn trong sạch,
giữ vững vai trò tiên phong của giai cấp, của dân tộc đồng thời là cơ hội để mỗi
cán bộ đảng viên tăng cường tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng lý tưởng, phẩm
chất đạo đức cách mạng hoàn thành các nhiệm vụ được giao phó.
(Hồ Chí Minh:“Để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ
xứng đáng là người đày tớ của nhân dân’’ (T7, 200), ‘’Để làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn trách nhiệm Đảng giao phó
cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân’’- nếu buông lỏng công tác chỉnh
đốn Đảng thì rất rễ làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất)
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng đứng trước nguy cơ của chủ
nghĩa quan liêu xa rời quần chúng vì vậy, việc đổi mới chỉnh đốn Đảng càng có
ý nghĩa quan trọng và càng cần phải tiến hành thường xuyên. Việc đổi mới
chỉnh đốn Đảng càng có ý nghĩa quan trọng và càng cân phải tiến hành thường
xuyên bởi quyền lực có tính hai mặt: quyền lực nếu được sử dụng đúng đắn có
sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; ngược lại nếu bị
thoái hóa biến chất thì sẽ có tác hại ghê ghớm thậm chí có thể làm sụp đổ cả chế
độ xã hội. Để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ biến chất quyền lực thì cần phải
thường xuyên Chỉnh đốn, đổi mới Đảng.
(Quy trình chỉnh đốn Đảng là phải làm từ cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn
chi bộ, chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức, phải làm từng bước,
có trọng tâm, kế hoạch phải rõ ràng chu đáo.)
b. Đảng là đạo đức, là văn minh
* Một đảng văn minh:
- Một Đảng văn minh là đảng được xây dựng dựa trên tư tưởng, lý luận
khoa học, nhân văn cao đẹp.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng thì phải có đảng, đảng phải có
chủ nghĩa “làm cốt” – nền tảng tư tưởng, để thống nhất tư tưởng, ý chí và hành
động của toàn Đảng, để có cơ sở lý luận khoa học xây dựng đường lối, chủ
trương chính sách đúng đắn trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt vì
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là học thuyết chân
chính nhất, cách mạng nhất trong thời đại hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin còn
là học thuyết khoa học để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. (Trong cuốn đường
cách mệnh, Người viết: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”,“Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ nam’’ và
Người khẳng định:“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin’’
(T2, 268)
- Khi khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Toàn Đảng phải ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin. Việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với đối
tượng và thiết thực.
+ Khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải sáng tạo, tránh giáo điều,
đồng thời cũng phải tránh xa rời các nguyên tắc của hủ nghĩa Mác - Lênin, đấu
tranh chống các khuynh hướng cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin và các tư
tưởng phản động khác.
+ Đảng cần chú ý tổng kết kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản các nước
anh em và thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm phong phú thêm kho tàng lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải kiên quyết đấu tranh bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Một Đảng chân chính phải có đạo đức cách mạng
+ Một Đảng chân chính phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức không chỉ
tạo nên uy tín, sức mạnh cho Đảng mà còn giúp cho Đảng có đủ tư cách lãnh
đạo nân dân.
+ Đạo đức cách mạng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân – đạo
đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu
+ Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ dẩng viên là một nội dung
quan trọng của công tác xây dựng Đảng, bởi Đảng cũng phải lấy Đức làm gốc
và bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch vững mạnh. Người nói “Một dân tộc, một
Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (T.12, 557)
+ Đảng cũng phải lấy Đức làm gốc để bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch
vững mạnh làm tròn vai trò tiên phong đối với giai cấp và dân tộc

c. Những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng


- Xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, xây
dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, bảo
vệ chính trị trong đó xây dựng đường lối chính trị đúng đắn là vấn đề sinh tử đối
với ự tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng có thể phạm phải sai lầm, khuyết
điểm, nhưng tuyệt đối không được sai lầm về đường lối chính trị.
- Xây dựng Đảng về tổ chức phải tuân theo các nguyên tắc của một chính
đảng vô sản kiểu mới theo tư tưởng của Lênin:
+ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản và quan
trọng nhất của Đảng. nhằm làm cho “Đảng tuy đông người nhưng tiến hành chỉ
như một người’’. Với Hồ Chí Minh, tập trung có nghĩa là thiểu số phục tùng đa
số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên phục tùng vô điều kiện nghị quyết
của Đảng. Dân chủ nghĩa là mọi người được tự do trình bày ý kiến của mình,
tranh luận với các ý kiến của người khác. Nhưng phải tránh dân chủ hình thức,
dân chủ quá trớn hoặc tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cần phải có tập thể lãnh đạo vì,
theo Hồ Chí Minh, một người dù tài giỏi cũng không thấy và cũng không thể
xem xét tất cả các mặt của vấn đề, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người
thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt khác, góp kinh nghiệm và sự xem xét của
nhiều người thì thấy rõ tất cả các mặt của vấn đề. Hồ Chí Minh kết luận: “Lãnh
đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là
hỏng việc’’ (T5, 504)
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau. Cần
phải có cá nhân phụ trách vì sau khi đã bàn bạc kỹ rồi thì cần phải giao cho một
hoặc một số ít người phụ trách, tránh tình trạng đùn đẩy và kết quả là không ai
làm. Để tránh họp hành tràn lan, Hồ Chí Minh yêu cầu đối với những việc bình
thường một người cũng có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cần phải tự
quyết định. (Hồ Chí Minh thường sử dụng 2 câu thành ngũ: “Khôn bày hơn
khôn độc’’, “Nhiều sãi không ai đóng của chùa’’ để nói về vấn đề này)
+ Phê bình và tự phê bình: Phải thực hiện nguyên tắc này vì “mọi người
đều có thiện - ác ở trong lòng’’, “không ai tránh khỏi khuyết điểm’’, nên
“Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình’’
Người viết: “Mỗi người đều có thiện ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng’’
Mục đích của phê và tự phê bình là để tăng cường tình đoàn kết trong
Đảng và giúp nhau cùng tến bộ. Thái độ phê và tự phê bình phải thành khẩn,
trung thực, kiên quyết và có văn hóa.
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ ý thức
kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong đó kỷ luật nghiêm minh thuộc về tổ chức
Đảng, kỷ luật tự giác thuộc về đảng viên. Đảng viên không chỉ chấp hành
nghiêm minh và tự giác kỷ luật của Đảng mà còn phải gương mẫu chấp hành kỷ
luật của nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể nhân dân.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng: đây là nguyên tắc Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng bởi vì đoàn kết thống nhất trong Đảng là cội nguồn sức mạnh của
Đảng đồng thời là cơ sở xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và trực tiếp là đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng. Hồ Chí
Minh yêu cầu toàn Đảng phải ra sức giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”, Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi
trong nội bộ Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình và tu dưỡng đạo đức
cách mạng là cách tốt nhất để tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
d. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
+ Theo Hồ Chí Minh cán bộ là dây truyền của bộ máy, là cầu nối trung
gian giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, mọi việc thành hay bại là do cán bộ tốt
hay kém. Cán bộ phải có đủ đức, tài trong đó đức là gốc. Công tác cán bộ là
công tác “gốc” của Đảng.
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
Người coi cán bộ là “Cái gốc của mọi công việc’’, ‘’Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém’’
+ Nội dung của công tác cán bộ bao hàm: tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; Đánh giá đúng cán bộ; sử dung, bố trí đúng cán bộ (dụng nhân như
dụng mộc); thực hiện đầy đủ chính sách đối với cán bộ.
Tuy nhiên, các cán bộ của Đảng khi cầm quyền thường dễ dẫn đến hiện
tượng lợi dụng, lạm dụng quyền lực để tham ô, hối lộ hách dịch, ức hiếp quần
chúng, khiến nhân dân oán ghét. Vì vậy, trước lúc đi xa Hồ Chí Minh căn dặn:
+ Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ:
1. Có đạo đức cách mạng.
2. Tuyệt đối trung thành với Đảng.
3. Có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi.
4. Luôn học hỏi cả về lý luận MLN lẫn nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
5. Có tác phong công tác tốt, chống chủ quan, quan liêu, đại khái, ham
chuộng hình thức phô trương, không chịu xuống địa phương
+ Công tác cán bộ cần:
1. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ.
2. Phải khéo dùng cán bộ. Người dạy: “Chúng ta phải nhớ rằng: người
đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, ta phải dùng chõ hay của người và giúp người
chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được’’.
3. Biết kết hợp dùng cán bộ trẻ với cán bộ già.
4. Phải chiêu hiền đãi sĩ, cầu người hiền tài, có gan cất nhắc cán bộ.
5. Phải chống bệnh địa phương, cục bộ phe phái, cánh hẩu, họ hàng trong
chính sách cán bộ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1 Nhà nước dân chủ

a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ


* Khái quát chung về dân chủ
- Dân chủ là vấn đề phức tạp và ngày nay được tiếp cận trên nhiều
phương diện khác nhau:
+ Dân chủ là quyền lực và ý chí của nhân dân thông qua các thiết chế dân
chủ của nhà nước và xã hội
+ Dân chủ là chế độ nhà nước – chế độ dân chủ
+ Dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt động của các tổ chức chính trị xã
hội
+ Dân chủ là thành quả của đấu tranh giai cấp, đấu tranh và tiến bộ xã hội
+ Dân chủ là nguyên tắc quan hệ giữa các công dân trên cơ sở tôn trọng
lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật
- Dân chủ và tự do là hai khái niệm gắn liên với nhau, cái này có trong cái
kia. Tự do là khát vọng bẩm sinh của con người; nhưng dc thì phải được dạy,
được thực hành mới dần có được. Muốn “phát triển tự do cho mỗi người để đảm
bảo tự do cho mọi người” thì phải có phương tiện (cơ chế, thể chế…) thực hiện
các quyền tự do ấy chính là dân chủ.
- Dân chủ thể hiện:
+ Đảm bảo quyền của con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó quan trọng nhất là thực hiện dân chủ
trong lĩnh vực chính trị.
+ Xây dựng phương thức tổ chức xã hội trên tinh thần: “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”, “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, hệ thống chính trị là do
“dân cử ra”, “dân tổ chức nên”.

* Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ:


- Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người, và mục tiêu của cách
mạng là phải giành lấy dân chủ cho nhân dân
- Chủ nghĩa xã hội là chế độ dân chủ, dân chủ là bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Đó là xã hội mà dân là chủ, dân làm chủ. Dân là chủ - Nhân dân phải giữ
địa vị cao nhất của xã hội và của quyền lực nhà nước; trong xã hội; dân làm
chủ, mọi quyền hành lực lượng đều ở dân. (Dân muốn là chủ phải hiểu biết về
quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phải chịu khó học hỏi để có kiến thức tham gia
làm chủ, phải dũng cảm cùng với Đảng và Nhà nước đấu tranh chống những
hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.)
Trong bài báo Dân vận, viết năm 1949, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.. .
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (T 5, 698)

- Dân chủ là giá trị chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại, là lý
tưởng phấn đấu của các dân tộc. Dân chủ và bình đẳng là nguyên tắc hoạt động
của các tổ chức quốc tế
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
- Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc thực hành dân chủ, bởi thực
chất của vấn đề dân chủ là thực hành dân chủ và đây là vấn đề khó nhất của lĩnh
vực dân chủ.
- Dân chủ cần được thực hành trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... trong đó dân chủ trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất vì nó
là biểu hiện tập trung của thiết chế dân chủ và hiệu quả hoạt động nhà nước.
- Biện pháp cơ bản để thực hành dân chủ :
+ Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi mà trước hết là phải
mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng, làm cơ sở cho việc mở rộng dân chủ ngoài
xã hộ.
+ Xây dựng nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực thi
quyền lực của dân
+ Xây dựng các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh, thật sự là tổ chức
thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của nhà nước
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, nhà nước là một phạm trù lịch
sử. Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nhà nước luôn
mang bản chất giai cấp, không có nhà nước phi giai cấp hay nhà nước chung
của tất cả giai cấp.
- Quan điểm Hồ Chí Minh:
+ Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp công
nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước ta thể hiện:
Thứ nhất, Nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản
dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân (tập trung dân chủ, Đảng lãnh đạo,
thống nhất quyền lực...)
Thứ ba, hoạt động tổ chức, quản lý của Nhà nước hướng đến mục tiêu
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thống nhất với tính nhân
dân, tính dân tộc. Đó là nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc. Nói nhà nước ta
là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, không phải là nhà nước “toàn dân”, nhà
nước phi giai cấp, mà là nói tới tính chất dân chủ nhân dân của nhà nước. Nhà
nước đó xét về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp công nhân, nhưng xét về
đại diện và bảo vệ lợi ích thì đó là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, dựa trên
cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề:
+ Về lý luận, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân tộc là thống
nhất, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân
lao động, vì vậy nhà nước của giai cấp công nhân cũng đồng thời là nhà nước có
tính dân tộc, “nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
+ Về thực tiễn, nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của toàn dân tộc với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng. Nhà
nước ta luôn bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và
từ khi ra đời cho đến nay Nhà nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử với
dân tộc là tổ chức, lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi,
giải phóng hoàn toàn đất nước, giữ vững độc lập dân tộc, đưa cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự phát triển tiến bộ của thế giới..
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
* Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu mới
ở Việt Nam.
- Thứ nhất, thời kỳ từ 1911 trở về trước, tư tưởng xây dựng một nhà nước
trọng dân, thân dân, khoan dân, dựa vào dân của nền văn hóa chính trị phương
Đông đã được Hồ Chí Minh lĩnh hội và coi đó như hành trang trên con đường
tìm đường cứu nước
- Thứ hai, từ năm 1911 -1920, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu về
các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, cũng như các hình thức tổ chức nhà nước
của nó. Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhà nước của giai cấp tư sản: Người
đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái của cách mạng Pháp, tư tưởng đề
cao quyền lực tối cao của nhân dân trong cách mạng Mỹ, nhưng nhận rõ hạn
chế cơ bản của nhà nước tư sả – đó vẫn là nhà nước của giai cấp bóc lột, vẫn áp
bức, bóc lột nhân dân lao động. Hồ Chí Minh khẳng định rằng sau khi cách
mạng thành công, phải thiết lập một chính quyền của số đông người: “Chúng ta
đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh
rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”.
- Thứ ba, một bước tiến của Hồ Chí Minh là sau khi giác ngộ chủ nghĩa
Mác – Lênin là Người chọn kiểu nhà nước công nông binh (nhà nước xô viết) là
hình thức Nhà nước đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Trong Chính cương vắn
tắt của Đảng, Người viết: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến;
làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập và dựng ra chính phủ công nông binh”
(T3,1)
- Thứ tư, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn
phong trào cách mạng Việt Nam (xô viết Nghệ Tĩnh) nhận thấy, nhà nước xô
viết không thích hợp lắm với Việt Nam và đi đến lựa chọn xây dựng một nhà
nước dân chủ nhân dân ở nước ta - Nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc:
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
* Quan niệm về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là chủ
trương xây dựng một nhà nước do Nnhân dân lao động làm chủ... Đây cũng là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh so với quan điểm của các nhà kinh điển Mác -
Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất để phân biệt nhà nước ta với nhà nước trước
đó.
- Nhà nước của dân:
+ Là nhà nước mà tất cả mọi quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một con Rồng cháu Tiên, bất kỳ
già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo... đều phải ghé vai gánh vác một
phần.
+ Dân là chủ nhà nước, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.... Quyền
bính của cán bộ, công chức nhà nước là do dân ủy nhiệm, giao phó.
+ Dân có quyền bầu (ủy nhiệm) và bãi miễn người thay mặt mình vào
Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước; kiểm soát các công việc của NN;
giám sát hoạt động của các đại biểu do mình bầu ra thông qua các thiết chế dân
chủ.
- Nhà nước do dân:
+ Nhà nước do dân lập ra - Dân cử ra các đại diện của mình tham gia
quản lý nhà nước và xã hội;
+ Nhà nước do dân xây dựng, ủng hộ và bảo vệ; nhà nước được dân phê
bình, giám sát, tạo điều kiện để nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải lắng nghe ý kiến nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân có
quyền bãi miễn các cơ quan nhà nước nếu tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm
của dân: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" (T5,
60)
- Nhà nước vì dân:
+ Mọi hoạt động của nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc
phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi chonhân dân là mục tiêu cơ bản của nhà
nước ta.
+ Mọi công chức nhà nước từ Chủ tịch nước trở xuống đều là công bộc
(người phục vụ chung của xã hội) của dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức
làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính
dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (T4, 56).
+ Chính quyền các cấp phải chăm lo cho dân từ việc lớn đến việc nhỏ,
các cơ quan nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân: Nếu để cho dân đói,
chính phủ có lỗi, nếu để cho dân giét, chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không
được học hành, chính phủ có lỗi... “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”
+ Cán bộ nhà nước là người phục vụ, đồng thời còn là người lãnh đạo,
người hướng dẫn của nhân dân, phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền

* Xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp


- Nhà nước hợp hiến là nhà nước do nhân dân lập ra, nhà nước có hiến
pháp và hệ thống pháp luật, hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật.
- Ngay sau khi cách mạng thành công, cần sớm tiến hành tổng tuyển cử
để lập ra nhà nước hợp hiến, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực
nhà nước.
- Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng pháp luật và
yêu cầu tất cả các cơ quan, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành
đúng luật pháp.

* Nhà nước thượng tôn pháp luật


- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, phải làm cho pháp luật có hiệu
lực mạnh mẽ trong thực tế đời sống xã hội, các cơ quan, công chức nhà nước
phải gương mẫu chấp hành đúng luật pháp.
- Hồ Chí Minh cho rằng soạn thảo pháp luật đã khó, song khó hơn là đưa
nó vào cuộc sống để mọi người cùng hiểu đúng, làm đúng. (Hồ Chí Minh là tầm
gương mẫu mực của việc chấp hành pháp luật như việc chấp hành nghị quyết
của Quốc tế cộng sản, nghị quyết của BCH TW Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 10/ 1930, việc Hồ Chí Minh phát động phong trào hũ gạo cứu đói năm
1945, việc Hồ Chí Minh bỏ thuốc lá khi bộ chính trị yêu cầu (tháng 3/1965),
việc Hồ Chí Minh đòi tiền nhuận bút khi một tờ báo quên trả...Với Hồ Chí Minh
đã là quy định chung, là luật pháp, thì mọi người, mọi cấp đều phải chấp hành.
- Nhà nước phải quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp
luật có hiệu lực mạnh mẽ trong thực tế đời sống XH, trong các cơ quan NN và
ND.
- Dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau. Không có dân chủ ngoài
pháp luật, mọi quyền dân chủ phải được thể chế hóa thành pháp luật, bảo đảm
bằng pháp luật.
Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở thừa nhận và bảo vệ quyền con
người, trước hết là quyền tự do dân chủ.
Người viết: "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạngtiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo
nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội" (T9, 592). "Chế độ nào cũng có chuyên
chính. Vấn đề là chuyên chính với ai?...Như cái hòm đựng của cải thì phải có
khóa. Nhà thì phải có cửa...dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên
chính là cái khóa, cải cửa để đề phòng kẻ phá hoại...Thế thì dân chủ cũng cần
phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ" (T8, 279)

* Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền:
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật (hệ thống pháp luật đầy đủ và phù hợp
với đời sống xã hội)
+ Ra sức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân
+ Xây dựng cơ chế kiểm tra giám sát hữu hiệu, đảm bảo cho pháp luật thi
hành nghiêm minh trong cán bộ và nhân dân
+ Tích cực nâng cao dân trí, nâng cao văn hóa chính trị, làm cho người
dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nghĩ, dám nói,
dám làm, dám phê bình các cơ quan nhà nước.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có đủ đức tài với những
phẩm chất cơ bản:
Trung thành với cách mạng và tổ quốc; nhiệt tình, thành thạo công việc
hành chính, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ;
Dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, liên hệ mật thiết
với nhân dân, tự phê binh và phê bình, có ý thức xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
* Pháp quyền nhân nghĩa
- Với Hồ Chí Minh, pháp luật là vì con người, do con người vì vậy trong
xây dựng hệ thống pháp luật, cần phải đặc biệt chú trọng tính nhân văn, đảm
bảo việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công việc
trên cơ sở có lý, có tình.
- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực đầy đủ các quyền con người,
chăm lo đến lợi ích của mọi người. Đó là quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc.
- Đó là quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Đó là
quyền của các nhóm người như phụ nữ, trẻ em, dân tộc thiểu số, tín ngưỡng tôn
giáo…
- Pháp quyền nhân nghĩa thể hiện pháp luật có tính nhân văn, khuyến
thiện, lấy mục đích giáo dục, cảm hoá, thức tỉnh con người làm căn bản.
- Đó là pháp luật vì con người, nghiêm minh nhưng khách quan, công
bằng và chống lại việc đối xử với con người một cách dã man.

c. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh

* Kiểm soát quyền lực nhà nước


- Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu vì xu hướng tha hóa quyền lực
là khuyết tật bẩm sinh của bộ máy nhà nước.
- Quyền lực nhà nước là do dân ủy thác, nhưng phải làm sao để dân ủy
quyền nhưng không mất quyền. Vì vậy, quyền lực phải được kiểm soát.
- Về phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, theo Hồ Chí Minh
trước hết cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng cộng sản.
+ Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp và dân tộc, là Đảng cầm
quyền nên có quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua
công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của nhà nước và công chức nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước còn dựa trên cách thức tổ chức và
phương thức vận hành của nhà nước (kiểm soát bên trong ).
+ Phải có cơ chế huy động sự kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước
(kiểm soát bên ngoài)
* Phòng chống tiêu cực trong nhà nước
- Hồ Chí Minh là người phát hiện rất sớm những vấn đề tiêu cực trong
quá trình xây dựng nhà nước mới. Phải chống đặc quyền, đặc lợi và các tiêu cực
khác, giữ cho nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh.
Chỉ một tháng sau khi giành được độc lập, trong thủ gửi ủy ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng (10/1945), Người chỉ ra 6 căn bệnh: trái phép, cậy
thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo: "Trái phép: ..có lúc vì tư thù, tư oán mà
bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.
Cậy thế: cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước để ngang tàng, muốn sao
được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân, quên rằng dân bầu ra mình là
để làm việc cho dân chứ không phải để cậy thế với dân.
Hủ hóa: ăn tiêu xa xỉ, thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả
thanh liêm, đạo đức, “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô cậu
ủy viên cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?.
Tư túng: kéo bè kéo cánh, bà con bạn hữu, không tài năng gì cũng kéo
vào chức này chức nọ, người có tài đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra
ngoài. Quên rằng việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
Chia rẽ: bênh lớp này chống lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp
nhân dân nhân nhượng, hòa thuận với nhau.
Kiêu ngạo: tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi, coi
khinh ND, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên.” (T4, 57, 58)
- Bộ máy nhà nước từ trung ương đến làng xã không sợ sai lầm, mà phải
biết nhận ra sai và hết sức sửa chữa. Hồ Chí Mnh viết: “Không sợ sai lầm,
nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm
những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai
đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa
chữa thì chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích
của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình,
chính trực” vào lòng” (T4, 58)
- Phải kiên quyết chống lại tệ đặc quyền, đặc lợi, lợi dụng, lạm dụng
quyền lực để sách nhiễu nhân dân; bệnh tham ô, lãng phí, quan liệu được Hồ
Chí Minh coi như kẻ “giặc nội xâm” phải kiên quyết chống như đánh giặc trên
mặt trận nhằm tránh nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người chỉ
rõ: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến, ...Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí
khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm,
liêm, chính...Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám" (T6, 490);
trong thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu "Phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất lỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp gì". Người đã nhiều lần phê phán:
"Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao
được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu ra mình
để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân: (T4, 57)
- Để chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, phương pháp luận của Hồ
Chí Minh là quy tất cả các quan hệ phức tạp của XH thành mối quan hệ với
mình, với công việc, và với người.
+ Với mình phải cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư, phải tự mình xử lý
chính mình.
+ Với người khác phải biết thương yêu, quý trọng, nhất là phải tin tưởng
vào nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân;
+ Với công việc phải tận tụy, làm đến nơi đến chốn.
- Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh hai nội dung sau:
+ Tăng cường pháp luật: hoàn thiện pháp luật, xử lý mọi sai phạm một
cách nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Điều này phù hợp với yêu
cấu khách quan của NN mới, và là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn: nước ta kinh
tế tiểu nông, người dân chỉ quen sống theo luật tục mà chưa quen sống theo
pháp luật.
+ Tăng cường pháp luật phải đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. đức
(Thực chất là kết hợp đức trị với pháp trị - Nét đặc sắc trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam)
Bởi đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ sung
cho nhau; nước ta có truyền thống đức trị, nhân dân rất coi trọng đạo đức, nhất
là đạo đức của người cầm quyền; kết hợp đức trị với pháp trị là một truyền
thống trong đường lối trị nước ở phương Đông cần được kế thừa, phát huy.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng

- Khẳng định Tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận trong công tác xây
dựng Đảng nhằm giúp Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng và
giúp Đảng ta tổ chức thực hiện tốt chủ trương chính sách đó trong thực tiễn.
- Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tổ chức thực hiện chỉnh đốn
Đảng nhằm giúp Đảng ta luôn trong sạch vững mạnh giữ vững vai trò tiên phong
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước mới có ý
nghĩa rất lớn đối với việc xây dụng nhà nước ta hiện nay. Việc vận dụng tư tưởng
của Người về vấn đề này có thể được xem xét dưới nhiều khía cạnh khac nhau.
Sinh viên có thể khai thác kỹ hơn một số gợi ý sau:
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước do nhân dân
lao động là chủ, làm chủ.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước pháp quyền
thống nhất.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường pháp luật phải đi đôi với
đẩy mạnh giáo dục đạo đức.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô lãng phí, quan liêu
trong xây dựng nhà nước
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề kiểm soát quyền lực trong
xây dựng nhà nước...

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, về
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

2. Phân tích các sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

3. Phân tích các luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam.
4. Thuyết trình mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước
theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chương 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Mục tiêu cần đạt được.
- TRÌNH BÀY được những nội dung cơ bản của tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, vai trò, vị trí và các yêu cầu cụ thể
của việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
- PHÂN TÍCH ĐƯỢC tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh; nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế; vấn
đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?
- Biết VẬN DỤNG trong xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân,
đoàn kết quốc tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
1. Văn tạo, Phát huy sức mạnh của liên minh công nhân, nông dân, trí
thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghiên cứu lịch
sử, số 10, 2005.
2. Vũ Quang Vinh, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản,
Lý luận chính trị, số 7, 2005.
3. Đặng Văn Thái, Vấn đề đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN TOÀN KẾT DÂN TỘC.

1. Khái niệm, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
a. Khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Vị trí của vấn đề đại đoàn kết trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập có đến 839 bài Hồ Chí Minh đề cập
đến vấn đề đại đoàn kết (chiếm tỷ lệ 43,6%). Trong các bài đó, Bác đã 1809 lần
nhắc đến cụm từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”, có bài, cụm từ này được nhắc đến
16 lần (Sửa đổi lề lối làm việc), trong Diễn văn kỷ niệm ngày Quốc khánh
2/9/1957, Người nhắc đến 19 lần... Điều này chứng tỏ vấn đề tập hợp, tổ chức
lực lượng, đoàn kết, đại đoàn kết là một vấn đề hết sức nổi bật, trọng tâm trong
suy nghĩ, hành động của Hồ Chí Minh.
- Khái niệm đoàn kết, nhìn chung, được sử dụng tương đối thống nhất
trong các tài liệu ở trong nước và trên thế giới. Đoàn kết được hiểu là sự thống
nhất ý chí, hành động của các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm thực hiện một
mục tiêu xác định.
- Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù có ngoại diên
rất rộng bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều quan hệ trên - dưới, trong - ngoài..., ta
có thể tiếp cận phạm trù đại đoàn kết từ nhiều góc độ:
+ Về cơ cấu xã hội: đoàn kết các giới, các ngành nghề, các thành phần xã
hội, các lứa tuổi...
+ Về địa bàn: đoàn kết nông thôn - thành thị, miền ngược - miền xuôi,
trong nước - ngoài nước.. .
+ Về phạm vi: đoàn kết trong gia đình, tập thể, cộng đồng, xã hội, khu
vực - quốc tế.. .
Có thể nhận định khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh: đại đoàn kết là một hệ
thống các luận điểm, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để giáo
dục, tổ chức, hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Có thể diễn đạt gọn hơn: Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tư tưởng
xây dựng, củng cố, tăng cường, mở rộng lực lượng cách mạng trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
- Trên cơ sở quan điểm đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đi sâu lý giải hàng loạt
các vấn đề lý luận như vì sao phải đoàn kết, làm thế nào để đoàn kết, điều kiện
thực hiện đoàn kết thành công...
+ Phải thực hiện đoàn kết vì đoàn kết là sức mạnh, là lực lượng và hơn
thế, đoàn kết còn là nhu cầu nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân dân.
+ Để xây dựng thành công khối đại đoàn kết cần phải tìm ra điểm tương
đồng, thống nhất và dùng điểm tương đồng thống nhất để chế ngự sự khác biệt.
+ Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết là phải phân biệt rõ bạn và thù, phải
làm tăng bầu bạn, bớt kẻ thù.
Với quan điểm đoàn kết là “sức mạnh, là “lực lượng, là nhu cầu sống của
mỗi người, Hồ Chí Minh đã nâng vấn đề đại đoàn kết trở thành một vấn đề
chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa sống còn, quyết định sự thành bại của cách mạng.
Người chỉ rõ: Đoàn kết càng chặt chẽ, càng rộng khắp thì thành công càng to
lớn. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công”.
b. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng.
(Trong nội dung này, em có viết lại ngắn gọn hơn, thầy xem giúp em xem
có được không ạ)
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng.
- Đoàn kết là chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị, cũng không đơn thuần
là một phương pháp tập hợp lực lượng, mà mục tiêu của cách mạng còn là đoàn
kết,
+ Đoàn kết là chiến lược cách mạng vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã có nhiều phong
trào nổ ra, song đều thất bại, một trong những nguyên nhân gây ra sự thất bại là
do chưa tập hợp, đoàn kết, chưa tạo được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời xác định xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc là một chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng tham gia, lực
lượng đó phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mới phát huy được sức mạnh
tổng hợp toàn dân tộc.
Thứ ba, mỗi một giai đoạn có nhiệm vụ khác nhau, song giai đoạn nào
của cách mạng cũng cần phải đoàn kết.
Thứ tư, đoàn kết là điểm mẹ, điểm mẹ có thành công, các điểm khác mới
thành công
Chính vì những lý do đó, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết dân
tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình đấu
tranh cách mạng.
+ Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để
thực hiện đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh giải quyết các nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam. Nhiều lần Người nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta” (T7, tr.392), “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta” (T7, tr.397),
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (T11, tr.22), và “Đoàn kết
là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt” (T11, tr.154)

- Đoàn kết là nhân tố đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Khẳng định vai trò của việc thực hiện khối đoàn kết dân tộc trong cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân
dân ta đã làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. Đoàn kết trong Mặt trân Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến
thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn
kết trong Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công
cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc” (T10, tr.604)
* Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam.
- Đoàn kết là mục tiêu của cách mạng: nghĩa là đoàn kết là đích đến của
cách mạng Việt Nam. Trong buổi ra mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có
thể gồm trong 8 chữ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC” (T6,
tr. 183).
- Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng, là nhiệm vụ của toàn dân tộc
+ Bởi cách mạng muốn thành công phải có thực lực, thực lực đó chính là
khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và
huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trước cách mạng Tháng Tám, và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn
là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai
là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây
giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết, Hai là xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà” (T11, tr.130)
+ Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong
phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần
chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và tinh thần hợp tác. Đảng cộng sản phải có
nhiệm vụ thức tỉnh, chuyển các nhu cầu tự phát thành những đòi hỏi tự giác,
thành hiện thực được tổ chức trong khối đoàn kết tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong cuộc đấu tranh thực hiện các nhiệm vụ của công cuộc giải phóng.

2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

a. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc (em có bổ sung thêm
ngoài chủ thể là nhân dân, HCM còn nói đến chủ thể cụ thể là các dân tộc,
các tôn giáo, những người đứng đầu các tôn giáo, và chủ thể cũng là đoàn
kết nội bộ Đảng, thầy xem như vậy có được không ạ)
- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm
toàn thể nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm DÂN có nội hàm rất
rộng:
+ Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những người cùng chung một
nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất, Người thường gọi
nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”.
+ Dân là các tầng lớp, các thế hệ, các giới tính, các đoàn thể. Đó là toàn
thể chiến sĩ trong quân đội, toàn thể công nhân trong công xưởng, toàn thể nhân
viên trong cơ quan, … rồi đến toàn thể nông dân.
+ Dân là những người có chung một cội nguồn. Tất cả đều sinh ra trong
cùng “một bọc”, là “con Lạc cháu Hồng”, là “con Rồng cháu Tiên”, “đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”.
+ Dân là tất cả những ai thừa nhận mình là “con dân nước Việt”. Đó là
toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả những người
Việt Nam ở nước ngoài, “không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”, chỉ trừ bọn tay sai cho đế quốc thực dân, bọn Việt gian, bọn phản
bội lại lợi ích của Tổ quốc, đi ngược lại con đường độc lập tự do và chủ nghĩa
xã hội.
“Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Dưới
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn kết lại,
bầu ra chính phủ của mình”. Vì vậy, “chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau” (T4, 217). Với việc mở rộng nội hàm quan niệm
về Dân của Hồ Chí Minh đã tạo nên sự thuyết phục mạnh mẽ, tập hợp lực lượng
tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng.
- Chủ thể của khối đại đoàn kết còn là tất cả các dân tộc, các tôn giáo ;
- Tất cả những người đứng đầu các tôn giáo
- Nội bộ đảng
b. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức
làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Cơ sở để Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm trên chính là ở chỗ công
nhân và nông dân là hai lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất ở nước ta.
Tầng lớp trí thức Việt Nam cũng rất yêu nước, trung thành với dân tộc và Tổ
quốc cùng chịu cảnh mất nước, cùng có một nguyện vọng chung là độc lập cho
dân tộc tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người.
+ Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh công, nông
và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã hội, thể hiện mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc và giai cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một mặt nào.
Tuyệt đôi hóa vai trò của công nông và trí thức hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ
dẫn đến cực đoan “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi; ngược lại hạ thấp vai trò của liên
minh công nông và trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, vô nguyên tắc, vô chính
phủ. Thực tiễn chỉ ra rằng Mặt trận càng rộng rãi bao nhiêu thì sức mạnh của
liên minh công nông và trí thức càng to lớn bấy nhiêu và ngược lại khi liên
minh công nông và trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận càng
vững chắc, càng có sức mạnh.
- Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận bình đẳng, mà
còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc
Để làm tròn sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng phải phấn đấu xứng đáng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện xứng đáng cho lợi ích của dân
tộc. Muốn vậy, Đảng phải tuyên truyền, giáo dục, tập hợp, hướng dẫn cả dân tộc
đấu tranh vì lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động.
Mặt khác, Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông và trí
thức làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong xã hội.
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai
cấp, tầng lớp cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
- Một là, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của
dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị
bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt
Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh
vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa, làm cho đất
nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
- Hai là, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người.
+ Xã hội luôn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp do lịch sử để lại,
nếu không có lòng khoan dung độ lượng đối với con người thì không thể khép lại
quá khứ, hướng đến tương lai. Cần phải khoan dung độ lượng thì mới xóa bỏ
được thành kiến, định kiến, chân thành đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan dung rộng lớn
trước tính đa dạng của con người.
Hồ Chí Minh nhìn con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong
quan hệ xã hội, trong tính cách, khát vọng, phẩm chất và khả năng... Theo
Người mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng người đều có ưu điểm, khuyết
điểm, mặt tốt, mặt xấu, mặt được, mặt chưa được... nhưng tấm lòng của Người
bao dung tất cả.
Người từng viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được,
vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng
đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp và nhỏ. Người mà tự kiêu tự mãn, cũng như cái
chén cái đĩa cạn” (T5, 644).
Với độ lượng sâu như biển rộng, Hồ Chí Minh đã tập hợp quanh mình và
phát huy tác dụng của cả những vị vốn là đại thần của Nam triều cũ, dung nạp
cả cựu hoàng Bảo Đaị, kẻ đã từng kết án tử hình Người.
Đối với những cán bộ, đảng viên có lỗi, Người mong muốn và tạo điều
kiện sửa chữa lỗi lầm, Người nâng niu mặt tốt, mặt thiện trong con người, lấy
đó làm biện pháp giúp đỡ con người.
- Ba là, phải có niềm tin vào nhân dân, tin vào con người.
+ Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, theo Hồ Chí Minh cần phải tin dân, yêu
dân và dựa vào dân, sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối
cao. Theo Người: DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh của
khối đại đoàn kết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
+ Tin dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là sự kế
thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền thống của dân tộc: “Nước lấy dân làm
gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; Người rất tâm đắc với câu
nói của nhân dân Quảng Bình thời chống Mỹ: “Dễ mười lần không dân cũng
chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong” (T12, 212); đồng thời là sự quán triệt sâu
sắc nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của của
quần chúng”(T10, 197). Người nhấn mạnh: “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”(T8, 276). “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng
lợi trên nền nhân dân”(T5, 410). Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào
nhân dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao chi
phối mọi suy nghĩ và hành động của Người.
4. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc.
a. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý
đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp,
từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng: “công hội”, “nông hội”, “Phật giáo cứu quốc”, “Công
giáo yêu nước”…Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Tuỳ tình hình cụ thể, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống
nhất phù hợp với tình hình cách mạng, mặc dù tên gọi khác nhau: “Hội phản đế
đồng minh (1930), “Mặt trận dân chủ” (1936), “Mặt trận Việt Minh” (1941),
“Mặt trận Liên Việt” (1946) “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”
(1960), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” (1955, 1976)- song thực chất chỉ là một:
Đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ tất cả
các đảng phái, giai cấp tầng lớp, cá nhân yêu nước phấn đấu vì mục tiêu độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

b. Các nguyên tắc cơ bản xây dựng và hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống
nhất (phần này em chỉ giữ lại đúng các nguyên tắc cơ bản xây dựng MTDTTN
thầy ạ)
Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên
tắc sau:
- Một là, Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng của khối liên minh
công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Mặt trận dân tộc thống nhất phải xây dựng trên nền tảng liên minh công
nông: Hồ Chí Minh viết “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”
(T10, tr.18). Hồ Chí Minh giải thích: “Vì họ là người sản xuất tất cả mọi tài phú
làm làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề
hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác”. (T8, tr.214)
+ Mặt trận dân tộc thống nhất chỉ được củng cố và phát triển khi được
Đảng lãnh đạo. Phải đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng đảng, làm cho
Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh; Đảng phải thực sự là đảng của trí tuệ, dân
chủ, cách mạng, thống nhất. Người xác định Đảng lãnh đạo Mặt trận, nhưng
Đảng không thể lãnh đạo Mặt trận bằng mệnh lệnh, mà phải dùng phương pháp
giáo dục, vận động, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm
hoá, khơi dậy tính tự giác, tự nguyện.
- Hai là, Mặt trận phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của
dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Ngay từ 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã khẳng
định chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ
thể phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng, trong đó độc lập, tự do và hạnh
phúc của nhân dân là nguyên tắc bất di bất dịch, là mẫu số chung để quy tụ tất
cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân vào trong Mặt trận.
- Ba là, Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm
bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả các vấn đề của Mặt trận đều
phải được đem ra để tất cả các thành viên bàn bạc công khai để đi đến nhất trí.
Đảng là người lãnh đạo Mặt trận nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận, do
vậy tất cả mọi chủ trương chính sách của Đảng phải được trình bày trước Mặt
trận để các thành viên khác cùng bàn bạc dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích
cực và thống nhất hành động.
Để thực hiện nguyên tắc này, Đảng cần đứng vững trên lập trường giai cấp
công nhân, giải quyết hài hoà quan hệ giai cấp và dân tộc, lợi ích chung và lợi ích
riêng, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, song phải đặt lợi ích chung lên trên hết,
trước hết.
- Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tập hợp của nhiều giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái…nên bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành
viên của Mặt trận vẫn có nhiều điểm khác nhau, cần phải bàn bạc, hiệp thương
dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác nhau, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích
cực, những nhân tố chung, đi đến thống nhất đoàn kết.
- Năm là, Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống
nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
Với tư cách là thành viên mặt trận, Đảng phải tôn trọng các thành viên
khác trong mặt trận, tôn trọng nguyên tắc hoạt động của mặt trận, nhất là
nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Với tư cách là người lãnh đạo mặt trận, Đảng
phải có tầm nhìn xa, trông rộng, phải “vừa đạo đức, vừa văn minh”. Để làm tròn
sứ mệnh của mình, một mặt, Đảng không chỉ phấn đấu xứng đáng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, mà còn phải là đại diện xứng đáng cho dân tộc.
5. Phương pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng.
+ Mục đích tuyên truyền: để người dân hiểu, tin và đi theo Đảng, từ đó
tham gia vào trận tuyến cách mạng.
+ Nội dung tuyên truyền giáo dục phải phản ánh đúng quyền lợi cơ bản
nhất của dân tộc, phù hợp với tâm lí nguyện vọng của các giai cấp tầng lớp
trong xã hội, chỉ rõ lợi ích chung, lợi ích riêng của từng giai cấp, tầng lớp (công
nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, đồng bào dân tộc ít người, đồng
bào tôn giáo, quan lại, nhân sĩ yêu nước, những người bị ép buộc lầm đường lạc
lối…).
+ Phương pháp tuyên truyền: phải ngắn gọn, dễ hiểu “nói ai cũng hiểu
được, hiểu được thì nhớ được, nhớ được thì làm được”
+ Hình thức tuyên truyền: phải sử dụng có hiệu quả các hình thức tuyên
truyền, giáo dục, vận động quần chúng
+ Cán bộ tuyên truyền: phải là tấm gương sáng về đạo đức, đoàn kết, mẫu
mực từ lời nói đến việc làm. Người nói, cán bộ tuyên truyền phải có “óc nghĩ,
mắt thấy, chân đi, tai nghe, miệng nói, tay làm”
- Phương pháp tổ chức.
+Phương pháp tổ chức: Đó là phương pháp xây dựng, kiện toàn, không
ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng, từ Đảng, Nhà nước đến các đoàn
thể quần chúng. Sự thống nhất và bền vững của hệ thống chính trị cách mạng,
theo Hồ Chí Minh, chính là nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của đại
đoàn kết dân tộc.
Đảng Cộng sản phải được xây dựng thật sự trong sạch, vững mạnh, trí
tuệ, cách mạng và thống nhất. Đảng Cộng sản phải là Đảng trí tuệ, đại diện cao
nhất cho trí tuệ dân tộc, đủ sức nhận thức, nắm bắt những nhu cầu khách quan
của lịch sử dân tộc; có năng lực tiếp thu, vận dụng trào lưu tư tưởng tiên tiến
nhất của thời đại – chủ nghĩa Mác – Lênin và tri thức nhân loại, kết hợp với
tổng kết, phát triển kinh nghiệm của các dân tộc để đề ra đường lối đúng đắn,
dẫn dắt cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng khác. Đảng Cộng sản phải là
Đảng cách mạng, tức là phải theo đuổi đến cùng, phấn đấu đến cùng cho lý
tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đảng phải
kiên quyết và triệt để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng,
không dao động, nửa vời; đảng viên phải dám xả thân vì lý tưởng của Đảng.
Đảng phải thống nhất trong tư tưởng, hành động, từ trên xuống dưới. Đảng phải
là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật tự giác, phải xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí xây dựng Đảng; các đảng
viên phải yêu thương nhau, phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình. Chỉ có một Đảng như thế làm hạt nhân lãnh đạo mới có
thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội,
mỗi chủ trương, chính sách, việc làm của Nhà nước đều tác động trực tiếp đến
đời sống, lợi ích và tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn căn dặn và chăm lo xây dựng một nhà nước thật sự của dân, do dân,
vì dân. Người giáo dục đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải trung thành,
tận tụy phục vụ nhân dân, suốt đời làm đày tớ, công bộc cho dân. Chỉ có như
vậy Nhà nước mới thực sự là công cụ của Đảng, là tổ chức đại diện cho quyền
lực của nhân dân, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ.
Các đoàn thể quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất – đó
chính là cái vỏ vật chất của khối đại đoàn kết. Mặt trận dân tộc thống nhất càng
rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đoàn kết càng mạnh
mẽ, bền vững bấy nhiêu. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các đoàn thể quần chúng
và Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân.
- Phương pháp xử lý đồng bộ các mối quan hệ nhằm thực hiện thêm bạn,
bớt thù.
Thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp luôn phân định thành ba
trận tuyến: cách mạng một bên, phản cách mạng một bên và ở giữa là một lực
lượng trung gian, đối tượng lôi kéo, tranh thủ của hai lực lượng đối lập. Thành,
bại trong cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng đối địch không chỉ phụ thuộc vào
thực lực mỗi bên mà còn phụ thuộc một phần rất lớn vào yếu tố: bên nào tranh
thủ được sự ủng hộ của các lực lượng trung gian. Phương pháp đại đoàn kết Hồ
Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học mối tương quan ba chiều: lực
lượng cách mạng, lực lượng trung gian, lực lượng phản cách mạng đó, nhằm
mục tiêu mở rộng đến mức tối đa trận tuyến cách mạng, tạo thế áp đảo của cách
mạng đối với phản cách mạng để giành thắng lợi.
+ Với lực lượng cách mạng: phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
khai thác, phát huy sự thống nhất, tương đồng, hạn chế, khắc phục, tiến tới xóa
bỏ dần những khác biệt trong mục tiêu, lợi ích. Sự đoàn kết, thống nhất của lực
lượng cách mạng chính là điều kiện tiên quyết giúp cho việc thu hút, tập hợp
các lực lượng trung gian vào trận tuyến cách mạng, cô lập các lực lượng thù
địch.
+ Với lực lượng trung gian (các tầng lớp trên, trí thức thượng lưu, nhân
sĩ, hoàng tộc, quan lại,…), phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là xóa bỏ
mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước,
chân thành hợp tác và trọng dụng.
+ Đối với các thế lực thù địch, phương pháp Hồ Chí Minh là chủ động,
kiên quyết tiến công tiêu diệt trên cơ sở phân hóa, cô lập chúng đến mức cao độ;
chăm chú theo dõi, khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, lôi kéo, tranh thủ
những lực lượng nào còn có thể tranh thủ được, hòa hoãn tạm thời với những
lực lượng, bộ phận có thể hòa hoãn được, thu hẹp và cô lập lực lượng thù địch
nguy hiểm, trực tiếp nhất. Đối với các thế lực thù địch ngoan cố, phản động
nhất, phương pháp Hồ Chí Minh là kiên quyết, không ngừng thế tiến công. Đó
là phương pháp cách mạng triệt để, phân biệt rạch ròi giữa các lực lượng hiếu
chiến đi xâm lược với nhân dân lao động ở các nước đi xâm lược, để từ đó đoàn
kết với họ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Bối cảnh thời đại và sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết quốc tế
a) Bối cảnh thời đại
Thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động chính trị là thời đại đang diễn
ra những bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử loài người về các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội và khoa học, công nghệ:
+ Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn tư bản độc quyền, nghĩa là giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc. Sự hình thành chủ nghĩa đế quốc với hệ thống thuộc địa của chúng đã làm
nảy sinh mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với
các dân tộc thuộc địa. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc với sự thức tỉnh
của Châu Á là nét nổi bật của tình hình thế giới đầu thế kỷ XIX.
+ Thắng lợi của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm
1917 và sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở đầu cho
thời đại mới – thười đại quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới, tạo ra mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt thời đại là mâu thuẫn
giữa hệ thống chủ nghĩa xã hội với tư bản chủ nghĩa. Chính sự ra đời của nhà
nước Xô viết và sau đó Quốc tế Cộng sản ra đời đã tạo điều kiện cho phong trào
cách mạng thế giới phát triển, trong đó có phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước phương Đông, mở ra sự chuyển hướng của cách mạng giải
phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản.
+ Sự phát triển không đều của Chủ nghĩa tư bản đã làm sâu sắc thêm mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, gây ra cuộc chiến tranh nhằm phân chia
lại thị trường, tiêu biểu là hai cuộc Chiến tranh thế giới (1914-1918 và 1939-
1945). Gánh nặng của hai cuộc chiến tranh đè nặng lên số phận của nhân dân
lao động ở cả chính quốc và thuộc địa, thúc đẩy phong trào cách mạng của các
nước. Nếu chiến tranh thế giới thứ nhất làm xuất hiện một Nhà nước Xô viết thì
Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm xuất hiện thêm một loạt các nhà nước Xã hội
chủ nghĩa hình thành nên hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa, thành trì của
phong trào cách mạng vô sản, chỗ dựa vững chắc của phong trào giải phóng dân
tộc.
+ Chủ nghĩa tư bản phát triển, sự bóc lột tư bản tăng lên, cùng gánh nặng
của các cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh thế giới… làm cho mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở chính quốc và thuộc địa cũng tăng
lên. Các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản châu Âu liên tiếp nổ ra
và bị đàn áp khốc liệt.
Mặt khác, sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản, sự hình thành thị trường
thế giới, đã làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, phá vỡ tình trạng biệt lập
giữa các quốc gia ở thế kỷ XIX. Sự ra đời và hoạt động của Quốc tế Cộng sản
đã có đóng góp to lớn vào sự tăng cường đoàn kết, gắn bó giữa phong trào cách
mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
+ Cho đến những năm 60 của thế kỷ XX, loài người cũng đã chứng kiến
sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đưa tới
những thay đổi có tính cách mạng về năng lượng, vật liệu, về giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, về công nghệ sinh học… Lực lượng sản xuất phát triển tới
một trình độ cao chưa từng thấy, làm cho nền sản xuất thế giới ngày càng được
quốc tế hóa cao và trở thành một thị trường có tính thống nhất rộng lớn.
b) Sự hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ đại. Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh mang theo nhận thức và niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân tộc. Đó là
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí đấu tranh anh dũng,
bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực tự cường… tuy chưa sớm có thể trả
lời được câu hỏi lớn, nhưng Người cũng nhận thấy: không thể đánh thắng được
kẻ thù mới bằng con đường cũ, cách làm cũ trong một thế giới mới. Người
quyết định phải đi ra nước ngoài “xem nước Pháp và các nước khác”, tức là tìm
hiểu thế giới, tìm hiểu kẻ thù ngay chính trong sào huyệt của chúng, để từ đó
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng đồng
bào.
- Nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh thời đại, của việc
đoàn kết quốc tế được hình thành từng bước, từ cảm tính đến lý tính, thông qua
hoạt động thực tiễn và tổng kết thành lý luận:
+ Ra đi tìm đường cứu nước từ tư cách là một người lao động, hòa mình
vào môi trường hoạt động của giai cấp công nhân, Nguyễn Ái Quốc đã chứng
kiến cuộc sống lầm than, khổ cực của nhân dân các nước thuộc địa, đã phát hiện
ra mối tương đồng giữa các dân tộc bị áp bức “…dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” 2.
Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành nhận thức: muốn giải phóng dân tộc mình
cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác, cùng chung cảnh ngộ. Từ đó,
Người đã kêu gọi: “Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị
áp bức, bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức”3.

2
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 1, tr.266 (12 tập)
3
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 1, tr.452
Khảo sát các nước tư bản đế quốc, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy chúng đã
không đơn độc mà còn phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc đàn áp các cuộc
nổi dậy ở các nước thuộc địa; mặt khác chúng tuyển mộ những người lính từ
thuộc địa để đưa sang đàn áp các cuộc đấu tranh của chính quốc. Từ đó, Người
chỉ ra: chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động, là kẻ thù chính của nhân
dân lao động ở chính quốc và thuộc địa. Muốn đánh thắng chúng, phải thực hiện
khối liên minh chiến đấu giữa các nước thuộc địa với nhau và giữa lao động ở
thuộc địa với vô sản ở các nước chính quốc; nếu tách riêng ra mỗi lực lượng thì
không thể nào thắng lợi được.
Đây là điểm khác biệt giữa Hồ Chí Minh với các nhà yêu nước đầu thế kỷ
XIX, do không nhận thức được đặc điểm mới của thời đại, hay nói cách khác,
do chưa nhận thức rõ về kẻ thù nên cũng chưa thấy được bạn đồng minh.
+ Sau khi tiếp cận với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin, Hồ Chí Minh nhận thấy ở đó “một ánh
sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm cách mạng mà
Người đã hằng nung nấu”4.
Trong Luận cương, Lenin yêu cầu phải làm cho vô sản và quần chúng lao
động ở tất cả các nước gần gũi nhau, muốn thế các Đảng Cộng sản, nhất là các
Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa có thuộc địa, đều phải giúp đỡ các
phong trào giải phóng dân tộc bằng mọi hình thức, phải giáo dục về chủ nghĩa
quốc tế vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản, chủ nghĩa vị kỷ
dân tộc trong giai cấp vô sản và nhân dân các nước đang đấu tranh giành độc
lập.
Tư tưởng của Lenin đã đưa Nguyễn Ái Quốc tới bước chuyển lịch sử: từ
người yêu nước thành người cộng sản, đã nâng cao nhận thức của Người về sức
mạnh thời đại và đoàn kết quốc tế: đó là sức mạnh của giai cấp vô sản, cách
mạng vô sản và Đảng tiên phong của nó, là lý luận và phương pháp luận khoa

4
Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông Tin
lý luận, Hà Nội, 1991, tr.45
học của chủ nghĩa Mác – Lenin, kinh nghiệm của cách mạng Tháng Mười Nga.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp giữa chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản là phải xây dựng được khối liên
minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở chính quốc với lao động thuộc địa, nhằm
cùng một lượt tấn công chủ nghĩa đế quốc ở cả hai đầu.
Với nhận thức này, Hồ Chí Minh bắt đầu đi vào tổ chức và hoạt động.
Người viết nhiều bài trên tờ bào Le Paria để truyền bá tư tưởng này trong vô
sản và lao động cả ở chính quốc lẫn thuộc địa. Người đã tranh thủ diễn đàn tại
Đại hội của Đảng Xã hội Pháp, Đảng Cộng sản Pháp để “thức tỉnh”những người
anh em phương tây về nhiệm vụ giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; phải coi “cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.
Từ tuyên truyền đến tổ chức, Người bắt tay vào thành lập Hội Liên hiệp
thuộc địa ở Pháp, xuất bản cơ quan ngôn luận của nó là tờ báo Le Paria. Sau
khi về Quảng Châu, Người tích cực tham gia vào việc thành lập Hội Liên hiệp
các dân tộc bị áp bức, sát cánh chiến đấu và bên cạnh những người cộng sản và
nhân dân Trung Quốc, coi “giúp bạn là tự giúp mình”. Sau khi thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, Người đã tham gia thành lập một số Đảng anh em ở các
nước Đông Nam Á, và Châu Á.
+ Dần dần cùng với sự phát triển của lịch sử, nhận thức của Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự hình thành, tồn tại và phát triển hệ
thống Xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành một nhân tố làm nên sức mạnh
thời đại, chi phối sự phát triển của xã hội loài người trong nửa cuối thế kỷ XX.
Các nước Xã hội chủ nghĩa đã có vai trò và tác dụng to lớn trong việc ủng hộ và
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, của nhân dân thế giới. vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội; ngược lại phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa đã góp phần làm suy yếu
chủ nghĩa đế quốc, cũng tức là góp phần tích cực vào việc bảo vệ các nước Xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh thời đại là phải
biết huy động sức mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng dân tộc.
Cũng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành nhân tố của sức mạnh thời
đại. Người luôn nhắc nhở sức mạnh đó chưa từng có, cho nên thanh niên phải ra
sức học tập để chiếm lĩnh được những đỉnh cao của khoa học, tận dụng sức
mạnh mới của thời đại để nhân lên sức mạnh dân tộc.
Tóm lại, từ khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác – Lenin từ người yêu nước trở
thành người cộng sản, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc theo cách mạng
vô sản, thì Hồ Chí Minh ngày càng nhận thức được tầm quan trọng và nội dung
của đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng nó
lên thành một trong những bài học bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2. Những nội dung cơ bản trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế
2.1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng trong nước
Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu
cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
- Sức mạnh dân tộc:
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất lẫn
tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự
cường, tự lực dân tộc, sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh
dũng bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó, đã giúp cho dân tộc ta vượt
qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt
vào sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách
mạng, Người vẫn bộc lộ niềm tin, niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu
sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Tuy nhiên, Người cũng đặt ra vấn đề: sức mạnh của truyền thống dân tộc
luôn được diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau, nhưng đều không đi đến
thắng lợi? Đây là yếu tố thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước.
Hướng đi, phương thức đi của Hồ Chí Minh khác với các bậc tiền bối:
không sang Phương Đông mà sang phương Tây, đi tìm hiểu kẻ thù rồi mới quay
về giải phóng cho dân tộc. Người ra đi bằng hai bàn tay trắng. Chính từ quá
trình đó, Hồ Chí Minh mới tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn cho Việt
Nam.
- Sức mạnh quốc tế:
Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao
động các nước chính quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; Phong trào Xã hội
chủ nghĩa; Phong trào vì Hòa bình, độc lập dân tộc, Dân chủ và tiến bộ xã hội;
Phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương... Những phong trào này nếu
được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động,
phát triển không ngừng của lịch sử thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga. Cụ thể:
+ Sức mạnh của các dân tộc bị áp bức, của giai cấp vô sản thế giới. Chính
quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nhận thấy các nước tư sản
luôn nêu ra các văn minh khai hóa các nước thuộc địa, nhưng tại các nước đó,
nhân dân vẫn cực khổ, có sự phân biệt rất lớn về chủng tộc, giai cấp. Hồ Chí
Minh nhìn thấy tính chất 2 mặt của xã hội các nước tư bản văn minh như vậy và
cho rằng trên đời này chỉ có 2 giống người: áp bức và bị áp bức. Hồ Chí Minh
còn nhận thấy: phong trào đấu tranh của các nước thuộc địa, phong trào vô sản
đều đấu tranh mạnh mẽ, nhưng tất cả các phong trào này đều thất bại. Người
nhận thấy: chủ nghĩa thực dân chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đi xâm lược
thuộc địa, tiến hành khai thác thuộc địa mạnh mẽ, trong quá trình đó chủ nghĩa
thực dân vẫn tiếp tục bóc lột nhân dân chính quốc. Như vậy, chủ nghĩa đế quốc
như con đỉa hai vòi; để tiêu diệt con đỉa đó phải cắt cả hai vòi đó. Người nhận
thấy sức mạnh rất lớn của hai lực lượng này.
+ Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lenin và hệ thống các nước Xã hội chủ
nghĩa. Bởi, thực tiễn phong trào đấu tranh trong nước đã diễn ra mạnh mẽ,
nhưng đều thất bại, đặc biệt khi Người đọc Luận Cương, Người nhận thấy mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phương pháp đấu tranh, trang bị cho Hồ Chí
Minh thế giới quan, phương pháp luận trong việc đánh giá chân xác các lực
lượng cách mạng.
Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga, hệ thống các nước Xã
hội chủ nghĩa. Từ đó, Người nhận thức đây là sự hiện thực hóa chủ nghĩa Mác –
Lenin, đây là những phong trào cách mạng triệt để nhất đem lại chính quyền
cho nhân dân.
+ Sức mạnh của phong trào yêu chuộng hòa bình trên thế giới, sức mạnh
khoa học kỹ thuật
Dù trên thế giới có hai loại người, nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy cả ở các
nước chính quốc cũng còn có nhân dân các nước đó, Người còn thấy sức mạnh
khoa học kỹ thuật. Nếu như loài người biết tranh thủ sức mạnh của khoa học kỹ
thuật sẽ tạo đà cho dân tộc phát triển.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng Việt Nam.
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế. Đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết
quốc tế là nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt
Nam đi tới thắng lợi. Đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho
chiến thắng trước kẻ thù.
+ Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng
Mười Nga thành công, xu hướng liên minh giữa các quốc gia được hình thành.
Hồ Chí Minh đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh nhận thấy cách mạng Việt Nam cần có sự giúp đỡ của Quốc tế
cộng sản và cách mạng các nước, đồng thời nếu cách mạng Việt Nam thành
công sẽ quay trở lại giúp đỡ cách mạng vô sản thế giới. Từ đó, Hồ Chí Minh
nhận thấy cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước cách mạng vô sản thế giới.
Trên cơ sở này, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế,
nhưng đồng thời chủ động tác động vào cách mạng thế giới
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng.
- Đoàn kết quốc tế không chỉ vì sự thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
còn vì sự nghiệp chung của nhân loại: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến
bộ xã hội, và xã hội chủ nghĩa.
+ Đoàn kết quốc tế giúp các nước hoàn thành được sự nghiệp cách mạng
của mỗi nước. Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để
chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc
tế vô sản trong sáng. Trong đó: “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền
độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết
với các nước bạn và nhân dân các nước để gìn giữ hòa bình thế giới, chống
chính sách xâm lược, và chính sách chiến tranh của đế quốc… giữ gìn hòa bình
thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta… Đó là lập trường quốc tế cách
mạng” (Tập 7, tr.227-228, 2011)
+ Nhưng, đồng thời hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng là
góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại.
Bởi lẽ, chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn
vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn
của dân tộc mình, mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại đó là hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Để làm được điều đó phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị
kỷ, chống lại chủ nghĩa sô vanh, và mọi thứ chủ nghĩa cơ hội khác.
2.2. Các lực lượng và hình thức đoàn kết
a) Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong Tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú,
song tập trung chủ yếu vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới
trước hết là phong trào chống chiến trah của nhân dân các nước xâm lược Việt
Nam.
- Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế giới là lực lượng nòng
cốt của đoàn kết quốc tế.
Đó là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô và sau này là
các nước Xã hội chủ nghĩa; là Quốc tế III và sau này là Cục thông tin quốc tế.
Phong trào cộng sản, công nhân quốc tế là lực lượng nòng cốt của đoàn kết
quốc tế, theo Hồ Chí Minh có những lý do sau đây:
+ Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế,
là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ có sự đoàn kết,
nhất trí, đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động thế giới theo tinh thần “bốn
phương vô sản đều là anh em” mới có thể thắng được những âm mưu thâm độc
của chủ nghĩa thực dân.
+ Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng
Cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai trò
của giai cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước
thuộc địa.
Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ nên trái tim Người cùng nhịp đập
với nổi thống khổ của các dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình. Từ sớm,
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị của các
nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng tộc,… nhằm làm suy
yếu sức mạnh của các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc hiểu biết lẫn
nhau, xích lại gần và bằng mọi cách phải làm cho “đội tiên phong của lao động
thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho
một sự hợp tác thật sự sau này”.
- Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình,
dân chủ, tự do và công lý
Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu tranh cho hoà
bình, độc lập, thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy
lương tri của loài người, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần
chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể trên hành tinh đối với cuộc cách
mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược.
Bởi vậy, mà Người chủ trương chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ không
phải chống người Pháp, người Mỹ nói chung.
b) Hình thức đoàn kết quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách
mạng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập
các mặt trận, Người luôn tìm thấy đồng minh ngay trong kẻ thù của mình. Sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh so với các bậc đoàn kết; các cụ thường chủ yếu đến
những nước đồng văn; đồng chủng; đồng âu. Hay Chủ nghĩa Mác – Lenin
(phong trào cộng sản; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc) Hồ Chí Minh
nhìn thấy trong các lực lượng đều có lực lượng đoàn kết. Đế quốc với nhân dân
yêu chuộng hòa bình.
- Đối với phong trào giải phóng dân tộc: Chủ trương thành lập một liên
minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa 3 nước Đông Dương.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc,
Người quyết định thành lập mặt trận riêng biệt, Mặt trận độc lập đồng minh,
cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc
lập đồng minh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, phối hợp, giúp đỡ
nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
- Đối với phong trào công nhân, cộng sản quốc tế: xây dựng khối liên
minh hữu nghị, hợp tác, tương trợ với các nước. Người chăm lo củng cố mối
quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí,
vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá
lâu đời với Việt Nam.
- Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình:
+ Thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh
giành độc lập
+ Từ những năm 1920, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại
Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại
Trung Quốc. Đây là hình thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp
bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc. Với sự kiện này, Người đã góp phần đặt cơ sở cho sự
ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
+ Trong những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt
động ngoại giao không mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân
chủ và các lực lượng đồng minh chống phát xít, đoàn kết với nhân dân tiến bộ ở
các nước trên thế giới, kể cả ở Mỹ và Pháp, hình thành Mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
2.3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, dứt khoát giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng thời
phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của
mỗi nước, mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm
của những người cùng chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc
phục tư tưởng “sô vanh”, nước lớn, áp đặt, hoặc dung các giải pháp về kinh tế,
chính trị, … để gây sức ép với nhau. Có tình còn đòi hỏi trong mọi vấn đề phải
chờ đợi nhau để cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Tôn trọng lợi
ích của mỗi dân tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không phương hại đến lợi ích
chung, lợi ích của đảng khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng to
lớn trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình
đoàn kết trong nhân dân lao động.
- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí Minh là quyền trời cho, là
“lẽ phải không ai chối cải được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ đấu
tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn cho các dân tộc khác trên thế
giới.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước khác, Hồ
Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết của tất cả các
quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên
thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc
đó. Người cũng khẳng định nhất quán chính sách ngoại giao của Việt Nam là:
“làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ hoà bình trong công lý.
+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống
chiến tranh xâm lược là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó
phải là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”.
Người khẳng định: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam thì chỉ có
một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn
hoà bình”, “thái độ của Việt Nam đối với những nước Á châu là thái độ anh em,
đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”
+ Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và lòng khao khát hoà bình của
nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Bởi vậy, trong hai cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự đồng tình, ủng
hộ to lớn của rất nhiều lực lượng yêu chuộng hoà bình, nhờ vậy chúng ta đã làm
nên những chiến thắng vẻ vang, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu, còn nguồn lực ngoại sinh
chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh luôn nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”,
“muốn người khác giúp mình thì trước hết tự mình phải giúp lấy mình đã”.
Người còn chỉ rõ “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập”.
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái
chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
- Vì vậy, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối
độc lập, tự chủ và đúng đắn.
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính nhờ thực hiện chính
sách ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh này mà chúng ta đã nhận được
nhiều sự ủng hộ quý báu của rất nhiều nước và tổ chức trên thế giới.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? Liên hệ
với tình hình thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết ở Việt Nam hiện nay.
2. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế? Liên hệ với
công tác đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Thuyết trình việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
4. Phân tích vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh? Liên
hệ với tình hình thực tiễn hiện nay.
5. Phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại. Liên hệ với tình hình thực tiễn hiện nay.

Chương 6

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA,


ĐẠO ĐỨC VÀ CON NGƯỜI MỚI
Mục tiêu cần đạt được.
1. TRÌNH BÀY được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo
đức, văn hoá và xây dựng con người.
2. VẬN DỤNG những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh sinh hoạt, học
tập, công tác.
3. PHÂN TÍCH được vai trò của đạo đức; sự khác biệt trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Nho giáo.
Tài liệu tham khảo.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đạo đức học, Nxb Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1991.
2. Thành Duy (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1996

NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA


1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với
các lĩnh vực khác

a. Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất
của Việt Nam
Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ, Khóa
họp 24 Đại Hội đồng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp quốc (UNESCO) từ ngày 20/10 đến 20/11/1987, đã ra Nghị quyết
24C/18.6.5 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư
cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

b. Quan niệm Hồ Chí Minh về văn hóa


- Khái niệm văn hóa (Culture) từ tiếng Latinh: Cultur: trồng trọt, Cultur
argi: trồng trọt cây cối; cultur animi: trồng trọt tâm hồn con người. Ở phương
Đông, văn hóa: “văn”: vẻ đẹp, giá trị; “hóa”: trở thành. Văn hóa: trở thành giá
trị, trở thành vẻ đẹp.
Trên thế giới đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, song vẫn
còn có khá nhiều những điểm chưa thống nhất giữa những ý kiến. Có thể khái
quát một số cách định nghĩa về văn hóa: đồng nhất văn hóa với học vấn; đồng
nhất văn hóa với hoạt động văn hóa nghệ thuật bình thường; đồng nhất văn hóa
với những di tích lịch sử văn hóa; đồng nhất văn hóa với những sáng tạo kiệt tác
về lĩnh vực tinh thần.
- Theo Unesco, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này
khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống của nhân dân.
Đặc trưng của văn hóa là những giá trị do con người tạo ra, mang tính
lịch sử. Nói đến văn hóa là nói đến trình độ người.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được Người sử dụng
khá linh hoạt:
Theo nghĩa rộng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
do loài người sáng tạo ra. Theo nghĩa hẹp: Văn hóa là những giá trị tinh thần,
thuộc kiến trúc thượng tầng (Báo Cứu quốc, tháng 5 năm 1945). Theo nghĩa rất
hẹp: văn hóa đơn thuần chỉ trình độ học vấn của con người được đánh giá bằng
trình độ học vấn phổ thông...
Định nghĩa khái quát nhất của Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”5. (Tháng 8/1943, Người viết định nghĩa này khi đang trong nhà tù của
Tưởng Giới Thạch)

5
. Sđd, t.3, tr.431.
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm tương đồng với quan
niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo cách khía cạnh sau: phức thể, tổng
thể nhiều mặt; nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và vật chất, khắc họa
nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và các quyền cơ bản của con người, hệ
thống giá trị, cách ứng xử và giao tiếp.

c. Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác
- Nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò của các thành tố
trong hình thái kinh tế xã hội, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế
- Hồ Chí Minh khẳng định vai trò ngang nhau của các thành tố nhưng có
xu hướng nhấn mạnh văn hóa.
Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hoá đã được Hồ Chí Minh xác định là
đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc tính về kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Văn hoá được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, có quan hệ mật thiết
với nhau, cùng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời
sống xã hội.
- Hồ Chí Minh khẳng định một nền chính trị, kinh tế, một xã hội có văn
hóa. Hồ Chí Minh trong kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa có vai trò dẫn đường.
Người mong ước, xây dựng một nền kinh tế có văn hóa cao, một nền chính trị
có văn hóa cao, một xã hội có văn hóa cao.
+ Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà
phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc
đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Hồ Chí Minh cho rằng văn hóa có tính tích
cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế và chính trị. Người viết: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ
giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ.
Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng
nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”
(t.8, tr.281-282.)
+ Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hóa phải tham gia
thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế
theo tinh thần “văn hóa cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hóa văn hóa, văn
hóa hóa kháng chiến”. Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong các cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng
chiến có văn hóa (tính chính nghĩa của kháng chiến và chiến tranh vệ quốc).
Chính điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
+ Văn hóa phải xã ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là
kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa hội và thời đại
đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ
trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn
hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa

a. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
- Mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
- Văn hóa là mục tiêu thể hiện ở chỗ văn hóa là quyền sống, quyền sung
sướng, quyền tự do, quyền mưa cầu hạnh phúc và thụ hưởng các giá trị văn hóa;
là khát vọng về các giá trị chân - thiện - mỹ của nhân dân; là một xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh; một xã hội đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân luôn được quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện
phát triển toàn diện.
- Văn hóa là động lực được Hồ Chí Minh lý giải rất cụ thể:
+ Văn hóa là một động lực cho sự phát triển của đất nước, các thiết chế
văn hóa góp phần xây dựng và phát triển đất nước, con người Việt Nam.
+ Văn hóa chính trị soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo toàn dân thực
hiện độc lập, tự chủ, tự cường; văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu
nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin
thắng lợi của cách mạng;
+ Văn hóa giáo dục góp phần nâng cao dân trí, mở rộng vốn hiểu biết cho
nhân dân, thực hiện sứ mạng trồng người, đào tạo con người mới, nguồn nhân
lực cho cách mạng;
+ Văn hóa đạo đức góp phần nâng cao phẩm giá con người Việt Nam;
văn hóa pháp luật đảm bảo dân chủ, trật tự kỷ cương, phép nước.
b. Văn hóa phục vụ quần chúng
Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ,
là chất liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn
nghệ sĩ phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân
thật của sinh hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ các giá trị tinh thần đó.
Văn hoá văn nghệ thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải:
+ Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân
dân. Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.
+ Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí... phải thể
hiện tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn vậy thì trong hoạt
động văn hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi sau về: đối
tượng, mục đích và phương pháp.
Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân thì phải đánh giá cho đúng
quần chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân dân như sau:
+ Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật
chất, mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò, vè” là “những
hòn ngọc quý” mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của
mình.
+ Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn
bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng
sẽ quên anh ta”6.
+ Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn
hoá một cách trung thực, chính xác nhất.
+ Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với
thời đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp
cách mạng của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là
những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân
dân. Tác phẩm đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần
chúng nhân dân yêu thích. Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng
không phải là hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ nhưng sản
phẩm “loại hai”, những món ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là
những tác phẩm có tính nghệ thuật cao, tinh tế, có giá trị nhân văn cao.

c. Văn hóa là một mặt trận


Văn hóa là một mặt trận được hiểu văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng
trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa rất phong phú, bao
gồm các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, các hoạt động văn nghệ, báo chí,
công tác lý luận.
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh văn hóa, văn nghệ sĩ là
những chiến sĩ, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật là những vũ khí chiến đấu. Để
là tròn nhiệm vụ, chiến sĩ trên mặt trận này phải có lập trường tư tưởng vững
vàng, ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”; phải bám
sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ
phải, nghiêm khắc phê bình những thói hư tật xấu như tham ô, lười biếng, lãng
phí, quan liêu…Vì văn hóa là mặt trận, văn nghệ sĩ là những chiến sĩ nên các
6
. Hồ Chí Minh: Văn hoá, văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb.Văn học, Hà Nội,
1981, tr.516
chiến sĩ văn, hóa văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và
thời đại.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
a. Quan điểm tổng quát
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bên cạnh đưa ra định nghĩa về
văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng
nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lí: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây
dựng luân lí: biết hi sinh mình, lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi sự
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính
trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”.
Trong kháng chiến chống Pháp, trong Đề cương văn hóa Việt Nam
(1943), Hồ Chí Minh xác định xây dựng nền văn hóa mới mang tính dân tộc,
khoa học và đại chúng.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh xác định nền văn
hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và có tính dân tộc.
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đế văn hóa, thấy rõ
vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay
sau khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo
một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị,
xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa và chiến lược phát
triển đất nước.

b. Tính chất của nền văn hóa


- Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ là phải xây dựng một nền văn hoá mới, nền văn hoá dân
chủ mới, đồng thời là nền văn hoá kháng chiến. Đến thời kỳ miền Bắc bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hoá mới được xây dựng là nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Về tính chất của nền văn hoá mới được Hồ Chi Minh xác định có ba
tính chất: cơ bản là tính dân tộc, tính khoa khoa học và tính đại chúng. Tính
chất dân tộc của nền văn hoá còn được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng những khái
niệm khác nhau như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, để nhấn mạnh hơn nữa
đến cái tinh tuý bên trong rất đặc trưng của văn hoá dân tộc.
- Kế thừa tư tưởng Hồ Chí minh về tính chất của văn hóa, Đại hội III của
Đảng cho rằng: Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa
và tính chất dân tộc. Từ Đại hội VII đến nay, tính chất của nền văn hoá được
xác định là một nền “văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hai tính chất
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến
là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.

c. Chức năng của nền văn hóa


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, có thể thấy văn hóa có ba
chức năng chủ yếu sau đây:
- Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, làm cho ai cũng có lý tưởng
độc lập, tự chủ; phải sửa đổi được tham những, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, ...
+ Văn hoá có chức năng bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội cho cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
+ Văn hoá phải đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những tình cảm
lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân - thiện - mỹ,
yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung; ghét những thói hư tật xấu, những
sa đọa biến chất; căm thù mọi thứ giặc nội xâm.
- Nâng cao dân trí
Bàn về văn hóa là bàn về dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức
của nhân dân. Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết độc,
biết viết để hiểu biết các vấn đề của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, lịch
sử, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề nâng cao dân
trí trước kia cũng đã được nhiều nhà yêu nước đặt ra. Phan Chu Trinh đã đề ra
chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” ngay dưới chế độ thực
dân phong kiến, nhưng đã không thể thực hiện được. Dòng văn hoá cách mạng
xuất hiện trong những thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám chỉ làm chuyển biến
được dân trí phần nào. Nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện được khi chính trị
đã được giải phóng, chính quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có
hể có những điểm chung và riêng. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945
thắng lợi, đất nước độc lập, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “một trong những công
việc cấp tốc phải thực hiện lúc này là nâng cao dân trí”. Muốn giữ vững nền độc
lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết
mọi quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc
xây dựng nước nhà, trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Khi miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nói: “chúng ta
phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống
vui tươi hạnh phúc”. Và đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong thời kỳ đổi mới.
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phong cách
lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới Chân -Thiện - Mỹ để không ngừng
hoàn thiện bản thân mình
+ Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Văn hóa giúp con người
nhận biết và phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, giữa cái
tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người và dân tộc tiến lên phía trước.
Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: văn hóa phải sửa đổi những tham nhũng,
lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Căn cứ vào yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong
cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Đó là nhưng phẩm chất đạo
đức cách mạng, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ
xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: văn hóa phải làm cho văn hoá vào sâu trong tâm
lý quốc dân, nghĩa là văn hoá phải sữa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù
hoa, xa xỉ.
+ Chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng tư tưởng đúng
đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể
có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.
Chức năng cao quý ấy phải được tiến hành thường xuyên, phải làm thế
nào cho văn hoá đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng những tình cảm lớn
như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ;
yêu tính trung thực, chân thành, thuỷ chung, đấu tranh loại trừ những thói hư tật
xấu, những thoái hoá, biến chất.
Tính cảm lớn theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương
yêu con người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư
tật xấu. Tính cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ với gia đình, quê
hương, với bạn bè, anh em, đồng chí… Thông qua các mối quan hệ tốt đẹp, văn
hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý
tưởng, tin vào nhân dân và tiền đồ của cách mạng.
+ Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một con người,
một Đảng, một dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân
tộc, gắn với chủ nghĩa xã hội. Do đó, theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ hàng đầu của
văn hóa là phải làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm
cho ai ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích
riêng”.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức

a. Đạo đức là gốc, là nền tảng là nhân tố chủ chốt của người cách mạng
- Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận không thể thiếu
của ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Nó có khả năng tác động trở
lại và cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp
nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn.
- Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức
ở Việt Nam, đó là nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh: “Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” (T6, tr.320), “đạo đức
đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của
loài người”. (T5, tr.252).
- Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của
người cách mạng.
Người nói: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân”.
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loại
người là công việc to tát, nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ mà tự mình không
có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì không còn làm việc
gì nổi.
Chính vì nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức, Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Ngay chương đầu của Đường Kách mệnh, Người đã nêu 23 điều về tư cách
người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối
với công việc. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1947, Người viết
“Sửa đổi lối làm việc” và liên tiếp trong 2 năm 1957, 1958 Người viết hai tác
phẩm cùng mang một tên gọi “Đạo đức cách mạng” cùng hàng loạt bài ngắn
gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Một trong những bài viết cuối cùng của Hồ
Chí Minh, năm 1969, bài Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá
nhân.
Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
Đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân ...Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào
tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “’hồng” vừa
“chuyên”.
- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người. Người thường
nhấn mạnh, “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm
việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người
là cao thượng”.
Đạo đức tốt là điều kiện dẫn đến những hành động tốt, sự nghiệp cách
mạng càng cao cả thì đòi hỏi phải có những phẩm chất cao cả. Đạo đức cách
mạng liên quan đến sự thành hay bại của cách mạng, nếu quan tâm đến bồi
dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thì cách mạng đi đến thành
công, nếu xem nhẹ vấn đề này, không tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức
thì cách mạng sẽ gặp khó khăn, thất bại. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng trong bất
cứ giai đoạn nào của cách mạng đều phải ra sức rèn luyện đạo đức cho cán bộ,
đảng viên.
Người dạy rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang”7.
7
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.601.
- Đạo đức còn là động lực giúp chúng ta vượt lên khi khó khăn cũng như
lúc thuận lợi trong quá trình đấu tranh cách mạng. Trong công việc có lúc chúng
ta gặp khó khăn, nếu chúng ta giữ được đạo đức cách mạng thì không sợ sệt,
không bi quan chán nản và khi công việc thuận lợi sẽ không rơi vào kiêu căng,
công thần, địa vị, tự mãn.
Đạo đức giúp cho mỗi người giữ vững được nhân cách, bản lĩnh bản lĩnh
làm người trước thời cuộc, “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không
chuyển lay, uy vũ không khuất phục”3.
- Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới,
xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp người cách mạng tự hoàn thiện mình
và không ngừng phát triển đi lên.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước..., khi gặp thuận lợi và thành
công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, thực sự trở
thành người biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”..., không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là
“gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ chốt” của người cách mạng.
Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người
là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì” (T5, tr.252), “Mọi việc thành
hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không” và
“tuy năng lực và công việc mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng” (T5,
tr.148).
b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
- Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý
tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng,
mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở những phẩm chất của những
người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu
cho lý tưởng đó trở thành hiện thực…
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là
phù hợp với từng đối tượng. Tuỳ vào nhiệm vụ của thực tiễn cách mạng đề ra
mà Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác. Trên cơ sở những
chuẩn mực chung cho tất cả mọi người, Hồ Chí Minh đã khái quát thành những
phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.

a. Trung với nước, hiếu với dân


- Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá
nhân với cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi
phối các phẩm chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của
người cách mạng. Lòng trung, hiếu rộng lớn ấy thể hiện ở ý chí và quyết tâm
phấn đấu cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đạo đức phương Đông, Trung và
Hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần cá nhân, nó mang một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người
con trong mối quan hệ với dân tộc và gia đình. Theo quan niệm truyền thống
(quan niệm cũ), Trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành với
vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa là con
cái phải hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đã đưa thêm vào nội dung mới, cách mạng,
phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha
mẹ mà “trung với nước, hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo
đức. Người gạt bỏ cái cốt lõi nhất trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối
với chế độ phong kiến và ông vua phong kiến. Hồ Chí Minh không thể chấp
nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức với kẻ thống trị mình.
“Trung với nước” thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã
hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và đi lên của đất
nước. Nước ở đây là nước của dân, dân là chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn
xác định “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”8,
Đảng và Chính phủ là “đầy tớ của nhân dân” chứ không phải là “quan nhân dân
để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu
với dân” là một sự đảo lộn mang tính cách mạng trong quan niệm đạo đức
truyền thống. Hồ Chí Minh đã lật ngược lại học thuyết của Nho giáo như Mác
đã làm với học thuyết Hêghen. Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất, chân ngửng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngửng lên trời” 9. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa so phía trước.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị
- đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta từ trước đến nay mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

8
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.698.
9
. Sđd, t.6, tr.320-321.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng: điều chủ chốt nhất của
đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “trung
với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà còn phải
hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân,
dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí để hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải nắm vững và thực hành đạo
đức trung với nước, hiếu với dân thì sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng,
nhất định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn và đưa cách mạng đến thành công.

b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư


- Phẩm chất này lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh.
Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên vì nó diễn ra
hàng ngày, hàng giờ, trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cả khi thuận lợi
và lúc khó khăn. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến phẩm chất này,
từ tác phẩm Đường Cách mệnh cho đến Bản Di chúc cuối cùng.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức
phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh giữ lại
những yếu tố tốt đẹp, cải biến nội dung, đưa vào những yêu cầu và nội dung
mới phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phụng
sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ
thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” ( Toàn tập, t.6,
tr.321)
- Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” năm 1949, Hồ Chí Minh giải
thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau: (Theo em, không nên
nêu ra quan điểm của HCM về cần, kiệm, liêm, chính trong tác phẩm này,
vì sau này HCM bổ sung thêm nhiều khía cạnh của Cần, Kiệm, Liêm,
chính ở nhiều tác phẩm khác, nếu chỉ đưa ra qd của HCM như trong tp
này thì chưa đủ khía cạnh, nên theo em chỉ cần nói là : HCM giải thích về
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau ; và em có bổ sung thêm khía
cạnh quan điểm của HCM về các phẩm chất này, thầy xem có ổn không ạ)
+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo,
khai thác hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và hiệu quả thực tế,
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta” (t.12, tr.564)
. Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy cũng làm được. Siêng học tập
thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng làm nhất định thành
công”. Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người
đều phải cần, cả nước đều phải cần. “Người siêng năng thì hay tiến bộ. Cả nhà
siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước
siêng năng thì nước giàu mạnh”.
Cần cù nhưng phải có kế hoạch, biết việc gì làm trước việc gì làm sau,
phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng. Có kế hoạch nhưng phải biết phân
công. Phân công nên dựa vào hai yếu tố : việc gì cần làm trước, việc gì cần làm
sau  và năng lực của mỗi người phù hợp với công việc gì.
Cần gắn liền với “chuyên” (chuyên tâm), nhưng chuyên tâm không phải
một, hai ngày mà phải chuyên tâm phải suốt đời, liên tục, bền bỉ, dẻo dai.
Trong khi nói đến Cần, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, kẻ thù của cần là lười
biếng. Người lười biếng là có tội với nhân dân, với Tổ quốc.
+ Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền
của của dân, của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi” (Toàn tập, t.5, tr.636), không phô trương hình thức. Cần và Kiệm phải đi đôi
với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà không Kiệm thì như thùng không
đáy, Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển.
Kiệm nhưng không phải bủn xỉn, không keo kiệt, nhưng cũng không xa
xỉ. Bủn xỉn nghĩa là việc cần dùng đến tiền lại không dùng, theo Hồ Chí Minh
nếu có lợi cho dân bao nhiêu tiền cũng phải bỏ ra, nếu có hại cho dân thì một
đồng cũng không bỏ, đó không phải là keo kiệt, mà là chi tiêu hợp lý. Nhưng
cũng không được xa xỉ, hoang phí. Hoang phí là có tội với nhân dân, với Tổ
quốc.
Người cũng kêu gọi mọi người, nhân dân cả nước phải thi đua thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí.
+ Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; phải
“trong sạch, không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ ham
là ham học, ham làm, ham tiến bộ” , (t.5, tr.252). Theo Hồ Chí Minh, Liêm là
thước đo bản chất con người. Có Kiệm mới có Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham
lam, tham tiền của, tham địa vị, tham ăn ngon... đều là những hành động bất
liêm. Người dạy: “ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
Liêm phải hiểu theo nghĩa rộng, đó là không phải chỉ một người cần có
Liêm như trong quan điểm cũ trước đây (chỉ có vua, quan phải thanh liêm), mà
mọi người đều phải Liêm.
Đối lập với Liêm là bất liêm, cho nên mọi người từ cán bộ đến nhân dân
phải biết thực hành Liêm. Cán bộ phải gương mẫu liêm khiết trước nhân dân,
dân phải hỗ trợ, giúp đỡ cán bộ thực hành Liêm.
+ Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Điều gì không đứng
đắn, không thẳng thắn tức là Tà “làm việc chính là người thiện, làm việc tà là
người ác”.
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là những đức tính
không thể thiếu được của mỗi con người cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn
phương - đó là quy luật tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp nào
cũng cần phải giữ mối quan hệ: Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem
khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; không dối
trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã
phụ trách việc gì thì giải quyết cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ
khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy
cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
+ Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính nhưng nó
cũng có nội hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham làm những việc
ích quốc lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý.
Đó là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Người chí công vô tư thì lòng dạ thảnh
thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được chủ nghĩa
tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt được đâu là chủ nghĩa cá nhân,
đâu là lợi ích cá nhân, Người chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không
bao giờ chủ trương xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Người nói:
“Chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân con người”
(Toàn tập, t.9, tr.291)
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo
quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống” 10, “là một thứ vi trùng rất độc” đẻ ra
hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích
địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán, quan liêu, mệnh lệnh,.... Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản
còn ẩn nấp trong mình mỗi chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp
thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của kẻ địch
khác.
10
. Sđd, tr.284.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, phải quyết
tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại rất lớn
cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” 11.
Người cho rằng: chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân tộc.
“Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và
ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”12.
Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với
việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghỉ đến
đồng bào, đến toàn dân”13, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau; có khi Người coi
cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của con người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”14.
- Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công
vô tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần,
kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh những
đức tính tốt ấy gồm có năm điều: “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.

11
. Sđd, tr.291.
12
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.557-558.
13
. Sđd, t.9, tr.192.
14
. Sđd, t.5, tr.631.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho
con người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”15.

c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa


- Phẩm chất yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất của Hồ Chí Minh. Ở Người, lòng yêu thương con người trước hết
dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người lao động, những người
nô lệ, chứ không phải con người nói chung chung mà là mỗi người cụ thể.
- Phẩm chất yêu thương con người của Hồ Chí Minh được thể hiện trong
mối quan hệ “gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn”, “đồng bào cả nước” và “cả
loài người”. Nó đòi hỏi mỗi con người phải luôn luôn nghiêm khắc với mình, độ
lượng, tôn trọng, tìm cách nâng cao con người theo tầm vóc của nó, chứ không
hạ thấp, càng không phải vùi dập. Người tìm cách đánh thức những gì tốt đẹp
mà Người tin rằng ở mọi người đều có, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ
và đó cũng là những ước mơ ngàn đời của cả loài người.
Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể
hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm
sai lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể
cả đối với kẻ thù đã bị thương, bị bắt, hoặc đã quy hàng.
Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng “phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau”16, sống với nhau phải “có lý có tình”. Đây chính là điều nhắc nhở
cán bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất này. Đây là tình yêu
thương dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành,
nghiêm túc, giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp
chung. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ “dĩ hoà vi quý”, bao che sai lầm khuyết
điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ yêu ghét, chủ quan, cảm tính, các hiện

15
. Sđd, t.6, tr.184.
16
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.498.
tượng bè cánh, phường hội có thể đưa đến những tổn thất to lớn cho Đảng, cho
cách mạng.

d. Tinh thần quốc tế trong sáng


- Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vi đề
cập mang tính rộng lớn nhất trong hành vi ứng xử của con người.Theo Hồ Chí
Minh, tinh thần quốc tế trong sáng, cao thượng gồm những nội dung sau:
+ Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
bằng mệnh đề: “Bốn phương vô sản đều là anh em”17.
+ Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước trên thế giới.
+ Tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến
bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
+ Tinh thần quốc tế trong sáng hướng đến những mục tiêu lớn của thời
đại là hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước, các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa
quốc tế vô sản hay chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Hồ Chí Minh luôn luôn cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với
chủ nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính, chủ nghĩa quốc
tế không trong sáng thì có thể dẫn tới chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt
lập, kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Những quan niệm
sai lệch này có thể dẫn tới chỗ phá vỡ sự ổn định và thống nhất của các quốc
gia, phá vỡ tình đoàn kết trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể dẫn tới
tình trạng đối đầu, đối địch.
- Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Trong
hoạt động thực tiễn cần phải tăng cường giáo dục tinh thần quốc tế vô sản trong
sáng trên cơ sở những định hướng của đường lối chính trị của Đảng và những

17
. Sđd, t.10, tr.195.
chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước và việc rèn luyện của cá nhân về
tinh thần quốc tế.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra những phẩm chất đạo đức chung, cơ
bản nhất đối với tất cả mọi người, đó là những nhân tố định hướng đạo đức cách
mạng. Từ đó, Người cụ thể hoá thành các tiêu chuẩn đạo đức cho các đối tượng
khác nhau như: Thanh, thiếu niên, nhi đồng, Công an, Bộ đội, Phụ nữ, đội ngũ
tri thức, giai cấp công nhân...
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
mạng

a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức


- Đây không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà còn là cơ sở phân biệt giữa
đạo đức cách mạng và những cái khác nó.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi nói về tư cách một người cách
mệnh Hồ Chí Minh viết: “Nói thì phải làm”; “có lòng bày vẽ cho người”. Trong
tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí
Minh yêu cầu Đảng cần thực hiện “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục mọi người và chính bản thân
Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc và gương mẫu hơn ai hết.
Chúng ta còn thấy ở Người “ít nói nhưng làm nhiều”.
-Trong lĩnh vực đạo đức, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại
hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mỗi người và có tác dụng đối với người
khác.
Đảng ta có hơn hai triệu đảng viên, nếu tất cả đảng viên thực hiện được
nguyên tắc “Lời nói đi đôi với việc làm”, thì công việc dù khó mấy cũng làm
được. Nếu “nói nhiều mà làm ít” hoặc “nói mà không làm”, hơn nữa “nói một
đằng làm một nẻo” thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng. Thói đạo đức giả là
đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột, nó hoàn toàn khác biệt với đạo đức cách
mạng. Xây dựng đạo đức cách mạng, chúng ta phải đấu tranh để làm sao trong
xã hội mới không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ
đạo đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức.
- Vấn đề nêu gương đạo đức cũng hết sức quan trọng và đặc biệt cần
thiết: Nêu gương trong gia đình; trong nhà trường; trong tổ chức tập thể, Đảng,
Nhà nước... Một trăm bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống - điều
mà Hồ Chí Minh nói về Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một
nguyên tắc rất cơ bản là sự nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều mà chúng ta
thấy ở Hồ Chí Minh - một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Tấm gương sáng ngời về đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung
cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn
nhiều tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của
những người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương “người
tốt việc tốt” đều có ở mọi lúc, mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường, nó có
ý nghĩa rất to lớn thúc đẩy cho quá trình phát triển của đất nước ngày càng đi
lên.

b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
- Muốn xây dựng đạo đức mới thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng
những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa.
Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục tiêu
xây. Cũng chính vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”18.
- Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc
giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới; bằng việc nêu
gương người tốt, việc tốt, những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong
cuộc sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để mỗi người tự
giác với trách nhiệm đạo đức của mình.

18
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.449.
- Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng
việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng chủ nghĩa tập thể.
Vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ bệnh cực kỳ nguy hiểm, do chủ nghĩa cá
nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, lãng phí, xa rời quần chúng,
xa rời thực tế; cũng do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức,
kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước làm hại đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân,
Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là
bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong
lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng
phí, quan liêu cũng nặng như tội “việt gian, mật thám”.
Do vậy, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục,
vừa bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.
- Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng
rãi
Các phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu; mở cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản lý kinh
tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” 19. Có phong
trào cho toàn Đảng, có phong trào cho từng ngành, từng giới, từng địa phương...
qua đó lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh đầy cam go, để từ đó thôi thúc
trách nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng của mình do Hồ Chí Minh và Đảng ta phát động
đã thực sự mang lại những hiệu quả tích cực

c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo
đức, đó là công việc phải làm suốt đời, không được chủ quan tự mãn, sao nhãng
rèn luyện.

19
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.572.
Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do
đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn
là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người” 20. Vì vậy, Người đòi hỏi: “Gian nan
rèn luyện mới thành công”, “Hiền giữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo
dục mà nên”, “Kiên trì và nhẫn nại, không nao núng tinh thần”.
- Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa
vào lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng.
Người cách mạng phải ý thức cho được đạo đức cách mạng là nhằm giải
phóng con người vào đạo đức của những con người được giải phóng. Đã hoạt
động cách mạng thì khó tránh khỏi những sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là
phải cố gắng sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn
với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Như vậy, mới phân biệt
được với cách tu dưỡng đạo đức của các nhà Nho. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng
cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó
nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư
tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì
cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”21. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân
“ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”22.
Tóm lại, các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức mới luôn
luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Đó là nguyên tắc chỉ đạo cho mỗi
người phấn đấu trở thành người có đức, có tài để phục vụ tốt cho việc xây dựng
xã hội mới ở Việt Nam.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1. Quan niệm Hồ Chí Minh về con người

20
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.293.
21
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.448.
22
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.448.
a. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể
- Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm
lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn hướng đến cái chân - thiện
-mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”. ồ Chí Minh xem xét con người trong tính
đa dạng của nó: đa dạng trong các quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp,
tầng lớp, đồng chí, đồng bào,…); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm
chất, khả năng (“cũng như năm ngon tay dài, ngắn khau nhau, nhưng đều hợp
nhau lại ở nơi bàn tay”, “mấy mươi triệu người Việt Nam, có người thế này, thế
khác, nhưng đều là nòi giống Lạc Hồng”); đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân,
điều kiện sống và làm việc,…
- Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối
lập: thiện - ác, hay - dở, hiền - dữ… bao gồm cả tính người (mặt xã hội) và tính
bản năng (mặt sinh học) của con người. Theo Người, con người có tốt, có xấu,
nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”23.

b. Hồ Chí Minh thường nói tới con người cụ thể, lịch sử


- Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Nghĩa hẹp: con người trong phạm vi gia đình: anh em, họ hàng, bè bạn... Nghĩa
rộng: đồng bào cả nước. Mở rộng tối đa: con người trên phạm vi thế giới, là cả
loài người.
Theo nghĩa rộng, Bác thường dùng trong một số trường hợp nói về
“phẩm giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai
ai”,… nhưng thường đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung.
- Phổ biến nhất, Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối quan hệ
cụ thể hiện thực, khách quan, chứ không phải kiểu con người chung chung trừu
tượng. Con người được đặt trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo
giới tính, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng
dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân
tộc bị áp bức, bốn phương vô sản, nhân loại yêu chuộng hòa bình,…).
23
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.60.
- Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động
sản xuất, con người xác lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với
người. Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loại người.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Vì vậy, “vô luận
việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đầu thế cả” 24.
Người khẳng định việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có
dân liệu cũng xong vì dân ta tốt lắm, họ là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất
và tinh thần. Người chỉ ra phẩm chất tốt đẹp của dân ta là lòng trung thành và
tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh, biết
nhường cơm sẻ áo, che chở, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách
mạng.
Hồ Chí Minh còn khẳng định dân ta rất tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ
biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” 25, đặc biệt là lòng sốt
sắng, hăng hái của nhân dân để thực hiện con đường cách mạng. Nhân dân là
yếu tố quyết định thành công của cách mạng. Người kết luận: “Lòng yêu nước
và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng
nổi”26.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng

24
. Sđd, t.5, tr.241.
25
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.295.
26
. Sđd, t.6, tr.281.
+ Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khi mất nước, thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở,
đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Người luận giải rằng: nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý
gì. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành.
Khẳng định con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một điều
quan trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều
vì lợi ích chính đáng của con người.
+ Con người là động lực của sự nghiệp cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Người cho rằng sự nghiệp cách mạng là do chính lực lượng bản thân của con
người tạo dựng nên.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không phải mọi con người đều trở thành động
lực của sự nghiệp cách mạng, mà phải là những con người được thức tỉnh, giác
ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá,
đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử văn hóa hàng ngàn năm
của dân tộc Việt Nam.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ
chức, có lãnh đạo. Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng. Qua các phong trào cách mạng của quần chúng,
Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.
Giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa con người mục tiêu và con người
động lực, Hồ Chí Minh cho rằng: càng chăm lo cho con người mục tiêu tốt bao
nhiêu thì phát huy con người động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường
được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu
cách mạng.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người

a. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của
cách mạng
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa quan trọng của chiến lược xây dựng con
người mới. Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con
người. Người đề cập tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài nhưng cũng
rất cấp bách. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa
rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa đương
nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.Quan điểm
này về mặt lôgic không hề mâu thuẫn, cần hiểu là phải đặt ra ngay từ đầu nhiệm
vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã
hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu
dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và phụ thuộc về trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, gia đình và cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng con người như
vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có nhiều biện pháp nhưng theo Hồ Chí
Minh giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Người luận giải: giáo dục
tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại,
giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ. Bác rất đề cao vai trò của giáo
dục: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải
chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.

b. Nội dung và phương pháp xây dựng con người


Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ,
phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên
hàng đầu. Trong việc đào tạo và sử dụng con người, Hồ Chí Minh luôn coi
trọng cả tài năng và đạo đức. Hai mặt Đức và Tài luôn luôn thống nhất với
nhau, không tách rời nhau, tạo điều kiện cho nhau, giúp cho con người hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng của mình. Trong hai mặt ấy “Đức” giữ địa vị là
nền tảng. Trong việc “trồng người”, Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng
đạo đức, Người thường xuyên bồi đắp cái nền tảng ấy cho con người. Người
yêu cầu tất cả mọi người không trừ một ai, không trừ cấp nào đều phải thường
xuyên trau dồi đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh coi sự nghiệp “trồng người” là công việc “trăm năm”,
không thể nóng vội một sớm một chiều, không tuỳ tiện, sao nhãng sự nghiệp
giáo dục. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải theo tinh thần của Khổng Tử: “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”, của Lênin: “Học! Học nữa! Học mãi”.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
IV. XÂY DỰNG VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN
NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
(7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng: Văn hoá là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và
phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ
trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn
hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự
kiên trì, thận trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định phải xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất
lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân,
thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu
hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của
công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại,
thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc,
đúng đắn, đầy đủ về vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững
đất nước. Mỗi bước đi lên của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn
hóa. Do đó cần phải phát triển văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Trong đó, tập
trung xây dựng văn hóa chính trị và các lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa ứng
xử, văn hóa phê bình…Bên cạnh đó, cần phải phát huy và trọng dụng nhân tố
con người với tư cách là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Muốn vậy, phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo,
trọng dụng trí thức và nhân tài, thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng
vì con người, tạp động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
(7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là con người có tinh thần yêu nước, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có chí vươn lên
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong
sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý
thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học
tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 Khóa IX về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
(Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII (01/2016) của Đảng nêu phương hướng: “Xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”27.
Đại hội XII của Đảng nêu lên các nhiệm vụ cụ thể: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo
đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh”.
2. Xây dựng đạo đức cách mạng
a. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân
Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị của con người.
Đạo đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, quy tắc, quan
niệm về các giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, nhân phẩm, công
bằng... được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con người với
con người, con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát
vọng hướng tới chân thiện mỹ. Để vươn tới sự hoàn thiện đó, trước hết con
người phải tự tu dưỡng, hoàn thiện mình về đạo đức.
Hồ Chí Minh cho rằng, việc tu dưỡng đạo đức cá nhân của mỗi con người
có vai trò vô cùng quan trọng. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn
quan trọng hơn. Vì thế hệ trẻ là “người chủ tương lai của nước nhà” 28; là cái cầu
nối giữa các thế hệ - “người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”3. Chính vì vậy, việc giáo
dục đạo đức và chăm lo việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm.
Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống
hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị của

27
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
tr.126.
28
. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.185.
chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp mỗi cá nhân vượt qua khó khăn
thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công
cũng vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn; lo hoàn thành
nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”29.
- Tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với
hoc sinh, sinh viên và thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh sớm xác định những
phẩm chất đạo đức cần thiết. Những phẩmchất đó được Người đề cập đến trong
Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứhai (07/05/1958), Người tómtắt
“sáu cái yêu”:
+ Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta
giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân
còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn những
công tác nặng nhọc với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa
xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có
khoa học và kỷ luật”30.
Theo Người, để có được những phẩm chất đó, sinh viên phải rèn luyện
cho mình những đức tính như: trung thành, tận tuỵ, thật thà và chính trực. Phải

29
. Sđd, t.9, tr.284.
30
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t .9, tr 173-174.
xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình
những gì. Mà phải tự hỏi mình, đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào
cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn
đấu chừng nào”31.
Trong học tập, rèn luyện phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với
lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo
danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống
cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”32.
Người chỉ rõ nhiệm vụ của học sinh sinh viên phải trả lời được câu hỏi:
Học để làm gì? Học để phục vụ ai.? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là
xấu? Ai là bạn, ai là thù?”... Người dẫn giải: “Đối với người, ai làm gì lợi ích
cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân
dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có
lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động
có hại cho Tổ quốc và đồng bào là thù... Điều gì phải cố làm cho kỳ được, dù là
việc nhỏ. Điều gì trái, phải hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”33.

b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức
trong hành động. Chính nhờ nền đạo đức đó, trong từng giai đoạn cách mạng,
thế hệ trẻ Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tích to lớn, góp phần vào tiến
trình chung của lịch sử nước nhà.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
thế giới, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành với công cuộc đổi mới của
Đảng. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc

31
. Sđd, t.7, tr.455.
32
. Sđd, t.7, tr.455.
33
. Sđd, t.7, tr.454.
như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình vẹn tròn, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư với những yêu cầu mới của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn
sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành
mạnh; khiêm tốn, cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập
thân, lập nghiệp, năng động, linh hoạt, nhạy bén, dám đối mặt với những khó
khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó
máu thịt với nhân dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, do tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập
thế giới, do sự bùng phát của lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo danh lợi
bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ
biến. Đó là:
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
+ Tình trạng nhũng nhiễu, của quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận
công chức.
+ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém
về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ
trình độ hoàn thành nhiệm vụ.
+ Biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục,
sự chống phá của các thế lực phản động trong nước và quốc tế nhằm thực hiện
âm mưu “diễn biến hoà bình”... đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức
công dân, ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh
niên trí thức.
* Hậu quả: Một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất
phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống
thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã
hội, sa vào nghiện ngập, hút xách; thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy
điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đây là những biểu hiện suy đồi
đạo đức cần được khắc phục.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ
nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản kiên trung, nhưng đồng
thời cũng là tấm gương đạo đức của một con người chân chính, bình dị, gần gũi,
ai cũng có thể theo học, làm theo, để trở thành những người cách mạng, người
công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy được thể hiện trong các điểm sau:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ngay từ
thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu
cho cả cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách
mạng lâu dài và gian khổ, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian
nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
thực hiện bằng mục tiêu đó.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí
Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua biết bao
khó khăn, Người kiên trì mục tiêu của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan
điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Người
tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần phải càng cao”.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và
nhân hậu với con người. Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào
trí tuệ và sức mạnh của nhân dân: dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm
“người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân,
đồng bào ra mặt trận”.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm
vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. Hồ Chí
Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người dành tình
thương yêu cho tất cả, Người chia sẻ những nỗi đau với mỗi người. Người nói:
“Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng biệt và gộp những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”
Năm là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa
chuộng những nghi thức sang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì nước,
vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người
cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình noi gương thực hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song “khó ai có thể vượt
hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm
gương cụ thể, gần gũi, mà mọi người đều có thể noi theo.

* Đối với thanh niên, học sinh, sinh viên, học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục qua đó để giáo dục,
rèn luyện mình, xứng đáng là những vừa “hồng” vừa “chuyên”, những chủ nhân
tương lai của đất nước. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
gồm những nội dung cơ bản sau:
- Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước,
hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai
đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần
yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn
tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “sánh vai với cường
quốc năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
Mỗi thanh niên cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to
lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do,
thốn nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền
thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt
Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền
văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích
của đất nước.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ
trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết
kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được
thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết
tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát
triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính
yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh
không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng
chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ,
bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
Trung với nước, hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với
công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành
đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê
hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống
hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri
thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao
động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền
thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu
hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết
chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập
thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo,
không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân...
- Hai là, thực hiện “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm
giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ
tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người
là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập
và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư trong giai đoạn hiện nay là:
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản
của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức;
biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính
mình một cách có hiệu quả.
Thực hiện chí công vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng. Đối với thanh niên phải loại bỏ lối sống thực dụng, vị kỷ, giành giật
lợi ích cho mình, vun vén cho cá nhân... Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ
chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành,
khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm
khuyết điểm...
Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống
bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều,
làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang
nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì “hăng hái”, tranh thủ
kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạo.
Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước
và của nhân dân. Phải có lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
- Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó, hoà mình với nhân
dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính
Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần
chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân.
Học tập và làm theo Người, thanh niên phải đặt mình trong tổ chức, trong
tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương, tất cả vì nhân dân, mỗi
cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách
nhiệm với dân. Phải chia sẻ và đồng cam, cộng khổ với nhân dân.
Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình.
Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm,
không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có
quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư
hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là
xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ
đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình.
- Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát
huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết,
hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu
giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng
Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân
tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao
cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các
dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân
dân ta và phong trào cách mạng thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc
tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng
để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt
Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì
độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển.
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc
lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác
cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất
công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của
quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu
nghị giữa các dân tộc.
Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thanh
niên cần phải nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu
tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện
vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.Sự nghiệp đổi mới đất
nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và
phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời
tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh
vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm
đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo
đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo
đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của
ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong
những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp
phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh,
hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi
người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên
tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về khái niệm, vai trò, tính chất, chức
năng của văn hóa.
Câu 2: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức, các
nguyên tắc rèn luyện đạo đức cách mạng. Liên hệ với việc rèn luyện đạo đức
của sinh viên hiện nay.
Câu 3: Phân tích các phẩm chất đạo đức của người cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí MInh
Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Câu 5: Thuyết trình sự khác biệt về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với tư tưởng
đạo đức Nho giáo.

You might also like