You are on page 1of 157

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ




TS NGUYÔN V¡N QUANG

BµI GI¶NG

T- t-ëng hå chÝ minh

Huế, 01/2019

1
MỤC LỤC


Trang

Chương I Đối tượng, khái niệm, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa 3
học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Chương II Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí 14
Minh

Chương III Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 37
hội

Chương IV Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản và Nhà nước 73


Việt Nam

Chương V Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và 96
đoàn kết quốc tế

Chương VI Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và con người 117

2
Chương I
ĐỐI TƯỢNG, KHÁI NIỆM, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Đối tượng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Hệ thống quan điểm
của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Các quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ được phản ánh trong các bài nói, bài viết, mà còn được thể hiện qua
quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng phong phú của Người, được Đảng và Nhà
nước ta vận dụng, phát triển sáng tạo qua các thời kỳ cách mạng.
Như vậy, đối tượng của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là bản
thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện trong toàn bộ di sản Hồ Chí
Minh mà còn là quá trình vận động, hiện thực hóa các quan điểm, lý luận đó
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là quá trình mang tính quy luật bao
gồm hai mặt thống nhất biện chứng: sản sinh tư tưởng và hiện thực hóa tư tưởng
theo các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
II. KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Quá trình nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh
Ở Việt Nam, từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương
lĩnh chính trị đầu tiên thể hiện những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam.
Sau khi Đảng ta ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua các giai đoạn thử
thách và đã được khẳng định. Việc nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng
như vai trò của Người đối với cách mạng Việt Nam và sự phát triển của dân tộc
là một quá trình không đơn giản.
Do ảnh hưởng của đường lối, quan điểm tả khuynh của Đại hội VI Quốc tế
Cộng sản (1928) về vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa,
3
nên đã nảy sinh những sự hiểu không đúng từ Quốc tế Cộng sản và một số người
trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhưng trong thực tế, dần dần thực tiễn đã
chứng minh sự đúng đắn của các quan điểm của Hồ Chí Minh, cho nên tư tưởng
Hồ Chí Minh đã dần được khẳng định lại. Đại hội II của Đảng (2/1951) khẳng
định: “Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta
hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức Hồ Chủ tịch… Toàn Đảng hãy ra
sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ
tịch; sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách
mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”1.
Nghiên cứu sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
ta đã tôn vinh Người là “Anh hùng dân tộc vĩ đại”. Điếu văn của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (9/9/1969) nêu rõ: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất
nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người
đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”2. Tiếp nối sự
đánh giá ấy, Đại hội Đảng lần thứ IV của Đảng (12/1976) tiếp tục khẳng định:
“Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử
chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên
tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh”3. Đến Đại hội lần thứ V, Đảng ta nhấn mạnh:
“Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư
tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”4.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) là bước ngoặt quan
trọng trong nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội VII khẳng định:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”5. Đồng thời nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.9.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.627.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.474.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.3, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.61.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.

4
thể nước ta và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh
thần quý báu của Đảng và cả dân tộc”1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001), Đảng đã nhận thức về tư
tưởng Hồ Chí Minh đầy đủ hơn so với Đại hội VII. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về
sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, về đạo đức
cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”2.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định:
“Tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài
sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta
trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của
cách mạng Việt Nam, là sức mạnh tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau”3.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr. 83-84.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.6-7.

5
Từ Đại hội lần thứ XI đến nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định công lao vĩ đại
của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; tư tưởng, đạo đức và phong cách
Hồ Chí Minh là những nhân tố không thể thiếu trong tư tưởng và hành động của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta nhấn mạnh
phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo
và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”1.
Trên bình diện quốc tế, nhiều đảng chính trị, nhiều quốc gia, nhiều tổ chức,
cá nhân các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao về phẩm chất, năng lực và vai trò của
Hồ Chí Minh đối với quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam, cũng như đối với
quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), tại khóa họp Đại Hội đồng lần thứ 24 tại
Paris, từ ngày 20/10/1987 đến ngày 20/11/1987, đã ra Nghị quyết số 24C/18.6.5
về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghị quyết ghi rõ:
“Nhắc lại Quyết định số 18C/4.351 thông qua tại Khóa 18 Đại Hội đồng
UNESCO về việc tổ chức kỷ niệm ngày sinh của các danh nhân và việc kỷ niệm
các sự kiện lịch sử đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại” và
ghi nhận “việc tổ chức kỷ niệm ngày sinh các nhân vật trí thức lỗi lạc và các danh
nhân văn hóa trên phạm vi quốc tế góp phần thực hiện các mục tiêu của
UNESCO và đóng góp vào sự hiểu biết trên thế giới”, trên cơ sở đó “ghi nhận
năm 1990 sẽ đánh dấu 100 năm Kỷ niệm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”2.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của
con người với thế giới xung quanh. Khái niệm “tư tưởng” trong “tư tưởng Hồ
Chí Minh” có ý nghĩa tầm khái quát triết học. Nó không dùng với ý nghĩa tinh
thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.99.
2
Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính (Đồng chủ biên): “UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh – Anh hung giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013, tr.71-72.

6
là hệ thống quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng
triết học (thế giới quan và phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí,
quyền lợi, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ
sở thực tiễn và tác động trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Nhà tư tưởng là người biết nắm bắt và giải quyết trước người khác tất cả
các vấn đề thuộc về chính trị - sách lược, tổ chức, tập hợp lực lượng, về những
yếu tố vật chất của phong trào cách mạng không phải một cách tự phát. Theo đó,
từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, lịch sử có trăm nghìn nhà tư tưởng lỗi lạc,
đóng góp to lớn cho lịch sử phát triển của loài người, trong đó có Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu
khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi”1.
Khái niệm trên đây chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
hình thành và ý nghĩa của tư tưởng đó. Cụ thể:
+ Bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh: là hệ thống
các quan điểm lý luận, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng
Việt Nam.
+ Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mác - Lênin; giá trị văn
hóa dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh: tài sản tinh thần to lớn của Đảng,
dân tộc Việt Nam và nhân loại, soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.32.

7
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin và bản
thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Trong đó, các
nguyên lý triết học Mác - Lênin với tư cách là phương pháp luận chung của các
ngành khoa học cần phải được sử dụng như một công cụ tư duy quan trọng. Sau
đây là một số nguyên tắc phương pháp luận cần được quán triệt trong nghiên
cứu, học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải đứng trên lập trường, quan
điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và
đánh giá tư tưởng Hồ Chí Minh, tránh việc áp đặt, tầm thường hóa, cường điệu
hoặc hiện đại hóa tư tưởng của Người.
Tính đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự phản ánh trung
thực, khách quan tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở lập trường, phương pháp
luận và định hướng chính trị.
b. Thống nhất nguyên tắc lý luận gắn với thực tiễn
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, thực tiễn là nguồn gốc, động lực của nhận
thức, là cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng việc
kết hợp lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Hồ Chí Minh khẳng định: Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, dễ mắc bệnh chủ
quan; Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Chủ tịch Hồ Chí
Minh là người luôn xuất phát từ thực tiễn đất nước, đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành
được những thắng lợi vẻ vang.

8
Vì vậy, học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần quán triệt quan điểm
lý luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, phải biết vận dụng những kiến thức
đã học vào cuộc sống, thực tiễn, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của đất nước.
c. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Cùng với việc vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, học tập và nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó,
nghiên cứu sự vật hiện tượng xuất hiện trong lịch sử như thế nào, sự vật hiện
tượng đó trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, đứng trên quan điểm
của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó trở thành như thế nào... Nắm vững
quan điểm này giúp chúng ta nhận thức được bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh
mang đậm dấu ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng tạo,
đổi mới.
d. Quan điểm toàn diện và hệ thống
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
cách mạng Việt Nam. Một yêu cầu cấp thiết về khoa học khi nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh là phải luôn quán triệt mối liên hệ qua lại của các yếu tố,
các nội dung khác nhau trong hệ thống tư tưởng đó, và phải lấy hạt nhân là tư
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nắm vững và đầy đủ hệ thống
các quan điểm của Người. Nếu tách rời một yếu tố nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu
sai về bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Chẳng hạn
tách rời độc lập dân tộc khỏi chủ nghĩa xã hội sẽ xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh.
e. Quan điểm kế thừa và phát triển
Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã kế thừa có
chọn lọc truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời bổ sung và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, hình thành nên một hệ thống các quan điểm lý luận mới hết
sức sáng tạo. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi không chỉ biết

9
kế thừa, vận dụng mà còn phải biết phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong
điều kiện thực tiễn của đất nước và quốc tế.
g. Kết hợp nghiên cứu tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ
Chí Minh
Hồ Chí Minh là nhà hoạt động cách mạng trên cả hai phương diện lý luận và
thực tiễn. Người đã xây dựng hệ thống lý luận, vạch ra cương lĩnh, đường lối, chủ
trương cách mạng và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo thực hiện. Người luôn chú ý tổng
kết thực tiễn, thông qua đó bổ sung hoàn chỉnh và phát triển lý luận, do đó tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn có tính cách mạng, sáng tạo, không giáo điều, lạc hậu.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ căn cứ vào các tác phẩm, bài
viết, bài nói mà cần coi trọng những hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng do Người đứng đầu. Kết quả hành động
thực tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu và xây dựng của nhân
dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chất chứa những giá trị khoa học
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh không chỉ
thể hiện sự sáng tạo trong lý luận, vạch ra đường lối chính sách, chiến lược cách
mạng mà còn thể hiện qua thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Người.
2. Các phương pháp cụ thể
Ngoài các nguyên tắc phương pháp luận chung, học tập, nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh cần phải vận dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Trong đó, việc vận dụng phương pháp lịch sử (nghiên cứu sự vật và hiện tượng
theo quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong) và phương pháp logic (nghiên
cứu một cách tổng quát nhằm tìm ra bản chất của sự vật, hiện tượng và khái quát
thành lý luận) là hết sức cần thiết trong học tập, nghiên cứu và giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Học tập, nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh còn vận dụng
phương pháp liên ngành. Là một nhà tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện
tư tưởng của mình như một hệ thống, bao quát trên nhiều lĩnh vực: triết học,
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, đạo đức… Trước một đối tượng nghiên cứu

10
đa dạng và phong phú nhiều mặt như vậy, không một lĩnh vực nào có đủ năng
lực bao quát hết để đưa ra một bức tranh tổng quát về tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì
vậy, cần thiết phải áp dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã
hội - nhân văn, lý luận chính trị để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để hiểu rõ hơn bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, người học cần sử dụng
phương pháp phân tích văn bản học kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải dựa vào
những tác phẩm của Người, đó là những tài sản quý báu Hồ Chí Minh để lại cho
dân tộc Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của Người là một bộ phận cực kỳ quan
trọng làm nên hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trên thực tế, có nhiều nội dung phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh không ở
trong văn bản mà là ở trong thực tiễn chỉ đạo của chính bản thân Hồ Chí Minh,
hoặc qua phản ánh của các đồng chí, học trò của Người.
Ngoài ra, để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đạt kết quả cao hơn, cần
phải đổi mới và hiện đại hóa các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên cơ sở
không ngừng phát triển và hoàn thiện lý luận và phương pháp luận khoa học nói
chung. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng có hiệu quả là: phân
tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê trắc lượng, điều tra điền dã, phỏng
vấn nhân chứng lịch sử… Việc vận dụng và kết hợp các phương pháp nghiên
cứu cụ thể phải căn cứ vào nội dung nghiên cứu.
IV. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
quốc tế hiện nay.
1. Góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng, soi đường cho Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Thông qua việc học tập, nghiên cứu, giảng

11
dạy tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí
của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; đưa tư tưởng của Người
ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
Thông qua việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng,
củng cố cho sinh viên lập trường quan điểm cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội; tích cực, chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai
trái, bảo vệ sự trong sáng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
ta; biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong
cuộc sống. Hơn nữa, tri thức và kĩ năng của sinh viên hình thành và phát triển
qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là những yếu tố bồi đắp năng
lực lí luận để chỉ dẫn hành động, góp phần hình thành những công dân có ích
cho xã hội trong quá trình thực hiện mục tiêu cao cả “xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa
học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước
Qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có điều kiện
hiểu biết sâu sắc và toàn diện về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí
Minh - lãnh tụ của Đảng, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chiến sĩ kiên
cường đấu tranh vì độc lập, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tiến bộ của các dân
tộc trên thế giới.
Sinh viên học tập, nghiên cứu môn Tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ có điều kiện
tốt để thực hành đạo đức cách mạng, xây dựng chủ nghĩa tập thể, chống chủ
nghĩa cá nhân, hình thành những phẩm chất đạo đức cao quý để lập thân, lập
nghiệp; nâng cao lòng tự hào về đất nước và con người Việt Nam, về chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, về Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam, tự nguyện “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương Bác Hồ
vĩ đại”.

12
Thông qua việc học tập, nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh
viên sẽ nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định ý thức và trách nhiệm công dân;
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình gắn với trau dồi
tình cảm cách mạng, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng
theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
3. Xây dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác
Tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng góp phần tích cực trong việc giáo dục,
hình thành và hoàn thiện nhân cách thế hệ trẻ để trở thành những chiến sĩ tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
góp phần làm cho đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Qua nghiên cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có điều kiện
vận dụng tốt hơn những kiến thức và kĩ năng đã học vào việc xây dựng phương
pháp học tập, tu dưỡng, rèn luyện; xây dựng phong cách tư duy, làm việc, diễn
đạt, ứng xử, sinh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể của bản thân.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1. Trình bày đối tượng nghiên cứu môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 2. Phân tích quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 3. Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh (bản chất, nguồn gốc, ý
nghĩa)

Câu 4. Phân tích tầm quan trọng của việc sử dụng các phương pháp nghiên
cứu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 5. Phân tích ý nghĩa của việc học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với sinh viên?

13
Chương II
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Bất cứ một học thuyết hay một tư tưởng vĩ đại nào ra đời cũng đều có
nguồn gốc xã hội của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển trong
điều kiện xã hội nửa thuộc địa phong kiến. Nhân dân Việt Nam vừa đấu tranh
chống lại chủ nghĩa tư bản đế quốc xâm lược, vừa chống lại các thế lực phong
kiến, địa chủ đã suy tàn đang cố bám lấy bọn đế quốc thực dân để duy trì quyền
lợi của mình. Vì vậy, khi nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh không thể không
nghiên cứu các nhân tố khách quan và chủ quan, trong nước và thế giới đã tác
động đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Người.
1. Cơ sở thực tiễn
a. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế
quốc được hình thành và chúng đã xác lập được sự thống trị trên phạm vi toàn
thế giới. Chỉ 9 nước đế quốc là Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Italia, Nhật Bản,
Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các
nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa, bị chúng tước
đoạt các giá trị văn hóa, tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội, mạng sống
của người dân thuộc địa “không đáng một trinh”1.
Đặc điểm căn bản của chủ nghĩa đế quốc là xâm chiếm thuộc địa nên bên
cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản - mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với
giai cấp vô sản, chủ nghĩa đế quốc với hệ quả tất yếu của việc xâm chiếm thuộc
địa làm nảy sinh mâu thuẫn mới của thời đại - mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản, giữa chủ nghĩa đế quốc thực dân với các dân tộc bị áp bức,
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.2, tr.59.

14
các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc không còn là một hành động riêng lẻ của một dân tộc mà trở thành cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân gắn liền với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế. Cách mạng giải phóng dân tộc trở
thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 vĩ đại và sự ra đời của
Liên bang Xô viết đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận ra một
chân lý của thời đại: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”, tạo ra bước ngoặt cơ bản đối với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, trong đó có Việt Nam phát triển nhanh chóng.
Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết và Quốc
tế Cộng sản, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ
Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
b. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Bối cảnh đất nước
Hồ Chí Minh sinh ra trong bối cảnh dân tộc Việt Nam đang chìm đắm trong
cảnh nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay
sai. Kể từ khi triều đình nhà Nguyễn kí Hiệp ước Patenôtre (6/6/1884) chịu sự bảo
hộ của đế quốc Pháp, trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho giặc, còn đại đa
số nhân dân Việt Nam vẫn nung nấu chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên chiến
đấu giành độc lập. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh
yêu nước chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra khắp cả ba miền đất nước. Ở miền
Bắc có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành, Đinh Công
Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa Thám… Ở miền Trung có các cuộc khởi
nghĩa của Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phan Đình Phùng… Ở miền Nam, có các
cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực…. Các cuộc khởi nghĩa,
trong đó có những cuộc dưới ngọn cờ “Cần Vương”, tuy anh dũng nhưng cuối

15
cùng đều thất bại, ý thức hệ tư tưởng phong kiến thể hiện rõ sự lỗi thời trước vận
mệnh của đất nước.
Sau khi hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực
dân Pháp bắt tay khai thác thuộc địa mạnh mẽ, từng bước biến nước ta từ một
nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Về chính
trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến tay, thực dân là để “làm bình
phong” cho chính sách khai thác thuộc địa. Vua quan vẫn tồn tại nhưng mất hết
thực quyền. Về kinh tế, thực dân Pháp duy trì chế động kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, với hơn 95% dân số là nông dân, đồng thời ra sức bóc lột, vơ vét bằng sưu
cao thuế nặng. Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành chính sách “giáo dục khai
hoá” ở mức độ vừa phải để tạo ra đội ngũ tay sai, nhưng vẫn duy trì nền giáo
dục phong kiến để tiếp tục củng cố trật tự xã hội và ràng buộc tầng lớp nho sĩ
vào bộ máy chính quyền thực dân, hạn chế mở mang trường học và hạn chế tự
do lưu hành báo chí, ấn phẩm văn hóa tiến bộ. Dưới ách thống trị của thực dân
Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự do, xã hội Việt Nam xuất hiện hai giai cấp
mới: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, đồng thời nảy sinh hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai;
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến.
Cùng với những biến chuyển về mặt xã hội, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh
hưởng của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung
Quốc và duy tân ở Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước như:
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909), Phong trào
Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908), Phong trào Đông Kinh
Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một sốt nhân sĩ khác phát
động (3/1907-11/1907), Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ
(1908). Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản diễn ra
mạnh mẽ một thời gian ngắn rồi cũng lần lượt bị dập tắt. Nguyên nhân thất bại là
do giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu, sự bất lực về ý thức hệ của các lãnh tụ

16
phong trào, chưa có đường lối, sách lược, chiến lược và phương pháp cách mạng
đúng đắn. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Sứ mệnh
lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, cho mỗi người dân yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ
là phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị của đế quốc
và bè lũ tay sai.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới. Từ cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX, công nhân từ một lực lượng ít ỏi trở thành một giai cấp,
chịu ba tầng áp bức là thực dân, tư bản và phong kiến, nên họ sớm vùng lên đấu
tranh từ hình thức đốt lán trại, bỏ trốn tập thể đến đình công, bãi công.
Như vậy, phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu
thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác - Lênin xâm nhập, truyền bá
vào nước ta. Chính Hồ Chí Minh đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người đã chuẩn bị
về tư tưởng, lý luận và tổ chức để sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự hình thành về
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
- Bối cảnh quê hương, gia đình
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ
Nguyễn Sinh Sắc - một nhà nho cấp tiến. Tấm gương về ý chí kiên cường vượt
khó, về sự hiếu học và đặc biệt là lòng yêu nước, thương dân đã ảnh hưởng sâu
sắc tới Nguyễn Tất Thành trong quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh
người cách mạng.
Bên cạnh đó, quê hương Nghệ Tĩnh là một vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu
truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Vùng
đất địa linh nhân kiệt này đã sản sinh, nuôi dưỡng những anh hùng trong lịch sử
dựng nước và giữ nước như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung và các
lãnh tụ yêu nước thời cận đại như: Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu... có nhiều

17
hoạt động yêu nước và kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngoài ra, Người có sự
trưởng thành về mặt nhận thức và hành động trong những năm tháng sống và
học tập ở Huế. Nhờ sự tiếp xúc với những người thầy tiến bộ, tiếp xúc với văn
hóa phương Tây và chứng kiến thực tiễn nhiều biến động ở kinh đô, Người đã
tham gia phong trào chống thuế đánh dấu quá trình hoạt động cách mạng.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước cứu dân, chính yếu tố gia đình, quê
hương và văn hoá nguồn cội đã chuẩn bị cho Hồ Chí Minh về nhiều mặt, nền
tảng là lòng yêu nước, thương dân. Tất cả đã thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước. Trên nền tảng lòng yêu nước, thương dân sâu sắc đó kết hợp
với trí tuệ nhân loại và ánh sáng thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh đã nảy nở, hình
thành và phát triển không ngừng. Đây là một trong những nhân tố quan trọng,
tác động mạnh mẽ vào quá trình hình thành nhân cách người thanh niên Nguyễn
Tất Thành.
Từ bối cảnh trong nước và quốc tế đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước theo cách riêng, con đường riêng và phương pháp riêng, đó là:
đến các nước phương Tây “xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét
họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”1. Từ những hoạt động
thực tiễn của Người đã từng bước hình thành tư tưởng của mình đáp ứng đòi hỏi
của dân tộc và nhân loại.
Tóm lại, hoàn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận
động, phát triển của hệ tư tưởng yêu nước Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX; là sự gặp gỡ giữa trí tuệ Hồ Chí Minh với trí tuệ thời đại - chủ
nghĩa Mác - Lênin, đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ sự tiếp nhận
ban đầu, trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung phát triển những quan điểm mới, tạo thành
hệ thống tư tưởng của Người soi đường cho cách mạng Việt Nam.
2. Cơ sở lý luận
a. Giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam

1
Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.13.

18
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã
xây dựng một nền văn hoá đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền
thống tốt đẹp và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hoá này đã góp
phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Truyền thống yêu nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Việt
Nam, là điểm tương đồng lớn nhất và là chất keo kết dính toàn dân tộc. Chủ
nghĩa yêu nước là điều cốt lõi nhất, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị
văn hoá tinh thần Việt Nam, đó cũng là sợi chỉ đỏ bền chặt nhất, gắn bó với mỗi
người và cả dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi
Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết tinh thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam, Hồ Chí Minh trở thành nhà ái quốc vĩ đại.
Đoàn kết cộng đồng, khoan dung, tương thân, tương ái trong khó khăn,
hoạn nạn cũng là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Truyền thống này
được hình thành cùng lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu
đấu tranh với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu, là một dân tộc có truyền thống hiếu học, có tinh
thần cầu thị, sẵn sàng tiếp biến, mở cửa đón nhận tinh hoa văn hoá nhân loại.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, nhân dân ta biết chọn lọc, tiếp thu,
cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của nhân loại thành những giá trị của
riêng mình.
Đây là cội nguồn sâu xa và bền chặt nhất hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh, là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng.
b. Tinh hoa văn hoá nhân loại

19
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hoá của mình bằng cách học hỏi,
tiếp thu tư tưởng văn hoá phương Đông và phương Tây.
- Tinh hoa văn hóa phương Đông
Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu có phê phán, bác bỏ những yếu tố
duy tâm, lạc hậu, phản động như coi khinh lao động chân tay, coi thường vai trò
của người phụ nữ, khinh thường thực nghiệp, doanh lợi... Người đã khai thác,
chọn lọc những yếu tố tích cực, phù hợp của Nho giáo. Đó là triết lý hành động
tích cực: “tư tưởng nhập thế hành đạo giúp đời”; triết lý nhân sinh: “tu thân
dưỡng tính”, chủ trương từ vua cho đến thứ dân ai cũng phải lấy tu thân làm
gốc; đó là lý tưởng về một xã hội bình trị, tư tưởng về một thế giới đại đồng,
hoà mục, thiên hạ là của chung. Bên cạnh đó, Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo,
tạo ra truyền thống hiếu học trong nhân dân.
Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển tư tưởng vị tha, yêu
thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền
bình đẳng của con người và chân lý, khuyên con người sống hòa đồng, gắn bó
với đất nước, coi việc đạo là việc đời, ai ai cũng phải bảo vệ Tổ quốc. Người đã
vạch ra mặt tiêu cực của Phật giáo, đó chính là thủ tiêu đấu tranh, khuất phục
trước kẻ thù, an bài với số phận, đồng thời Người đã tiếp thu những tư tưởng
tiến bộ lớn của Phật giáo như:
+ Phản đối chế độ bất công, chế độ đẳng cấp bằng thái độ phủ định trật tự
xã hội hiện thời, đòi tự do, bình đẳng, dân chủ cho mọi người.
+ Khuyên con người sống có đạo đức từ bi, hỷ xả, quan tâm cứu giúp người
khác, chăm làm việc thiện, sống trong sạch, giản dị, giữ giới...
+ Phát huy truyền thống “Nhập thế” của Phật giáo trong lịch sử chống ngoại
xâm, bảo tồn văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự đoàn kết tôn giáo, coi
việc đạo như việc đời, hướng vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng nền
văn hoá mới, con người mới. Người đã nêu cao tấm gương “Phụng đạo - yêu
nước” của Hoà thượng Thích Quảng Đức, ngọn đuốc tự đốt mình của Hoà thượng
góp phần vào ngọn lửa đốt cháy cơ đồ của Mỹ - Diệm.

20
+ Ngoài ra Phật giáo đề cao tinh thần lao động, chống lười biếng, chủ
trương sống gắn bó với nhân dân, với đất nước.
Về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn: Hồ Chí Minh tìm thấy những
điều thích hợp với điều kiện nước ta, đó là “dân tộc độc lập, dân quyền tự do và
dân sinh hạnh phúc”.
Có thể nói, Hồ Chí Minh là người biết khai thác và kế thừa những yếu tố
tích cực của các học thuyết tư tưởng và văn hoá phương Đông để phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tinh hoa văn hóa phương Tây
Đối với tư tưởng và văn hoá phương Tây: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp
thu tư tưởng văn hoá dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp và cách mạng
Mỹ. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng
của các nhà khai sáng: Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ. Đặc biệt, Người chịu ảnh
hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền năm 1791 của cách mạng Pháp. Hồ Chí Minh sau này nhớ lại: “Khi tôi độ
13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái... và từ
thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì
ẩn đằng sau những chữ ấy”1. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Mỹ, Người đã
tiếp thu giá trị về quyền con người, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776 và quyền nhân dân kiểm soát
chính phủ…
Trong hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã thâu nhận, gạn
lọc và tiếp thu những giá trị tư tưởng văn hoá phương Tây với tinh thần phê
phán, chắt lọc. Người đã vận dụng, phát triển các trào lưu tư tưởng, văn hoá ấy
lên một trình độ mới làm phong phú thêm sự hiểu biết của người, phù hợp với
dân tộc và thời đại.
c. Chủ nghĩa Mác - Lênin

1
Sđd, t.1, tr.477.

21
Chủ nghĩa Mác - Lênin là bộ phận tinh túy nhất của văn hóa nhân loại, là
đỉnh cao của tư tưởng loài người, là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp
tiến tiến nhất. Nó là học thuyết tổng kết quá khứ, giải thích và cải tạo hiện tại,
chuẩn bị hướng dẫn tương lai. Hồ Chí Minh nhận thức rằng: chủ nghĩa Mác -
Lênin không chỉ là “chiếc cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam” mà còn là mặt
trời soi sáng cho chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận, quyết định
bước phát triển mới về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh vì:
+ Chủ nghĩa Mác - Lênin đem lại cho Người phương pháp đúng đắn để tiếp
cận văn hóa dân tộc, truyền thống cha ông cũng như tinh hoa, trí tuệ nhân loại.
Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn
Ái Quốc mới có thể tiếp cận, chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ
của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên hệ tư tưởng
của mình.
+ Nhận thấy được quy luật tất yếu của nhân loại dù sớm hay muộn các dân
tộc trên thế giới sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
+ Chính nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tổng kết
kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc để tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước của cách mạng Việt Nam.
+ Từ thế giới quan và phương pháp luận Mácxít, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy
con đường dân tộc Việt Nam phải đi và đích phải đến. Đó là con đường cách
mạng vô sản và đích của nó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, là cuộc
sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước không
đối lập mà gắn bó mật thiết với nhau. Điều này làm cho Hồ Chí Minh thành
người Việt Nam yêu nước chân chính nhất, nâng chủ nghĩa yêu nước của Việt
Nam lên một tầm cao mới; giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin mà

22
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chuyển từ lập trường yêu nước sang lập trường
giai công nhân, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Hồ Chí Minh đã tiếp cận, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
theo phương cách riêng của mình, cụ thể là:
+ Khi tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã không rơi vào
sao chép, giáo điều, rập khuôn mà biết tiếp thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo
những nguyên lý đó phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là
phương pháp biện chứng duy vật cốt để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu
nước giải phóng dân tộc và để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng
Việt Nam.
+ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp nhận
thức mác-xít, đồng thời theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nhằm
nắm lấy cái tinh thần, bản chất chứ không bị trói buộc vào ngôn từ, tự tìm ra
những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với những hoàn cảnh cụ thể của
cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong kinh điển.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, những tác phẩm, bài viết của Hồ Chí
Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng của Người theo thế giới quan,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người luôn khẳng định rằng:
“chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, khoa học
nhất, cách mạng nhất”. Và, như vậy có thể nhận thấy rằng Tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, có tính cách mạng, khoa học, rất
sâu sắc và triệt để.
2. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
a. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người có tư chất thông minh, khả năng ứng đối linh hoạt và được
kế thừa từ cha ông để phát triển vốn trí tuệ siêu việt. Người có hoài bão lớn cứu

23
nước, cứu dân khỏi cảnh lầm than, tự mình đi khắp thế giới để khảo sát thực tế
để tìm đường giải phóng dân tộc. Người đã làm nhiều nghề khác nhau để kiếm
sống, biết nhiều ngoại ngữ, tự học hỏi và hoạt động cách mạng.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh là người có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng
với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các
cuộc cách mạng tư sản. Cùng thời, có biết bao đảng viên Đảng Xã hội Pháp
người Việt cũng đọc luận cương của Lênin nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc sớm
nhìn ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc.
Ngoài ra, ở Hồ Chí Minh còn có sự khổ công học tập, chiếm lĩnh vốn tri
thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải
phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác -
Lênin với tư cách là khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản. Ở Người có
tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng,
một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng
hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do của đồng bào, hạnh phúc của nhân dân.
Chính những phẩm chất cá nhân đặc biệt đó đã quyết định việc Nguyễn Ái
Quốc tiếp cận, chọn lọc tinh hoa văn hóa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng
của mình.
b. Tài năng hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và hoạt động thực tiễn cách mạng phong
phú. Trước khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, lao động
ở gần 30 nước trên thế giới. Người đã thâm nhập, tìm hiểu và xác định rõ bản
chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều
nước thuộc địa. Người đã tìm hiểu các phong trào giải phóng dân tộc, xây dựng
chế độ xã hội, xây dựng Nhà nước, xây dựng Đảng Cộng sản… thông qua việc
tham gia nghiên cứu lý luận và tổ chức sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Đảng
Cộng sản Trung Quốc, cũng như tham gia phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế ở nhiều nước.

24
Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện
thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động, đồng thời tổng
kết thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận cách mạng. Cùng với việc
tìm thấy mục tiêu, phương hướng cho cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác -
Lênin, Người đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về chính trị,
tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; sáng lập Mặt
trận dân tộc thống nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam.
Có thể nói, những phẩm chất cá nhân cùng với những hoạt động thực tiễn
phong phú trên nhiều lĩnh vực ở trong nước và thế giới là nhân tố chủ quan hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
1. Thời kì trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí
hướng cứu nước
Trong thời kì này, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc, quê hương, gia đình để hình thành nên tư tưởng yêu nước và chí hướng
cứu nước.
Nghệ An là vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống cách mạng, sản
sinh nhiều nhân tài và anh hùng hào kiệt. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia
đình khoa bảng. Thân phụ Nguyễn Sinh Sắc là một nhà nho cấp tiến. Tinh thần
yêu nước, thương dân và nhân cách Nguyễn Sinh Sắc có ảnh hưởng lớn lao đến
tư tưởng, nhân cách Hồ Chí Minh thuở niên thiếu. Bên cạnh đó, Người còn chịu
ảnh hưởng sâu sắc từ tình cảm của thân mẫu Hoàng Thị Loan. Bà là hình mẫu
của người phụ nữ Việt Nam cần mẫn, đảm đang, hết mực yêu chồng, thương con
và rất nhân hậu, được bà con láng giềng mến phục.
Trong thời kì trước năm 1911, Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống tốt đẹp
của quê hương, gia đình, được theo học những vị túc nho và tiếp xúc với nhiều
loại sách báo tiến bộ. Tại kinh đô Huế, hiểu rõ tình cảnh nước nhà bị xâm lược,

25
nhân dân mất tự do, Hồ Chí Minh sớm hình thành tư tưởng yêu nước và biểu
hiện qua hành động. Người tham gia phong trào chống thuế ở Trung kỳ (1908).
Trăn trở trước những thất bại của các sĩ phu yêu nước chống Pháp, cùng
với tư chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, tinh thần cầu thị, ham học
hỏi, muốn tìm hiểu những tinh hoa văn hoá tiên tiến của các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản ở châu Âu, Hồ Chí Minh muốn ra nước ngoài xem họ làm gì để trở về
giúp đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Người không đi theo con đường mòn của
các bậc tiền bối. Người nói: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi nghe được
ba chữ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với
nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”1.
Và, “khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi. Người
thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng
bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh
đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc”2.
2. Thời kỳ từ 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh bôn ba tìm đường cứu nước và có sự chuyển
biến về mặt tư tưởng, từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa
Mác - Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân trở thành một chiến sĩ cộng sản.
Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam đang khủng hoảng đường lối cứu
nước, bằng nhiều công việc và tên gọi khác nhau, Hồ Chí Minh đến nhiều nước,
nhiều lục địa trên thế giới. Khởi hàng từ Bến Nhà Rồng - Sài Gòn (5/6/1911),
Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc hành trình khảo sát các nước phương Tây để tìm
hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và cuộc sống của nhân dân các dân
tộc. Qua những chuyến đi, Hồ Chí Minh đã có dịp chứng kiến tận mắt cuộc sống
của nhân dân các dân tộc bị áp bức, đồng thời thể hiện sự đồng cảm với nhân

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr,447.
2
Trần Dân Tiên: Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.12.

26
dân các dân tộc cùng khổ. Từ đó, Người rút ra nhận thức ở nhân dân lao động
cũng là bạn, ở đâu chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân đều là kẻ thù.
Giữa lúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kì ác liệt, cuối
năm 1917, Người từ nước Anh trở lại pháp tham gia phong trào công nhân Pháp
chống chủ nghĩa thực dân. Ngày 7/11/1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc cách
mạng này và với lãnh tự V.I. Lênin. Năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội của
giai cấp công nhân Pháp. Chiến tranh kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp
Hội nghị Véc-xây (năm 1919). Thực chất của Hội nghị này là các nước thắng
trận chia lại thuộc địa nhưng được ẩn giấu dưới những lời lẽ “tự do”, “công
bằng”, “nhân đạo”. Thay mặt nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến
Hội nghị Yêu sách của nhân dân An Nam đòi các cường quốc thừa nhận quyền
tự do, dân chủ, bình đẳng của dân tộc Việt Nam, nhưng bản Yêu sách bị từ chối.
Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “Những lời tuyên bố của chủ nghĩa đế quốc chỉ
là một trò bịp bợm và các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào
chính sức lực của bản thân mình”.
Tháng 07/1920, khi lần đầu tiên tiếp xúc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã
tìm thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người
viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc. Ngồi một mình trong buồng mà tôi
nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta!”1. Từ đây, Người tin theo V.I.Lênin, tin theo cách mạng tháng Mười Nga vĩ
đại, và Người cũng tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
Tháng 12/1920, Đại hội lần thứ VII của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tours, Hồ
Chí Minh cùng với những đảng viên tiên tiến đã biểu quyết gia nhập về Quốc tế

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.127.

27
III - Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này
đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp,
từ chiến sĩ yêu nước thành chiến sĩ cộng sản.
3. Thời kỳ 1921-1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về
cách mạng Việt Nam
Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận rất sôi nổi, phong phú của Hồ
Chí Minh ở Pháp (1921 - 1923), ở Liên Xô (1923 - 1924), ở Trung Quốc (1924 -
1927), ở Thái Lan (1928 - 1929)… Trong thời kỳ này, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản, Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu
xây dựng lý luận với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động quần
chúng, xây dựng tổ chức cách mạng. Người đã chuẩn bị những tiền đề chính trị,
tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo Người cùng khổ
(1922), tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tạp chí Thanh niên (1925
- 1927), tác phẩm Đường Kách Mệnh (1927) và những bài viết trên các tạp chí:
Cộng sản, Đời sống công nhân, Thông tin quốc tế... là những công cụ quan trọng
trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu
nước truyền thống thành yêu nước theo lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh. Những
bài viết của Người trong giai đoạn này chứa đựng nhiều tư tưởng lớn, đánh dấu sự
hình thành cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Tư
tưởng đó được biểu hiện qua những luận điểm cơ bản sau:
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng
giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính
quốc mà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn.

28
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải đoàn kết và liên minh với các lược
lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, không
được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết.
Giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng, phải tập hợp lực lượng dân tộc
thành sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai. Phải tổ chức quần chúng, lãnh
đạo và tổ chức đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập, tự do bằng bạo
lực cách mạng của quần chúng và bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công trước hết phải có Đảng
cách mạng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững
cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy
đúng hướng, tới đích…
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh
trong những năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho
phong trào dân tộc và giai cấp ở nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 03/02/1930.
Trước tình hình trong một nước có ba tổ chức cộng sản cùng hoạt động
(Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929) và
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1/1930)), từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hồ
Chí Minh đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng1. Hội nghị đã phân công Hồ Chí
Minh khởi thảo Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã được Hội nghị nhất trí thông qua và trở
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta2 - Cương lĩnh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hội nghị thống nhất lấy tên Đảng là Đảng
Cộng sản Việt Nam.

1
Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (18/2/1930), đồng chí Nguyên Ái Quốc đã viết: “Chúng tôi cùng nhau
xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối Quốc tế Cộng sản”.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.12.

29
Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta đánh giá hết sức khách quan,
chân thực về bản chất của giai cấp địa chủ, về tình trạng thất nghiệp của nông
dân, sự yếu kém của công nghiệp... đều do sự cản trở của thực dân Pháp. Tình
hình xã hội cùng nảy sinh những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, giữa một bên là
toàn thể dân tộc Việt Nam với bên kia là chủ nghĩa đế quốc, thực dân Pháp và
tay sai của bọn chúng là bọn phong kiến đương chức, đại địa chủ, đại tư sản
phản cách mạng. Để giải quyết mâu thuẫn đó, Đảng: “chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1.
Ở Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện Việt Nam. Người xác
định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt Nam
có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống phong kiến. Hai nhiệm
vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau nhưng phải đặt lên hàng đầu là nhiệm vụ
chống đế quốc và tay sai để giải phóng dân tộc, nhằm “làm cho nước An Nam
được hoàn toàn độc lập”2. Do đó, chiến lược cách mạng là phải tập hợp mọi lực
lượng yêu nước dựa trên nền tảng liên minh công - nông do giai cấp công nhân
lãnh đạo, tập trung mũi nhọn chống kẻ thù chủ yếu là đế quốc và phong kiến tay
sai, thực hiện khẩu hiệu “độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Với chiến
lược đó, Hồ Chí Minh chủ trương lôi kéo “phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng... Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng thì phải đánh đổ”3.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ trong mặt trận dân tộc thống nhất, phân tích đúng đặc
điểm của từng thành phần xã hội và sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng
lớp, cá nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã
nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Bằng nhãn quan chính trị sắc sảo, tinh tường, Hồ Chí Minh đã vạch ra đường
lối cách mạng đúng đắn cho Đảng và dân tộc Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính
1
Sđd, t.3, tr.1.
2
Sđd
3
Sđd

30
trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (18/2/1995) đã viết: “Từ khi thành lập
đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách
mạng nước ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là lựa chọn
duy nhất đúng đắn đã được Hồ Chí Minh nêu trong Chính cương vắn tắt”1.
4. Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, kiên định giữ vững đường
lối, phương pháp cách mạng
Đây là giai đoạn Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách, đồng thời
cũng là giai đoạn Hồ Chí Minh kiên định quan điểm của mình về cách mạng
Việt Nam. Những thử thách lớn đối với Hồ Chí Minh xuất hiện không chỉ từ kẻ
thù, mà còn từ trong nội bộ những người cộng sản. Một số người trong Quốc tế
Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận sai lệch về Hồ Chí Minh do
ảnh hưởng bởi quan điểm tả khuynh, giáo điều xuất hiện trong Đại hội VI của
Quốc tế Cộng sản. Do không nắm vững tình hình các dân tộc thuộc địa và ở
Đông Dương nên tư tưởng sáng tạo, mới mẻ, đúng đắn của Hồ Chí Minh trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên chẳng những không được chấp nhận, mà còn bị
phê phán, bị coi là “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”.
Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (10/1930) đã phê phán các quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc, cho rằng Hội nghị hợp nhất Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì có nhiều sai
lầm, “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một
sự rất nguy hiểm”2, việc phân chia trung, tiểu, đại địa chủ trong sách lược của
Đảng là không đúng. Hội nghị ra án nghị quyết “thủ tiêu chánh cương, sách
lược và điều lệ Đảng”, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản
Đông Dương, hoạt động theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Sự thẳng thắn, nghiêm túc của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (1935) trong
việc phê bình quan điểm “tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi; phê bình việc bỏ rơi
ngọn cờ dân tộc, dân chủ và việc quyết định thành lập Mặt trận dân chủ chống

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện
nay, Hà Nội, 1995, tr.8.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 2 - 1930, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.110-111.

31
phát xít là những minh chứng cho sự đúng đắn, sáng tạo trong các quan điểm
của Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị thành lập Đảng. Tại Hội nghị Trung ương
tháng 11/1939, Đảng ta khẳng định: “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc,
lấy quyền lợi dân tộc là tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn
đề điền địa cũng phải nằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Những quan
điểm trên của Đảng đã từng bước trở lại với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc.
Điều này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Cuối tháng 9/1938, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Hồ Chí
Minh về công tác ở Đông Dương1. Đây là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh
biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần chúng, đưa cách mạng Việt Nam
đi đến thắng lợi.
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trước yêu cầu mới của tình hình
trong nước và quốc tế, được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, ngày 28 tháng 1 năm
1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng
5/1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
VIII, đề ra quan điểm chỉ đạo là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế
quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”2.
Tiếp thu tư tưởng chỉ đạo của Người, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII của
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ghi rõ: “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”3.

1
Ngày 6/6/1938, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Quốc tế Cộng sản. Ngày 8/6/1938, đồng chí Andreep (Ban Tổ
chức Quốc tế Cộng sản) gửi đồng chí Dimitơrốp thư “yêu cầu quyết định điều động Nguyễn Ái Quốc về công tác
ở Đông Dương”. Ngày 30/9/1938, Quyết định số 60 của Phòng Cán bộ Viện nghiên cứu dân tộc và thuộc địa của
Quốc tế Cộng sản đã ghi: “Sinh viên số 19 (Lin) đã ra trường ngày 29/8/1938 và đã về nước” (Tư liệu Cục lưu
trữ Trung ương Đảng)
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.198.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng (1930 - 1945), Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội,
t.3, tr.196

32
5. Thời kỳ từ 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện,
phát triển, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
Trong thời kì này, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cơ bản là
thống nhất. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đưa ra những
quan điểm sáng tạo, giải quyết được các vấn đề thực tiễn đặt ra, giành độc lập
dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới. Những tư tưởng của Người được Đảng
tiếp tục làm sáng rõ và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Ngày 19/5/1941, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (Mặt trận Việt Minh). Việt Minh chủ trương đoàn kết mọi lực lượng yêu
nước chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không phân biệt dân tộc, giai cấp,
đảng phái, tôn giáo... Nhằm phát huy sức mạnh của ba dân tộc Việt, Miên, Lào,
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Hội nghị chủ trương Ai Lao độc lập đồng
minh và Cao Miên độc lập đồng minh ở Lào và Campuchia. Sau khi cách mạng
thành công, mỗi quốc gia sẽ thành lập một chính phủ riêng và độc lập. Với Việt
Nam, Hội nghị chủ trương thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ
đỏ sao vàng năm cánh ở giữa làm quốc kỳ.
Ngày 19/8/1945, Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo cách mạng nước ta và đưa
đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là
thắng lợi của ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam và là
thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa, nửa
phong kiến. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam bước vào kỷ
nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh được toàn dân bầu làm
Chủ tịch nước Việt Nam mới. Với cương vị cao quý ấy, tư tưởng cách mạng và
khoa học của Người được hiện thực bằng Hiến pháp và pháp luật hiện hành của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Nhà nước của dân, do dân và vì dân đã khẳng định về mặt pháp lý
quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là mốc lịch sử không chỉ đánh
dấu kỷ nguyên độc lập tự do mà còn là bước phát triển mở rộng tư tưởng dân
33
quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản thành quyền tự do, độc lập của các
dân tộc trên thế giới. Nhân dân Việt Nam nêu cao ý chí để bảo vệ quyền tự do,
độc lập của mình. Đó là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”... “Suy rộng ra,
câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”1.
Quân và dân Việt Nam giành được độc lập chưa được bao lâu thì thù trong
giặc ngoài cấu kết với nhau đẩy nước nhà vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh với phương châm “dĩ bất biến ứng
vạn biến”, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Từ năm 1946 đến năm 1954, Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Người đề đường lối kháng chiến đi đôi với kiến quốc,
kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Đồng thời, Người trực
tiếp chỉ lãnh đạo, tổ chức và chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong thời kì nay, Hồ Chí Minh hoàn thiện lí luận cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và từng bước hình thành tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Năm 1954, đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng
đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, lập
lại hòa bình và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1954 đến năm 1969, mặc dù hòa bình được lập lại, nhưng đất nước
tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Hồ Chí Minh xác định và lãnh đạo thực hiện
đường lối chiến lược cách mạng đúng đắn, khoa học: miền Nam tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng,
từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa phong kiến được Đảng Cộng sản lãnh đạo đã cùng một lúc thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược và quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.1.

34
nghĩa. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng phát triển và thấm
sâu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ
thống quan điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam trên các lĩnh vực triết học,
chính trị, kinh tế, quân sự, đối ngoại, văn hóa và đạo đức… nhằm hướng tới mục
tiêu hoàn toàn độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kì gay go. Trước hành động leo
thang hết sức tàn bạo của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định chân lí của thời
đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”1. Đồng thời, khẳng định nhân dân Việt
Nam quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người,
đồng bào và chiến sĩ cả nước chung sức, đồng lòng phát huy cao độ chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, giữ vững lòng tin với Đảng với Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại Di chúc - một văn kiện lịch sử kết
tinh tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức của người Anh hùng giải phóng dân tộc,
Nhà văn hóa kiệt xuất. Trong Di chúc, Người đề ra những phương sách lớn để xây
dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu “xây dựng đất nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, và giàu mạnh và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”2.
Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, tư tưởng của Người tiếp tục được Đảng Cộng
sản Việt Nam vận dụng và phát triển, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Đảng tiếp tục lãnh đạo miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến thắng
lợi. Từ năm 1975, cả nước độc lập, hòa bình, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với quá
trình giải quyết những vấn đề thực tiễn Việt Nam đặt ra; cũng là quá trình hình
thành và phát triển tư duy lý luận cách mạng Việt Nam. Do đó, tư tưởng của
Người đã góp phần vào việc làm phong phú và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ cộng

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.512.
2
Sđd

35
hòa dân chủ, tiến tới chế độ cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối cách mạng đúng đắn, ngọn
cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần quý báu của dân tộc và nhân loại. Đại hội lần thứ XII của Đảng
(01/2016) khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ thiên tài của Đảng
và nhân dân ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Người sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta... Tư tưởng của Người, cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng
Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”1.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1. Phân tích cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Câu 2. Phân tích các tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 3. Phân tích những phẩm chất cá nhân, mối quan hệ giữa hoạt động lý
luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh trong quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 4. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong những giai đoạn đó, giai đoạn nào tư tưởng Hồ Chí Minh
có ý nghĩa vạch đường đi cho cách mạng Việt Nam?

Câu 5. Hãy chỉ ra những bước tiến trong nhận thức, những dấu mốc cơ bản
trong quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.7-8.

36
Chương III
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC


1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a. Độc lập, tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ độc lập dân tộc là khát vọng mang
tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo
vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Hồ
Chí Minh là hiện thân của tinh thần đấu tranh vì độc lập tự do. Người khẳng
định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”1.
Từ năm 1919, vận dụng nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đã được các
nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất thừa nhận,
thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến Hội
nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, đòi các quyền bình đẳng về
pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân An Nam. Bản yêu sách
không được công nhận nhưng qua sự kiện đó cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền của các dân tộc thuộc địa, mà trước hết là quyền bình đẳng và tự do đã
xuất hiện. Từ “quyền bình đẳng”, “quyền tự do” và “quyền con người” trong
Tuyên ngôn Độc lập của cách mạng Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của cách mạng Pháp (1791), Hồ Chí Minh khẳng định giá trị bất biến
của “quyền dân tộc”: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do… Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”2.

1
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.52
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.1

37
Mùa xuân 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng, nội dung xuyên suốt Cương lĩnh là độc lập, tự do cho dân tộc. Từ
tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh về nước và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941), Người viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ
rõ: “trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy” 1. Người soạn
thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là “cờ treo độc
lập, nền xây bình quyền”.
Tháng 8 năm 1945, ý chí đấu tranh cho độc lập của dân tộc, tự do của nhân
dân được Người đúc kết thành câu nói bất hủ: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”2. Cách
mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trịnh trọng
tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở
thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”3.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh ra hiệu triệu
thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ nền độc lập dân tộc: “Chúng ta thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”4. Trong
Lời kêu gọi Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân
chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”5.
Từ năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam,
tiến hành “Chiến tranh cục bộ” và phá hoại miền Bắc. Trong hoàn cảnh đó, Hồ
Chí Minh nêu lên chân lý của thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” -
tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới. Với
chân lý đó, nhân dân Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã anh

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.198.
2
Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.196
3
Sđd, t.4, tr.4
4
Sđd, t.4, tr.534
5
Sđd, t.4, tr.522

38
dũng chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định
Paris, kết thúc cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam.
Như vậy, độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên
chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do” trở thành khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng
là nguồn cổ vũ tinh thần cho các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đã và đang
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Vì những cống hiến to lớn đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã được tôn vinh không chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc
của Việt Nam mà còn là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng các dân
tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
b. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn đứng trước
âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp chia nước ta ra ba kì với
chế độ cai trị khác nhau. Sau Cách mạng Tháng Tám, miền Bắc bị quân Tưởng
Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam trở thành “Nam kỳ tự trị” theo âm mưu của
thực dân Pháp. Trước tình cảnh đó, trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Hồ
Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”1.
Hiệp định Genève (1954) được kí kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia
cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục đấu tranh để thống nhất đất nước theo lý
tưởng “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong Di chúc, Người
khẳng định niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất
nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn
thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ
thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”2.
Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với sự thống nhất
Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.280
2
Sđd, t.15, tr.612

39
c. Độc lập dân tộc phải gắn với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của
nhân dân
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột
bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. Theo Người,
độc lập dân tộc phải gắn với dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Trong
Chánh cương vắn tắt, Người xác định mục tiêu của đấu tranh là “làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập, dân chúng được tự do”2, “nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”3.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn khẳng định độc lập dân tộc phải gắn với cuộc
sống cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân. Người nói: “Chúng ta tranh
được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”4. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện “làm cho dân có ăn, làm cho
dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”5.
d. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Trong quá trình xâm lược các nước thuộc địa, để che đậy bản chất “ăn
cướp” và giết người” của mình, chủ nghĩa thực dân thành lập các chính phủ bù
nhìn bản xứ, tuyền truyền “độc lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc
địa. Nhận thức được điều đó, Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Người cho rằng mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia
do dân tộc đó tự quyết định, nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc
Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp
nào từ bên ngoài.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp gửi đến Hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi quyền

1
Sđd, t.4, tr.187
2
Sđd, t.3, tr.1
3
Sđd, t.4, tr.64
4
Sđd, t.4, tr.175
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.175

40
bình đẳng cho dân tộc Việt Nam, đó là quyền bình đẳng về chế độ pháp lý, xóa
bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật; quyền tự do tối
thiểu cho người Việt Nam như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự
do cư trú… Theo Hồ Chí Minh, độc lập mà người dân không có quyền tự quyết
về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng thì độc lập
đó chẳng có ý nghĩa gì.
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước gặp nhiều khó khăn, nạn thù trong
giặc ngoài bao vây tứ phía, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được, Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ kí với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ
(06/3/1946) yêu cầu: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội
của mình, tài chính của mình”1.
Tháng 6/1964, khi được phóng viên người Pháp hỏi về việc “Việt Nam khó
có thể tránh khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc”, Hồ Chí Minh khẳng định dứt
khoát rằng “Không bao giờ” lệ thuộc về quan điểm chính trị hay bất cứ lĩnh vực
nào. Quan điểm của Người thể hiện ý chí mạnh mẽ và lòng tự tôn dân tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
- Rút ra bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước đó
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt
ách thống trị nước ta, vấn đề sống còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh
để giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước trong thời kỳ này
đã nói lên sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cách mạng và giai cấp lãnh đạo.
Hồ Chí Minh nhận thấy con đường cứu nước của Phan Bội Châu chẳng khác gì
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường cứu nước của Phan Châu
Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”; con đường của Hoàng Hoa
Thám tuy có phần thực tế hơn, những vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Thực

1
Sđd, t.4, tr.583

41
tiễn đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm con đường cứu nước mới. Mặc dù rất
khâm phục và quý trọng tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Hồ Chí Minh
không tán thành con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Người trả lời nhà văn Mỹ Anna Lui Xtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có
cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường hỏi nhau ai là người giúp đỡ mình thoát khỏi
ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy
phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ về
giúp đồng bào tôi”1.
- Cách mạng tư sản không phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Sau khi quyết định “sang phương Tây” tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
bắt đầu hành trình khảo cứu con đường cứu nước. Trong khoảng 10 năm vượt
đại dương, hòa mình với nhân dân cần lao đang đấu tranh ở các châu lục và quốc
gia trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực
tiễn, nhất là ở các nước Anh, Pháp, Mỹ. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách
mạng Pháp, tìm hiểu thực tiễn cách mạng Mỹ và Pháp, tham gia trực tiếp vào
phong trào công nhân ở các nước này. Người nhận thấy: “cách mạng Pháp cũng
như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng
là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp
bức thuộc địa”2. Do dó, cách mạng tư sản không phải là con đường phù hợp với
thực tiễn Việt Nam.
- Cách mạng vô sản - con đường cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam
Khảo cứu cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Hồ Chí Minh nhận thấy Cách
mạng Tháng Mười (1917) không chỉ là cuộc cách mạng vô sản, mà còn là một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu lên tấm gương sáng về sự giải
phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc”3. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin - lãnh tụ vĩ đại

1
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.41.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.274.
3
Sđd, t.8, tr.562.

42
của cách mạng Tháng Mười, tin theo Quốc tế thứ ba - quốc tế bênh vực cho các
dân tộc bị áp bức. Người thấy trong lý luận của V.I. Lênin con đường mới để
giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Trong bài Cuộc kháng chiến,
Người viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản
và của cách mạng thế giới”1.
Trong lúc các sĩ phu yêu nước, những nhà cách mạng đang say sưa về cách
mạng tư sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và dứt khoát
lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”2 vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”3.
Hồ Chí Minh cho rằng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí
Minh khẳng định phương hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Phương hướng này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vừa
hướng tới giải quyết một cách triệt để những yêu cầu khách quan của cách mạng
Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu văn kiện Đại
hội VI Quốc tế Cộng sản, khái niệm “cách mạng tư sản dân quyền” không bao
hàm đầy đủ nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Nhưng trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh nêu rõ cách mạng tư sản dân
quyền trước hết phải đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập. Nếu Quốc tế Cộng sản cho rằng hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến phải được thực hiện đồng thời, thì Hồ Chí Minh đặt
lên hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, còn nhiệm vụ chống phong
kiến, mang lại ruộng đất cho nông dân thì sẽ từng bước thực hiện. Cho nên,
trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh chỉ nêu “thâu hết ruộng đất của đế

1
Sđd, t.1, tr.416.
2
Sđd, t.9, tr.314.
3
Sđd, t.10, tr.128.

43
quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo” mà chưa nêu ra chủ
trương “người cày có ruộng”. Đây là một nét độc đáo, sáng tạo và rất khác biệt
của Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
- Cách mạng trước hết phải có Đảng
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
tổ chức cách mạng. Phan Châu Trinh khi cuối đời đã nhận ra rằng: “ngày nay,
muốn độc lập, tự do, phải có đoàn thể”, nhưng rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện
ý tưởng của mình. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Duy Tân hội (1904) và Việt Nam
Quang phục hội (1912), dự định sau đó sẽ cải tổ thành Việt Nam quốc dân đảng
theo kiểu Tôn Trung Sơn, chưa kịp thực hiện thì ông đã bị bắt và giam lỏng tại
Huế. Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối
chính trị đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng
rãi trong quần chúng. Những nỗ lực đấu tranh cứu nước nhưng không thành
công của Việt Nam Quốc dân đảng - tổ chức chính trị tiêu biểu nhất của giai cấp
tư sản Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn giải phóng dân tộc thành công “trước hết phải
có Đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới thành công”1. Người còn
phân tích: “cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận
và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược
cho dân... Vậy nên, sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng
cách mệnh”2.
Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài

1
Sđd, t.2, tr.267.
2
Sđd, t.2, tr.267-268

44
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”1.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định từ rất sớm cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân,
Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin,
được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất
Đầu năm 1930, Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính
đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm
minh và liên hệ mật thiết với quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản, Người cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam
là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc Việt Nam”,
“Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ
thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch
nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”2. Đây là một luận điểm
quan trọng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa bổ sung phát triển lý luận mác-xít về
đảng cộng sản.
c. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa vào lực lượng đại đoàn kết
toàn dân, lấy liên minh công - nông làm nền tảng
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức
Các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng quần chúng nhân
dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là chủ của cách mạng. V.I. Lênin chỉ rõ:
“Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền
phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể
thực hiện được”3.

1
Sđd
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.184.
3
V.I. Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Tiến bộ, Maxcova, 1979, tr.251

45
Kế thừa tư tưởng các nhà lý luận nói trên, Hồ Chí Minh đã đề cập đến điều
kiện của một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân là phải có “tính chất một cuộc
khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải
được chuẩn bị trong quần chúng”1. Người phê phán việc lấy ám sát cá nhân và
bạo động non làm phương thức hành động, hoặc xúi dân bạo động mà không
bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường. Người
khẳng định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai
người”2.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, cũng như trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh.
Quan điểm “lấy dân làm gốc”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong” được Người vận dụng xuyên suốt quá trình chỉ đạo cách
mạng. Người lí giải rằng dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ,
nông, công, thương nhất trí chống lại cường quyền. Vậy nên phải tập hợp và
đoàn kết toàn dân thì cách mạng mới thành công.
Trong khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần
chúng nhân dân. Người coi đó là sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận
của quần chúng là then chốt bảo đảm mọi thắng lợi. “Dân khí mạnh thì quân
lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”.
- Liên minh công nông - nền tảng của cách mạng giải phóng dân tộc
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định lực
lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc. Từ đó, Người chủ trương: “Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,v.v...,
để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì cần
phải đánh đổ”3.

1
Sđd, t.1, tr.468.
2
Sđd, t.2, tr.261-262.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.3

46
Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh
kêu gọi mọi người không phân biệt giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái cùng
nhau đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù chung của dân tộc. Trong Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến (12/1946), Người viết: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phải, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”1.
Trong lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động
lực cách mạng của công nhân và nông dân. Công nông “là gốc cách mệnh”, “là
người chủ cách mệnh”. Người cho rằng các giai cấp công nhân và nông dân có số
lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức, bóc lột nặng nề
nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Khẳng định
của Hồ Chí Minh về vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân là
một vấn đề sáng tạo, mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước đó.
Trong khi nhấn mạnh vai trò động lực của công nông, Hồ Chí Minh không
coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai tầng khác.
Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn
đồng minh của cách mạng.
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
Do Quốc tế cộng sản chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của
cách mạng thuộc địa nên Quốc tế cộng sản đã xem nhẹ vai trò của cách mạng
thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa là “hậu bị quân”, phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc. Đại hội VI của Quốc tế cộng sản (1928) đã thông qua
Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa với nhận thức rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải
phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước

1
Sđd, t.4, tr.534

47
tư bản tiên tiến”1. Quan điểm này làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân
dân các nước thuộc địa trong công cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc để
giảnh độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình
đẳng, ngang nhau chứ không phải là quan hệ phụ thuộc, quan hệ chính - phụ. Từ
năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở
các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các nước thuộc địa”2. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp
vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa.
Nếu muốn giết con vật ấy người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta
chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi còn lại kia sẽ tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản
con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”3.
- Cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức
thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn”4. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2018, tr.52
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr.295
3
Sđd, t.2, tr.130
4
Sđd, t.1, tr.48

48
lớn; là một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên
toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Luận
điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế
quốc, là nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc nhưng cũng là khâu yếu nhất trong hệ
thống các nước đế quốc. Người viết: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc
tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các
nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân
lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản
cách mạng của nó”1, “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa”2.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách
mạng thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có
khả năng cách mạng to lớn, đó là tinh thần cách mạng hết sức quyết liệt, một lực
lượng vô cùng to lớn khi được tập hợp, giác ngộ. Theo Hồ Chí Minh, phải “làm
cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,
khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”3.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1/7/1924), Hồ Chí Minh
phê phán các đảng cộng sản ở Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở
các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách tích cực trong vấn đề thuộc địa.
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách
mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc
địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng. Vận dụng công thức
của C. Mác, Hồ Chí Minh rút ra luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ
có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”4. Tháng 8/1945, khi thời

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, tr.243
2
Sđd, t.1, tr.274
3
Sđd, t.2, tr.124
4
Sđd, t.2, tr.128

49
cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1. Kháng chiến trường kỳ gian khổ phải
trông vào sức mình, không được trông chờ người khác; đồng thời, phải tự lực
cánh sinh vì “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”2.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương
pháp bạo lực cách mạng
- Tính tất yếu của con đường cách mạng bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa,
đàn áp dã man các phong trào yêu nước. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”3. Chưa đánh bại được
lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn
toàn. Vì thế, con đường giành và giữ độc lập chỉ có thể là con đường cách mạng
bạo lực. Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của cách mạng bạo lực: “Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”4.
- Hình thức của bạo lực cách mạng
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi sự nghiệp cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo
lực của quần chúng gồm hai lực lượng chính: lực lượng chính trị quần chúng và
lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, hình thức của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng “tùy tình hình cụ thể mà quyết định
những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng đắn và khéo kết
hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi

1
Sđd, t.3, tr.554
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.522.
3
Sđd, t.1, tr.96.
4
Sđd, t.12, tr.304.

50
cho cách mạng”1. Thí dụ, trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực cách mạng
được thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị là chủ yếu. Trong
chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết
định trong việc tiêu diệt lực lượng quân địch, làm thất bại những âm mưu quân
sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu
tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển,
quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ
chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
- Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hoà
bình
Tư tưởng bạo lực cách mạng Hồ Chí Minh khác hẳn về bản chất so với tư
tưởng hiếu chiến của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu
thương, quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ mọi khả
năng để giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách để ngăn chặn
xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng để giải quyết xung đột trong hòa bình,
chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành các hội nghị và ký với Pháp các hiệp định trong năm 1946 đã thể
hiện tư tưởng nhân đạo và hòa bình của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi miền
Bắc được hoàn giải phóng, Người kiên trì theo đuổi Hiệp định Giơnevơ (1954)
và yêu cầu đối phương thi hành nhằm duy trì hoà bình ở Đông Dương và tiến
hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
Theo Hồ Chí Minh, chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng, chỉ khi
không còn khả năng đàm phán, thương lượng, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập
trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới
kiên quyết phát động chiến tranh. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí
Minh nhiều lần gửi thông điệp cho các nhà cầm quyền Mỹ, đề nghị đàm phán hoà
bình kết thúc chiến tranh. Khi quân Mỹ leo thang chiến tranh, một mặt Người kêu

1
Sđd, t.12, tr.304.

51
gọi quân dân ta “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đồng thời chủ trương
vừa đánh vừa đàm để kết thúc chiến tranh.
Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hoà bình thống nhất biện
chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chủ trương yêu nước,
thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý, tranh
thủ mọi khả năng hoà bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể
tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng
bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và
bảo vệ hoà bình, vì độc lập tự do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực
lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, đúng như phương
châm Hồ Chí Minh từng nêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Quan niệm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác - Lênin, đồng
thời có sự bổ sung cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội. Với cách diễn đạt dễ
hiểu, dễ nhớ, “chủ nghĩa xã hội” được Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau
bằng cách chỉ ra đặc trưng của các lĩnh vực (như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo
đức, khoa học - kĩ thuật, mục tiêu, động lực, nguồn lực…) của chủ nghĩa xã hội.
Khi nói chuyện hướng dẫn giáo viên cấp II, cấp III và Hội nghị sư phạm, tháng
7/1956, Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân
hàng… làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không
làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”1. Khi
nhấn mạnh mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ sở hữu công cộng của chủ
nghĩa xã hội và phân phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có phúc lợi xã hội”. Về mặt chính trị, Hồ Chí Minh nêu chế độ dân chủ,
mọi người được phát triển toàn diện với tinh thần làm chủ… Song tất cả đều
hướng tới mục tiêu cơ bản của nó là “làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần

52
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc”, là “làm sao cho dân giàu nước mạnh”, là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”, “là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân”.
So sánh bản chất của chủ nghĩa xã hội với với các chế độ xã hội tồn tại
trong lịch sử, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị,
chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được
thỏa mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại,
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản thì lợi ích cá nhân nằm
trong lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng
của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”.
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa
xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản. “Cộng sản có hai giai đoạn. Giai đoạn thấp,
tức là chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn cao, tức là chủ nghĩa cộng sản”1. Hai giai
đoạn ấy giống nhau ở sự phát triển cao của sức sản xuất, tư liệu sản xuất đều là
của chung và không có giai cấp áp bức bóc lột; khác nhau ở chỗ chủ nghĩa xã
hội vẫn còn chút ít vết tích xã hội cũ, xã hội cộng sản thì hoàn toàn không còn
vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tàn tích của chế độ xã hội cũ nhưng chủ nghĩa
xã hội không có áp bức, bóc lột, nhân dân lao động là người làm chủ, con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể
vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
b. Quan niệm Hồ Chí Minh về tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát
triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. “Chủ nghĩa
xã hội phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và ngày nay đang tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự

1
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.289-290

53
phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”1. Hồ Chí Minh cho rằng
“không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì
ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở
được chủ nghĩa xã hội phát triển”2.
Về việc đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng tùy vào hoàn cảnh,
các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội như Liên Xô, cũng có nước phải trải qua chế độ dân chủ mới, rồi
tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước Đông Âu, Trung Quốc và Việt Nam.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất
yếu, tuân theo những quy luật khách quan; song tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời
gian, phương thức tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước sẽ khác nhau. Trong đó,
những nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sẽ đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, những nước chưa qua giai đoạn này có thể đi lên chủ nghĩa xã hội
sau khi đánh đổ đế quốc và phong kiến dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản và tư
tưởng Mác - Lênin dẫn đường3.
Đối với Việt Nam, dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân, phong kiến, đất
nước mất độc lập, nhân dân mất tự do, do đó Hồ Chí Minh cho rằng tiến lên chủ
nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau khi nước nhà đã giành
được độc lập theo con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là
nguồn gốc của tự do, bình đẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản
con người yêu đoàn kết, yêu thương nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng vừa là một tất yếu lịch sử, vừa
đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá trình đấu
tranh tự giải phóng mình.
c. Quan niệm Hồ Chí Minh về đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh,
cũng trên cơ sở của lý luận Mác - Lênin, nghĩa là trên những mặt về chính trị,

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.600-601
2
Sđd, t.11, tr.158
3
Sđd, t.8, tr.293-294

54
kinh tê, văn hóa, xã hội. Còn về cụ thể, chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn mạnh
chủ yếu trên những điểm sau đây:
- Về chính trị: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có chế độ dân chủ
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và
làm chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết dân
tộc mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là người
quyết định vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo
quyền lực. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân,
dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
- Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn
chủ nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền
kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Đó là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong
chủ nghĩa xã hội biểu hiện ở công cụ lao động, phương tiện lao động trong quá
trình sản xuất “phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử”1. Quan hệ
sản xuất trong chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là “lấy nhà máy, ngân hàng,
xe lửa… là của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân”2.
- Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã
hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong
các quan hệ xã hội
Sự phát triển cao của văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở
chỗ chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người. Điều này được
hiểu rằng chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi,
không còn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.600
2
Sđd, t.10, tr.390

55
xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây
dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
Sự phát triển cao về văn hóa, đạo đức còn thể hiện ở chỗ chủ nghĩa xã hội
là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng,
không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và
nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự
hài hòa trong sự phát triển của xã hội và tự nhiên. Hồ Chí Minh chó rằng chỉ có
chủ nghĩa xã hội thì “mỗi người mới có điều kiện cải thiện đời sống riêng, phát
huy được cái riêng và sở trường riêng của mình”1.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là cơ sở, là tiền đề đi tới chế độ xã hội
hòa bình, đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, không còn gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu
nhau và yêu thương nhau.
- Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một công trình
tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trong chủ nghĩa xã hội - chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích
cá nhân gắn liền với lợi ích tập thể, lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân
là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ
nghĩa xã hội2.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định “cần
có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công3.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa
các di sản của quá khứ, vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.610
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.232; t.11, tr609-610; t.13, tr.54
3
Sđd, t.15, tr.391

56
nhân loại; là sự tổng hợp hệ thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã
hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng, công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con
người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị... Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì
loài người sẽ vươn tới lý tưởng cao nhất của chủ nghĩa xã hội, đó là “liên hợp tự
do của những người lao động”. Ở đó, cá tính của con người được phát triển đầy
đủ, năng lực con người được phát huy cao nhất, giá trị con người được thực hiện
toàn diện. Nhưng theo Hồ Chí Minh, đó là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian
khổ, lâu dài, dần dần và không thể nôn nóng.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Mục tiêu chung
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh là
một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Có khi Hồ Chí Minh trả lời một cách trực tiếp “mục đích của chủ nghĩa xã
hội là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” 1; là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học,
ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán
không tốt dần dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội2.
- Những mục tiêu cụ thể
+ Mục tiêu về chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ, tức là nhân
dân làm chủ, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Thực
hiện chế độ dân chủ, tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn đều của dân, sự
nghiệp cách mạng là công việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.159
2
Sđd, t.10, tr.591

57
chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân1.
+ Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát
triển cao, gắn với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng chủ nghĩa tư bản khi nó tạo ra được
một nền kinh tế phát triển cao hơn, gắn với sự phát triển của sức sản xuất, của
khoa học và công nghệ, do đó nếu không có nền công nghiệp hiện đại thì không
thể có chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu kinh tế phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu chính
trị vì “chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”2.
Theo Người, kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và kinh tế hợp tác
xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động nên Nhà nước phải đảm bảo
ưu tiên cho kinh tế quốc doanh phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng
dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã3.
+ Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân
tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Hồ Chí
Minh cho rằng văn hoá là mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, văn
hoá thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây
dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng, phát triển văn hoá nghệ
thuật, thực hiện nếp sống mới, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc
phục tập quán lạc hậu... Nền văn hoá mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là
một nền văn hoá “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”; “văn
hoá phải sửa được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ”; “phải làm cho ai
cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do”. Nói cách khác “văn hoá phải soi
đường cho quốc dân đi”. Tóm lại, để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức, kết
hợp với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại.

1
Sđd, t.6, tr.232
2
Sđd, t.12, tr.376
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.373

58
Hồ Chí Minh còn cho rằng văn hóa, kinh tế và chính trị có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Chế độ chính trị và kinh tế là nền tảng và quyết định bản
chất của văn hóa, ngược lại, văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu chính trị và
văn hóa. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải phát triển kinh tế và văn hóa, kinh
tế phải đi trước quyết định văn hóa.
+ Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải đảm bảo dân chủ, công bằng, văn
minh. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ dân chủ, nên
theo Hồ Chí Minh, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc, quyền học tập và
nghỉ ngơi, quyền tự do thân thể, tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu
tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; có
quyền bầu cử, ứng cử. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước
đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các
quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của nhân dân1.
+ Mục tiêu phát triển con người toàn diện: Phải xây dựng một xã hội có
quan hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm
thực hiện đúng mức; đạo đức, lối sống xã hội phát triển lành mạnh.
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân,
do nhân dân xây dựng. Nếu không có những con người thiết tha với lý tưởng xã
hội chủ nghĩa thì không thể có chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”2. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu mục tiêu xây dựng con người mới.
Con người xã hội chủ nghĩa theo quan niệm của Hồ Chí Minh phải là con
người có tinh thần và năng lực làm chủ, có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, có kiến thức khoa học - kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh thần sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm. Đó là nguồn động lực quan trọng để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội.

1
Sđd, t.12, tr.377-378
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, tr.66

59
Để giải phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh cần phải giải phóng người phụ nữ. Người
đánh giá cao vai trò và lực lượng của phụ nữ trong đấu tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội.
Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người... Nếu
không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”1.
b. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đạt được mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, cần phải phát hiện, khơi dậy và
phát huy các động lực cho chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, động lực của
chủ nghĩa xã hội rất phong phú, bao gồm những động lực trong quá khứ, hiện tại
và cả tương lai; động lực vật chất và động lực tinh thần, nội lực và ngoại lực ở
trong các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục… Tất cả
động lực đều quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng giữ vai
trò quyết định là nội lực dân tộc, là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là
liên minh công - nông - trí thức. Do đó, để thúc đẩy quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải đảm bảo lợi ích của nhân dân, dân chủ của nhân dân và sức
mạnh đoàn kết toàn dân.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng và
lợi ích cá nhân. Người nhận thấy trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người giữ
một vị trí nhất định, đóng góp một phần công sức nhất định để nhân dân lao
động đã thoát khỏi bần cùng, có công ăn việc làm, có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở
trường riêng của mình, nên ngay khi xây dựng chế độ xã hội mới “phải đặt
quyền lợi của dân lên trên hết”, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì
làm hại đến dân phải hết sức tránh”2.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là dân chủ
của dân. Có dân chủ thì lợi ích mới vì dân, quyền hành và lực lượng mới ở nơi
dân, công việc đổi mới và xây dựng mới là công việc của dân, là trách nhiệm

1
Sđd, t.9, tr.523
2
Sđd, t.4, tr.50-51

60
của dân1. Do đó, phải phát huy dân chủ, đó là chiếc chìa khóa vạn năng và là
động lực quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng
mạnh nhất, động lực quyết định sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
xã hội chỉ được xây dựng khi nhân dân được giác ngộ đầy đủ về quyền lợi và
quyền hạn, trách nhiệm và địa vị là chủ của mình.
Về hoạt động của các tổ chức, cộng đồng người, trước hết là Đảng Cộng
sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác, Hồ Chí Minh chỉ rõ sự lãnh
đạo của Đảng giữ vai trò quyết định. Theo Người, Đảng như người cầm lái, cầm
lái có vững thuyền mới đi đến bến, đến bờ2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, thực hiện chức
năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực3.
Ngoài Đảng và Nhà nước, các tổ chức quần chúng đều nhất quán về chính trị và
tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hoạt động vì lợi ích
của các thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc. Tuy
nhiên, đối với những cộng đồng này, Hồ Chí Minh nhắc nhở không ngừng nêu
cao tinh thần cảnh giác, chống lại kẻ địch từ bên ngoài phá hoại thành quả cách
mạng và chống cả kẻ thù bên trong là chủ nghĩa cá nhân. Đây chính là những trở
lực của chủ nghĩa xã hội.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định để xây dựng chủ nghĩa xã
hội cần phải có con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những người có tư tưởng và
tác phong xã hội chủ nghĩa, có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần tập thể xã
hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, có ý thức
cần kiệm xây dựng nước nhà, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội và chống lại chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, mệnh lệnh, tham
ô, lãng phí, bảo thủ, rụt rè4. Với nhận thức này, Hồ Chí Minh đã xác định con
người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội.

1
Sđd, t.6, tr.232
2
Sđd, t.12, tr.289
3
Sđd, t.12, tr.376
4
Sđd, t.12, tr.65-72

61
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Tính chất của thời kỳ quá độ: Thời kỳ cải biến sâu sắc nhưng phức tạp,
lâu dài, khó khăn, gian khổ
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến xã hội
cũ thành xã hội mới, là cuộc cách mạng khổng lồ làm thay đổi triệt để nếp sống,
thói quen, ý nghĩ lạc hậu; là cuộc cách mạng chưa có trong tiền lệ lịch sử nhưng
đất nước chưa có kinh nghiệm trong tư duy kinh tế; là thời kỳ xóa bỏ giai cấp
bóc lột, biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời
sống tươi vui hạnh phúc, kinh tế phát triển trong điều kiện nước ta là một nước
nông nghiệp lạc hậu, mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến. Do đó, tiến lên
chủ nghĩa xã hội không thể một sớm một chiều, không thể làm mau được mà
phải làm dần dần.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có hai
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là con đường quá
độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao.
Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước tư bản
phát triển còn thấp, hoặc như V.I. Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc
hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên chủ
nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và
được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình
hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt
Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về

62
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái
quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội
dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác -
Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước
ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này
chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội và làm cơ sở phát sinh nhiều mâu thuẫn. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu
ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá
thấp kém của nước ta.
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế
độ cũ, xây dựng các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên của chủ nghĩa xã
hội trên tất cả lĩnh vực đời sống.
Về kinh tế, phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại.
Về chính trị, phải xây dựng chế độ dân chủ. Muốn vậy, phải chống chủ
nghĩa cá nhân, đồng thời phải bồi dưỡng, giáo dục mở mang dân trí, bồi dưỡng
tri thức và năng lực làm chủ chế độ xã hội cho nhân dân.
Về văn hóa, phải triệt để tẩy trừ mọi tàn tích thuộc địa và những ảnh hưởng
của văn hóa đế quốc, phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
những cái mới của văn hóa tiến bộ trên thế giới để xây dựng nền văn hóa Việt
Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về các quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để quan hệ xã hội cũ, xây dựng xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú trọng lợi ích cá
nhân, đảm bảo điều kiện để cải thiện đời sống nhân dân, phát huy tính cách và
sở trường riêng của cá nhân trong đời sống tập thể.

63
b. Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phức tạp, khó khăn, lâu dài đòi
hỏi sự năng động, sáng tạo của các chủ thể, song phải tuân thủ chặt chẽ các
nguyên tắc:
- Thứ nhất, mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có
thể đạt được kết quả trên cơ sở trung thành sắt đá với những nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác - Lênin1. Do đó, phải “học lập trường, quan điểm và phương pháp
của chủ nghĩa Mác - Lênin”, “cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin thích hợp với
điều kiện hoàn cảnh từng nơi, từng lúc”2.
- Thứ hai, phải giữ vững độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định độc lập
tự do là vốn quý, là quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm nên “toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội
thì độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc trường tồn với đầy
đủ ý nghĩa chân chính của nó.
- Thứ ba, phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
của các nước. Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
lực lượng hòa bình, dân chủ, xã hội chủ nghĩa trên thế giới, do đó phải “đoàn
kết giữa lực lượng các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các đảng cộng sản và công
nhân tất cả các nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”3.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam phải học tập kinh nghiệm của các
nước anh em, song không được áp đặt những kinh nghiệm ấy một cách máy móc
mà phải vận dụng sáng tạo. Hồ Chí Minh khẳng định: “Ta không thể giống Liên

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, tr.159-160
2
Sđd, t.11, tr.95
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.675

64
Xô, vì Liên Xô có phục tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… Ta có thể đi
con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”1.
- Thứ tư, xây đi đôi với chống. Theo Hồ Chí Minh, muốn đạt được các mục
tiêu và giữ vững thành quả cách mạng thì cùng với việc xây dựng phải chống lại
mọi trở lực của sự phát triển. Đối với kẻ thù phải tỉnh táo, giữ vững lập trường,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ lao
động hòa bình của nhân dân. Đối với tàn dư của xã hội cũ, phải thay đổi triệt để
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến lạc hậu, tiêu cực. Đối với chủ nghĩa cá
nhân, phải chống lại căn bệnh của nó là vô cảm “ai nói gì cũng mặc kệ”, tham
lam, kiêu ngạo, háo danh, vô tổ chức, vô kỷ luật… vì nó sẽ làm hại đến nhân
dân, đến tổ chức Đảng và đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC
LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Với nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường cách
mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến
lược cơ bản, trong đó: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân
chủ được thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế,
ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp,
trước mắt, cấp bách.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng

1
Sđd, t.10, tr.390

65
dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều
kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ.
Như vậy, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc là mục tiêu đầu tiên của
cách mạng, là cơ sở, tiền đề để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nên độc lập dân tộc vững chắc
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ
giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn
của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục
tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực
hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc
một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường
ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã
hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền
độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm
no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để
không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ
củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo
điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Chủ nghĩa xã hội không
chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung,
xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng
định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các
dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo
đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
66
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực
phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng
vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân.
Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các
dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã
hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và
ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng
dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh,
đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng
phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập
dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ
nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế
độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là
vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng
pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và
nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc,
tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ
một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã
hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân
tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
Để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí
Minh cần có những điều kiện cơ bản sau:
- Một là, phải xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
67
hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không
thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ
đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản
đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị
phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu,
đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc
lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được
thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
+ Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân
tộc phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi
cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ
chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
+ Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh
đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn
dân giành độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải
thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó
công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
- Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm
của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng
tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng,
cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng

68
chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập
hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách
mạng xã hội chủ nghĩa đều cần đến Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được
xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công -
nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không
coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường
lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách
mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng
Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó
là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát
huy thêm mãi”1.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện
bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, tr.367

69
Đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù
hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Xuất phát từ bối cảnh trong nước và quốc tế,
Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh đất nước đối mặt với sự phức tạp của tình hình thế giới, đó
là tình trạng xâm phạm chủ quyền, tranh chấp địa phận, không phận, hải phận và
tài nguyên… đã và đang diễn ra gay gắt, phức tạp thì cần quán triệt đường lối
của Đảng là: “Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; Giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang
tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Bảo vệ Tổ quốc
là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và toàn dân”1.
2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa tức là phát huy bản chất tốt
đẹp của chủ nghĩa xã hội. Trước hết là bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, thực hiện dân chủ đầy đủ và nghiêm túc trên tất cả lĩnh vực của đời
sống, để nhân dân tham gia vào quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến
lợi ích của mình theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải kết hợp với hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tôn trọng, đảm bảo quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân
theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường pháp chế, đề cao
trách nhiệm của công dân và đạo đức xã hội, phê phán những biểu hiện dân chủ
cực đoan, dân chủ hình thức; xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.32-33.

70
chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá chế độ, cũng như
các hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của
toàn hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam có tính nhất nguyên và tính thống nhất, nhất
nguyên về chính trị, tổ chức và tư tưởng, thống nhất về mục tiêu chính trị và
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tổ chức trong hệ thống
chính trị Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động khác nhau nhưng gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị bằng hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn hệ
thống chính trị thực chất là để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện,
quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.
4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành quả to lớn dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra tình trạng suy
thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng. Nếu không ngăn chặn, đẩy lùi
suy thoái sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn hiện nay phải tích cực thực hiện có hiệu quả các nghị
quyết của Đảng, đặc biệt là nghị quyết xây dựng Đảng. Trong tình hình mới,
phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội

71
bộ để Đảng xứng đáng là đảng cầm quyền, thực hiện được mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.

Câu 2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Câu 3. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu và đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội.

Câu 4. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa
xã hội.

Câu 5. Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và
các nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

72
Chương IV
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự ra đời và vai trò của Đảng Cộng sản
Việt nam
a. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bài viết Ba
mươi năm hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn đến việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930. Đây chính là một quan điểm quan
trọng của Hồ Chí Minh về “công thức” của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam,
đó là sự phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở tổng kết thực
tiễn của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân Việt Nam. Người chỉ rõ đặc điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, kỷ luật; là giai cấp tiên
tiến nhất trong sản xuất, đảm đương sứ mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế
quốc thực dân, xây dựng xã hội mới; là giai cấp được trang bị chủ nghĩa Mác -
Lênin. Còn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người cho rằng đó là chủ nghĩa cách
mạng nhất, chân chính nhất, khoa học nhất.
Đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh trong việc xác lập công thức thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố phong trào yêu nước. Người lý giải:
+ Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong
quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là yếu tố đứng
đầu bảng giá trị tinh thần Việt Nam, là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước có trước phong trào

73
công nhân. Phong trào yêu nước Việt Nam định hình và phát triển qua hàng
nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.
+ Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước
bởi vì hai phong trào này có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng nước Việt Nam hùng cường.
+ Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Giai cấp
nông dân là “đồng minh tự nhiên” của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân
Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ giai cấp nông dân. Do đó, giai cấp công nhân
và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, giai cấp
công nhân và nông dân hợp thành đạo quân chủ lực của cách mạng Việt Nam.
+ Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đầu
thế kỷ XX, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam thực sự là “ngòi nổ” cho
các phong trào cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai. Họ là
người tiếp nhận những “luồng tư tưởng mới” và truyền bá vào Việt Nam.
b. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong tác phẩm Đường Cách mạng (1927), Hồ Chí Minh khẳng định cách
mạng trước hết “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp khắp mọi nơi.
Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”1. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất
yếu, xuất phát từ thực tiễn phát triển của dân tộc. Vai trò của Đảng được xác
định cụ thể như sau:
- Một là, tổ chức, giáo dục, vận động, tập hợp quần chúng, đưa quần chúng
ra đấu tranh cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Vì vậy, thành
công của Đảng, của cách mạng phụ thuộc rất lớn vào việc Đảng tổ chức và phát
huy lực lượng cách mạng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh dưới ngọn cờ tất thắng

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.289

74
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quan
trọng của Đảng trong thì vận động quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
- Hai là, lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc, đó là “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; là xây dựng đường lối chiến lược, sách lược,
phương pháp cách mạng khoa học, đúng đắn, sát hợp với tình hình thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
- Ba là, xác định phương hướng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người
viết: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để
nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là
cuộc đấu tranh gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần
chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng
để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ
địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có
Đảng lãnh đạo”1.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp
công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công
nhân. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh viết:“Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản”. Đến Đại hội II (tháng 02 năm 1951) từ
điều kiện lịch sử cụ thể lúc này Người nói: “Đảng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động, chính vì vậy Đảng của dân tộc Việt Nam”. Trong tác phẩm
Thường thức chính trị (1953), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng của giai cấp lao
động, Đảng của toàn dân”… Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về bản chất giai

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.228-229.

75
cấp công nhân của Đảng xét về mặt ngôn từ có chỗ khác nhau nhưng thực chất
Người luôn luôn khẳng định tính chất giai cấp công nhân của Đảng, cụ thể là:
+ Về lý luận: Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương Đảng phải theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân.
+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh cho rằng Đảng sẽ đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
+ Về tổ chức: Tổ chức và sinh hoạt theo những nguyên tắc đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân (Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng dùng lối
tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh và tự giác; Đảng kết nạp và huấn
luyện đảng viên mới; Đảng xác định mục tiêu rõ ràng là tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân để tạo điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội....).
b. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân lao động, là Đảng
của dân tộc
Tháng 12/1961, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp,
đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”1. Đảng Cộng sản Việt
Nam đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, mọi hoạt động của Đảng đều nhằm
đem lại lợi ích cho toàn thể dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “Ngoài lợi ích của Tổ
quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”2.
Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc là vì trong thành phần đảng
viên, ngoài thành phần giai cấp công nhân còn có các thành phần khác, đó là
những người ưu tú trong giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các thành phần
khác. Cơ sở xã hội của Đảng rất rộng lớn cả dân tộc bao gồm tất cả quốc dân trừ
bọn phản quốc và tham ô. Thành phần xuất thân của các đảng viên rất đa dạng:
công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản...
Vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác xây
dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã chuẩn bị tích cực
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, tr.275
2
Sđd, t.12, tr.334

76
về tư tưởng; chính trị và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng ở Việt Nam. Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Đảng, Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác xây dựng Đảng. Người nêu ra luận điểm
quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng
thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Luận điểm nêu trên đã chỉ đạo cách thức tổ
chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai
cấp công nhân, mà còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân. Chính vì
vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận và gọi một cách trìu mến
là “Đảng ta”. Đó là một cội nguồn sức mạnh của Đảng.
Nói Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc song không có nghĩa là
“Đảng toàn dân” không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng mang bản chất giai
cấp công nhân. Sở dĩ có đặc trưng đó là vì khác hẳn với các chính đảng của giai cấp
bóc lột, giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của các tầng lớp cần lao
và lợi ích của toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bản chất giai cấp công nhân không
chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đảng
không chỉ kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn kết nạp
cả những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trong đội ngũ trí thức và các thành
phần khác đã được giác ngộ, tự giác đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
4. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Tính tất yếu khách quan của xây dựng Đảng
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
là một quá trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn
có những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và những yêu cầu riêng. Trước diễn biến
của điều kiện khách quan, bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn
lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.

77
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ Đảng là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội;
mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, các
quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu.
Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện; Đảng phải thường
xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện,
giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân
giao phó, đặc biệt là giữ được các phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu. Mục
đích xây dựng, chỉnh đốn Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, hiểu
đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác,
giúp cho cán bộ, đảng viên phải nhìn lại mình, phát huy mặt tốt, loại bỏ mặt xấu
tồn tại trong mỗi con người.
Vì thế, để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của mình,
giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng về mọi mặt trong mọi điều kiện, môi
trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, họ còn cần
đến sự giúp đỡ, kiểm soát, quản lý từ phía Đảng.
Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng lại được Hồ Chí Minh yêu cầu phải tiến hành thường xuyên. Người đã
nhìn thấy và nhận diện rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: một mặt, quyền lực
có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng
đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền
lực bị thoái hóa, biến chất, đi vào con đường ham muốn quyền lực, chạy theo
quyền lực, tranh giành quyền lực, lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền,
đặc quyền, đặc lợi, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá
nhân,v.v... Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới
để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây
ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
Nhận thức đúng sự tác động qua lại giữa môi trường xã hội và vai trò lãnh
đạo của Đảng, đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng viên, Hồ
Chí Minh đã đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu sắc trong
78
vấn đề xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”1. Nhận định đó thật sự là một chân lý.
Nó phản ánh đúng thực tiễn và đã thực hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
nhiều nơi trên thế giới kiểm nghiệm. Nó là lời cảnh tỉnh có ý nghĩa rất sâu xa đối
với Đảng Cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là đảng
viên cộng sản có chức, có quyền, giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng
mang tính quy luật và là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh
đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững vàng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng
nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao,
càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho
toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng, làm cơ sở
cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến
về phái trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử thách.
b. Xây dựng Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong bài nói tại Lễ Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng (năm 1960), Hồ
Chí Minh cho rằng “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức, là văn minh thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau:
- Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự
của dân tộc.
- Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến
bộ của dân tộc và nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu
phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trung tâm, mọi lợi ích

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.557-558.

79
giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc; mọi hoạt động của Đảng
đều phải phù hợp với quy luật vận động của cách mạng Việt Nam.
- Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân dân,
dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc
cho nhân dân. Đồng thời phải chú trọng đấu tranh phòng chống các tiêu cực
trong điều kiện Đảng cầm quyền.
- Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, theo nguyên tắc
và điều lệ. Đảng không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.
- Đội ngũ đảng viên của Đảng dù ở mọi cương vị, chức vụ công tác phải
tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
- Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không chỉ vì lợi ích dân
tộc, mà còn vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì
hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
c. Các nguyên tắc xây dựng Đảng
- Một là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động
Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không
có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1.
Chủ nghĩa ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu
ý việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù
hợp với từng đối tượng. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với
từng hoàn cảnh, tránh giáo điều, đồng thời chống lại việc xa rời các nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình hoạt động, Đảng phải tổng
kết kinh nghiệm những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý
luận Mác - Lênin. Đồng thời, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.268.

80
trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chú ý chống giáo điều, cơ hội, xét lại
chủ nghĩa Mác - Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Hai là, tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” và “dân
chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân
chủ phải đi đến tập trung. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải làm cho mọi đảng
viên bày tỏ hết ý kiến của mình ở trong Đảng, tức là khơi dậy tinh thần trách
nhiệm và tính chủ động của tất cả đảng viên. Khi đã thảo luận, bày tỏ ý kiến rồi
đi đến tập trung, tức là thống nhất ý chí, hành động. Người viết: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ dân, tư tưởng phải được tự do. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự
do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Khi mọi người đã phát biểu
ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục
tùng chân lý”1 .
Đối với tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng phải tập
thể lãnh đạo vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm
đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn
đề, không thể trong thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần
phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, xem xét rõ nhiều mặt
hơn. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy
rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết
chu đáo, khỏi sai lầm. Tuy nhiên, cần phải có cá nhân phụ trách thì mới có
chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh
cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không
ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong .
Đối với việc thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng, phải
chú ý khắc phục tệ độc đoán chuyên quyền, đồng thời phải chống lại cả tình
trạng dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.216.

81
- Ba là, tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất
dần đi, tức là vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được quy định bởi tính tất
yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực thể của xã
hội, Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội ngũ của Đảng cũng không tránh khỏi
những khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con
người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho
rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình. Phương pháp tự phê bình
và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là phải tiến hành thường xuyên như
người ta rửa mặt hàng ngày. Thái độ phải thẳng thắn, chân thành, trung thực,
không nể nan, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm; phải có
tình thương yêu lẫn nhau.
- Bốn là, kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý
thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng
đòi hỏi tất cả mọi tổ chức Đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước
Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Đồng thời, Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi
tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi ở đảng viên phải
gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương
mẫu của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà
nước, của đoàn thể nhân dân.
- Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị
quyết của tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong
Đảng, phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm

82
chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải sống với nhau có
tình, có nghĩa. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhất ý
chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ
như là một người”.
- Sáu là, thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân
tộc giao phó. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, quyền lực có sức mạnh to lớn để
cải tạo và xây dựng xã hội nhưng cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm
quyền lực bị thoái hóa, ham muốn quyền lực, tranh giành quyền lực. Trong khi
đó, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc. Vì
vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để hạn chế,
ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra trong điều
kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước. Người chỉ rõ “việc cần phải làm
trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức
làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”1.
- Bảy là, liên hệ mật thiết với nhân dân
Đảng Cộng sản Việt Nam “không phải trên trời sa suống. Nó ở trong xã hội
mà ra”2, là một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quan hệ đó được hình thành từ đòi
hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt: Đảng
vừa là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân
tự giác đồng tình với sự lãnh đạo của Đảng, lại là chủ nhân của đất nước. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Để xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Hồ Chí Minh
nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên không được “vác mặt quan cách mạng”,
không được ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau; không phải cứ dán lên trán hai chữ

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, tr.616
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.303

83
“cộng sản” là dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục, mà phải trong công tác hằng
ngày cố gắng học dân, làm cho dân tin, tức là cọi trọng chữ tín.
- Tám là, đoàn kết quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ giữ vai trò lãnh đạo chính quyền Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội, mà còn giữ vững và tăng cường mối quan
hệ quốc tế trong sáng. Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công
nhân trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn từ quan điểm “cách mạng
Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới” của Hồ Chí Minh.
Do đó, Người mong Đảng “ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”1
d. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán
bộ. Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ
tốt hay kém. Do đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực. Trong đó, đức, phẩm chất là
gốc, tài càng cao đức phải càng lớn. Phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo
đức cách mạng.
- Phải trung thành tuyệt đối với Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
suốt đời phấn đấu cho lợi ích của cách mạng, vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vô
luận trong hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng lên
trước.
- Phải nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.

1
Sđd, t.15, tr.613

84
- Phải luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, không bao giờ thụ động,
lười biếng, luôn có tinh thần sáng tạo, hăng hái, nêu cao tinh thần trách nhiệm,
dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.
- Phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, làm tròn nghĩa vụ “đày tớ thật
trung thành” cho nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
tiên phong, gương mẫu trước nhân dân theo tinh thần “đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”.
- Phải luôn phòng và chống chủ nghĩa cá nhân, những căn bệnh và các tiêu
cực, đặc biệt là tham ô, lãng phí, quan liêu.
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng
công tác cán bộ vì công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của nó
bao hàm các mắt khâu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau như: tuyển chọn
cán bộ; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển
dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Nhà nước dân chủ
a. Bản chất giai cấp của nhà nước
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
chứ không phải là “nhà nước toàn dân” (nhà nước phi giai cấp). Nhà nước là sản
phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất của một giai
cấp nhất định. Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, được
biểu hiện cụ thể như sau:
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động theo các nguyên tắc phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa nói chung. Nền tảng tư tưởng của Nhà nước ta là học thuyết của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
+ Nhà nước luôn luôn được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng
sản. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các phương thức: 1) Bằng đường lối, quan
điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế

85
hoạch; 2) Bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong bộ máy, cơ
quan nhà nước; 3) Bằng công tác kiểm tra.
+ Nhà nước ta được tổ chức, hoạt động và vận hành theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong tổ chức và hoạt
động có sự phân công rành mạch về chức năng, nhiệm vụ giữa quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
+ Cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết
toàn dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức.
+ Nhà nước ta điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật mà pháp luật đó đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần
chúng lao động thực hiện công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã
hội chủ nghĩa.
- Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân thống nhất chặt
chẽ với tính nhân dân và tính dân tộc. Sự thống nhất này được hiện rõ trong
những quan điểm sau:
+ Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn
năm của dân tộc.
+ Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của
nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Hồ Chí Minh khẳng định: lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một.
+ Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh
đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của
Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dan chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
b. Nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Nhà nước của dân
+ Nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ, dân làm chủ; dân là
người có địa vị cao nhất. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ,

86
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà,
nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”1.
+ Nhà nước của dân thì “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”2, “tất cả
mọi quyền lực đều là của nhân dân”3, nhân dân có quyền quyết định những vấn
đề quan trọng nhất của đất nước. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”4. Nhân dân
thực thi quyền lực của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ
gián tiếp.
+ Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, bãi miễn những đại biểu
mà họ đã bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ lập nên.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra, đồng
thời có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân.
+ Dân là chủ thể của quyền lực thì người cầm quyền, cán bộ công chức nhà
nước chỉ là người được uỷ quyền, được nhân dân trao quyền để gánh vác, giải
quyết những công việc chung của đất nước. Hồ Chí Minh gọi người cầm quyền,
cán bộ công chức nhà nước là “đầy tớ”, “công bộc” của dân. Người cho rằng,
làm công bộc của dân là một trách nhiệm rất vẻ vang, nhưng rất khó khăn, nặng
nề. Muốn vậy, người cầm quyền phải gần dân, hiểu dân, thương dân, tin dân và
biết sức mạnh của dân. Tác phong của người cầm quyền phải là: “óc nghĩ, mắt
thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
- Nhà nước do dân
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước phải
tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộng:

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.434
2
Sđd, t.6, tr.232
3
Sđd, t.8, tr.262
4
Xem Hiến pháp nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà (Quốc hội nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà thông qua
ngày 9/11/1946)

87
+ Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ trung ương đến
địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bỏ
phiếu kín bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước...
+ Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiên chế độ
bãi miễn theo ba mức độ từ thấp đến cao: bãi miễn đại biểu, bãi miễn các cơ
quan nhà nước, bãi miễn nội các chính phủ nếu các đại biểu, các cơ quan nhà
nước không còn phù hợp với nhân dân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Người
viết: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”1.
+ Nhà nước do dân, nghĩa là dân có trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp trí tuệ,
sức người, sức của để tổ chức, xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước.
+ Nhà nước do dân còn bao hàm nội dung quan trọng là nhân dân có quyền
tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
- Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân
dân. Điều này được Người giải thích rõ trên các phương diện:
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu cao nhất và duy
nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân đúng với
phương châm “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
phải hết sức tránh”2. Cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là cơ sở hàng đầu
đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán
bộ công chức nhà nước.
- Nhà nước chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn
các nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân
có chỗ ở, làm cho dân được học hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh,
chăm sóc sức khoẻ. Nhà nước chăm lo cho dân không phải làm thay dân mà
hướng dẫn dân tự chăm lo đời sống của mình.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.60.
2
Sđd, t.4, tr.51

88
- Nhà nước biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai
cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn luôn được mọi người dân ủng
hộ, xây dựng. Đồng thời là người hướng dẫn dân, nhà nước phải còn biết kết hợp
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung ương và địa phương, lợi
ích của các ban, ngành, các chủ thể xã hội, làm sao để bất kỳ ai cũng thấy được
nhà nước là người đại diện cho lợi ích chân chính của họ.
- Nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng,
đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà
nước.
2. Nhà nước pháp quyền
a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Nhà nước pháp quyền là nhà nước dân chủ, đồng thời phải là nhà nước hợp
hiến, hợp pháp. Nhận thức rõ về sự cần thiết phải sớm xây dựng nhà nước hợp
hiến, hợp pháp, ngày 03/9/1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề ra hai nhiệm vụ trực tiếp có liên quan đến nhiệm vụ xây dựng
Nhà nước pháp quyền là nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng Hiến
pháp nhằm xác lập nền tảng dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến,
hợp pháp sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 02/3/1946,
Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên
hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân
bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề của Nhà
nước Việt Nam mới.
b. Nhà nước thượng tôn pháp luật
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nghĩa là người dân
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước quản lý và điều hành
xã hội bằng hệ thống luật. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai
trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội. Trong Bản yêu sách của
nhân dân An Nam, Người yêu cầu cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, thay chế
độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Tư tưởng pháp quyền này đã

89
xuyên suốt tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam độc lập, tự do, dân
chủ. Mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống đều chịu sự chi phối của
pháp luật. Pháp luật là cơ sở đảm bảo thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền
làm chủ của nhân dân.
Luật pháp là cần thiết, là quan trọng cho mỗi quốc gia. Khi luật được ban
hành, nhà nước phải chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống bằng cách tổ chức
triển khai phổ biến cho toàn dân học tập để mọi người dân hiểu và thực hiện.
Trong quá trình thực thi pháp luật, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đảm bảo tính
nghiêm minh, khách quan, công bằng, bình đẳng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân
dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ đồng thời thường xuyên nhắc
nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu tuân thủ pháp luật, trước hết là
các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
c. Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa
Pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh là pháp quyền nhân nghĩa. Tư
tưởng này thể hiện xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
người. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là
công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người.
Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở việc tôn trọng, bảo
đảm thực quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật, mà còn thấm
đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của
nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống
ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Trong thực tế, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã
hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao
bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ pháp luật và đạo đức đều dùng để điều
chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân,
thiện, mỹ. Pháp luật góp phần hoàn thiện nhân cách làm người, còn đạo đức làm

90
cho người ta thực hiện luật pháp một cách tự giác. Trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, nền pháp quyền của ta là một nền pháp quyền hợp đạo đức, có nhân tính.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện ở cách nhìn nhận về xử lý các hành vi phạm pháp, nguyên tắc “có lý”,
“có tình” chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao cái
tình, tùy từng trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt
này hay mặt khác. Xử lý hành vi vi phạm pháp luật phải kịp thời, nghiêm minh.
Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến
khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người, chứ
không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Trong Di chúc, Người viết: “Đối với nạn
nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v.. thì
Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở
nên những người lao động lương thiện”1.
3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh
a. Kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các cơ quan, cán bộ nhà nước
được nhân dân ủy quyền nên ít nhiều có quyền lực trong tay. Nhưng khi nắm
quyền lực trong tay, cơ quan hay cán bộ nhà nước có thể lạm quyền. Vì thế, để
đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, cần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh xác định là phải
phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta là đảng
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên Đảng phải có trách nhiệm kiểm
soát quyền lực nhà nước, các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, vì
“kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọng
nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”2.
Kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước
và việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước.
Trong Hiến pháp năm 1946, Hồ Chí Minh xác định một số hình thức kiểm soát

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, tr.617
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, tr.362

91
quyền lực nhà nước, trong đó Nghị viện nhân dân kiểm soát Chính phủ, Bộ
trưởng không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức…
Về chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước được Hồ Chí Minh xác định là
nhân dân. Người nhấn mạnh: “phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát
đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Đối với Nhà nước, cán bộ là
công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh
quần chúng đôn đốc và kiểm tra”1.
b. Phòng, chống tiêu cực trong hoạt động Nhà nước
Những tiêu cực trong hoạt động Nhà nước theo Hồ Chí Minh là những “căn
bệnh” được hình thành và phát triển một khi cách mạng gặp khó khăn hoặc khi
cách mạng trên đà thắng lợi. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước,
Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục những tiêu cực:
- Đặc quyền, đặc lợi. Biểu hiện của nó là thói cậy mình là người trong cơ
quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch, lạm quyền, sách nhiễu với dân, đồng
thời để vơ vét tiền của, làm lợi cho cá nhân mình. Hồ Chí Minh cho rằng đó là
chủ nghĩa cá nhân cần phải loại trừ.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan
liêu dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến”. Nó
phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần kiệm liêm chính... Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi việt gian, mật thám.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc
đánh giặc trên mặt trận. Người còn chỉ ra nguyên nhân quan trọng của tệ tham ô,
lãng phí là bệnh quan liêu. Bởi vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ,
không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem
xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo
cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có mắt mà không
thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật

1
Sđd, t.8, tr.507

92
mà không nắm vững ... thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn
tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mặt phải
tẩy sạch bệnh quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo
bè kéo cánh, cục bộ địa phương, “làm quan cách mạng”; bà con bạn hữu mình,
không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức mà
không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra các biện pháp để phòng và chống các tiêu cực
trong hoạt động bộ máy nhà nước. Cụ thể:
- Nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát
huy quyền làm của nhân dân.
- Pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Thường
xuyên làm công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Cán bộ,
đảng viên phải nghiêm túc và tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật.
- Xử phát nghiêm minh, đúng người, đúng tội, hợp tình hợp lý.
- Cán bộ phải nêu gương, người giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm nêu
gương càng lớn.
- Huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống tiêu
cực trong xã hội, trong bộ máy nhà nước, trong mỗi con người.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC XÂY
DỰNG ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
1. Xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam vào công tác
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần chú trọng thực hiện các nội dung cơ
bản sau:
- Phải đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đường lối, chủ trương của Đảng phải trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, phù hợp với hoàn cảnh đất nước, nhu cầu và nguyện vọng của
nhân dân trong từng thời kỳ.
93
- Phải tổ chức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Phải thể chế
hóa và cụ thể hóa thành hành động tích cực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là
thực thi và phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Phải chú trọng công tác chỉnh đốn Đảng. Sự nghiệp cách mạng thành
công hay không phụ thuộc vào chất lượng của Đảng và cán bộ, đảng viên. Do
đó, phải thường xuyên làm công tác chỉnh đốn Đảng xứng đáng là Đảng cầm
quyền, vừa là người lãnh đạo, vừa là đày tớ thật trung thành của nhân dân.
2. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh
- Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh
cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật với công tác tổ chức thi hành pháp luật,
bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để
nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối
hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhà là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước.
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài kết
hợp với xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục
nâng cao hiệu quả việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách; lãnh đạo bằng
thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách,
pháp luật; lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực;
lãnh đạo tổ chức có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật;
chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính
và cải cách tư pháp.

94
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về sự ra đời và vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Câu 2: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Câu 3: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ
Câu 5: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Câu 6: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước trong sạch, vững mạnh
Câu 7: Trình bày nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây
dựng Đảng và Nhà nước Việt Nam

95
Chương V
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC


1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
sự thành công của cách mạng
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng,
trong thời đại mới, để đánh bại chủ nghĩa đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người thì phải tập hợp tất cả lực lượng, xây
dựng khối đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị, mà là
một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng.
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải có
chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng, từng hoàn cảnh. Nhờ tư
tưởng nhất quán và chính sách Mặt trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xây dựng thành công khối đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng cách mạng
giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong Mặt trận
Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã
kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng
miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành
được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”1.
Từ thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm
có tính chân lý về vai trò của khối đoàn kết: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.604.

96
của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”1; “Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi”2; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”3.
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng,
là nhu cầu khách quan của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường
lối, chủ trương, chính sách đến hoạt động thực tiễn của Đảng. Hồ Chí Minh
khẳng định mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn
dân, phụng sự Tổ quốc”4.
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của của Đảng và của mọi giai
đoạn cách mạng. Cách mạng muốn thành công Đảng phải cụ thể hóa đường lối,
chủ trương thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho
cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng
đầu của dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần
chúng, vì quần chúng. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp quần
chúng, chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết,
tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho
nhân dân và hạnh phúc cho con người.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc
a. Lực lượng đại đoàn kết là toàn dân
Khái niệm dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường có biên độ
rộng lớn. Người thường dùng khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, là
1
Sđd, t.7, tr.397.
2
Sđd, t.11, tr.22.
3
Sđd, t.10, tr.607.
4
Sđd, t.6, tr.183.

97
“mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo, quý, tiện”. Do đó, dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được
hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo
quần chúng nhân dân. Họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết
dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người
dân vào một khối thống nhất trong cuộc đấu tranh chung. Để trả lời cho câu hỏi:
Đoàn kết với ai? Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà.
Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”.
Đại đoàn kết toàn dân được xuất phát từ sự kế thừa và nâng cao tư duy
chính trị truyền thống của dân tộc như: “nước lấy dân làm gốc”; “Dễ mười lần
không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”, hoặc như Nguyễn Trãi
đã viết: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Mạnh Tử thì cho rằng:
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Còn đối với Hồ Chí Minh, tin dân,
dựa vào dân, sống và đấu tranh vì dân là nguyên tắc tối cao xuyên suốt trong tư
duy và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Người khái quát sâu sắc
rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Nước lấy dân làm gốc. Gốc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
b. Nền tảng của đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xác định rõ nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân

98
khác”1. Về sau, Người nêu thêm: “lấy liên minh công - nông - lao động trí óc
làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân”. Nền tảng càng được củng cố
vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ
thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng “hạt nhân”
của nó là đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là điều kiện
cho sự đoàn kết ngoài xã hội. Cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng
là chủ nghĩa Mác - Lênin, cương lĩnh, đường lối của Đảng, nghị quyết của tổ
chức đảng các cấp.
c. Yêu cầu thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Muốn thực hiện được đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống quý báu đó được hình thành,
củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn
năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm,
tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và
chiến thắng mọi thiên tai địch họa, kẻ thù xâm lược, làm cho đất nước được
trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết toàn dân phải có lòng khoan dung,
độ lượng với con người. Người viết: “Trong mấy triệu người cũng có người thế
này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta
phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai
cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta
phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại
đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”2.
Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện
trong đường lối chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.276.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.246-247.

99
cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người kêu gọi tất cả những ai
có lòng yêu nước, không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến hãy cùng
nhau đoàn kết vì nước, vì dân.
Để thực hiện đoàn kết, Hồ Chí Minh cho rằng phải xoá bỏ hết thành kiến,
cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, bởi vì trong mỗi
con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên
trong. Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người, Hồ Chí Minh đã chân
thành lôi kéo, tập hợp chung quanh mình nhiều người trước đây là quan đại thần
của chế độ cũ như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế
Toại hay vua Bảo Đại,… vào khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện cho họ
trở thành những “công dân của một nước dân chủ”, đóng góp vào sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, Hồ Chí Minh cho rằng cần phải có niềm tin
vào nhân dân. Vì theo Người, nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng, là nên, gốc và chủ thể của Mặt trận. Người viết: “Đại đoàn kết
tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc
của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”1.
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thông qua chính cuộc đời đấu tranh của Người, quan điểm này đã thấm
sâu vào thực tiễn cách mạng, liên kết hàng triệu người Việt Nam yêu nước vào
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, tạo nên khối đại đoàn kết
toàn dân vững chắc.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc

1
Sđd, t.7, tr.438.

100
Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một tập hợp
ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời; ngược lại, đại đoàn kết phải là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo.
Đại đoàn kết dân tộc là quan điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi
nó không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, lời kêu gọi mà phải trở thành
chiến lược cách mạng, khẩu hiệu hành động của Đảng và nhân dân ta. Đại đoàn
kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất vật chất có tổ chức.
Tổ chức của khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tuỳ theo từng giai đoạn cách mạng, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất có tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân
chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt Minh (1941), Mặt
trận Liên Việt (1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960),
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955, 1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp
đông đảo các giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phải, các tổ chức và cá nhân yêu
nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do
và hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng trên cơ sở: nền tảng của liên
minh công nông; hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ; Đoàn kết, lâu
dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận
đúng đắn cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước của dân
tộc. Muốn lãnh đạo Mặt trận, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, trong
Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để
xây dựng sự đoàn kết của toàn dân.
4. Quan điểm Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết
toàn dân tộc
a. Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc

101
Toàn dân tộc chỉ trở thành sức mạnh to lớn khi được đoàn kết và tập hợp
theo những nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, đại đoàn kết phải được thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối
cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của nhân dân và các quyền con người
Hồ Chí Minh cho rằng để tập hợp lực lượng vào khối đại đoàn kết phải xác
định rõ lợi ích chung và quyền lợi riêng của mỗi thành phần, giai tầng, mỗi
người. Trong đó, lợi ích tối cao là độc lập, tự do. Đó là ngọn cờ đoàn kết, là mẫu
số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, tôn giáo vào Mặt trận.
Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi căn bản
của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này
được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp
với mọi tầng lớp, đối tượng trong mỗi thời kỳ cách mạng.
- Thứ hai, muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải tin vào dân,
lấy dân làm gốc.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã dân là vốn quý, nhân dân có sức mạnh vô
cùng to lớn, chở thuyền và lật thuyền cũng là dân. Nguyên lý chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng chỉ rõ “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Dân là chỗ dựa
vững chắc, đồng thời cũng là nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân
tộc. Do đó, Hồ Chí Minh khẳng định phải gần dân, tin dân, dựa vào dân, lắng
nghe và học ở dân thì mới có thể xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Thứ ba, khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng
liên minh công - nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình tập hợp, phát triển lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
cho rằng, đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà
phải là một tập hợp bền vững các lực lượng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo. Đây
là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.

102
Hồ Chí Minh chỉ rõ “lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là
công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng”1, vì công nông là “người
trực tiếp sản xuất tất cả mọi phú tài làm cho xã hội sống. Vì họ đông đảo hơn
hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ
chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”2. Ngoài ra, phải mở rộng đoàn kết
với các tầng lớp khác, nhất là tầng lớp trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Người nói: “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công,
nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”3.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có
thể được củng cố và phát triển vững chắc khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì
chỉ có Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin
mới đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân trong lịch sử,
mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập
hợp quần chúng vào khối đoàn kết toàn dân tộc.
- Thứ tư, đoàn kết toàn dân tộc phải chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc,
bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn
bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố
tiêu cực cần phải khắc phục. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình
trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu
dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.
Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải
nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt
của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì
nước, vì dân. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.18.
2
Sđd, t.8, tr.214.
3
Sđd

103
toàn dân tộc, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi
nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống
khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
b. Phương pháp đại đoàn kết toàn dân tộc
- Phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc gồm tập hợp nhiều thành phần, giai tầng
khác nhau, có quan điểm, lợi ích khác nhau nên dễ phát sinh những mâu thuẫn.
Do đó, Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động
quần chúng nhân dân. Người yêu cầu các tổ chức, cán bộ làm công tác dân vận
phải tìm tòi, lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để đưa đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
- Phương pháp tổ chức
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải có phương pháp tổ chức
khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, kiện toàn, phát triển hệ thống chính trị
cách mạng từ Đảng, Nhà nước đến các tổ chức chính trị - xã hội. Sự thống nhất
và bền vững của hệ thống chính trị cách mạng, theo Hồ Chí Minh, chính là nhân
tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, để giải
quyết những khác biệt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải sử dụng phương
pháp “cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt).
- Phương pháp xử lý đồng bộ các mối quan hệ nhằm thêm bạn bớt thù
Trong thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp luôn phân định
thành ba thành phần: lực lượng cách mạng, lực lượng phản cách mạng và lực
lượng trung gian. Thành bại của cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng đối địch
không chỉ tùy thuộc vào thực lực mỗi bên, mà còn tùy thuộc vào yếu tố bên nào
tranh thủ được sự ủng hộ của lực lượng trung gian. Phương pháp đại đoàn kết
Hồ Chí Minh là phương pháp xử lý khoa học mỗi tương quan đó, trên tình thần
“đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”, nhằm huy
động sức mạnh tối đa, tạo thế và lực để cách mạng giành được thắng lợi.

104
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế
a. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Thực hiện đoàn kết quốc tế, theo Hồ Chí Minh là để tập hợp lực lượng bên
ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh
thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự
cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng,
bất khuất cho độc lập, tự do,… Sức mạnh đó đã giúp dân tộc ta vượt qua biết
bao thác ghềnh trong dựng nước và giữ nước.
Về đối tượng đoàn kết quốc tế, được Hồ Chí Minh xác định rất rộng lớn.
Đó là đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước tư
bản chủ nghĩa nói chung; đoàn kết với nước Nga Xôviết, với Liên Xô và rộng
hơn là các nước xã hội chủ nghĩa; đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới; đặc biệt là đoàn
kết với nhân dân Lào, Camphuchia. Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Có sức mạnh cả nước một lòng… lại
có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng
với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến
đích cuối cùng”.
Như vậy, đoàn kết dân tộc gắn liền đoàn kết quốc tế nhằm mục đích kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng

105
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng thực hiện đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi
mục tiêu của cách mạng mỗi nước, mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến
bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc
tế vì mục tiêu cách mạng của thời đại.
Muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung,
Hồ Chí Minh yêu cầu các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh
hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô
vanh,… những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của
các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến
hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ
nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng
nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và
thời đại.
2. Lực lượng và hình thức tổ chức đoàn kết quốc tế
a. Các lực lượng cần đoàn kết
Nội hàm khái niệm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong
phú, song tập trung chủ yếu vào ba lực lượng: Phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, dân chủ
thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang
xâm lược Việt Nam.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt
của đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kế của giai cấp vô sản
quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do
đánh giá rất cao vai trò của khối đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12
năm 1920, tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng:
“Nhân dân toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái
hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”. Tiếp nhận

106
học thuyết Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, tìm thấy “cái cẩm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu
nước của các dân tộc bị nô dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng
ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là Liên Xô và sau này là các
nước xã hội chủ nghĩa; là quốc tế thứ ba và sau này là cục thông tin quốc tế. Từ
đó, Người đã giành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt mỏi cho
việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các Đảng
cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai
cấp vô sản trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc
tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ
có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao
động toàn thế giới theo tinh thần “Bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể
chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng
lợi hai cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự
đồng tình, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế giới. Nó khẳng định trên thực tế
những giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà sinh thời Hồ Chí
Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự đồng
tình, ủng hộ, của các lực lượng cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh
thần quốc tế vô sản là không thể phủ nhận.
Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối
kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc… nhằm là suy yếu phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban
phương Đông của Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các dân
107
tộc thuộc đại, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để lập cơ sở cho một liên minh phương đông tương lai, khối liên minh này
sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Thêm vào đó, để tăng
cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như
hai cái cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị quốc tế cộng sản
bằng mọi cách phải “Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật
thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự
sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành thắng lợi cuối cùng”. Người nói, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi
của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
Đối với các lực lượng tiến bộ những người yêu chuộng hoà bình dân chủ,
tự do và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong
xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ
Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hoà
bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
Sau khi khi Việt Nam giành độc lập, thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều
tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để gìn giữ hoà bình”.
“Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối
với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Bên cạnh ngoại giao nhà nước Hồ Chí
Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt
Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hoá của nhân dân thế
giới, của nhân dân Á - Phi, xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực
lượng tiến bộ trên thế giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hoà bình, tự do, và
công lý, Hồ Chí Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ tạo nên những
tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và
từng con người trên hành tinh. Thật hiếm có những cuộc đấu tranh giành được
sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh
108
khẳng định: chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức, mà đảng ta đã
vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những
thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
b. Hình thức tổ chức đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách
lược, một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi
hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Ngay từ năm 1924
Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập Mặt trận thống nhất của nhân
dân chính quốc và thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, đồng thời kiến nghị quốc
tế cộng sản cần có giải pháp cụ thể đến đại hội VI (1928) quan điểm này trở
thành sự thật dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính
trị - xã hội trong khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách
mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối
đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ các trào lưu cách mạng thời đại,
góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh giành sự quan
tâm đặc biệt. Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử, văn hoá, và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp năm
1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết
định thành lập riêng biệt mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước Việt Nam,
Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh. Trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình
thành mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào (Mặt trận nhân dân ba nước Đông
Dương) phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu cùng thắng lợi.
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết
hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “Vừa là đồng chí, vừa là anh em”
Với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá lâu đời với Việt
Nam; Thực hiện đoàn kết các dân tộc Châu Á và Châu Phi đang đấu tranh giành
độc lập. Với các dân tộc Châu á. Người chỉ rõ, các dân tộc Châu Á có độc lập thì
109
nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc Châu Á quan hệ mật
thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20 thế kỷ XX,
cùng với việc sáng lập hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham
gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình
thức sơ khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô
sản, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Với việc tham gia sáng lập các tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở
cho sự ra đời của mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng
các quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm
tạo thế dựa cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của các bước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn bè quốc tế và
nhân loại tiến bộ trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến chống Pháp và
cả nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống Mỹ, hình thành mặt trận nhân dân thế
giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn
kết dân tộc; mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào; mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn
kết với Việt Nam; mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt nam chống đế
quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất
của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn
kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản
động quốc tế, phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích
giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là
vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm,

110
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này, nhờ đặt cách mạng Việt Nam
trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với
trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự
nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết
thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản,
có lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách
mạng thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực
lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các đảng là điều kiện quan
trọng nhất để bảo đảm phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc
đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người. Người cho
rằng, thực hiện sự đoàn kết đó, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
“Có lý” trước hết là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên,
việc trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có
hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng viên, tránh giáo điều.
“Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của
những người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc
phục tư tưởng sô-vanh, “Nước lớn”, “Đảng lớn”, không “áp đặt”, “ức chế”, nói
xấu, công khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế…
gây sức ép với nhau. “Có tình” đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau cùng
nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, các dân

111
tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó không được phương hại đến
lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc vừa là một nội dung của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng
rất lớn không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công
nhân mà còn củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.
Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc
là tư tưởng nhất quán, được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai
chối cãi được”. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do
của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập tự do của các dân tộc khác.
Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung
Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện
nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ
hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hoá sau khi Việt Nam giành
được độc lập. Tháng 9/1947, trả lời nhà báo Mỹ S. Ê-li Mây-si, Hồ Chí Minh
tuyên bố chính sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó,
Người không chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt
thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu
cao tư tưởng độc lập tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh
trở thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng
của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc
đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế
giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
112
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ hoà bình trong công lý. Giương cao ngọn cờ hoà bình, chống chiến tranh xâm
lược là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hoà hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản với những trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc
đời mình, Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh cho hoà bình, một
nền hoà bình thật sự cho tất cả các dân tộc - “hoà bình trong độc lập tự do”.
Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình là tư tưởng bất
di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hoà bình trừu
tượng, mà là “một nền hoà bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân
chủ”, chống chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc
gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hoà bình trong công lý, lòng
thiết tha hoà bình trong sự tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí
Minh và nhân dân Việt Nam là đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác
dụng cảm hoá, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt
Nam đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình. Trên thực tế, đã hình thành
một Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết
với Việt Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập
hợp lực lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét, Chanđra, nguyên
Chủ tịch Hội đồng Hoà bình thế giới cho rằng: “Bắt cứ nơi nào chiến đấu cho
độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở
đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt, phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân
tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua
113
nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn
nên cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, muốn người
ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình”. Trong đấu tranh giành chính
quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ
ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan
hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: “phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại
giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài,
Người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng
tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các đảng thuộc
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn nhỏ
đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp
là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trong kháng chiến chống Mỹ, với đường lối độc lập, tự chủ giương cao
hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc
và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn
kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các
nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô, Trung Quốc. Sự đoàn kết của
Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ đã góp phần
quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong
trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ
Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng

114
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc về sự cần
thiết phải thực hiện chiến lược đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh toàn dân tộc, đặt lợi ích dân tộc, đất nước
và con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ trương, chính
sách kinh tế - xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) khẳng định: “Đại
đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động
lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1. Để phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, Đại hội XII đã đề ra phương hướng và nhiệm vụ tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mọi nguồn lực,
sức mạnh sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu
xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn
trọng những điểm khác biết không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập
hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường mối quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
2. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
công - nông - trí
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sức sống của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí.
Hồ Chí Minh đã xây dựng khối liên minh chặt chẽ, mạnh mẽ để thực hiện thắng
lợi các mục tiêu cách mạng. Trong tình hình mới hiện nay, Đảng cần thực hiện
tốt quan điểm “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.158

115
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
3. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế
Tình hình trong nước và quốc tế giai đoạn hiện nay đã và đang có những
biến chuyển phức tạp đòi hỏi phải rút ra những bài học trong chiến lược đoàn
kết quốc tế của Hồ Chí Minh để vận dụng cho phù hợp.
- Trước hết, làm rõ đại đoàn kết để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Hai là, chủ động hội nhập, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển, đồng thời tham gia những vấn đề toàn cầu hiện nay.
- Ba là, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp
phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
- Bốn là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh làm
hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc .
Câu 2: Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.
Câu 3: Phân tích những hình thức cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.
Câu 4: Phân tích và chứng minh tính tất yếu của xây dựng đoàn kết quốc tế.
Câu 5: Phân tích nội dung, hình thức và nguyên tắc đoàn kết quốc tế.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh

116
Chương VI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA,
ĐẠO ĐỨC VÀ CON NGƯỜI MỚI

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA


1. Một số nhận thức chúng về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các
lĩnh vực khác
a. Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất
của Việt Nam
Với những cống hiến xuất sắc cho dân tộc và cho nhân loại tiến bộ, Khóa
họp 24 Đại Hội đồng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp
quốc (UNESCO) từ ngày 20/10 đến 20/11/1987, đã ra Nghị quyết 24C/18.6.5 về
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là “Anh hùng
giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Nghị quyết khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất
về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc
trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những đóng
góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng của Người là hiện thân cho những
khát vọng của các dân tộc có mong muốn được khẳng định bản sắc văn hoá của
mình và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau. Đại hội đồng UNESCO đã khuyến
nghị các nước thành viên “cùng tham gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, bằng việc tổ chức các hoạt động cụ thể để tưởng niệm Người,
qua đó làm cho mọi người hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của tư tưởng và những cống
hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người”.
b. Quan niệm Hồ Chí Minh về văn hóa

117
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả 04 cách
tiếp cận: Theo nghĩa rộng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
do loài người sáng tạo ra. “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1. Theo nghĩa hẹp: Văn hóa
là những giá trị tinh thần, thuộc kiến trúc thượng tầng2. Theo nghĩa rất hẹp: văn
hóa đơn thuần chỉ trình độ học vấn của con người được đánh giá bằng trình độ
học vấn phổ thông, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người “phải đi học
văn hóa”, “xóa mù chữ”. Theo nghĩa “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Tháng 8/1943, khi còn trong nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch, lần
đầu tiên Người nêu ra định nghĩa về văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn” 3.
Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu được: Văn hóa là
những sáng tạo và phát minh của con người. Nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh
tồn của con người. Văn hóa là mục đích và động lực của cuộc sống, nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Cấu trúc của văn hóa:
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, luật pháp, khoa học, tôn giáo, văn học - nghệ thuật,
những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt (ứng xử, giao tiếp).
Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh có nhiều điểm tương đồng với quan
niệm hiện đại của UNESCO về văn hóa theo cách khía cạnh sau: phức thể, tổng
thể nhiều mặt; nét riêng biệt, đặc trưng riêng về tinh thần và vật chất, khắc họa
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.431.
2
Báo Cứu quốc, tháng 5/1945.
3
Sđd, t.3, tr.431.

118
nên bản sắc; nghệ thuật, văn chương, và các quyền cơ bản của con người, hệ
thống giá trị, cách ứng xử và giao tiếp.
c. Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác
Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hoá đã được Hồ Chí Minh xác định là
đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc tính về kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Văn hoá được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, có quan hệ mật thiết
với nhau, cùng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời
sống xã hội.
Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải
ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy
xây dựng và phát triển kinh tế. Hồ Chí Minh cho rằng văn hóa có tính tích cực,
chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh
tế và chính trị. Người viết: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp
cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng
cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước
ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”1.
Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực
hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế theo tinh
thần “văn hóa cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa
kháng chiến”. Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong các cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến
có văn hóa (tính chính nghĩa của kháng chiến và chiến tranh vệ quốc). Chính
điều này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế
và chính trị cũng phải có tính văn hóa, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại
đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.281-282.

119
trương đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn
hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
a. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Mục tiêu cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc
lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.
Văn hóa là mục tiêu thể hiện ở chỗ văn hóa là quyền sống, quyền sung
sướng, quyền tự do, quyền mưa cầu hạnh phúc và thụ hưởng các giá trị văn hóa;
là khát vọng về các giá trị chân - thiện - mỹ của nhân dân; là một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh; một xã hội đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
luôn được quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện
phát triển toàn diện.
Văn hóa là động lực được Hồ Chí Minh lý giải rất cụ thể. Văn hóa là một
động lực cho sự phát triển của đất nước, các thiết chế văn hóa góp phần xây
dựng và phát triển đất nước, con người Việt Nam. Trong đó, văn hóa chính trị
soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo toàn dân thực hiện độc lập, tự chủ, tự
cường; văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm
cách mạng, sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin thắng lợi của cách mạng;
văn hóa giáo dục góp phần nâng cao dân trí, mở rộng vốn hiểu biết cho nhân
dân, thực hiện sứ mạng trồng người, đào tạo con người mới, nguồn nhân lực cho
cách mạng; văn hóa đạo đức góp phần nâng cao phẩm giá con người Việt Nam;
văn hóa pháp luật đảm bảo dân chủ, trật tự kỷ cương, phép nước.
b. Văn hóa là một mặt trận chiến đấu
Văn hóa là một mặt trận được hiểu văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng
trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Nội dung mặt trận văn hóa rất phong phú, bao
gồm các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, các hoạt động văn nghệ, báo chí,
công tác lý luận.

120
Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh văn hóa, văn nghệ sĩ là những
chiến sĩ, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật là những vũ khí chiến đấu. Để là tròn
nhiệm vụ, chiến sĩ trên mặt trận này phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi
bút là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”; phải bám sát cuộc sống
thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, nghiêm khắc
phê bình những thói hư tật xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu…
Vì văn hóa là mặt trận, văn nghệ sĩ là những chiến sĩ nên các chiến sĩ văn
hóa văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.
c. Văn hóa phục vụ quần chúng
Thực tiễn đời sống nhân dân là nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ, là
chất liệu không bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ
sĩ phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật
của sinh hoạt, nhân dân là người được hưởng thụ các giá trị tinh thần đó. Văn
hoá văn nghệ thực sự phục vụ quần chúng nhân dân phải:
+ Mọi hoạt động văn hoá phải gắn liền với đời sống thực tại của nhân dân.
Muốn vậy, phải từ trong quần chúng mà đến với quần chúng.
+ Mỗi một hoạt động văn hoá từ khẩu hiệu, phim ảnh, báo chí... phải thể
hiện tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng nhân dân. Muốn vậy thì trong hoạt
động văn hoá phải nêu ra và giải quyết một cách phù hợp 3 câu hỏi sau về: đối
tượng, mục đích và phương pháp.
Muốn văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân thì phải đánh giá cho đúng
quần chúng nhân dân. Có 4 điểm để đánh giá quần chúng nhân dân như sau:
+ Quần chúng nhân dân không chỉ là những người sáng tạo ra của cải, vật
chất, mà họ còn là người sáng tác rất hay “ca dao, tục ngữ, hò, vè” là “những
hòn ngọc quý” mà văn nghệ sĩ phải nghiên cứu, học tập trong sáng tác của mình.

121
+ Quần chúng nhân dân là người “nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ quên
anh ta”1.
+ Quần chúng nhân dân là người kiểm nghiệm, đánh giá sản phẩm văn hoá
một cách trung thực, chính xác nhất.
+ Quần chúng nhân dân phải là người được hưởng thụ các giá trị văn hoá.
Hồ Chí Minh cho rằng phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời
đại của đất nước và của dân tộc; phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp cách
mạng của nhân dân. Tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại phải là những tác
phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Tác
phẩm đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân
dân yêu thích. Theo Hồ Chí Minh, văn nghệ phục vụ quần chúng không phải là
hạ thấp nghệ thuật, không phải là cung cấp cho họ nhưng sản phẩm “loại hai”,
những món ăn tinh thần được chế biến vội vàng, mà phải là những tác phẩm có
tính nghệ thuật cao, tinh tế, có giá trị nhân văn cao.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về tính chất và chức năng của văn hóa
a. Tính chất của nền văn hóa
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam lúc bấy giờ là phải xây dựng một nền văn hoá mới, nền văn hoá dân chủ
mới, đồng thời là nền văn hoá kháng chiến. Đến thời kỳ miền Bắc bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hoá mới được xây dựng là nền văn
hoá xã hội chủ nghĩa.
Về tính chất của nền văn hoá mới cũng đã được điều chỉnh nhiều lần. Nền
văn hoá trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được Đảng và Hồ
Chí Minh xác định có ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Tính chất dân
tộc của nền văn hoá còn được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng những khái niệm khác
nhau như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, để nhấn mạnh hơn nữa đến cái tinh
tuý bên trong rất đặc trưng của văn hoá dân tộc.

1
Hồ Chí Minh: Văn hoá, văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1981, tr.516

122
Đại hội III của Đảng cho rằng: Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội
dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Từ Đại hội VII trở đi, tính chất của
nền văn hoá được xác định là một nền “văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Hai tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay xây dựng nền văn hoá với hai
tính chất trên sẽ làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một nền văn hoá ngang tầm
thời đại. Đó cũng chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về sự phát triển
biện chứng của văn hoá.
Trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
cũng đã nêu rõ tính chất của văn hoá là: dân tộc, hiện đại, nhân văn. Đây chính
là sự nối tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về tính chất của nền
văn hoá đã được đề ra trong các thời kỳ.
b. Chức năng của nền văn hóa
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, có thể thấy văn hóa có ba
chức năng chủ yếu sau đây:
- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp
Trong đời sống tinh thần của con người, tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ
yếu nhất, quan trọng nhất. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có
thể thấp hèn hoặc cao đẹp. Do đó, chức năng cao quý hất của văn hóa là phải bồi
dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai
lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người. Chức năng
cao quý ấy phải được tiến hành thường xuyên, phải làm thế nào cho văn hoá đi
sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng những tình cảm lớn như lòng yêu nước,
tình yêu thương con người, yêu cái chân, cái thiện, cái mỹ; yêu tính trung thực,
chân thành, thuỷ chung, đấu tranh loại trừ những thói hư tật xấu, những thoái
hoá, biến chất. Hơn nữa, chính những tư tưởng đúng đắn lại tiếp nhận không chỉ
bằng lý trí mà còn bằng tính cảm lớn, tạo nên sự bền vững trong mỗi con người

123
và cả dân tộc. Từ đó, Hồ Chí Minh nêu lên một luận điểm quan trọng “văn hóa
soi đường cho quốc dân đi”.
Lý tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của một con người, một
Đảng, một dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc,
gắn với chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng
đầu của văn hóa là phải làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do;
phải làm cho ai ai cũng “có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và
quên lợi ích riêng”.
Tính cảm lớn theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu
con người; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật
xấu. Tính cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ với gia đình, quê
hương, với bạn bè, anh em, đồng chí… Thông qua các mối quan hệ tốt đẹp, văn
hóa góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng,
tin vào nhân dân và tiền đồ của cách mạng.
- Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí
Bàn về văn hóa là bàn về dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, là vốn kiến thức
của nhân dân. Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết độc,
biết viết để hiểu biết các vấn đề của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, lịch
sử, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề nâng cao dân trí
trước kia cũng đã được nhiều nhà yêu nước đặt ra. Phan Chu Trinh đã đề ra chủ
trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” ngay dưới chế độ thực dân
phong kiến, nhưng đã không thể thực hiện được. Dòng văn hoá cách mạng xuất
hiện trong những thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám chỉ làm chuyển biến được
dân trí phần nào. Nâng cao dân trí chỉ có thể thực hiện được khi chính trị đã
được giải phóng, chính quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có
thể có những điểm chung và riêng. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945
thắng lợi, đất nước độc lập, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo: “một trong những công
việc cấp tốc phải thực hiện lúc này là nâng cao dân trí”. Muốn giữ vững nền

124
độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết
mọi quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc
xây dựng nước nhà, trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Khi miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nói: “chúng ta
phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống
vui tươi hạnh phúc”1. Và đó cũng là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã vạch ra trong thời kỳ đổi mới.
- Bồi dưỡng những phẩm chất cao đẹp, phong cách lành mạnh, luôn hướng
con người vươn tới Chân - Thiện - Mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói
quen cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Văn hóa giúp con người
nhận biết và phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, giữa cái
tiến bộ với cái lạc hậu cản trở con người và dân tộc tiến lên phía trước. Hồ Chí
Minh từng nhấn mạnh: văn hóa phải sửa đổi những tham nhũng, lười biếng, phù
hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để
mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Đó là nhưng phẩm chất đạo đức cách mạng,
những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: văn hóa phải làm cho văn hoá vào sâu trong tâm lý
quốc dân, nghĩa là văn hoá phải sữa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa
xỉ. Người đã nêu ra một luận điểm khái quát: “văn hoá phải soi đường cho quốc
dân đi”.
4. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bên cạnh đưa ra định nghĩa về
văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng
nền văn hóa dân tộc: “1. Xây dựng tâm lí: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây
dựng luân lí: biết hi sinh mình, lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi sự

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.294

125
nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính
trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”1.
Trong kháng chiến chống Pháp, trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943),
Hồ Chí Minh xác định xây dựng nền văn hóa mới mang tính dân tộc, khoa học
và đại chúng.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh xác định nền văn
hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và có tính dân tộc.
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đế văn hóa, thấy rõ vị
trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một
nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã
hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hóa và chiến lược phát triển
đất nước.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
a. Đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận không thể thiếu của
ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Nó có khả năng tác động trở lại
và cải biến tồn tại xã hội. Giá trị đạo đức tinh thần khi được con người tiếp nhận
sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng, Người
nói: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”2.
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loại người là
công việc to tát, nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình đã hũ hoá, xấu xa thì không còn làm việc gì nổi.

1
Sđd
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.252-253.

126
Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người. Người thường nhấn
mạnh, “tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người là cao
thượng”1.
Đạo đức tốt là điều kiện dẫn đến những hành động tốt, sự nghiệp cách
mạng càng cao cả thì đòi hỏi phải có những phẩm chất cao cả. Đạo đức cách
mạng liên quan đến sự thành hay bại của cách mạng, nếu quan tâm đến bồi
dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thì cách mạng đi đến thành
công, nếu xem nhẹ vấn đề này, không tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức
thì cách mạng sẽ gặp khó khăn, thất bại. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng trong bất
cứ giai đoạn nào của cách mạng đều phải ra sức rèn luyện đạo đức cho cán bộ,
đảng viên. Người dạy rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội
mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành được nhiệm vụ vẻ vang”2.
Đạo đức còn là động lực giúp chúng ta vượt lên khi khó khăn cũng như lúc
thuận lợi trong quá trình đấu tranh cách mạng. Trong công việc có lúc chúng ta
gặp khó khăn, nếu chúng ta giữ được đạo đức cách mạng thì không sợ sệt, không
bi quan chán nản và khi công việc thuận lợi sẽ không rơi vào kiêu căng, công
thần, địa vị, tự mãn.
Đạo đức giúp cho mỗi người giữ vững được nhân cách, bản lĩnh bản lĩnh
làm người trước thời cuộc, “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển
lay, uy vũ không khuất phục”3.
b. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý
tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng,

1
Sđd, t.7, tr.568
2
Sđd, t.5, tr.283.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.184.

127
mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở những phẩm chất của những
người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu
cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Hồ Chí Minh quan niệm rằng phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở
thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người, không chỉ do chiến lược,
sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn ở phẩm chất đạo đức cao quý
làm chi chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí
kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt hàng nghìn năm lịch sử. Tấm
gương đạo đức, nhân cách vĩ đại của Người chính là sức hấp dẫn của đất nước,
con người và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù
hợp với từng đối tượng. Tuỳ vào nhiệm vụ của thực tiễn cách mạng đề ra mà
Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác. Trên cơ sở những chuẩn
mực chung cho tất cả mọi người, Hồ Chí Minh đã khái quát thành những phẩm
chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.
a. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân
với cộng đồng; là chuẩn mực đạo đức bao trùm, quan trọng nhất và chi phối các
phẩm chất khác, là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách
mạng. Lòng trung, hiếu rộng lớn ấy thể hiện ở ý chí và quyết tâm phấn đấu cho
nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Trong tư tưởng đạo đức truyền thống và đạo đức phương Đông, Trung và
Hiếu là những khái niệm quen thuộc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần cá nhân, nó mang một ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, người
con trong mối quan hệ với dân tộc và gia đình. Theo quan niệm truyền thống
(quan niệm cũ), Trung là trung quân, là trung thành với vua mà trung thành với

128
vua là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa là con
cái phải hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, Người đã đưa thêm vào nội dung mới, cách
mạng, phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải trung với vua và chỉ có hiếu
với cha mẹ mà “trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ cái cốt lõi
nhất trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và ông
vua phong kiến. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối
của nhân dân bị áp bức với kẻ thống trị mình. “Trung với nước” thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước và đi lên của đất nước. Nước ở đây là nước của dân, dân là
chủ của đất nước. Hồ Chí Minh luôn xác định “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”,
“bao nhiêu quyền hạn đều của dân”1, Đảng và Chính phủ là “đầy tớ của nhân
dân” chứ không phải là “quan nhân dân để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Từ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu
với dân” là một sự đảo lộn mang tính cách mạng trong quan niệm đạo đức
truyền thống. Hồ Chí Minh đã lật ngược lại học thuyết của Nho giáo như Mác
đã làm với học thuyết Hêghen. Người viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất, chân ngửng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngửng lên trời”2. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Điều này đã làm cho tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa so phía trước.
Hồ Chí Minh mong muốn mỗi người Việt Nam phải trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng. Đây là một lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị
- đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân ta từ trước đến nay mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.698.
2
Sđd, t.6, tr.320-321.

129
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng: điều chủ chốt nhất của
đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là
“trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu” thì mới
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân, mà còn phải
hết lòng vì dân. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân,
dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí để hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải nắm vững và thực hành đạo đức
trung với nước, hiếu với dân thì sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất
định sẽ tạo ra được sức mạnh to lớn và đưa cách mạng đến thành công.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Phẩm chất này gắn liền và là biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với
nước, hiếu với dân”. Phẩm chất này lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng
điều chỉnh. Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên vì nó
diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cả khi
thuận lợi và lúc khó khăn. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến phẩm
chất này, từ tác phẩm Đường Cách mệnh cho đến Bản Di chúc cuối cùng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương
Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh giữ lại những yếu
tố tốt đẹp, cải biến nội dung, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Người nói: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng
không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phụng sự quyền lợi
cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm
gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”1.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, tr.321.

130
Trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính” năm 1949, Hồ Chí Minh giải
thích về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như sau:
+ Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo,
khai thác hết khả năng lao động; lao động có năng suất cao và hiệu quả thực tế,
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ: “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta”1. Người dạy: “Cần thì việc gì khó đến mấy cũng làm
được. Siêng học tập thì mau tiến bộ. Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến. Siêng
làm nhất định thành công”.
Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều
phải cần, cả nước đều phải cần. “Người siêng năng thì hay tiến bộ. Cả nhà siêng
năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn vinh. Cả nước siêng
năng thì nước giàu mạnh”.
+ Kiệm tức là tiêu dùng hợp lý, là tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của
của dân, của nước và của bản thân; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”2,
không phô trương hình thức.
Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Cần mà
không Kiệm thì như thùng không đáy, Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm,
không phát triển.
+ Liêm tức là “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; phải
“trong sạch, không tham lam”, “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình...” và “chỉ có một thứ ham
là ham học, ham làm, ham tiến bộ”3. Theo Hồ Chí Minh, Liêm là thước đo bản
chất con người.

1
Sđd, t.12, tr.564.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.636.
3
Sđd, t.5, tr.252.

131
Có Kiệm mới có Liêm được vì xa xỉ mà sinh tham lam, tham tiền của, tham
địa vị, tham ăn ngon... đều là những hành động bất liêm. Người dạy: “ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy”.
+ Chính nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn”1. Điều gì không đứng
đắn, không thẳng thắn tức là Tà “làm việc chính là người thiện, làm việc tà là
người ác”.
Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, là những đức tính
không thể thiếu được của mỗi con người cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn
phương - đó là quy luật tất yếu.
Theo Hồ Chí Minh trong bất kỳ xã hội nào, địa vị nào, nghề nghiệp nào
cũng cần phải giữ 3 mối quan hệ: Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu
khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem
khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết; không dối
trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã
phụ trách việc gì thì giải quyết cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ
khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng
tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
+ Chí công vô tư là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính nhưng nó
cũng có nội hàm riêng. Đó là: không nghĩ đến mình trước, ham làm những việc
ích quốc lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý.
Đó là nội dung của chủ nghĩa tập thể. Người chí công vô tư thì lòng dạ thảnh
thơi, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Có chí công vô tư mới nâng cao được chủ nghĩa
tập thể, loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt được đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là
lợi ích cá nhân, Người chủ trương xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ

1
Sđd, t.5, tr.643.

132
chủ trương xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Người nói: “Chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân con người”1.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, xảo
quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống”2, “là một thứ vi trùng rất độc” đẻ ra
hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích
địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc
đoán, quan liêu, mệnh lệnh,.... Tóm lại, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản
còn ẩn nấp trong mình mỗi chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp
thắng lợi - để ngóc đầu dậy. Nó là một kẻ địch, bạn đồng minh của kẻ địch khác.
Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, phải quyết tâm
đấu tranh chống mọi kẻ địch. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại rất lớn cho
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” 3. Người
cho rằng: chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy cho Đảng, cho cả dân tộc. “Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn
lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”4.
Hồ Chí Minh nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với
việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghỉ đến
đồng bào, đến toàn dân”5, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau;
có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của con người:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.291.
2
Sđd, tr.284.
3
Sđd, tr.291.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.557-558.
5
Sđd, t.9, tr.192.

133
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người”1.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô
tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh những đức
tính tốt ấy gồm có năm điều: “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con
người vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo
khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”2.
c. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Phẩm chất yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất của Hồ Chí Minh. Ở Người, lòng yêu thương con người trước hết
dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người lao động, những người
nô lệ, chứ không phải con người nói chung chung mà là mỗi người cụ thể.
Phẩm chất yêu thương con người của Hồ Chí Minh được thể hiện trong mối
quan hệ “gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn”, “đồng bào cả nước” và “cả loài
người”. Nó đòi hỏi mỗi con người phải luôn luôn nghiêm khắc với mình, độ
lượng, tôn trọng, tìm cách nâng cao con người theo tầm vóc của nó, chứ không
hạ thấp, càng không phải vùi dập. Người tìm cách đánh thức những gì tốt đẹp
mà Người tin rằng ở mọi người đều có, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ
và đó cũng là những ước mơ ngàn đời của cả loài người.
Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện
đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai
lầm và cố gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả
đối với kẻ thù đã bị thương, bị bắt, hoặc đã quy hàng.
Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng “phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau”3, sống với nhau phải “có lý có tình”. Đây chính là điều nhắc nhở cán

1
Sđd, t.5, tr.631.
2
Sđd, t.6, tr.184.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.498.

134
bộ, đảng viên phải luôn luôn chú ý đến phẩm chất này. Đây là tình yêu thương
dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc,
giữa những người cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. Nó
hoàn toàn xa lạ với thái độ “dĩ hoà vi quý”, bao che sai lầm khuyết điểm cho
nhau, càng xa lạ với thái độ yêu ghét, chủ quan, cảm tính, các hiện tượng bè cánh,
phường hội có thể đưa đến những tổn thất to lớn cho Đảng, cho cách mạng.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm vi đề
cập mang tính rộng lớn nhất trong hành vi ứng xử của con người.Theo Hồ Chí
Minh, tinh thần quốc tế trong sáng, cao thượng gồm những nội dung sau:
+ Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng
mệnh đề: “Bốn phương vô sản đều là anh em”1.
+ Tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước trên thế giới.
+ Tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
+ Tinh thần quốc tế trong sáng hướng đến những mục tiêu lớn của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước, các dân tộc. Tinh thần quốc tế ấy vẫn được gọi là chủ nghĩa quốc
tế vô sản hay chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh luôn luôn cho rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ
nghĩa yêu nước. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính, chủ nghĩa quốc tế
không trong sáng thì có thể dẫn tới chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt lập,
kỳ thị chủng tộc, hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Những quan niệm sai
lệch này có thể dẫn tới chỗ phá vỡ sự ổn định và thống nhất của các quốc gia,
phá vỡ tình đoàn kết trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể dẫn tới tình
trạng đối đầu, đối địch.

1
Sđd, t.10, tr.195.

135
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc. Trong
hoạt động thực tiễn cần phải tăng cường giáo dục tinh thần quốc tế vô sản trong
sáng trên cơ sở những định hướng của đường lối chính trị của Đảng và những
chủ trương, chính sách cụ thể của Nhà nước và việc rèn luyện của cá nhân về
tinh thần quốc tế.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra những phẩm chất đạo đức chung, cơ bản
nhất đối với tất cả mọi người, đó là những nhân tố định hướng đạo đức cách
mạng. Từ đó, Người cụ thể hoá thành các tiêu chuẩn đạo đức cho các đối tượng
khác nhau như: Thanh, thiếu niên, nhi đồng, Công an, Bộ đội, Phụ nữ, đội ngũ
tri thức, giai cấp công nhân...
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức
cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn
của mình đã không chỉ xây dựng những phẩm chất đạo đức mới mà còn chỉ ra
con đường và phương pháp hình thành đạo đức mới. Đặc điểm và quy luật hình
thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho thấy rõ những nguyên tắc xây dựng
đạo đức mới như sau:
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức
Đây không phải là nguyên tắc rèn luyện mà còn là cơ sở phân biệt giữa đạo
đức cách mạng và những cái khác nó. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, khi
nói về tư cách một người cách mệnh Hồ Chí Minh viết: “Nói thì phải làm”; “có
lòng bày vẽ cho người”. Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng cần thực hiện “Đảng viên
đi trước, làng nước theo sau”. Trong suốt cuộc đời mình, Người đã giáo dục
mọi người và chính bản thân Người đã thực hiện điều đó một cách nghiêm túc
và gương mẫu hơn ai hết. Chúng ta còn thấy ở Người “ít nói nhưng làm nhiều”.
Trong lĩnh vực đạo đức, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại
hiệu quả thiết thực cho chính bản thân mỗi người và có tác dụng đối với người

136
khác. Đảng ta có hơn hai triệu đảng viên, nếu tất cả đảng viên thực hiện được
nguyên tắc “Lời nói đi đôi với việc làm”, thì công việc dù khó mấy cũng làm
được. Nếu “nói nhiều mà làm ít” hoặc “nói mà không làm”, hơn nữa “nói một
đằng làm một nẻo” thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng. Thói đạo đức giả là
đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột, nó hoàn toàn khác biệt với đạo đức cách
mạng. Xây dựng đạo đức cách mạng, chúng ta phải đấu tranh để làm sao trong
xã hội mới không còn những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo
đức giả vẫn đi dạy dỗ người khác về đạo đức.
Từ đó chúng ta thấy rằng trong bất cứ một lĩnh vực nào, vấn đề nêu gương
đạo đức cũng hết sức quan trọng và đặc biệt cần thiết: Nêu gương trong gia
đình; trong nhà trường; trong tổ chức tập thể, Đảng, Nhà nước... Một trăm bài
diễn văn hay không bằng một tấm gương sống - điều mà Hồ Chí Minh nói về
Lênin, đã đặt ra cho việc xây dựng đạo đức mới một nguyên tắc rất cơ bản là sự
nêu gương về đạo đức. Đó cũng là điều mà chúng ta thấy ở Hồ Chí Minh - một
tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.
Tấm gương sáng ngời về đạo đức của Hồ Chí Minh là tấm gương chung
cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau. Nhưng còn nhiều
tấm gương của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, những tấm gương của những
người tiêu biểu trong từng ngành, từng tập thể, những tấm gương “người tốt việc
tốt” đều có ở mọi lúc, mọi nơi mà chúng ta không thể coi thường, nó có ý nghĩa
rất to lớn thúc đẩy cho quá trình phát triển của đất nước ngày càng đi lên.
b. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
Muốn xây dựng đạo đức mới thì cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái xấu xa. Vì vậy,
xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục tiêu xây.
Cũng chính vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: “Phải kiên quyết quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể,
tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”1.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.449.

137
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới; bằng việc nêu gương
người tốt, việc tốt, những tấm gương đạo đức trong sáng xuất hiện trong cuộc
sống và bằng việc khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh, để mỗi người tự giác với
trách nhiệm đạo đức của mình.
Trong việc chống và xây để có đạo đức mới, Hồ Chí Minh coi trọng việc
chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng chủ nghĩa tập thể. Vì chủ nghĩa cá nhân là
một thứ bệnh cực kỳ nguy hiểm, do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó
khăn, sa vào tham ô, lãng phí, xa rời quần chúng, xa rời thực tế; cũng do chủ
nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kém tinh thần trách nhiệm,
không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm hại đến
lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân, Người coi những tệ nạn đó là tội ác,
là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong
kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã
chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội “việt
gian, mật thám”.
Do vậy, phải kiên quyết chống lại những tệ nạn đó, vừa bằng giáo dục, vừa
bằng xử phạt với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.
Để xây và chống có kết quả, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
như: phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu;
mở cuộc vận động “nâng cao ý thức trách nhiệm; tăng cường quản lý kinh tế tài
chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” 1. Có phong trào cho
toàn Đảng, có phong trào cho từng ngành, từng giới, từng địa phương... qua đó
lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh đầy cam go, để từ đó thôi thúc trách
nhiệm đạo đức cá nhân, để mọi người phấn đấu tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm
chất đạo đức cách mạng của mình.
c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.572.

138
Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo
đức, đó là công việc phải làm suốt đời, không được chủ quan tự mãn, sao nhãng
rèn luyện. Theo Người: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ
vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”1. Vì vậy, Người đòi hỏi:
“Gian nan rèn luyện mới thành công”, “Hiền giữ đâu phải là tính sẵn. Phần
nhiều do giáo dục mà nên”, “Kiên trì và nhẫn nại, không nao núng tinh thần”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào
lương tâm của mỗi người và dư luận quần chúng. Người cách mạng phải ý thức
cho được đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng con người vào đạo đức của
những con người được giải phóng. Đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi
những sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm, khuyết
điểm. Tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc mọi nơi, mọi
hoàn cảnh. Như vậy, mới phân biệt được với cách tu dưỡng đạo đức của các nhà
Nho. Hồ Chí Minh viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với
cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần
chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có
được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”2. Vì
vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”3.
Tóm lại, các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức mới luôn
luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Đó là nguyên tắc chỉ đạo cho mỗi
người phấn đấu trở thành người có đức, có tài để phục vụ tốt cho việc xây dựng
xã hội mới ở Việt Nam.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1. Quan niệm Hồ Chí Minh về con người

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.293.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, tr.448.
3
Sđd

139
a. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người như một chỉnh thể
Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực,
thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn hướng đến cái chân - thiện -
mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”.
Hồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong
các quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào,…);
đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng (“cũng như năm ngon
tay dài, ngắn khau nhau, nhưng đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay”, “mấy mươi
triệu người Việt Nam, có người thế này, thế khác, nhưng đều là nòi giống Lạc
Hồng”); đa dạng trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện sống và làm việc,…
Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập:
thiện - ác, hay - dở, hiền - dữ… bao gồm cả tính người (mặt xã hội) và tính bản
năng (mặt sinh học) của con người. Theo Người, con người có tốt, có xấu,
nhưng “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”1.
b. Hồ Chí Minh thường nói tới con người cụ thể, lịch sử
Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Nghĩa hẹp: con người trong phạm vi gia đình: anh em, họ hàng, bè bạn... Nghĩa
rộng: đồng bào cả nước. Mở rộng tối đa: con người trên phạm vi thế giới, là cả
loài người.
Theo nghĩa rộng, Bác thường dùng trong một số trường hợp nói về “phẩm
giá con người”, “giải phóng con người”, “người ta”, “con người”, “ai ai”,…
nhưng thường đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung.
Tuy nhiên, phần lớn thì Hồ Chí Minh xem xét con người trong các mối
quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, theo giới tính, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp,
trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc (sĩ, nông, công, thương) và quan hệ
quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản, nhân loại
yêu chuộng hòa bình,…). Những điều kể trên cho thấy, con người trong tư tưởng

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, tr.60.

140
Hồ Chí Minh là con người hiện thực, cụ thể, khách quan, chứ không phải kiểu
con người chung chung của tôn giáo.
c. Hồ Chí Minh khẳng định bản chất của con người mang tính xã hội
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản
xuất, con người xác lập các mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con
người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các
quan hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loại người.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người
- Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Vì vậy, “vô luận việc
gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đầu thế cả”1. Người
khẳng định việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu
cũng xong vì dân ta tốt lắm, họ là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh
thần. Người chỉ ra phẩm chất tốt đẹp của dân ta là lòng trung thành và tin tưởng
vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh, biết nhường cơm
sẻ áo, che chở, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Hồ Chí Minh còn khẳng định dân ta rất tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người
tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”2, đặc biệt là lòng sốt sắng,
hăng hái của nhân dân để thực hiện con đường cách mạng. Nhân dân là yếu tố
quyết định thành công của cách mạng. Người kết luận: “Lòng yêu nước và sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”3.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
+ Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng

1
Sđd, t.5, tr.241.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.295.
3
Sđd, t.6, tr.281.

141
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khi mất nước, thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành
độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi
lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Người luận giải rằng: nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì.
Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc,
làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành.
Khẳng định con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một điều
quan trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì
lợi ích chính đáng của con người.
+ Con người là động lực của sự nghiệp cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Người cho rằng sự nghiệp cách mạng là do chính lực lượng bản thân của con
người tạo dựng nên.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không phải mọi con người đều trở thành động lực
của sự nghiệp cách mạng, mà phải là những con người được thức tỉnh, giác ngộ,
giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức,
được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử văn hóa hàng ngàn năm của dân
tộc Việt Nam.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức,
có lãnh đạo. Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng. Qua các phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ nhân
sức mạnh của con người lên gấp bội.
Giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa con người mục tiêu và con người
động lực, Hồ Chí Minh cho rằng: càng chăm lo cho con người mục tiêu tốt bao
nhiêu thì phát huy con người động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường

142
được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu
cách mạng.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
a. Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài
của cách mạng
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa quan trọng của chiến lược xây dựng con
người mới. Người rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con
người. Người đề cập tới “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài nhưng cũng rất
cấp bách. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa
nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Con người xã hội chủ nghĩa đương
nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây, trên con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.Quan điểm
này về mặt lôgic không hề mâu thuẫn, cần hiểu là phải đặt ra ngay từ đầu nhiệm
vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã
hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu
dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và phụ thuộc về trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, gia đình và cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng con người như
vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng
giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Để xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa có nhiều biện pháp nhưng theo Hồ Chí Minh
giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Người luận giải: giáo dục tốt sẽ
tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại, giáo dục

143
tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thế hệ trẻ. Bác rất đề cao vai trò của giáo dục: một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt
cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm.
b. Nội dung và phương pháp xây dựng con người
Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải
đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng
đầu. Trong việc đào tạo và sử dụng con người, Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả
tài năng và đạo đức. Hai mặt Đức và Tài luôn luôn thống nhất với nhau, không
tách rời nhau, tạo điều kiện cho nhau, giúp cho con người hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng của mình. Trong hai mặt ấy “Đức” giữ địa vị là nền tảng.
Trong việc “trồng người”, Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức,
Người thường xuyên bồi đắp cái nền tảng ấy cho con người. Người yêu cầu tất
cả mọi người không trừ một ai, không trừ cấp nào đều phải thường xuyên trau
dồi đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh coi sự nghiệp “trồng người” là công việc “trăm năm”,
không thể nóng vội một sớm một chiều, không tuỳ tiện, sao nhãng sự nghiệp
giáo dục. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải theo tinh thần của Khổng Tử: “Học
không biết chán, dạy không biết mỏi”, của Lênin: “Học! Học nữa! Học mãi”.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”.
IV. XÂY DỰNG VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC, CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
(7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng: Văn hoá là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và
phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ

144
trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hoá là một mặt trân; xây dựng, phát triển văn
hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự
kiên trì, thận trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định phải xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất
lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân,
thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu
hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của
công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại,
thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc,
đúng đắn, đầy đủ về vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững
đất nước. Mỗi bước đi lên của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn
hóa. Do đó cần phải phát triển văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Trong đó, tập
trung xây dựng văn hóa chính trị và các lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa ứng
xử, văn hóa phê bình…
Bên cạnh đó, cần phải phát huy và trọng dụng nhân tố con người với tư
cách là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
145
Muốn vậy, phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, trọng dụng trí
thức và nhân tài, thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người,
tạp động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
(7/1998) nêu lên quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người Việt Nam
trong giai đoạn cách mạng mới. Đó là con người có tinh thần yêu nước, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có chí vươn lên
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong
sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý
thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh
thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học
tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định “con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 Khóa IX về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII (01/2016) của Đảng nêu phương hướng: “Xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng

146
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1.
Đại hội XII của Đảng nêu lên các nhiệm vụ cụ thể: “Phát huy nhân tố con
người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về
đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh”.
2. Xây dựng đạo đức cách mạng
a. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân
Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị của con người. Đạo
đức, hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, quy tắc, quan niệm về
các giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, nhân phẩm, công bằng...
được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con người với con người,
con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng
tới chân thiện mỹ. Để vươn tới sự hoàn thiện đó, trước hết con người phải tự tu
dưỡng, hoàn thiện mình về đạo đức.
Hồ Chí Minh cho rằng, việc tu dưỡng đạo đức cá nhân của mỗi con người có
vai trò vô cùng quan trọng. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan
trọng hơn. Vì thế hệ trẻ là “người chủ tương lai của nước nhà”2; là cái cầu nối
giữa các thế hệ - “người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người
phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”3. Chính vì vậy, việc giáo dục đạo
đức và chăm lo việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm từ rất sớm.
Người còn chỉ rõ, việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống
hàng ngày của mỗi cá nhân không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị của
chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp mỗi cá nhân vượt qua khó khăn thử
thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.126.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.185.
3
Sđd, t.10, tr.448.

147
bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng
vẫn giữ được tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ
cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
không kiêu ngạo, không hủ hoá”1.
- Tu dưỡng đạo đức theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với hoc
sinh, sinh viên và thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh sớm xác định những phẩm chất
đạo đức cần thiết. Những phẩm chất đó được Người đề cập đến trong Bài nói tại Đại
hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (07/05/1958), Người tóm tắt “sáu cái yêu”:
+ Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu
mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân
còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những
công tác nặng nhọc với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa
xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa
học và kỷ luật”2.
Theo Người, để có được những phẩm chất đó, sinh viên phải rèn luyện cho
mình những đức tính như: trung thành, tận tuỵ, thật thà và chính trực. Phải xác định
rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải

1
Sđd, t.9, tr.284.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t .9, tr 173-174.

148
tự hỏi mình, đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho lợi ích nước nhà
nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào”1.
Trong học tập, rèn luyện phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao
động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo
danh, hám lợi. “Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống
cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”2.
Người chỉ rõ nhiệm vụ của học sinh sinh viên phải trả lời được câu hỏi:
Học để làm gì? Học để phục vụ ai.? Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là
xấu? Ai là bạn, ai là thù?”... Người dẫn giải: “Đối với người, ai làm gì lợi ích
cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân
dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có
lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động
có hại cho Tổ quốc và đồng bào là thù... Điều gì phải cố làm cho kỳ được, dù là
việc nhỏ. Điều gì trái, phải hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”3.
b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức dấn thân, đạo đức
trong hành động. Chính nhờ nền đạo đức đó, trong từng giai đoạn cách mạng,
thế hệ trẻ Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tích to lớn, góp phần vào tiến
trình chung của lịch sử nước nhà.
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập thế
giới, một nền đạo đức mới đã và đang hình thành với công cuộc đổi mới của
Đảng. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc
như: yêu nước, thương người, sống nghĩa tình vẹn tròn, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư với những yêu cầu mới của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn
sinh viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành

1
Sđd, t.7, tr.455.
2
Sđd, t.7, tr.455.
3
Sđd, t.7, tr.454-455.

149
mạnh; khiêm tốn, cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập
thân, lập nghiệp, năng động, linh hoạt, nhạy bén, dám đối mặt với những khó
khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chây lười; luôn gắn bó máu
thịt với nhân dân, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, do tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập
thế giới, do sự bùng phát của lối sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo danh lợi
bất chấp đạo lý đã dẫn đến những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ
biến. Đó là:
+ Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
+ Tình trạng nhũng nhiễu, của quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận
công chức.
+ Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt yếu kém về
phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ
trình độ hoàn thành nhiệm vụ.
+ Biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự
chống phá của các thế lực phản động trong nước và quốc tế nhằm thực hiện âm
mưu “diễn biến hoà bình”... đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân,
ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức.
* Hậu quả: Một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất
phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống
thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã
hội, sa vào nghiện ngập, hút xách; thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy
điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đây là những biểu hiện suy đồi
đạo đức cần được khắc phục.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
+ Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân,
một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản kiên trung, nhưng đồng thời

150
cũng là tấm gương đạo đức của một con người chân chính, bình dị, gần gũi, ai
cũng có thể theo học, làm theo, để trở thành những người cách mạng, người
công dân tốt hơn trong xã hội. Điều ấy được thể hiện trong các điểm sau:
Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Ngay từ thuở
thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu cho cả
cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng lâu
dài và gian khổ, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên
định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện
bằng mục tiêu đó.
Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí
Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ. Vượt qua biết bao
khó khăn, Người kiên trì mục tiêu của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan
điểm, khí phách, bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Người
tự răn mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần phải càng cao”.
Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và
nhân hậu với con người. Hồ Chí Minh luôn luôn tin ở con người, tin tưởng vào
trí tuệ và sức mạnh của nhân dân: dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm
“người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, “người lính vâng lệnh quốc dân,
đồng bào ra mặt trận”.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt
qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. Hồ Chí Minh có
tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người. Người dành tình thương yêu
cho tất cả, Người chia sẻ những nỗi đau với mỗi người. Người nói: “Mỗi người,
mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng biệt và gộp những nỗi đau khổ riêng
của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.

151
Năm là, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
Hồ Chí Minh sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi khinh sự xa hoa, không ưa
chuộng những nghi thức sang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì nước, vì
dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Người đã đề ra tư cách người cách
mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình noi gương thực hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song “khó ai có thể vượt
hơn”. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm
gương cụ thể, gần gũi, mà mọi người đều có thể noi theo.
* Đối với thanh niên, học sinh, sinh viên, học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục qua đó để giáo dục,
rèn luyện mình, xứng đáng là những vừa “hồng” vừa “chuyên”, những chủ nhân
tương lai của đất nước. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh gồm
những nội dung cơ bản sau:
- Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước,
hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai
đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu
nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm,
toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ quyết tâm “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết
giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “sánh vai với cường quốc
năm châu”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
Mỗi thanh niên cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn
của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống

152
nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh
hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân
chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo
vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ
trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết
kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được
thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm
vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển
trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu:
“xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh
không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng
chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản
vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính.
Trung với nước, hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với
công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành
đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê
hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống
hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri
thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao
động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền
thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
153
Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng
đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy
sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí
làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì
đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham
lam, vụ lợi, vun vén cá nhân...
- Hai là, thực hiện “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm
giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ “đối với mình”, được Chủ
tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người
là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập
và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư trong giai đoạn hiện nay là:
Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản
của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức;
biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính
mình một cách có hiệu quả.
Thực hiện chí công vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực
dụng. Đối với thanh niên phải loại bỏ lối sống thực dụng, vị kỷ, giành giật lợi ích
cho mình, vun vén cho cá nhân... Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo
vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không
chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm...
Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống
bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều,
làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang
nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì “hăng hái”, tranh thủ
kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm.
154
Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước
và của nhân dân. Phải có lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
- Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó, hoà mình với nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người
là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng
nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân.
Học tập và làm theo Người, thanh niên phải đặt mình trong tổ chức, trong
tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương, tất cả vì nhân dân, mỗi
cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách
nhiệm với dân. Phải chia sẻ và đồng cam, cộng khổ với nhân dân.
Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình.
Người dạy cán bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm,
không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có
quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư
hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh “phải nghiêm khắc với chính mình”. Phê bình phải có mục đích là xây
dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng
chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình.
- Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát
huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết,
hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu
giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng
Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân

155
tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao
cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các
dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân
dân ta và phong trào cách mạng thế giới.
Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc
tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng
để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt
Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì
độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển.
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập
tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng
có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công,
cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ,
lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa
các dân tộc.
Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thanh
niên cần phải nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu
tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện
vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao
đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con
người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối
với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng,
toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn
luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa
truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy
thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh
156
nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực
cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện
cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo
đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác
Hồ vĩ đại.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

Câu 1: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa
Câu 2: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tính chất và chức năng của
văn hóa
Câu 3: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo
đức
Câu 4: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức
cách mạng
Câu 5: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng
đạo đức cách mạng
Câu 6: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Câu 7: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Câu 8: Trình bày nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Liên hệ bản thân

157

You might also like