Professional Documents
Culture Documents
Đề bài: “Phân tích sơ lược con đường Cách mạng Việt nam
của Hồ Chí Minh từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và mở đường
giải phóng con người toàn diện”
Hà Nội, T10/2022
LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng giai cấp, giải phóng
con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng là vấn đề cơ
bản của đường lối cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ sáng
tạo của người tỏng việc vận dụng những nguyên lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
Việt Nam. Chính vì vậy, đây được coi là bước phát triển mới học thuyết Mác-Lênin về cách mạng
thuộc địa ở thời điểm các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho độc lập, tự do.
Phần nội dung bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
- Phần I: Phân tích sơ lược con đường Cách mạng Việt nam của Hồ Chí Minh từ giải phóng dân
tộc đến giải phóng giai cấp và mở đường giải phóng con người toàn diện
- Phần II: Bằng phương pháp tư duy của quan điểm đó của Hồ Chí Minh, mỗi doanh nghiệp nên
có con đường phát triển như thế nào?
- Phần III: Hãy minh họa bằng một doanh nghiệp cụ thể
Bài làm của em vẫn còn rất nhiều thiếu xót nên kính mong thầy cô có những nhận xét đánh giá để
bài làm được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN I: PHÂN TÍCH SƠ LƯỢC CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA HỒ CHÍ
MINH TỪ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ĐẾN GIẢI PHÓNG GIAI CẤP VÀ MỞ ĐƯỜNG GIẢI
PHÓNG CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, có giải phóng dân tộc mới có được giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Cũng chỉ khi các giai cấp và mỗi con người đều được giải phóng thì sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc mới hoàn toàn triệt để. Đó cũng là lý luận được minh chứng bằng thực tế chiến thắng
của cách mạng giải phóng Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vào điều kiện các nước thuộc địa
Chủ nghĩa Mác-Lênin có sứ mệnh lịch sử và vạch rõ con đường và phương pháp đấu tranh để giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, năm
1848, Mác, Ăngghen không chỉ luận giải vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc mà vấn đề giải
phóng con người cũng được đề cập sâu sắc: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”. Tuy nhiên, do cả hai ông đều sống ở Tây Âu, nơi mà chủ nghĩa tư
bản phát triển tới trình độ cao nên trước hết các ông nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp. Mác và
Ăngghen viết: “hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc
khác sẽ bị xoá bỏ”. Mác và Ăngghen cho rằng giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện
để giải phóng dân tộc.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Mác xây dựng học thuyết của mình trên cơ
sở châu Âu thì chưa phải là toàn nhân loại. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể bổ
sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác, bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình
không thể khong có được”. Do vậy, Hồ Chí Minh đã xác định, ở Việt nam giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ trên hết. Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc là cơ sở để
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai cấp thì đòi hỏi phải giải quyết
thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, thì trước hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một
vấn đề lớn về lý luận và thực tiễn trước kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh
đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70
năm qua.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản lãnh đạo
Đảng Cộng sản việt nam là người lãnh đạo duy nhất: vì theo Hồ Chí Minh chỉ có cuộc cách mạng
do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản xây dựng chủ nghĩa xã hội một xã hội không còn áp bức bất công, không còn giai cấp, giải
phóng con người, con người được tự do hạnh phúc.
5. Lực lượng của cách mạng bao gồm toàn dân tộc
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng bị áp bức
- Để có cơ hội thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một
cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được
chuẩn bị trong quần chúng…”
- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của dân tộc, “cách mệnh là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải việc của một hai người".
- Lấy dân làm nguồn sức mạnh, “lấy dân làm gốc", "có dân là có tất cả”, “ Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dẫn liệu cũng xong", "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào
cũng không chống lại nổi"
Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
- Lực lượng toàn dân tộc cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc của một hoặc hai người". Hồ Chí Minh phân tích: “...dân tộc cách mệnh thì
chưa phân giai cấp, sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
- Động lực cách mạng, công nông “là gốc của cách mạng" nhận thức mới mẻ so với các nhà yêu
nước trước đó.
- Bạn đồng minh của cách mạng. Tập hợp mọi tầng lớp nhân dân vào mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi nhằm phát huy sức mạnh của dân tộc, “...học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn của cách mệnh
của công nông thôi".
PHẦN II: BẰNG PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY QUAN ĐIỂM ĐÓ CỦA HỒ CHÍ MINH, MỖI
DOANH NGHIỆP NÊN CÓ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN NHƯ THẾ NÀO?
3
1. Giá trị “cốt”, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
2. Đại đoàn kết toàn dân tộc, sự liên kết của cả tập thể.
3. Chú trọng vào yếu tố con người
4. Đề cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
5. Lối kinh doanh trung thực, ngay thẳng, sự cạnh tranh lành mạnh, nâng cao đạo đức doanh nhân.
PHẦN III: VÍ DỤ MINH HOẠ CỤ THỂ (VIETTEL)
Thành lập năm 1989, Sigelco (tiền thân của Viettel) có nhiệm vụ chuyển một phần cán bộ kỹ thuật
giàu kinh nghiệm của quân đội sang làm kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Sau 30 năm, những
người lính làm kinh tế đã gây dựng Viettel trở thành một trong 30 công ty viễn thông lớn nhất thế giới,
nằm trong nhóm 500 thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu. Viettel đã hiện diện tại 17 quốc gia, trong đó
đầu tư và kinh doanh tại 10 thị trường nước ngoài, doanh thu hàng năm đạt hơn 10 tỷ USD, tương
đương với 3% GDP của Việt Nam. Những thành tựu trên đạt được đều nhờ đường lối phát triển đúng
đắn và sự nỗ lực cố gắng của cả một tập thể to lớn
1. Giá trị “cốt”, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Những ngày này 5 năm về trước, những người lãnh đạo, đảng viên của Viettel cùng nhau chia sẻ
những thách thức mà tập đoàn phải đối mặt. Sau giai đoạn phát triển các dịch vụ viễn thông một cách
thuận lợi, cũng như nhiều doanh nghiệp khác trong lĩnh vực viễn thông và công nghệ, Viettel phải tìm
ra được những con đường mới, để chuyển dịch và tái tạo mình trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
khi thị trường viễn thông trong nước đã bão hòa.
Nghị quyết số 05/NQ-TW, hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 về một số
chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế ban hành vào thời điểm đó thực sự trở thành
điểm tựa cho chiến lược phát triển của Viettel. Từ những mục tiêu này của Nghị quyết, đội ngũ lãnh
đạo Tập đoàn Viettel đã vận dụng vào thực tế của doanh nghiệp mình. Từ đó, Tập đoàn đã mở rộng tổ
chức, quy mô với nhiều nhiệm vụ mới cả lĩnh vực viễn thông và phát triển công nghiệp quốc phòng,
tiếp tục thực hiện tái cấu trúc tổ chức đáp ứng chiến lược phát triển trong giai đoạn mới. Với định
hướng này, cùng với quyết sách đúng đắn đầu tư vào mạng 4G phủ sóng rộng khắp toàn quốc vào năm
2017, đi đầu trong nghiên cứu và chuẩn bị triển khai mạng 5G, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ số
được Viettel liên tục cung cấp ra thị trường. Qua đó, tập đoàn xây dựng được một hệ sinh thái dịch vụ
số đa dạng, đáp ứng mọi nhu cầu từ giải trí, hoạt động kinh doanh, buôn bán, tiếp cận thông tin của
người dân…
Kết quả nổi bật nhất trong hành trình chuyển đổi số của Viettel phải kể đến hàng loạt sản phẩm, ứng
dụng công nghệ thông tin trong nhiều lĩnh vực như chính phủ điện tử, đô thị thông minh, y tế, giáo dục,
giao thông vận tải, nông nghiệp, thanh toán điện tử... Viettel được tham gia và giữ vai trò quan trọng
trong hàng loạt các dự án lớn về Chính phủ điện tử, đô thị thông minh… Có thể kể tên như Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư; Hệ thống Hải quan một cửa quốc gia; Hệ thống giám định và thanh toán Bảo
hiểm y tế; Hệ thống Quản lý hộ tịch, quốc tịch; Hệ thống tiêm chủng quốc gia; Hệ thống quản lý chuỗi
cung ứng dược quốc gia; Hệ thống thông tin giáo dục, thi THPT quốc gia…Những sản phẩm của
Viettel không chỉ khẳng định được hiệu quả trong nước mà còn xác lập uy tín thương hiệu trên thị
trường toàn cầu qua những giải thưởng quốc tế lớn và uy tín dành cho các ứng dụng về đô thị thông
minh, tài chính ngân hàng, viễn thông, ứng dụng trí tuệ nhân tạo…
2. Đại đoàn kết toàn dân tộc, sự liên kết của cả tập thể.
Để việc nêu gương của cán bộ xuống tận cơ sở, Viettel triển khai thực hiện phong trào “3 cùng"
(cùng thâm nhập, cùng phát hiện, cùng làm). Trung tá Hồ Chí Dũng, Trưởng phòng Kỹ thuật Tập đoàn
Viettel, nói: Làm kỹ thuật không thể làm nháp trong đầu, mà phải trực tiếp tìm hiểu, vận hành hệ
thống; nếu không “3 cùng” thì chính cấp trên sẽ bị “lụt nghề”. Theo đó, ý nghĩa cao nhất của “3 cùng”
là huy động trí tuệ tập thể, xây dựng tình đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
4
“3 cùng” để giải quyết công việc là một câu chuyện, nhưng “3 cùng” để thấu hiểu, chia sẻ, yêu
thương, xây dựng một Viettel đoàn kết là công việc đầy sáng tạo. Gần đây, Viettel triển khai ứng dụng
ý tưởng “Tôi xây ngôi nhà mơ ước của tôi”, xây dựng “Ngôi nhà chung Viettel”. Theo đó, từ tập đoàn
đến các đơn vị thành viên đều thực hiện, “Mỗi ngày có một Happy Time” (15 phút giải trí cá nhân, giao
lưu sáng tạo); “Mỗi tuần có một Happy Day” (ngày hạnh phúc vật chất, tinh thần); “Mỗi tháng có một
Happy Dinner” (gặp gỡ, liên hoan); “Mỗi quý có một Happy Event” (sự kiện, câu lạc bộ). Đó là những
hoạt động để “3 cùng” đi vào đời sống, chứ không chỉ trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
5. Lối kinh doanh trung thực, ngay thẳng, sự cạnh tranh lành mạnh, nâng cao đạo đức
doanh nhân
Là một tập đoàn đầu tư, kinh doanh ở 11 quốc gia, Viettel khẳng định luôn tuân thủ tuyệt đối các
quy định của pháp luật và các quy tắc đạo đức trong kinh doanh. Viettel luôn yêu cầu tất cả các đơn vị
thành viên của mình chấp hành nghiêm túc chủ trương này.
Bên cạnh đó,Viettel tiếp tục thực hiện triết lý “Kinh doanh gắn liền với trách nhiệm xã hội, cộng
đồng” và tập trung tham gia những hoạt động, chương trình hỗ trợ phát triển các lĩnh vực về giáo dục, y
tế và thoát nghèo nhanh, bền vững. Những hoạt động này hướng tới thực hiện hiệu quả các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về ASXH. Cách làm của Viettel trong tổ chức và tham gia hoạt động
chính sách, ASXH được triển khai với quan điểm “Sáng tạo, khác biệt và hiệu quả”; hoạt động hỗ trợ
thoát nghèo với quan điểm “Hỗ trợ cần câu, không hỗ trợ con cá”, với thời gian triển khai khoảng 1-2
5
năm/chương trình. Viettel cũng nhất quán quan điểm, chương trình sẽ được tổ chức “Quản lý tập trung
và thực hiện phân tán”, hướng đến khơi dậy ý thức tự vươn lên thoát nghèo của người dân. Đó cũng là
cách chúng tôi góp phần thúc đẩy KT-VH-XH đất nước phát triển.