You are on page 1of 9

Họ và tên: Nguyễn Cẩm Nhung

MSV: 2112380043
Lớp: K60 CTTTTC
Môn thi: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề bài:
Phân tích luận điểm sau: Dựa trên nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, em hãy
làm rõ ý nghĩa tư tưởng đó đối với vấn đề giữ gìn độc lập dân tộc của Việt Nam hiện nay. Bản
thân em cần làm gì để đóng góp vào sự phát triển của dân tộc Việt Nam ngày nay?
Bài làm
Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc..."
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm, nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là một đóng góp của cách mạng Việt Nam vào kho tàng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vào lý luận
cách mạng xã hội trong thời đại hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính
khoa học và cách mạng sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho
độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác. Nhưng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có những nội dung cần được nhấn mạnh hơn, nhất là
thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa, quyền dân tộc tự quyết, đặc biệt là mối quan hệ không
thể tách rời giữa độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xoá
bỏ ách áp bực, thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc và thành lập các quốc gia dân
tộc, độc lập. Từ thuở thiếu thời, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã thấy
được sự đối kháng giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược qua các phong trào yêu
nước của ông cha và sớm hình thành chí hướng cứu nước. Những năm 20 của thế kỷ XX,
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc
thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần
chúng lao động, mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội đều phải chịu nỗi nhục của
người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Cuộc cách mạng ở thuộc địa là một
cuộc đấu tranh dân tộc hay đấu tranh giai cấp? Đâu là “cái cốt” của cuộc cách mạng ở thuộc
địa? Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã từng có luận điểm cho rằng: “thực
chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân”, mà nông dân thì gắn với ruộng đất, vì
thế phải nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và cuộc đấu tranh giai cấp ở thuộc địa. Với Hồ Chí
Minh thì không phải như vậy. Người nhận thấy, yêu cầu bức thiết nhất, trước nhất của xã hội
thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai
cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là
chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Tuy hoạt
động tích cực trong Đảng cộng sản Pháp và Quốc tế cộng sản, Người vẫn có những quan điểm
không đồng tình.. Người phê phán sự không quan tâm đến cách mạng thuộc địa của một số
Đảng Cộng sản trên thế giới. Người chỉ rõ thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm: Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Bản
án chế độ thực dân Pháp, Công cuộc khai hoá giết người, …Thông qua những tác phẩm này,
để vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân và khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vào
cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc.
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng
phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc
lập. Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa
xã hội. Hoạch định con đường phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ
Chí Minh là biện chứng và khách quan, không nhập hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến vào một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ
thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển lên chủ nghĩa tư bản
ở các nước phương Tây. Hồ Chí Minh lựa chọn con đường phát triển của dân tộc là con đường
kết hợp cả nội dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xét về thực chất, đó là con đường
độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội.
Nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa là độc lập tự do. Độc lập, tự do là khát vọng lớn
nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu". Đầu năm 1930, Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh giải phóng dân tộc
đúng đắn và sáng tạo, mà tư tưởng cốt lõi là độc lập tự do. Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì
Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ:
"trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của Việt Minh, trong
đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh
đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ: "Dù phải hy
sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập!" Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn
Độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Theo Hồ Chí
Minh, Độc lập tự do là các quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc, người khẳng định quyền của mỗi dân tộc trong một câu nói :”Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”. Không chỉ về mặt chủ quyền lãnh thổ, Hồ Chí Minh khẳng định
độc lập tự do phải được thể hiện trên tất cả mọi lĩnh vực của xã hội: độc lập về chính trị, kinh
tế, văn hoá, và an ninh về lãnh thổ,.. Hơn thế nữa, Độc lập dân tộc phải gắn với quyền tự quyết
của nhân dân.
Trong nội dung về vấn đề dân tộc, Bác còn khẳng định: Chủ nghĩa yêu nước là một động lực
chính của sự phát triển đất nước. Chủ nghĩa yêu nước HCM đề cập đến là chủ nghĩa yêu nước
chân chính, là việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đề quốc
xâm lược. Theo HCM, chủ nghĩa yêu nước chân chính là bộ phận của Chủ nghĩa Quốc tế. Hồ
Chí Minh đã thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa,
người coi đó là sức mạnh để chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào, vỉ vậy,
những người cộng sản phải biết nắm lấy và phát huy chủ nghĩa yêu nước.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là luận điểm trung tâm, nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là một đóng góp của cách mạng Việt Nam vào kho tàng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại hiện nay. Thực tiễn cách mạng đã chứng tỏ
sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cần thiết, có thể và đã được giải quyết theo lập trường
của giai cấp vô sản.
Trước hết ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đối với việc giữ gìn độc lập nước
ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người.
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì phương hướng
phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc
lập. Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa
xã hội. Hoạch định con đường phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải
trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. “Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. “Tư sản dân
quyền cách mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc (chưa tiến hành triệt để cuộc cách mạng ruộng đất). “Thổ địa cách
mạng” không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, mà là một giai đoạn chiến lược với
nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển
kế tiếp để từng bước đạt mục tiêu cuối cùng.
Hồ Chí Minh cho rằng, con đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản,
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Trong đó, giải
phóng dân tộc để dân tộc ta thoát khỏi cảnh lầm than, nô lệ, áp bức, nô dịch bởi thực dân, đế
quốc; giải phóng giai cấp để xóa bỏ áp bức giai cấp, bóc lột giai cấp, đem lại hạnh phúc cho
Nhân dân. Giải phóng xã hội để thực hiện công bằng xã hội. Giải phóng con người để mỗi
người ai cũng có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện. Tư tưởng xuyên
suốt của Hồ Chủ tịch là dân tộc thì độc lập, dân quyền thì tự do, dân sinh thì hạnh phúc. Chính
vì vậy, với Người không có gì quý hơn độc lập, tự do. Nhưng giành được độc lập, tự do rồi mà
dân vẫn đói, vẫn rét thì độc lập, tự do cũng vô nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
con người gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi lẽ, giải phóng dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Tuy nhiên, giải phóng giai cấp và giải phóng
xã hội và con người sẽ củng cố, khẳng định, bảo vệ giải phóng dân tộc. Trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, các nước thuộc địa và phụ thuộc phải tiến hành chủ động, sáng tạo cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong các cuộc cách mạng giải phóng ấy thì giải phóng
con người là mục tiêu cao nhất của cách mạng, thúc đẩy cách mạng giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp.
Việc đầu tiên mà chúng ta ai cũng biết và thực hiện đó là mỗi lần viết công văn, giấy tờ luôn
gắn liền với 6 từ thiêng liêng “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”. Từ tư tưởng của Bác, ta có thể
rút ra: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc
rằng, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững bền. Nói
khác đi, chỉ có lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa mới là con đường bảo vệ và phát
triển vững chắc nhất thành quả của độc lập dân tộc, mới bảo đảm cho Nhân dân thực sự được
hạnh phúc, đồng bào ta thực sự được ấm no. Tất nhiên, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền
đề, cơ sở để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ phát triển lên chủ nghĩa
xã hội là con đường phát triển đúng đắn và hợp quy luật khách quan của Việt Nam. Điều này
có các luận cứ:
Thứ nhất, đây là quy luật phát triển khách quan của lịch sử không ai có thể ngăn cản được.
Người khẳng định: “Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ,
đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang
tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa... Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh không nói nhiều về khái niệm chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ nghĩa xã hội
mà Người hiểu là mô hình xã hội duy nhất thực hiện được ham muốn của Người là dân tộc
được độc lập, Nhân dân được hạnh phúc, đồng bào được tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa
xã hội, theo Hồ Chí Minh chính là “làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có
chỗ ở, làm cho dân có học hành”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho Nhân dân đủ ăn, đủ mặc,
ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ,
những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ” “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của Nhân dân và do Nhân dân tự xây dựng lấy”.
Có thể nói, chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai
cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; các dân tộc trong nước
đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Chủ nghĩa xã hội có quan hệ hòa bình, hữu
nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội như vậy sẽ không chỉ bảo vệ
vững chắc thành quả của độc lập dân tộc mà còn làm cho Nhân dân được hạnh phúc, đồng bào
được ấm no, tạo điều kiện phát triển mới cho dân tộc, cho mọi người dân. Do vậy, mà Hồ Chí
Minh đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và đây là một giá trị bền vững trong tư tưởng
của Người.
Việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cũng được Người đề cao. Sức mạnh dân
tộc theo Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của ý chí đấu tranh anh dũng,
bất khuất cho độc lập, tự do, ý thức tự lực, tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết. Sức mạnh của
thời đại được Hồ Chí Minh đúc kết từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người. Trải
qua nhiều nước trên thế giới, Người hiểu rằng, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Hơn nữa, các nước đế quốc đã
không đơn độc trong hành động áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa, chúng còn tuyển những
người lính ở các nước thuộc địa sang đàn áp ở chính quốc. Chính vì thế, Nhân dân và các nước
thuộc địa bị áp bức cần đoàn kết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Hồ Chí Minh cho rằng sức mạnh thời đại bao gồm sức mạnh của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc; phong trào cách mạng của công nhân và Nhân dân lao động các nước chính
quốc và tư bản chủ nghĩa nói chung; phong trào xã hội chủ nghĩa; phong trào vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; phong trào cách mạng của Nhân dân Đông Dương... Biết
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của cách mạng.
Đồng thời, Việt Nam luôn gắn kết cuộc đấu tranh của mình với phong trào giải phóng dân tộc,
với Nhân dân các nước mới giành độc lập hoặc đang đấu tranh vì nền độc lập, tự do.
Chính vì vậy, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; là xây dựng được khối liên minh đoàn kết
chiến đấu giữa giai cấp vô sản và Nhân dân thuộc địa với giai cấp vô sản và Nhân dân lao động
ở các nước chính quốc; là phát huy sức mạnh của các dòng thác cách mạng trên thế giới phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Một ý nghĩa vô cùng quan trọng đó là Cần kết hợp sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Hồ chí Minh có quan điểm đúng đắn về quần chúng nhân dân. Quần chúng
nhân dân là những người lao động, “Lực lượng dân chúng nhiều vô cùng... dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Quần chúng nhân dân có vai trò hết sức to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng. Chính quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử, chủ thể của mọi sáng tạo,
chủ thể của mọi phong trào cách mạng. Trong một quốc gia, quần chúng nhân dân là gốc của
nước. Với Hồ Chí Minh “nước lấy dân làm gốc”, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì
dân và Người khẳng định:
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”.
Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là
vấn đề sống còn, quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng
nhằm hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi
thành công.
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương,
chính sách đến hoạt động thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết
toàn dân. Vì, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không phải là việc một hai người có thể
làm được. Đại đoàn kết toàn dân có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng khối đại đoàn kết là bảo đảm
lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước nhà là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
Việt Nam, là con đường sống của nhân dân Việt Nam. Đó là một quan điểm lớn của Hồ Chí
Minh. Người nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Hồ Chí Minh lên án thực dân Pháp chia cắt nước Việt Nam, “lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết” . Sự
nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập của dân tộc Việt Nam cũng là cuộc
đấu tranh cho sự thống nhất và toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của
Cách mạng tháng Tám là “giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta,
cho nhân dân ta”. Mục đích của kháng chiến chống thực dân Pháp là để giữ lấy và phát triển
những thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tức là hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Độc lập và thống nhất của Tổ quốc là khát vọng và ý chí đấu tranh của Hồ Chí Minh và cả dân
tộc Việt Nam. Người chấp nhận ký bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, mặc dù chưa đòi được
thực dân Pháp phải công nhận nền độc lập, nhưng họ đã phải công nhận “nước Việt Nam là một
quốc gia tự do”, có Chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thực hiện thống nhất
đất nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định.
Sau cùng, với tầm nhìn xa, chiến lược, Bác muốn đất nước ta hiện đại, văn minh, sánh vai với
các cường quốc năm châu, nên từ khi khai sinh ra đất nước Việt Nam, Bác đã có chủ trương
hội nhập, mở cửa, thể hiện bằng việc Bác gửi thư cho Tổng thống các nước phương Tây, trong
thư Bác nói: “Việt Nam không thù oán với một ai, mong muốn làm bạn bè với tất cả các nước
trên thế giới, để xây dựng đất nước hòa bình, giàu mạnh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc”.
Thế giới đang đổi thay nhanh chóng và có nhiều tác động tới đất nước ta. Tình hình mới hiện
nay đang đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần phải nhận thức và giải quyết thật tốt nhiệm vụ bảo vệ
độc lập dân tộc. Rõ ràng là, độc lập không đồng nghĩa với cô lập, đóng cửa. Trong lịch sử đã
có những thời kỳ một số nước để bảo vệ độc lập dân tộc đã thực hiện việc “bế quan tỏa cảng”,
không quan hệ với nước khác, nhưng kết cục của chính sách đó là tự làm suy yếu mình. Do đó
độc lập ở đây với nghĩa là không lệ thuộc vào bên ngoài, là cân bằng được các mối quan hệ:
quan hệ đối ngoại, quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hóa… Trong bối cảnh toàn
cầu hóa với sự đan xen phức tạp của các mối quan hệ quốc tế đòi hỏi kiên quyết giữ vững độc
lập dân tộc. Trên cơ sở độc lập và không ngừng mở rộng quan hệ về kinh tế xây dựng nền chính
trị độc lập, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, sáng suốt và có đối sách thích hợp, chủ động. Trong
kháng chiến chống thực dân, đế quốc, với quan điểm “Nếu không có thực lực thì ta chỉ là khí
cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ đó là bạn đồng minh của ta vậy”, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất
chú trọng xây dựng thực lực cho cách mạng, để dựa vào đó mà chống lại kẻ thù. Ngoài ra,
Người còn kêu gọi sự giúp đỡ của bè bạn quôc tế ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam. Do đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta, như Hồ Chí
Minh chỉ rõ, chính phủ Mỹ không chỉ chịu sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta mà còn vấp
phải sự chống đối ngay tại nước Mỹ là phong trào phản chiến của nhân dân tiến bộ Mỹ. Hồ Chí
Minh đã nêu ra nguyên tắc cơ bản trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam là “Làm bạn với mọi
nước dân chủ và không gây thù oán với ai”. Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
gắn liền với tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế. Và bản thân Hồ Chí Minh đã làm hết sức
mình để mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với bè bạn quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, để giữ vững độc lập dân tộc, chúng ta quyết tâm thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo thực lực, sức mạnh thực sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời tranh thủ,
tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài cùng với việc phát huy tối đa nội lực nhằm phát triển đất
nước. Thường xuyên và không ngừng củng cố tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
làm động lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để làm được điều này cần giải quyết
một cách hài hòa lợi ích giữa các nhóm người và các vùng đất nước. Riêng ở vùng biên giới,
vùng sâu, vùng xa, nơi có đa số đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống đã và đang đặt ra những
vấn đề cấp bách trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đây là vùng “phên dậu” của đất nước, có địa
hình hiểm trở, phức tạp, dân cư thưa thớt, là nơi có trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục…
kém phát triển, nhiều hủ tục còn tồn tại, ảnh hưởng tới công cuộc phát triển kinh tế văn hóa và
quốc phòng an ninh. Các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, gây chia rẽ, ly khai dân tộc, ảnh hưởng tới sự toàn vẹn và
thống nhất của đất nước. Quan tâm giữ gìn sự ổn định ở biên giới, ở vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là tiền đề cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Xưa,
cha ông ta đã có nhiều phương sách để giữ vững biên cương. Các vua nhà Lý đã gả các công
chúa cho các tù trưởng để gắn kết họ với triều đình. Lê Lợi đã nhắc nhở: “Biên phòng hảo vị
trù phương lược. Xã tắc ưng tu kế cửu an” .Ngày nay, để giữ nước nhất thiết Đảng và Nhà nước
phải quan tâm về mọi mặt đối với vùng có vị trí chiến lược này. Mối quan hệ biện chứng trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số là: an dân để giữ nước và giữ
nước để an dân. Chỉ có không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng
bào đi đôi với tuyên truyền, giáo dục mới làm cho đồng bào tin Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền, chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch. Phải quán triệt sâu sắc quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải biết dựa vào dân, xây dựng lực lượng của dân đi đôi với phát
triển lực lượng chuyên trách trong bảo vệ Tổ quốc, huy động toàn dân tham gia bảo vệ biên
giới, phát huy uy tín của người cao tuổi, của các già làng, trưởng bản ở vùng đồng bào dân tộc
trong việc bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia.
Phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế cho đồng bào các dân tộc thiểu số không chỉ
có ý nghĩa ở việc cải thiện và nâng cao đời sống đồng bào, mà còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ
và giữ gìn độc lập và chủ quyền của Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và phát triển của cả quốc gia
dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn
đánh giá rất cao vai trò của thanh niên trong công cuộc góp phần xây dựng, phát huy truyền
thống anh hùng của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ thanh niên tham gia vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là một sinh viên Trường Đại học Ngoại Thương, em phần nào tự
nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong việc đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Sự phát triển của đất nước, theo em hiểu, là sự xây dựng, làm cho đất nước giàu mạnh văn minh
hơn, đi đôi với việc củng cố bảo vệ Tổ quốc. Trước tiên đối với công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước, em cần phải:
Thứ nhất, Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, học
tập để mai sau xây dựng đất nước giàu đẹp, học tập tốt cũng chính là một cách thẻ hiện lòng
yêu nước.
Thứ hai, Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời Thực
hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời vận động
mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ
nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống thực dụng, xa rời các giá trị văn
hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc.
Thứ tư, Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết thực, phù
hợp khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, tham gia tích cực các hoạt động do Đoàn trường
Đại học Ngoại Thương tổ chức, phòng chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, chống tiêu
cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm
tình nguyện viên…

Thứ năm, Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trân trọng, thực hiện cái tốt và lên án cái xấu cũng là một biểu hiện rõ rệt của tình yêu nước.

Trải qua nhiều năm kháng chiến để bảo vệ tổ quốc thì Việt Nam ta càng thấy rõ Lòng yêu nước
chính là vũ khí hàng đầu để dân tộc Việt Nam mới có thể chiến thắng được mọi ách của giặc
ngoại xâm. Từ đó, em nghĩ mỗi người cần có lòng tự tôn dân tộc, có lòng yêu nước, để bảo
vệ Tổ quốc, điều đó thể hiện qua:
- Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước, điều này thể hiện qua việc bản thân mỗi
chúng ta luôn hướng về cội nguồn, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quê hương của mình và khi
đi xa luôn hướng về quê hương, Tổ quốc.
- Là người con Việt nam thì phải có tình thương yêu đối với đồng bào, giống nòi, dân tộc,
phải cảm thông sâu sắc nỗi đau của đồng bào, dân tộc, mong muốn đồng bào mình được
sống ấm no, hạnh phúc
- Bản thân mỗi người luôn có lòng tự hào về con người, quê hương, đất nước, anh hùng
hào kiệt, danh nhân văn hoá, về non sông gấm vóc, những sản vật phong phú.
- Cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc và xây
dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Trong bất kì thời đại hòa bình hay chiến tranh thì chúng ta luôn phải xây dựng, ý thức củng cố,
vững mạnh hơn nữa về Đoàn kết dân tộc, về kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm để bảo
vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu làm nô lệ.
Ngày nay khi đất nước đã hòa bình lặp lại, chúng ta được sống trong môi trường tốt hơn, mọi
thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết ơn những người đã
hi sinh đi trước để Bảo vệ Tổ quốc mang lại cuộc sống bình yên. Mỗi chúng ta để làm tốt điều
này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng cao quý của mỗi công dân. Từ đó chúng ta sẽ
ý thức được Trách nhiệm của sinh viên, học sinh hiện nay là:
- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
- Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, Cảnh giác trước âm mưu chia
rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ, việc làm
gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động
đền ơn đáp nghĩa…
- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh Covid-19 khó khăn, mỗi chúng ta càng cần có ý thức hơn
đối với chính bản thân cũng như gia đình, cộng đồng. Theo em, cần phải cố gắng giữ sức khỏe
cho bản thân, gia đình, xã hội vì mỗi mạng sống đều linh thiêng, mỗi cá nhân, đoàn thể đều có
thể đóng góp vào sự phát triển của Tổ quốc. Chúng ta cần tuân thủ các nguyên tắc 5K cũng như
chỉ định của cơ quan có thẩm quyền, lên án những hành vi cố tình sai phạm,.. Bảo vệ sức khỏe
bản thân cũng chính là bảo vệ sức khỏe dân tộc.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính vì vậy
chúng ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh, có thể chống lại mọi
kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một cuộc sống tốt đẹp cũng chính là
cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, mỗi chúng ta cần phải yêu thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn
kết với mọi người vì điều đó không chỉ giúp cho chúng ta được yêu thương, trân trọng mà còn
thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

You might also like