You are on page 1of 7

ĐỀ CƯƠNG GIỮA KÌ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (30%)

Câu 1: Vì sao Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản?

Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, giai cấp phong
kiến từng bước nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp, các cuộc đấu tranh chống
Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế “dường như trong đêm tối không có
đường ra”. Năm 1911, Người rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước. Khác với các
nhà yêu nước trước đó ra nước ngoài tìm kiếm sự giúp đỡ, học tập, “cầu viện”, hoặc đào tạo cán
bộ để chỉ đạo, chuẩn bị lực lượng, phát động phong trào đấu tranh trong nước, Hồ Chí Minh
quyết định sang Pháp.
Những nhận định ban đầu của Người về nước Pháp đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.
Đặc biệt, với bước ngoặt tư tưởng khi tiếp xúc với “Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa”, có thể nói, Hồ Chí Minh đã tìm ra được chìa khóa cho con đường cách mạng
Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời
của cách mạng thế giới; giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế
giới: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa” (1).
Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc là một một con đỉa hai vòi, vòi này nó hút máu nhân dân
thuộc địa, vòi kia hút máu giai cấp vô sản và nhân dân lao động chính quốc. Vì vậy, cần phối
hợp chặt chẽ cách mạng ở chính quốc và thuộc địa để cắt cả hai vòi của con đỉa ấy. Hồ Chí Minh
ví chủ nghĩa tư bản như một con rắn độc, trong đó nọc độc và sức sống của nó tập trung ở các
thuộc địa nhiều hơn là ở chính quốc. Hồ Chí Minh cho rằng, những người khinh thường cách
mạng thuộc địa, đề cao cách mạng chính quốc là những người “muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Một bước tiến mới, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng
chính quốc và cách mạng thuộc địa đã được thể hiện trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Trong
tác phẩm này, bên cạnh luận điểm “Nếu công nông Pháp cách mệnh thành công thì dân tộc An
Nam sẽ được tự do”, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư sản
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ” (2). Như vậy, từ
những nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân và phong trào đấu tranh ở thuộc địa, Hồ Chí Minh đã
đưa ra dự đoán mang tính then chốt: cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng
chính quốc, cách mạng Việt Nam có thể thành công trước cách mạng Pháp. Đồng chí Phạm Văn
Đồng nhận định: “Luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,...nó nằm trong dòng sáng tạo
cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho
thời đại”(3).
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng thực chất là để giải quyết mâu thuẫn cơ bản trong xã hội. Do
đó, để làm cách mạng thành công, trước hết phải xác định đúng đắn mâu thuẫn xã hội và mâu
thuẫn thời đại. Người nhận thấy ở Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết: Một là,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước; Hai là, mâu thuẫn giữa đông đảo
quần chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Từ đó, Hồ Chí Minh
khẳng định: Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa các giai cấp đi áp bức
bóc lột và các giai cấp bị áp bức bóc lột; mâu thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải quyết
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước và tay sai của chúng.
Từ những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đi đến xác định lực lượng
nòng cốt của cách mạng. Người cho rằng, chính các giai tầng bị áp bức bóc lột sẽ là người thực
hiện cuộc cách mạng lật đổ các giai cấp thống trị mình, giành lấy quyền sống và quyền độc lập,
tự do cho chính họ. Với Việt Nam, lực lượng cách mạng chính là giai cấp công nhân, nông dân,
tư sản dân tộc, tiểu tư sản... Trong đó, “...ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng
bền, chí cách mệnh càng quyết...công nông bị áp bức nặng hơn... công nông là đông nhất nên sức
mạnh hơn hết,... nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ
gan góc... nên công nông là gốc cách mệnh”(4).
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó phải là, và chỉ có thể là giai cấp
vô sản, trên cơ sở đoàn kết rộng rãi với tất cả các giai tầng yêu nước. Điều này được biểu hiện rõ
nét trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Khi thời cơ cách mạng đến, Hội nghị Đảng toàn quốc
tháng 8-1945 nhận định: “Chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi của ta và
Đồng minh”(5). Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”. Bằng sức lực, trí tuệ của dân ta, chưa đầy một tháng, cách mạng đã thắng
lợi trên phạm vi cả nước, đưa Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân
tộc và tiến lên xây dựng CNXH.
Tiếp tục kế thừa và phát triển đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, Việt Nam đã giành thắng lợi
cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong những năm xây dựng CNXH ở
miền Bắc, một quan điểm luôn được Hồ Chí Minh quán triệt là nếu trước đây nhân dân ta đã nêu
cao tinh thần tự lực tự cường, trường kỳ kháng chiến thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao
tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà. Tư tưởng đó đã khơi dậy sự sáng tạo và
trở thành động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước.

Câu 2: Hãy phân tích cơ sở lý luận hình thành tư tưởng HCM . Trong các cơ sở lý luận
trên, cơ sở giữa vai trò quyết định bản chất tư tưởng HCM?

* Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng HCM:

1.Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:

- Trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã xây dựng được một nền
văn hóa với nhiều truyền thống tốt đẹp, tư tưởng của HCM là kết quả của sự kế thừa các giá trị
truyền thống tốt đẹp đó:

+ Truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất đấu tranh dựng nước và giữ nước

+ Truyền thống đoàn kết cộng đồng tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, phát huy truyền
thống “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”

+ Tinh thần lạc quan yêu đời trong khó khăn gian khổ của người Việt Nam, niềm tin vào chính
mình, tin vào sự tất thắng của chân lý và chính nghĩa

+ Tinh thần cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu
=> Chủ nghĩa yêu nước là giá trị đứng đầu bảng, sợi chỉ đỏ xuyên suốt của lịch sử
dân tộc Việt Nam. Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh
hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người thanh niên
Nguyễn Tất Thành. Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn hóa dân tộc
Việt Nam là tiền đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất Thành khi rời Tổ quốc ra
đi tìm đường cứu nước.

2. Tinh hoa văn hóa nhân loại:

• Tinh hoa Văn hóa phương Đông:

- Nho giáo: Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và Khổng Tử, Người
đã đặc biệt khai thác, kế thừa và phát triển những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo để phục vụ
cho nhiệm vụ cách mạng:

+ Triết lý nhân sinh, tu nhân dưỡng tính (từ thiên tử đến nhân dân, ai cũng phải lấy tu nhân làm
gốc, từ đó xã hội lấy đạo đức làm trọng), tư tưởng nhập thể hành đạo giúp đời

+ Nho giáo nêu cao lý tưởng về một xã hội thái bình

+ Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo tạo ra một truyền thống hiếu học của nhân dân

- Phật giáo: Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, HCM là hiện thân của lòng nhân ái, độ
lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật

+ Tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân - 1 tình yêu
bao la không chỉ dành cho con người mà còn dành cho cả chim muông, cây cỏ

+ Nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện

+ Tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp

=> Những mặt tích cực của Phật giáo VN đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao
động. Gia đình HCM là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân nên cũng thấm nhuần tinh
thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng HCM

Ngoài ra, HCM còn tiếp thu tư tưởng từ nhiều nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử,
…. NAQ vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó
‘’những điều thích hợp với điều kiện nước tạ”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là Dân tộc -
độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được HCM rút gọn trong quốc hiệu của VN
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

•Tinh hoa Văn hóa phương Tây:

- Nền văn hóa phương Tây ảnh hưởng đến Người trước hết là tư tưởng dân chủ từ tiến bộ của
văn hóa Pháp (khế ước XH, tinh thần pháp luật), từ cuộc sống thực tiễn (hoạt động CM tự do,
thuận lợi hơn)

- Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân, bôn ba khắp châu lục, đến những văn minh châu
Âu, từ chính trị, văn hóa, sách báo, những quan hệ ở Pháp và thế giới, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
tinh hoa văn hóa phương Tây cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của mình.

=> Từ văn hóa Phương Đông và Phương Tây, Hồ Chí Minh đã thâu tóm, tiếp thu những tư tưởng
đó lên một trình độ mới, phù hợp với yêu cầu của nhân dân và thời đại.

3. Chủ nghĩa Mác-Lenin cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh:

- Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ
sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngay từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất
là chủ nghĩa Lênin”. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong
nhận thức và hoạt động cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền đề lý luận quan trọng nhất, có
vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản với tầm vóc trí
tuệ lớn như Lênin mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.

- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã vận
dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời
đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người,
đạo đức, v,v… Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam

4.Nhân tố chủ quan là phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh:

- Học tập vốn kiến thức của nhân loại, kinh nghiệm đấu trang giải phóng dân tộc, phong trào
công nhân quốc tế tiếp cận với Chủ nghĩa Mác-Lenin, học thuyết và cách mạng của giai cấp vô
sản thế giới

- Là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ nhiệt thành của cách mạng, một trái tim thương
nhất thương dân, sẵn sàng hi sinh cho tổ quốc

- Bản chất kiên định, tin vào nhân dân, tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo, đầu óc phê phán tinh
tường sáng suốt trong việc nghiên cứu các vấn đề

=> Chính những phẩm chất cá nhân đã quyết định Hồ Chí Minh tiếp cận, chọn lọc chuyển hóa
tinh hoa văn hóa dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.

* Trong những nguồn gốc đó, nguồn gốc quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh là Chủ
nghĩa Mác-Lenin cơ sở thế giới quan. Người tìm đến CN Mac-lenin là tìm con đường giải phóng
dân tộc, tức xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Vận dụng CN Mac-Lenin và tìm ra giải pháp cụ thể
cho CM VN. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa tinh
tế với một phương pháp khoa học biện chứng, TT HCM đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện
đại.

Câu 3: Phân tích những nhân tố chủ quan hình thành tư tưởng HCM. Trong những phẩm
chất cá nhân HCM, phẩm chất nào quyết định sự thành công của HCM?

3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh

a. Phẩm chất Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi cảnh lầm
than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí, nghị lực to lớn, một
mình dám đi ra nước ngoài khảo sát các nước đế quốc giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa
nghèo nàn, lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay trắng. Người đã làm nhiều nghề nghiệp khác nhau để
kiếm sống, biết rất nhiều ngoại ngữ, tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp học ở nhà
trường, học trong sách vở, học trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở nhân dân khắp những
nơi Người đã đến, và đã có vốn học thức văn hoá sâu rộng Đông Tây kim cổ để vận dụng vào
hoạt động cách mạng.

Đặc biệt, Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, giàu tính phê
phán, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy luật chung của xã hội loài người, của cách
mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng
mới đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn; có năng lực tổ chức biến tư tưởng, đường lối thành hiện
thực.

Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách mạng Việt
Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là người có năng lực tổng kết
thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính xác và kỳ diệu để dẫn dắt toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.

Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân. Là người suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và của cách mạng thế giới. Những
phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những thành công sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong hoạt động lý luận và thực tiễn không vì cho sự nghiệp riêng mình mà vì cả dân tộc Việt
Nam và nhân loại.

b. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận

Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Trước
khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt động, công tác ở khoảng 30
nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân
không chỉ qua tìm hiểu trên các loại tài liệu, sách, báo, đài mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua
đã sống và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt xác định rõ bản chất,
thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.

Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây
dựng Đảng cộng sản, v,v,… không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia phong trào
cộng sản quốc tế ở nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô - nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới, v,v...

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện thực hóa tư
tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết thực tiễn cách mạng, bổ
sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng
cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp;
chuẩn bị về nhiều mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập
Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.

Những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh vực
khác nhau ở trong nước và trên thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh.

You might also like