You are on page 1of 18

NỘI DUNG ÔN TẬP THI CUỐI KÌ

Môn: Tư Tưởng Hồ Chí Minh


1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Cơ sở thực tiễn Việt Nam; cơ sở
lý luận (giá trị truyền thống dân tộc)
a. Cơ sở thực tiễn Việt Nam
Trong nước: Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế
giới có nhiều biến động. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX: Phong kiến đang trên đà suy thoái, triều đình nhà Nguyễn thi hành chính sách
đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động, thực hiện bế quan tỏa cảng. Phong trào của
các sỹ phu yêu nước như (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đấu tranh yêu nước
chống Pháp) đều thất bại.
Quốc tế: Năm 1858 các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho
xã hội nước ta xuất hiện thêm nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Chủ nghĩa tư bản
từ giai đoạn canh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền
thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. năm 1917 cách mạng Tháng 10 Nga
thành công, cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”.
Cách mạng Tháng 10 Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết,
mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người.
b. Cơ sở lý luận:
* Các giá trị truyền thống của dân tộc: Đó là truyền thống yêu nước, kiên
cường bất khuất; là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết
cộng đồng; là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách; là trí thông minh,
tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc
khác để làm giàu cho văn hóa dân tộc.
*Tinh hoa văn hóa nhân loại. Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa
phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây, đó chính là nét
đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng, văn hóa, nhân cách Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng và văn hóa phương Đông:
+ Nho giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu yếu tố tích cực của Nho giáo đó là tinh thần
nhân nghĩa, đạo tu thân, sự ham học hỏi. đức tính khiêm tốn…Đồng thời Người
1
cũng phê phán, lọc bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết này như tư tưởng phân
biệt đẳng cấp, những giáo điều cực đoan về “tam cương,”, “ngũ thường”
+ Phật giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu
nạm, bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác, nếp sống giản dị…Bên cạnh đó
Người cũng phê phán tính chất duy tâm về xã hội Phật giáo…
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây: Đó là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của
Đại cách mạng Tư sản Pháp. Người con tiếp thu nhiều tư tưởng văn hóa phương
Tây khác cần thiết cho sự nghiệp cách mạng của mình: tư tưởng dân chủ, phong
cách dân chủ, tinh thần dám nghĩ, dám làm…
* Chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở
Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc,
hấp thụ và vốn hiểu biết phong phú, tích lũy qua thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu
nước và giải phóng dân tộc.
c. Nhân tố chủ quan
- Sống có hoài bão, lý tưởng, đức hy sinh cao.
- Khả năng tư duy không ngừng quan sát, nhận xét, làm phong phú thêm hiểu
biết của mình, Hồ Chí Minh đã khám phá các quy luật vận động xã hội để khái
quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực
tiễn.
- Thể hiện ở tư duy độc lập, sáng tạo, đầu óc tinh tường, sáng suốt khi nhận xét,
đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh
- Bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn, giản dị, ham học hỏi;
nhạy bén vs cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn
- Sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, tâm hồn của
một nhà yêu nc chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái
tim yêu nước, thương dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh
phúc của nhân dân.

2
2. Luận điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: con đường
cách mạng vô sản; CMGPDT cần chủ động sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi cách mạng vô sản ở chính quốc.
Thứ nhất: Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô
sản:
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễn Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn
khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc
địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi,
tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh
của cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ hai: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc
thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới
thành công”
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp
công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
Thứ ba: Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương
3
đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng
định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công
nông là gốc cách mệnh”.
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận
động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị
làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh
của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp
nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ
đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
tập trung...
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp:
“công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư
bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,
không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa
hiệp”.
Thứ tư: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của
cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính
chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội
V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa”; “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các
4
thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn
đằn đuôi”.
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải
là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”).
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa
đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi
trước.
- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối
quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”.
Thứ năm: Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương
pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí
Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo
Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần
chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của
chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của
cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận
định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang,
mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.

5
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các
tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón
thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10
ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp
đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.

3. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng: Tập trung dân
chủ; Tự phê bình và phê bình, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi
mới; Đoàn kết thống nhất trong Đảng.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng: Đảng lấy Chủ
nghĩa Mác – Lênin làm “cốt” Học tập, nghiên cứu, tuyên truyền, vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lênin phải phù hợp với từng đối tượng, phù hợp từng hoàn cảnh.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin phải phù hợp với từng đối tượng, phù hợp từng
hoàn cảnh. Kế thừa kinh nghiệm của các nước anh em, tổng kết kinh nghiệm làm
phong phú thêm Chủ nghĩa Mác – Lênin. Tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng: Tập trung
dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là yếu tố quyết định sức mạnh của Đảng.
Đây cũng là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản trở thành một tổ
chức chiến đấu chặt chẽ ,vừa phát huy sức mạnh của mỗi người vừa phát huy sức
mạnh của cả tổ chức Đảng.
6
Trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ chính là sự
thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập trung. Giữa chúng có mối quan hệ gắn
bó và thống nhất với nhau, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, để đi đến tập
trung chứ không phải là dân chủ tùy tiện, phân tán, vô tổ chức; còn tập trung là tập
trung trên cơ sở dân chủ, chứ không phải là tập trung quan liêu, độc đoán chuyên
quyền.
Khi nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm, sẽ làm cho Đảng suy yếu, nội
bộ Đảng mất đoàn kết, đường lối, chủ trương của Đảng lệch lạc, sai lầm, uy tín của
Đảng bị giảm, Đảng dần mất quyền lãnh đạo đối với quần chúng .Vì vậy, phát huy
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng nhằm đoàn kết thống nhất trong
Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng là 1 trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay. Để thực
hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ
thống và trên cơ sở đảm bảo giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
- Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng:
Theo Hồ Chí Minh : “Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện,
độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc .Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến
cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo
,cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau”. Tập thể lãnh đạo là dân chủ .Cá
nhân phụ trách là tập trung.
“Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo”? Người lý giải :Vì 1 người dù khôn
ngoan tài giỏi đến mấy ,dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ
xem thấy được 1 hoặc nhiều mặt của 1 vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất
cả mọi mặt của 1 vấn đề. Vì vậy ,cần phải có nhiều người .Nhiều người thì nhiều
kinh nghiệm . Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn
đề đó. Góp kinh nghiệm và xem xét của nhiều người ,thì vấn đề đó được thấy rõ
khắp mọi mặt.Mà có thấy rõ khắp mọi mặt ,thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu
đáo, khỏi sai lầm. Từ đó có thể thấy rõ vai trò của tập thể lãnh đạo là rất lớn. Chỉ
có lãnh đạo tập thể mới huy động được toàn bộ trí tuệ của đội tiên phong của giai

7
cấp công nhân, nhân dân lao động chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
“Vì sao cần phải cá nhân phụ trách”? Người chỉ rõ :Việc gì đã được đông
người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi ,thì cần phải giao cho 1
người, nếu giao cho 1 nhóm người phụ trách thì cũng cần có 1 người phụ trách
chính .Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.Nếu không có cá nhân
phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia ,người kia ủy cho người
nọ, kết quả không ai thi hành ,giống như “Nhiều sai không ai đóng cửa chùa”.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau, có mối
quan hệ mật thiết với nhau, không được máy móc. Người còn chỉ rõ: “Nhưng
không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được
,cũng đưa ra bàn - mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy, là hiểu tập thể lãnh
đạo 1 cách quá máy móc .Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ.Những việc bình
thường, một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải
quyết theo đúng hướng tập thể và phải chịu trách nhiệm. Những việc quan trọng
mới cần tập thể quyết định”
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách có ý nghĩa to lớn.Thứ nhất là phát huy
được sức mạnh tập thể đồng thời khẳng định năng lực cá nhân.Thứ hai là tránh
được tình trạng quan liêu, chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân
chủ trong Đảng; đồng thời chống lại tệ dựa dẫm tập thể, không dám chịu trách
nhiệm.
- Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng.
Theo Người, con người ta ai cũng có khuyết điểm ,chỉ khác nhau ở nặng hay
nhẹ, ở trạng thái biểu hiện mà thôi: “Người đời không phải thần thánh, không ai
tránh khỏi khuyết điểm”. “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng.Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người này nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người làm cách mạng”.
Người thường đặt ‘tự phê bình’ lên trước ‘phê bình’ vì Người cho rằng mỗi
Đảng viên trước hết phải biết tự phê bình, tự mình phải thấy rõ mình, để phát huy
8
ưu điểm, khắc phục nhược điểm, cũng giống như phải biết tự soi gương rửa mặt
hằng ngày. Phải tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Người xem
đây là vũ khí để rèn luyện Đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ
hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ
lãnh đạo của Đảng, để Đảng làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách
nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ là phải thật thà tự phê
bình, thành khẩn phê bình đồng chi và những người xung quanh, phê bình ,tự phê
bình để cùng nhau tiến bộ ,để đi đến càng đoàn kết. Đoàn kết, phê bình, tự phê
bình thật thà để đi đến đoàn kết hơn nữa”.Về thái độ trong việc tự phê bình, Hồ
Chí Minh cho rằng, phải thành khẩn, trung thực kiên quyết và có văn hóa.
Tự phê bình và phê bình vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Muốn thực hiện
tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân
mình cũng như đối với người khác, phải có ‘tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
không được che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình,
sợ né tránh hoặc lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập người khác, phải
phê bình một cách thành khẩn, xây dựng, chữa bệnh cứu người, chớ phê bình lung
tung không chịu trách nhiệm.
Người bị phê bình phải vui lòng mà sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà
chán ghét, phải phê bình từ trên xuống dưới ,từ dưới lên trên, khi phê bình phải tự
phê bình bản thân mình; nếu tự phê bình tốt thì mới phê nình người khác tốt được,
trong phê bình và tự phê bình phải dân chủ.Sử dụng khéo tự phê bình và phê bình
là một biện pháp đảm bảo sự trong sạch ,vững mạnh của Đảng.
- Kỷ luật nghiêm minh và tự giác là quy luật phát triển sức mạnh của
Đảng: Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự
giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn trong Đảng : “Sức mạnh vô địch của
Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác ,ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ ,đảng
viên.Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
Nghiêm minh là nguyên tắc thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỉ luật đối với
mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạp cao hay thấp, là cán bộ
9
lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ ,đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật
của Đảng.
Tự giác thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên đối với Đảng –một tổ chức của
những người tự nguyện đứng trong một hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về
nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương ,nghị quyết
của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng.Có như vậy ,Đảng mới trở thành một khối thống nhất
về tư tưởng và hành động, nếu không “Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ
luật lỏng lẻo, công việc bế tắc”.Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào ,mỗi cấp ủy dù ở
cấp bộ nào cũng đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp
luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai được coi thường, thậm chí đứng trên tất cả .
Ý thức kỷ luật đó là ý thức Đảng của giai cấp công nhân.Việc đề cao ý thức
kỷ luật đó đối với mọi cán bộ ,đảng viên từ trên xuống dưới làm tăng thêm uy tín
của Đảng; ngược lại ý thức kỷ luật xuống thấp ,nếu cán bộ ,đảng viên có nhiều vi
phạm kỉ cương phép nước, tự cho mình là người lãnh đạo, coi thường kỉ luật của
các đoàn thể nhân dân, thì uy tín của Đảng giảm thấp, càng dẫn tới nhiều nguy cơ
cho Đảng.
- Đảng phải thường xuyên tự chinh đốn: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ
hội để mỗi cán bộ đảng viên tự rèn luyện, giáo dục,tu dưỡng đạo đức cách mạng;
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng; Xây
dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên của Đảng.
- Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguyên tắc quan trọng của Đảng:
Đây là yếu tố làm nên sức mạnh của Đảng ta. Sự đoàn kết thống nhất của
Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, Cương lĩnh,
điều lệ Đảng, đường lối của Đảng; Muốn thực hiện đoàn kết trong Đảng phải thực
hành dân chủ rộng rãi, thực hiện tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức, chống
chủ nghĩa cá nhân. Có thực sự đoàn kết thì mới thống nhất được ý chí và hành
động của tổ chức Đảng. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng để làm nòng
10
cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân ,xây dựng nên khối
đại đoàn kết vững chắc ,đảm bảo cho việc giành được những thắng lợi ngày càng
to lớn hơn. Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết ,thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ
của toàn Đảng.
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phải thực hiện và mở rộng
dân chủ nội bộ để cán bộ, đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn
những vấn đề hệ trọng của Đảng, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê
bình với tinh thần trung thực, thẳng thắn; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải sống với nhau
có tình có nghĩa…
- Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân: Đảng là một bộ phận của toàn
thể dân tộc Việt Nam; Yêu cầu đối với Đảng là hướng tới phục vụ nhân dân; Mối
quan hệ giữa Đảng – nhân dân là mối quan hệ máu thịt; Nhiệm vụ của cán bộ Đảng
viên là phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục.
- Đoàn kết quốc tế: Đảng phải giữ vững và tăng cường mối quan hệ quốc tế;
Xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân; Cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới.
Ở bất kỳ thời nào, dù là thời chiến hay thời bình thì những nguyên tắc này
vẫn luôn giữ 1 vị trí nhất định của nó trong quá trình tổ chức và xây dựng
Đảng.Mỗi một nguyên tắc đều giữ 1 vai trò quan trọng và giữa chúng luôn có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành một thể thống nhất.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân: Nhà
nước dân chủ; Nhà nước trong sạch vững mạnh
Quan niệm về Nhà nước của dân, do dqaan, vì dân được Hồ Chí Minh thể
hiện ngắn gọn, súc tích, giản dị, dễ hiểu:
- Nhà nước của dân: Nhà nước của dân thì dân phải làm chủ, là người có vị
thế cao nhất, có quyền lực cao nhất và quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận
mệnh, đất nước. Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực
cao nhất đều thuộc về nhân dân. Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng
11
hoà Năm 1946 nói: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền
bình đẳng trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo"
- Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia, dân tộc. Điều 32 Hiến pháp 1946 quy định: Những việc liên quan đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết... Thực chất đó là chế độ trưng cầu
dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta hoặc khi dân bầu ra các đại
biểu, ủy quyền cho họ bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh, thì nhân
dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, là người chủ cũng phải thể hiện
năng lực, trách nhiệm làm chủ của mình.
Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi
quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền
của dân, là công bộc của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không
phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, cậy thế với dân, quên rằng dân bầu
mình ra là để làm việc cho dân
- Nhà nước do dân:
+ Nhà nước phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình
+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt
động, vận hành bộ máy để phục vụ nhân dân
+ Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước do dân tạo ra
và tham gia quản lý, thể hiện ở chỗ: Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính
phủ nay gọi là Chính phủ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của
Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật. Mọi
công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của
12
dân Thông qua Quốc hội do dân bầu ra. Do đó, HCM yêu cầu tất cả các cơ quan
nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân.
- Nhà nước vì dân:
+ Chỉ có một nhà nước thật sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm
soát trên thực tế thì mới có thể là nhà nước vì dân;
+ Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không
có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính;
+ Nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân
Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân
dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài;
+ Nhà nước vì dân, cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra,
được nhân dân uỷ quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là
người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. Nếu không có nhân dân thì chính phủ không
đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ là
đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính...; là người
lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với
dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài, vừa hiền lại vừa
minh. HCM là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Ng tâm sự: Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh Đoàn kết là một chiến lược chứa đựng hệ
thống những luận điểm thể hiện những nguyên tắc, biện pháp giáo dục, tập hợp
những lực lượng cách mạng tiến bộ nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc và
quốc tế trong sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
+ Chiến lược là cái nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng, thể hiện cả
vấn đề lý luận lẫn vấn đề thực tiễn. Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
13
Minh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến
trình cách mạng.
- Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và
nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể và cần
thiết điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng, song đại đoàn kết luôn là vấn đề
sống còn, quyết định thành bại của cách mạng
Hồ Chí Minh đã khái quát thành luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối
đại đoàn kết:
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết
chặt chẽ thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi
thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó”; “Đoàn kết là một lực lượng
vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”.
+ “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt”.
+ Đoàn kết là then chốt của thành công.
+ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành công, thành công, đại thành công”.
b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp
lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách
mạng. Đại đoàn kết dân tộc là một vấn đề có tính đường lối, một chính sách nhất
quán chứ không thể là một thủ đoạn chính trị.
Cách mạng muốn thành công, đường lối đúng đắn thôi chưa đủ, mà trên cơ sở
đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương
pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
+ Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ
Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: “Đoàn kết toàn
dân, phụng sự tổ quốc”.

14
+ Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi
về cách mạng XHCN, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng tháng Tám và trong
kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu
được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc
lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một
là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước
nhà”.
- Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc. Bởi vì
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Từ trong đấu tranh mà nảy sinh
nhu cầu khách quan về đoàn kết, hợp tác. Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp,
hướng dẫn quần chúng; chuyển những nhu cầu, đòi hỏi khách quan, tự phát đó
thành nhu cầu tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp to lớn để hoàn thành các mục tiêu cách mạng.

6. Chuẩn mực đạo đức: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng
Việt Nam gồm 4 phẩm chất cơ bản sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân:
- Đối với mỗi cá nhân: đây là mối quan hệ của mỗi người với đất nước, nhân
dân, dân tộc mình. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối
các phẩm chất khác.
Trung với nước là sự trung thành, yêu quý, báo đáp của mỗi người với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước.

15
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Người không những kế thừa giá
trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua những hạn
chế của truyền thống đó.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu
gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
- Đối với cán bộ đảng viên: như Hồ Chí Minh đã nói “Điều chủ chốt nhất” là
“quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng”, “tận trung, tận hiếu” với
Đảng, với dân; Phải hết lòng phục vụ dân, gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và
học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc; Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ
dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, để dân hiểu được quyền và trách
nhiệm của mình
Hai là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư: Đây là phẩm chất đạo đức gắn
liền với hoạt động hàng ngày của mội người.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái
nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không
phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không
tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng.
Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn".
16
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Ba là, yêu thương con người, sống có tình có nghĩa. Đây là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những
người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành".
Tình yêu thương đòi hỏi: Nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với
người khác; Tôn trọng con người, biết nâng con người lên, không hạ thấp, vùi dập
con người; Đối với những người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận ra và cố
gắng sửa chữa, kể cả những người lầm đường, kể cả kẻ thù bị thương, bị bắt, đầu
hàng.
Đối với cán bộ, đảng viên: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên
nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành, nghiêm túc; Chống thái
độ dĩ hoà vi quý, bao che sai lầm khuyết điểm cho nhau, yêu nên tốt, ghét nên xấu,
bè cánh làm tổn thất cho Đảng, cho cách mạng, nhân dâm.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô
sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh
em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các
nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn
của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình,
công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập
17
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu
nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng
cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức
Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

18

You might also like