Professional Documents
Culture Documents
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ
nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc,
một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc
phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi.
- Từ khi Pháp xâm lược nước ta, rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ
ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng đều thất bại.
- Năm 1920, sau khi đọc luận cương Sơ thảo lần thứ nhất về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lê Nin, HCM đã tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc:”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
lãnh đạo
- Chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ :ĐCS là nhân tố chủ quan để giải
giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
- (Sứ mệnh của giai cấp công nhân: tổ chức ra chính đảng, thuyết
phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần
chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh.)
- Với hoàn cảnh VN là một nước thuộc địa nửa phong kiến thì ĐCS
vừa là đội tiên phong của giai cấp công nhân vừa là đội tiên phong
của nhân dân lao động, tận lực phụng sự Tổ quốc. Bên cạnh đó
ĐCS còn là đảng của cả dân tộc Việt Nam (Do Đảng lao động VN
là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động)
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn
dân tộc, lấy liên minh công-nông làm nền tảng.
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp
đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”...
Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự
bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, HCM chủ trương vận động,
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước,
đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi
để huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập,
tự do -”sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền”.
- Cần phải lấy liên minh công nông làm nền tảng do Giai cấp công
nhân và nông dân là giai cấp chịu áp bức, khổ cực nhiều nhất, bị
bóc lột nặng nề nhất nên bản thân 2 giai cấp này có ý chí quyết
tâm và kiên quyết với cách mạng -”họ gan góc”-”công nông là gốc
cách mệnh”.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng
phương pháp bạo lực cách mạng.
- Lê Nin đã khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng: Không
có bạo lực cách mạng thì không thể thay thế nhà nước tư sản
bằng nhà nước vô sản được.
- HCM đã vận dụng sáng tạo với cách mạng Việt Nam: Trong cuộc
đấu tranh chống lại kẻ thù giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực
cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng để giành lại chính
quyền và bảo vệ chính quyền.
- Bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân với lực
lượng chính trị và quân sự .Hình thức bạo lực cách mạng là đấu
tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Việc xác định hình thức cần dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà
áp dụng cho thích hợp (VD: CMT8/1945, hình thức tổng khởi
nghĩa chủ yếu dựa vào lực lượng chính trị, kết hợp lực lượng vũ
trang)
5. Lý giải cho sự hình thành tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có
sức bật thuận lợi vì:
• Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và dã man của
chủ nghĩa đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân thuộc địa vào khó khưn,
túng quẫn; Điều đó đã làm cho lòng căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc
tư bản trong nhân dân thuộc địa vô cùng sâu sắc.
• Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức mạnh to lớn,
một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu
được giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành một sức mạnh to lớn thật sự, có
thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.
• Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước ở thời hiện đại đã thực sự
trở thành động lực giải phóng dân tộc.
6. Lý giải cho sự sáng tạo của Hồ Chí Minh:
Có thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa thì quan điểm : Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô
sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn
chỉ duy nhât, bất di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng
Mác-Lênin. Nhưng đến Hồ Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra
điều ngược lại. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn của mỗi
người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí Minh và Mác-Lênin, nhưng
chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh hưởng không nhỏ
đến tư tưởng của mỗi người.
Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã
được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát
triển mạnh, bởi vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách
mạng giải phóng dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách
mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Đến thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận
của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị
áp bức ở các thuộc địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác “Vô
sản tất cả các nước liên hợp lại”, ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các
nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Nhưng ông vẫn không nhận ra
được cách mạng ở các nước thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các
dân tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ
nghĩa đế quốc và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần
quan trọng nằm ở thuộc địa. Mặt khác, so với những bậc tiền bối đi trước,
Người có điều kiện để đi nhiều nơi, từ Châu Á sang Châu Âu, tới Châu Phi
nên người có điều kiện tìm hiểu, tiếp cận cuộc sống ở những mảnh đất đó
chứ không phải chỉ gói gọn trong mỗi Châu Âu và một phần Châu Á (nước
Nga) như Lênin, Người nói: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn
độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính
quốc”. Đây là điều quan trọng mà Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: “CNTB là một con đỉa có một cái vòi
bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái
vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống
và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra”. Bởi vậy, vừa phải tiến hành đồng thời
cach mạng ở chính quốc và ở thuộc địa. Trên góc độ phê phán ấy, người
đã nhìn ra được khả năng cách mạng của các nước thuộc địa và đi đến
khẳng định rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
7. Ý nghĩa của quan điểm sáng tạo về giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh:
• Giá trị lý luận: Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý
luận Mác – Lênin
• Giá trị thực tiễn: Đây là quan điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp đỡ
từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ
đó mà cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng
góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác
trên thế giới trong thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một số nước
thuộc địa và cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng đây là một tư tưởng
hoàn toàn đúng đắn.