You are on page 1of 15

Họ, tên: NGUYỄN HỒNG THÁI

MSSV:20201727 Mã lớp:138768

HỆ THỐNG VẤN ĐỀ ÔN TẬP KỲ 20221

Môn: Tư Tưởng Hồ Chí Minh

1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Cơ sở thực tiễn Việt Nam; cơ sở lý luận
(giá trị truyền thống dân tộc)

Cơ sở lý luận: Tư tưởng Hồ Chi Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ sở từ lý luận từ
chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là học thuyết về Đảng kiểu mới của
V.I. Lênin.

Trong quá trình xây dựng học thuyết về cách mạng vô sản, c. Mác và Ph. Ăngghen chú
ý tới việc thành lập các Đảng Cộng sản ở những nước tư bản chủ nghĩa để lãnh đạo giai
cấp vô sản và quần chúng lao động lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và thuộc địa được đặt ra như một vấn
đề bức thiết, Lênin phát triển nhiều luận điểm của c. Mác về cách mạng trong điều kiện
các nước thuộc dịa. Luận điểm về Đảng kiểu mới của Lênin không chỉ nhằm xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, giải phóng giai cấp vô sản rồi giải phóng quần chúng lao động, giải
phóng con người mà còn nhằm trước hết giải phóng dân tộc rồi giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Lênin nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa
trong việc giải quyết quyền lợi giai cấp gắn liền với quyền lợi dân tộc: giải quyết vấn đề
dân tộc và vấn đề dân chủ trên lập trường cách mạng triệt để của giai cấp vô sản.

Năm 1919. V.I. Lênin sáng lập ra Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản bộ tham mưu của giai
cấp vô sản thê giới. Từ đây, cùng với lý luận của Lênin, Quốc tế Cộng sản đóng vai trò
quan trọng thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ tìm thấy ở đây con đường cứu
nước đúng đắn, mà còn nhận thức được sự cần thiết phải có một đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Cuối
tháng 12-1920, Người đã tán thành Quốc tế III và là người dân thuộc địa duy nhất tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự phát triển lôgích tất yếu của tư duy Nguyễn
Ái Quốc từ khi ra đi tìm đường cứu nước và đến với Cách mạng Tháng Mười và chủ
nghĩa Mác - Lênin.

Cơ sở thực tiễn: Hồ Chí Minh tiếp nhận ánh sáng Cách mạng Tháng Mười cả giá trị lý
luận và thực tiễn. Thực tiễn lớn nhất ở đây là dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích
Nga, cách mạng đã thành công. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản ra
đời. Từ đó, nhiều Đảng Cộng sản được thành lập ở các nước và gia nhập Quốc tế Cộng
sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Nhật Bản ra đời năm 1921. Đảng
Cộng sản Triều Tiên ra đời năm 1925. Đảng Cộng sản Ấn Độ và Đảng Cộng sản Thái
Lan ra đời năm 1928...

Từ sau năm 1920. Hồ Chí Minh tiếp tục theo dõi các sự kiện quốc tế tiếp tục nghiên cứu
lý luận và hoạt động thực tiễn, tranh thủ các diễn đàn quốc tế, thông qua các phương
tiện báo chí để truyền bá tư tưởng về đảng vào phong trào cách mạng Việt Nam. Người
tích cực hòa mình vào phong trào cách mạng thế giới mà trước hết là tham gia vào các
tổ chức có tính chất quốc tế như tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa được tổ chức
ở Pari năm 1921. Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức được tổ chức ở Quảng Châu năm
1925...

Từ năm 1921, đặc biệt là từ khi về hoạt động ở Trung Quốc đến đầu năm 1930 khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, hoạt động chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc là chuấn bị chu đáo
các yếu tố về chính trị, tư tưởng và tổ chức để cho ra đời Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Việc tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập năm 1920 đánh dấu
mốc quan trọng trong hoạt động thực tiễn của Nguyễn Ái Quốc. Thông qua tổ chức tiền
thân này, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ
nghĩa Mác - Lênin để hướng đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng mới - con đường cách mạng vô sản. Cùng trong thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn
Ái Quốc đã chọn người gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu và
Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva để sau đó về nước
hoạt động. Đây cũng là một trong phương cách để đưa chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập
trực tiếp vào Việt Nam một cách nhanh chóng, từng bước làm cho phong trào công nhân
chuyển nhanh từ tự phát sang tự giác.

Từ năm 1925, với sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có Cộng sản đoàn
làm nòng cốt. “quả trứng bắt đầu nở ra con chim non cộng sản”, một cơ sở lúc đầu còn
nhỏ bé nhưng sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn. Từ đây, chủ nghĩa Mác - Lênin từng
bước du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam dẫn tới việc xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương
Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ; tháng 6-1929. An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ tháng 8-
1929 và Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tháng 1- 1930. Đây là cơ sở thực tiễn trực
tiếp và quan trọng nhất để từ đó Nguyễn Ái Quốc chủ động để thống nhất ba tổ chức
thành một tổ chức duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam bất đầu chuyển sang
một bước ngoặt mới chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng kéo dài mấy
thập kỷ đầu thế kỷ XX. Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam tiến hành theo
con đường cách mạng vô sản.

2. Luận điểm Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: con đường cách mạng
vô sản; CMGPDT cần chủ động sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi cách mạng
vô sản ở chính quốc.

Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản:

Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một
con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại
chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách
mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”; mặt khác,
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), nền kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu
xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành một
trong những nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc.

Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các
xứ thuộc địa. Đó là nơi Chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi
nó đầu tư tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quản lao động của nó, và nhất là
quyền những binh lính ban xử cho các đạo quân phản cách mạng của nó". "... nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa". Người
thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản không thấy được vấn đề quan trọng đó. Người
chỉ rõ: "Bàn về khả năng và các biện pháp thực hiện cách mạng, đề ra kế hoạch của cuộc
chiến đấu sắp tới, các đồng chí Anh và Pháp cũng như các đồng chí ở các đảng khác
hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan trọng có tính chiến lược này. Chính vì thế, tôi
hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý!".

Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc
địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng
to lớn. Theo Hồ Chí Minh, phải "Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại -để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách
mạng vô sản".

Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1-7-1924). Nguyễn Ái Quốc phê phán
các đảng cộng sản ở Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ và các đảng cộng sản ở các nước có thuộc
địa chưa thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa. Trong khi giai cấp tư
sản các nước đó đã làm tất cả để kìm giữ các dân tộc bị chúng nô dịch trong vòng áp
bức.

Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có
thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp
của bản thân giai cấp công nhân"[1], Người đi đến luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh
em (tức nhân dân thuộc địa - TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em" .

Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân.
Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trông
chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người
kêu gọi: "Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Người nói:"Kháng chiến trường kỳ gian khổ
đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình. . cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người
khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập"[].

Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thẳng lợi của cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm
này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở
thuộc địa.

Theo Hồ Chí Minh. Giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lần nhau trong cuộc
đấu tranh Chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ
không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.

Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc từ thuộc địa có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn: một cống hiến rất
quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được
thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một
thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
3. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng: Tập trung dân chủ; Tự phê
bình và phê bình, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mới; Đoàn kết thống
nhất trong Đảng.

a. Tập trung dân chủ:

+ Là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến

đấu chặt chẽ, phát huy được sức mạnh của mỗi cá nhân và của tổ chức Đảng

Thế nào là tập trung, dân chủ, mqh giữa chúng

+ Theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo tập trung “phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức,

hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên,
mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng.

+ Hồ Chí Minh giải thích về dân chủ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải

tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người được tự do trình bày ý kiến của
mình, góp phần tìm ra chân lý, đó cũng là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của
mọi người”, “Khi mọi người đã phát biểu ú kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do
tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý”

+ dân chủ và tập trung có mối quan hệ gắn bó với nhau: tập trung nền tảng dân

chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở

của tập trung, không phải là dân chủ theo phân tán, tùy tiện, vô tổ chức, hình thức.

Tập trung trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong đảng, không phải tập trung

quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền

+ Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ trong

nội bộ Đảng, song cũng nhắ nhở phải tránh tự do, tùy tiện. Vì nếu không có dân

chủ nội bộ sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”, không tạo nên sức mạnh của Đảng,

làm cho Đảng suy yếu từ bên trong và sớm muộn sẽ không còn là Đảng cộng sản

nữa
+ Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng muốn vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức

thì phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc này

b. Tự phê bình và phê bình, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mới:

+ Hcm coi Luật phát triển của đảng và vũ khí để rèn luyện đảng viên

+ Hcm dặt tự phê bình lên trc

+Mục đích của phê bình: để giúp nhau sửa chữa những cái sai , thiếu xót

+ Phương pháp phê bình: thành khẩn tiên quyết có văn hóa

+ Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con

người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị

mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được

quy định bởi tính tất yếu trong quá trình họat động của Đảng ta. Bởi vì,

Đảng là một thực thể xã hội, Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội, đội nghũ

của Đảng bao gồm những người ưu tú, nhưng trong Đảng cũng không tránh

khỏi những khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay,

mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí

Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất là tự phê bình và phê bình.

+ Thái độ, phương pháp tụ phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ ở

những điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng

ngày; phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không dấu

diếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm; “phải có tình thương yêu lẫn

nhau”.

c. Đoàn kết thống nhất trong Đảng

Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng phải dừa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa
Mac –Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của
tổ chức Đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất trong Đảng phải thực
hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các
biểu hiện tiêu cực khác, phải “sống với nhau có tình, có nghĩa”. Có đoàn kết tốt thì mới
tạo ra cơ sở vững chắc để thống nhát ý chí và hành động, làm cho “Đảng ta tuy đông
người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người”.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân: Nhà nước dân
chủ; Nhà nước trong sạch vững mạnh

i. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ:

+Dân là chủ: xác định vị thế của dân

+Dân làm chủ: đề cập năng lực và trách nhiệm của dân

→Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đứng nội dung về bản chất về dân
chủ.Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó
được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ

-Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội

+Dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân

+Dân chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, được biểu hiện tập
trung trong các hoạt động của Nhà nước

+Dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong các quan
hệ quốc tế.

→Hồ Chí Minh khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân do
dân vì dân, “Chính quyền của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cơ sở xã hội của Nhà nước là toàn dân tộc.
Nền tảng của Nhà nước là liên minh công nhân, nông dân, lao động trí óc dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân”.

a. Nhà nước của dân:


-Mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã họi đều thuộc về nhân dân

-Mọi công việc của Nhà nước do nhân dân quyết định

-Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước

-Trong Nhà nước, dân là chủ và dân làm chủ. Dân được hưởng mọi quyền dân chủ

b. Nhà nước do dân:

-Nhà nước đó do dân lập nên. Đại biểu Nhà nước do nhân dân lựa chọn

-Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động

-Nhà nước muốn điều hành quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả phải dựa vào
dân;“Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...”

c. Nhà nước vì dân:

-Là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có

đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong Nhà nước, mọi

chủ trương chính sách, mọi quy định của pháp luật, pháp lệnh đều phải xuất phát từ lợi
ích của dân

-Phải kết hợp hài hòa cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; cả lợi ích cá nhân, tập

thể và xã hội.

-Trong quan hệ giữa Chính phủ với nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: dân là chủ,

Chính phủ vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân

ii. Nhà nước trong sạch vững mạnh:

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài

-Theo Hồ Chí Minh, để tiến tới một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh
mẽ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành tạo nghiệp vụ hành chính, chuyên môn
và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

-Hồ Chí Minh nêu lên năm yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức:
+Tuyệt đối trung thành với cách mạng

+Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.

+Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân

+Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trahcs, dám quyết đoán, dám
chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “Thắng không kiêu, bại
không nản”.

+Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì
sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết dân tộc

a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định

thành công của cách mạng

- Đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách

mạng Việt Nam; là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến

lược này được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách

mạng xã hội chủ nghĩa.

- Chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải

điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không được thay

đổi chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành

bại của cách mạng.

- Luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn

kết toàn dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh,

là then chốt của thành công”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,

thành công, đại thành công”...

b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam

- Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ

này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương,

chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng.

- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần

chúng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi

khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi

nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của

chính mình.

6. Chuẩn mực đạo đức: Trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư

Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về yêu dân và vì dân. Với nhân dân, Người ân
cần, gần gũi, tôn trọng, khiêm nhường, yêu quý, lắng nghe. Người đau nỗi đau của
nhân dân, buồn vì nỗi buồn của nhân dân, chia vui cùng niềm vui của nhân dân nhưng
bao giờ cũng ý thức chịu khổ trước dân, hưởng vui sướng sau dân. Người luôn nêu
cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong việc giáo dục
cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đến yếu tố năng động chủ quan
của con người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý chí, của tu dưỡng đạo đức cách
mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất
trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là mối quan
hệ “với tự mình”. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là bốn
đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất cóbốn phương, Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”, và Người giải thích cặn kẽ, nội dung từng
khái niệm:
- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biến, không ỉ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của mỗi chúng ta”.
- Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm của dân, của nước, của
bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không
bừa bãi, không phô trương, hình thức, …”. Cần, kiệm là phẩm chất của tất cả người lao
động trong đời sống, trong công tác.
- Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; không tham địa vị, không
tham tiền tài, …”. Liêm là phẩm chất của người cán bộ trong thi hành công vụ.
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự
cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước
việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ
mấy cũng làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng,
thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với
người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công vô tư” phải
chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ cán cân công lý”, không được
vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, với chí công vô tư. Cần,
kiệm, liêm, chính dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư thì nhất định sẽ
thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là những giá trị đạo đức cao đẹp của thời đại. Cán bộ,
đảng viên là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, là người đưa đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng đến với quần chúng. Để trở thành một người cán bộ, đảng viên tốt
trong cơ quan, đơn vị; người công dân tốt trong xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên cần hiểu
sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là
phải làm cho đông đảo quần chúng hiểu đúng, tổ chức cho quần chúng thực hiện đúng
và hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.

7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa: Vai trò của văn hóa

Trước hết Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng. Theo Người, văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai
trò quan trọng tạo bước nhảy vọt trong tư duy, hành động của con người và của các dân
tộc bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của con người phát triển tự do, toàn diện. Ngay
từ năm 1921, Người đã nói đến "luồng gió mới từ nước Nga thợ thuyền... đang thổi đến
giải độc cho người Đông Dương"; rằng "Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc
giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ... cứ phụ trách việc giáo dục bằng
phương pháp của chúng... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa
thôi". Hồ Chí Minh từng nói đến "văn hoá soi đường cho quốc dân đi"; "Phải đem văn hoá
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ". Phải "Xúc tiến văn hoá để
tạo con người mới và cán bộ mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc".

Văn hoá có tác dụng sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội
cũ xây xã hội mới. Văn hoá tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo
tinh thần "Văn minh thắng tàn bạo". Kinh tế nâng cao đời sống vật chất, văn hoá có
tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Văn hoá như một động lực thúc
đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.

Văn hoá còn được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc
về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hoá được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế,
xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Trong công cuộc kiến thiết
nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một bộ phận kiến trúc thượng tầng.
Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động lẫn
nhau.

- Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính trị giải
phóng mở đường cho văn hoá phát triển.

Khi đất nước còn bị nô lệ thì văn hoá cũng chung số phận nô lệ, tuyệt đại bộ phận
nhân dân bị đoạ đầy trong cảnh tối tăm, dốt nát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vạch ra một
đường lối mới: phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị trước mà cụ thể là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc để giành lấy chính quyền, nhân dân làm chủ đất nước, để giải
phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn hoá phát
triển. Người chỉ ra rằng, "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hoá của ta vì thế không thể
nảy sinh được","dân tộc bị nô lệ thì văn nghệ cũng mất tự do".

- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.

Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, xây dựng
kiến trúc thượng tầng. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ
tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá là một bộ phận kiến trúc
thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới kiến thiết được
và có đủ điều kiện phát triển được: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế
và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới
vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước".

- Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy cho kinh tế phát triển.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Điều này cũng có nghĩa là văn hoá có quan
hệ chặt chẽ với kinh tế và chính trị, văn hoá phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy
xây dựng và phát triển kinh tế, tác động trở lại với kinh tế và chính trị như một động lực hết
sức quan trọng, Người nói: "Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng nước ta thành
một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Như vậy, cũng phải thấy
rằng văn hoá đứng ở trong kinh tế và chính trị cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị phải có
tính văn hoá.

You might also like