You are on page 1of 11

Câu 1:

MỞ ĐẦU
Trong quá trình bôn ba ở nước ngoài, mục tiêu hàng đầu của Hồ Chí Minh là
tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Khi Người tìm thấy
ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênnin, Người đã vui mừng đến phát khóc và khẳng
định con đường giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Tuy
nhiên, Người đã vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử của dân tộc để đưa ra những đường lối đúng đắn đối với cách
mạng nước ta. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
vai trò của việc đoàn kết với phong trào cách mạng quốc tế, không để chủ nghĩa tư
bản có điều kiện cô lập phong trào giành độc lập và các cuộc cách mạng tư ở từng
quốc gia, từng thuộc địa.
Với hàng loạt các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Kách mệnh (1927), văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng… đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
NỘI DUNG
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Viêt Nam cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chứng tỏ những con đường giải phóng dân tộc dưới
ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách
quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm
phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Người không tán thành những con
đường cứu nước ấy, mà quyết tâm đi theo con đường cứu nước mới. Tháng 7/1920
trên báo Nhân đạo đăng Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin Sau nhiều năm tìm tòi cuối cùng Nguyễn Ái
Quốc cũng tìm ra được “cẩm nang” để giải phóng dân tộc và vạch ra những nội
dung cơ bản trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản.
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa đế quốc

1
là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa.
Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức
là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường cách mạng vô sản.
Hai là, lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc chính là đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh công – nông. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng
dân tộc là việc chung của dân chúng, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền, nhưng trong sự tập hợp đó, luôn phải nhớ:
“Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách
mệnh”1.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập hợp rộng rãi mọi
tầng lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm tạo ra sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do;
đấu tranh chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận
điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc
bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ
thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được
thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng
đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924,
Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống
hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã được thắng lợi của cách
mạng Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
1
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.288.

2
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp
cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Theo Hồ
Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân
dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ
phản động. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp
và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng,
giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền. Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung
Ương VIII, Người cũng đã đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải
kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”2.
Như vậy, qua sự tư duy của Hồ Chí Minh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đường lối và phương pháp đấu tranh của cách mạng vô sản đã chuyển thành
đường lối và phương pháp đấu tranh của cách mạng giải phóng dân tộc, phù hợp
với thực tiễn đất nước ta; Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo,
trong đó bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây là một luận
điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào
kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn.
Từ năm 1919 đến năm 1928, Quốc tế Cộng sản vẫn luôn cho rằng: “Chỉ có
thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Ý kiến này đã giảm tính chủ
động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa, làm cho phong trào cách mạng ở các nước
rơi vào tình trạng thoái trào.
Trong khi Quốc tế Cộng sản đánh giá thấp vị trí, vai trò của cách mạng
thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc, Nguyễn Ái Quốc
lại đưa ra những quan điểm khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Người
2
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.18.

3
khẳng định: “…Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai
cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ
nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa...”3, và nếu khinh thường cách mạng ở thuộc
địa tức là “…muốn đánh chết rắn đẳng đuôi”.
Người đã chỉ rõ cái sai của Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ và tìm ra được liều
thuốc vực dậy cuộc cách mạng thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn phê bình
những người cộng sản ở các nước tư bản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa và không
thực hiện đúng di huấn của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; ngay cả những
người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ cũng đặt cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc phụ
thuộc vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, coi phong trào giải phóng dân tộc
là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Vận dụng công thức của C.Mác, với nhận thức cách mạng giải phóng dân
tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… Công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” 4.
Theo Người, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản, đế quốc đều lấy ở các xứ thuộc
địa.
Người đã lấy hình ảnh con đỉa hai vòi để minh họa cho chủ nghĩa tư bản lúc
bấy giờ với hai đầu hút máu ở chính quốc và thuộc địa. Khi đánh vào đầu ở chính
quốc, nó sẽ tích cực hút máu ở thuộc địa làm cho sức sống của thuộc địa cạn kiệt,
sức đấu tranh không còn, con đỉa bị đánh nhanh chóng hồi phục và quay lại chống
cách mạng chính quốc, điều đó không những gây tổn thất cho phong trào chống
cách mạng chính quốc mà còn khiến nó quen mùi, hút mạnh hơn ở thuộc địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa là tất yếu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra
rằng nhân dân thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn mà cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp thiết thân của họ, họ phải đứng lên tự giải phóng mà

3
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.259.
4
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.138.

4
không thể dựa vào sự cầu viện ở bất cứ ai. Nếu được thức tỉnh thì nhân dân thuộc
địa sẽ là một lực lượng khổng lồ có thể làm nên sự nghiệp cách mạng.
Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa cùng
với các dân tộc cần đoàn kết để tiến hành một cuộc cách mạng triệt để. Một mặt
tấn công ở chính quốc, đồng thời cũng tấn công ở thuộc địa, khi bị đau ở cả hai
đầu, “con đỉa” ấy sẽ có xu hướng quay về giữ sân nhà của mình, tạo đà cho cuộc
cách mạng thuộc địa giành thắng lợi.
Sau khi mất nguồn sinh lực của mình, sức mạng của chủ nghĩa tư bản dần
dần bị suy giảm, lúc ấy cách mạng ở chính quốc sẽ đặt dấu chấm hết cho chúng.
Người khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những
người anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Suy luận sáng tạo của Hồ Chí Minh đã được Đại hội VII Quốc tế Cộng sản
nhận ra và lập tức chuyển hướng chiến lược, kêu gọi: “Vô sản ở tất cả các nước và
các dân tộc áp bức đoàn kết lại”, chủ động thực hiện cách mạng đấu tranh giành
độc lập tự do của chính mình.
Có thể thấy rằng trong công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa thì quan điểm: Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy nhất,
bất di bất dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến
Hồ Chí Minh, Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết
bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn của mỗi người. Không thể đi so sánh giữa Hồ Chí
Minh và Mác-Lênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh
hưởng không nhỏ đến tư tưởng của mỗi người.
Đây là một cống hiến vô cùng quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lêni.
Giúp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thụ động, ỷ nại chờ sự giúp
đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Nhờ đó mà
cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. Đồng thời nó cũng góp phần
định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trên thế giới trong

5
thời kì bấy giờ. Thực tiễn cách mạng ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt
Nam đã chứng minh rằng đây là một tư tưởng hoàn toàn đúng đắn.
Câu 2:
Trong quá trình lăn lộn thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định vai
trò quyết định của quần chúng trong lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân. Từ đó, Người đã hình thành tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan
niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng.
Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ
chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Với vị trí, vai trò to lớn đó, để định
hướng cho việc xây dựng và hoạt động của Mặt trận được hiệu quả và phát huy sức
mạnh, Người đã đưa ra hệ thống các nguyên tắc. Và đến bây giờ nguyên tắc xây
dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất của Người vẫn còn nguyên giá
trị.
Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng
khối liên minh công-nông-trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc,
nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo,
ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có
tổ chức nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó
hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam trong lịch sử. Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân
tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất”5. Đồng thời, Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của
liên minh công nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên
minh công nông mà không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với
các tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức. Đồng thời, giải quyết mối quan hệ

5
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.16.

6
giữa dân tộc với giai cấp trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một sáng tạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng học thuyết Mác – Lênin về giai cấp và đấu
tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vào hoàn cảnh cụ thể
nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ
có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu
bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Hồ Chí
Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt.
Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được những
nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình
thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt
trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự
phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước
hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn,
từng thời kỳ cách mạng. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết
phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự
giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động dựa trên cơ sở bảo
đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân,
song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống
nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại
đoàn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung
một mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung
một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn
kết vẫn không thể có được.

7
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác
định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất
lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ
sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và
quyền thiêng liêng của con người: Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ
cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có
lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là
lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không
còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc
nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại
đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố
tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và
Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu
tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi
ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết,
là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó
cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những
phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
mình.
Thứ ba, Mặt trận dân tộc phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân
tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với
nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải
theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Chỉ có hiệp thương dân chủ mới giữ được sự
tồn tại của liên minh một cách lành mạnh, thực chất. Hiệp thương dân chủ chính là
quá trình thảo luận, bàn bạc, trao đổi từ rất nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập

8
nhau để đi tới cùng thống nhất về một hay một số vấn đề, một chủ trương, chính
sách do Mặt trận đề xướng.
Hiệp thương, tự nó đã nói nên tính chất bình đẳng, bao hàm sự nhân nhượng,
thậm chí không loại trừ cả sự thỏa hiệp khi cần thiết, theo đúng nghĩa tích cực của
khái niệm này. Ở khía cạnh khác, hiệp thương cũng là sự thể hiện của văn hóa dân
chủ. Trong hiệp thương dân chủ thì hiệp thương là cách thức, phương thức, còn
dân chủ vừa là tiền đề vừa là mục tiêu, mục đích. Hiệp thương dân chủ thực chất
cũng là công tác dân vận, công tác vận động quần chúng theo đường lối, quan điểm
của Đảng. Đây cũng chính là yêu cầu lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận phải đạt
tới, tức là đảm bảo sự thành thật, tin cậy, là tôn trọng, là không mang tính quyền uy
để phối hợp thống nhất hành động nhằm tăng cường sự đoàn kết, sự đồng thuận
trong xã hội và nhân dân.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…
Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích
tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích
chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng.
Trong quá trình hoạt động, Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng,
thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Thứ tư, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài,
đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên
cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để
giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng
tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ:
“Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người

9
thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao
tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt,
củng cố đoàn kết nội bộ. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây
dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn đấu tranh
chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những
lực lượng có thể tranh thủ được.
Trong thực hiện đoàn kết toàn dân tộc phải thống nhất cao độ về mục tiêu
và lợi ích của các giai tầng. Vì việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi
ích cơ bản của các giai tầng trong xã hội làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở
rộng. Bởi nói đến đại đoàn kết là giải quyết các mối quan hệ và vấn đề lợi ích giữa
cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tìm ra mẫu số chung, quy tụ điểm tương đồng của mọi người Việt Nam là tinh
thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do. Theo Người, giải quyết quan hệ về lợi
ích phải tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đáp ứng nguyện vọng chung của toàn
thể dân tộc, nhưng lại chăm lo tới cả lợi ích chính đáng của cá nhân, trong đó lợi
ích cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của dân tộc. Điều này thể hiện rõ trong
tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, khi tình thế
cách mạng đến, Người đã kêu gọi toàn dân: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” 6. Hội nghị Trung ương lần
thứ tám (5-1941) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận,
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất
sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được
mục tiêu: “Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ
6
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.9.

10
sở để mở rộng khối đại đoàn kêt, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào Mặt trận
dân tộc thống nhất.
Thực tiễn cách mạng gần 95 năm năm qua đã minh chứng cho sức sống kì
diệu và sức mạnh vĩ đại của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận dân tộc thống nhất không chỉ có vai trò to lớn trong cách mạng giải phóng
dân tộc mà còn có vai trò hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện nay. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với sứ mệnh lịch sử của mình, động viên các
tầng lớp nhân dân đồng tâm hiệp lực, đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng cống
hiến cho sự chấn hưng đất nước.

11

You might also like