You are on page 1of 8

Câu 1:

Ý nghĩa lịch sử của bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”: - Sự ra đời của bản “Yêu
sách của nhân dân An Nam” là sự kiện mở đầu cho cuộc đấu tranh đòi quyền dân tộc cơ
bản, quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc trong những năm đầu thế kỉ 20. - Sự phủ
nhận bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” của những người điều hành Hội nghị Véc-
xây đã phơi bầy bản chất dã tâm lừa bịp của nhân dân thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. -
Bản Yêu sách và sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc là nguồn động lực cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa.
Câu 2: …
_Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” được
V.I.Lê-nin viết vào tháng 6-1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế cộng sản. Luận
cương được đăng trên Tạp chí Quốc tế cộng sản số 11, ngày 14-7-1920 và trên báo Nhân
đạo (L’Humanite) – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ngày 16 và 17-7-1920,
đề cập những vấn đề cơ bản:

Thứ nhất, giai cấp tư sản đã giải quyết một cách trừu tượng và hình thức vấn đề dân tộc
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đó là một sự dối trá, thủ tiêu đấu tranh giai cấp
nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Thực chất chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản
là vị kỷ, hẹp hòi, cá lớn nuốt cá bé. Nó tạo ra những quốc gia độc lập về phương diện
chính trị, nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào CNTB về phương diện kinh tế, tài chính và
quân sự.

Thứ hai, V.I.Lê-nin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính nguyên lý và những phương
hướng giải quyết các vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Ở đó các
dân tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về vận mệnh của dân tộc mình trên
tinh thần hợp tác và xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Đây là sự phát triển, hoàn thiện lý
luận Chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc của Lê-nin.

Nếu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” 1848 với các Lời tựa do Ph.Ăng-ghen viết cho
các lần tái bản 1892 và 1893 khẳng định: Giải phóng dân tộc là điều kiện để đoàn kết
quốc tế chống CNTB, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thì “Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lê-nin đã chỉ ra
những nguyên tắc liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam và ảnh hưởng đến
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam:
_Một là, phải phân biệt rõ lợi ích của các giai cấp bị áp bức, bóc lột với lợi ích của giai
cấp thống trị.
Phân biệt rõ quyền lợi của dân tộc bị áp bức với quyền lợi của các lực lượng đi áp
bức. Nhờ giác ngộ được nguyên tắc này mà Hồ Chí Minh đã khác với tất cả các lãnh tụ
yêu nước khác của Việt Nam,
Người phân tích một cách sâu sắc các giai cấp, tầng lớp xã hội ở Việt Nam; phân
tích mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam mà tìm ra phương pháp đúng
nhằm giáo dục, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Hai là, gắn kết phong trào công nhân với phong trào giải phóng dân tộc là vấn đề sống
còn, là điều kiện tiên quyết trong sự nghiệp đấu tranh chống CNTB. Nhận thức được
nguyên tắc này, mà năm 1924, trong tác phẩm “Lê-nin và các dân tộc phương Đông”
Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Lê-nin là người đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan
trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào phong trào cách mạng.
Lê-nin là người đầu tiên chỉ rõ rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa,
thì cách mạng xã hội không thể có được”(4).

_Thông qua 12 luận điểm, V.I.Lê-nin đã đặt ra một loạt vấn đề có tính nguyên tắc cũng
như những hướng giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa – đây là một bước phát
triển của V.I.Lê-nin đối với lý luận của Chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, do hạn chế về điều
kiện lịch sử, mà dù thấy được vai trò quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc,
nhưng V.I.Lê-nin vẫn khẳng định sự thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc bị lệ
thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc: “Nếu không có chiến thắng
đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”(5).
Nguyễn Ái Quốc trong điều kiện lịch sử mới đã phân tích sâu sắc tình hình thuộc địa,
nhất là tình hình cách mạng Việt Nam mà khẳng định và thực hiện: “Cách mạng giải
phóng dân tộc nếu được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo thì có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc”.

_Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm
công tác thực tế, dần dần Nguyễn Ái Quốc hiểu được rằng “chỉ có CNXH, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ”(6). Người hiểu V.I.Lê-nin là người đầu tiên kiên quyết lên án mọi
thành kiến đối với nhân dân các nước thuộc địa, những thành kiến ăn sâu trong
xương tủy nhiều công nhân và nhiều nhà hoạt động chính trị Âu, Mỹ. Bên cạnh đó,
V.I.Lê-nin là người đầu tiên nêu bật ý nghĩa quan trọng của việc giải quyết đúng
đắn vấn đề thuộc địa đối với cách mạng thế giới; là người đầu tiên chỉ ra rằng, nếu
không có nhân dân các nước thuộc địa tham gia thì không thể có cách mạng xã hội,
vạch rõ sự kết hợp cuộc đấu tranh của nhân dân và vô sản thuộc địa với cuộc đấu tranh
của nhân dân và vô sản chính quốc. V.I.Lê-nin đã tạo bước ngoặt trong lịch sử đau khổ
của nhân dân các nước thuộc địa. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy sự ủng hộ, tìm
thấy chỗ dựa, tìm thấy nguồn sức mạnh để vươn tới cái đích của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, những điều này đã giải đáp băn khoăn thắc mắc trước câu hỏi: đứng về
Quốc tế nào trong cuộc đấu tranh trong cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp.
_Ra đi tìm đường cứu nước với tuổi đời còn rất trẻ và từ một xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến, lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa có một khái niệm rõ ràng về giai cấp, đấu tranh giai
cấp, đảng chính trị, Chủ nghĩa Mác - Lênin... Hành trang của Người mang theo khi xuất
dương chính là lòng yêu nước và thương dân, trước khi Người đến với Chủ nghĩa Mác
như chính Người đã khẳng định: Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là
chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba. Lúc bấy giờ, tôi
ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tình tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan
trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lê-nin vì Lê-nin là một người yêu nước vĩ đại đã giải
phóng đồng bào mình; trước đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lê-nin. 

_Từ hoạt động thực tiễn và đọc “Luận cương của Lê-nin” đăng trên báo L’Humanite
tháng 7-1920, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, có
nhiều tri thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể hiện sự vượt trội trong tư
tưởng khi nhận ra được chân lý lớn của thời đại. Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn
Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời
câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc...  Như vậy,
sau khi bắt gặp bản Luận cương V.I.Lê-nin thì tất cả những vấn đề mà Nguyễn Ái
Quốc từng trăn trở, tìm kiếm bao lâu nay đã được giải đáp. Nguyễn Ái Quốc đã tìm
thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân
tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam, đó là vững bước đi theo con đường cách mạng
vô sản. Từ đây lịch sử cách mạng Việt Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách
mạng, Tư tưởng mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận được coi như “kim chỉ nam” soi sáng con
đường đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sau này, nhớ lại thời điểm lịch sử ấy,
Người cho biết: “Trong Luận cương ấy có chữ chính trị rất khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi
đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng đã hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin
làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế
thứ ba” (7).

_Như vậy Luận cương của V.I.Lê-nin đã tác động mạnh mẽ và tạo sự chuyển biến
trong tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam. Đây
là sự kiện mang tính chất bước ngoặt đối với Nguyễn Ái Quốc, là mốc Người tìm được
con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Nhu cầu đang đặt ra của lịch sử
lúc bấy giờ là xác định một con đường đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa nói chung. Nguyễn Ái Quốc chính là người
đảm nhận nhiệm vụ lịch sử đó. Đây cũng chính là cơ sở để Người truyền bá Chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, gieo hạt giống cộng sản và trực tiếp chuẩn bị những điều kiện
cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc
bản Luận cương của Lê-nin, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công
nhân, trí thức Pháp và các đại biểu thuộc địa là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) và tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một sự kiện
chính trị vô cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Người đã rút ra những lý luận cách mạng
phù hợp với con đường cách mạng Việt Nam.

_Thứ nhất, Người đã xác định rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải chĩa ngọn
cờ cách mạng vào kẻ thù. Nội dung bản Luận cương của V.I.Lê-nin  đã đánh giá đúng
tình hình lịch sử cụ thể; phải phân biệt rõ lợi ích giai cấp của những người lao động,
những người bị bóc lột, làm sáng tỏ bức tranh của chế độ TBCN. Chính giai cấp TBCN
áp bức, bóc lột nhân dân lao động chính quốc đồng thời đô hộ áp bức các nước thuộc địa.
_Thứ hai, bản Luận cương của V.I.Lê-nin giúp Nguyễn Ái Quốc thấy được động lực to
lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp công nhân và nông dân. Từ ý chí tìm
lại độc lập, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách mạng, thấy được sức mạnh to
lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga,
được lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Nguyễn Ái Quốc đã xác định động
lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân, nông dân. Đồng thời công nông cũng
là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

_Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa mà Luận cương của V.I.Lê-nin vạch ra, đó là: Con đường cách mạng vô
sản, giải phóng dân tộc gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng
con người. Đây cũng là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Tất cả những điều mà Người
trăn trở dày công tìm kiếm nay đã được trả lời.

_Thứ tư, Luận cương của V.I.Lê-nin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa,
mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa. V.I.Lê-nin
viết: “…Đối với các quốc gia, dân tộc chậm tiến hơn… nhất thiết phải có sự giúp đỡ của
các đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc dân chủ tư sản của những nước
ấy; công nhân của một nước đang thống trị một dân tộc chậm tiến về mặt thuộc địa hoặc
về mặt tài chính phải có nhiệm vụ trước tiên ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng
của dân tộc ấy!” (8). V.I.Lê-nin là người đã phát hiện ra vai trò to lớn của cách mạng
thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận một cách sâu sắc đó là vô sản các nước đoàn kết
lại. 

Luận cương của V.I.Lê-nin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa
Mác - Lênin và chính Luận cương của Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong
sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ
nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
người yêu nước trở thành người cộng sản. Người đến với Luận cương của Lê-nin không
dừng lại ở sự cảm nhận đơn thuần mà nó được truyền tải tới Người bằng cả khối óc và
trái tim - Tình cảm đặc biệt dành cho Lê-nin, cho Quốc tế III – Quốc tế cộng sản cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng mà còn cho tất cả nhân dân các nước thuộc
địa
Câu 3
-Lý do Người chọn Pháp là điểm dừng chân đầu tiên là Người muốn tìm hiểu những
truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc - nơi đẻ ra mọi chế
độ thực dân thối nát và cực kỳ tàn bạo đang đô hộ đất nước ta. Như vậy, theo Nguyễn Tất
Thành: muốn tìm được con đường cứu nước thì trước hết phải hiểu thật đúng, thật đầy đủ
về những kẻ đang cướp nước mình. Muốn đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để giải
phóng cho đồng bào thì trước hết phải hiểu cho được cái gốc rễ, cái bản chất của chủ
nghĩa thực dân. -Lý do Người chọn Trung Quốc là điểm dừng chân cuối cùng vì: + Trung
Quốc gần Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi, sớm thực hiện mục tiêu về nước lãnh đạo
phong trào cách mạng. + Trước và sau năm 1924, hình thức cách mạng Trung Quốc có
nhiều thay đổi lớn, phong trào cách mạng với Quảng Châu làm trung tâm thu được nhiều
thắng lợi. Thời điểm này Quảng Châu được mệnh danh là "Matxcova phương Đông", thu
hút rất nhiều những nhà cách mạng đến từ những quốc gia bị áp bức. Chủ tịch Hồ Chí
Minh tin rằng, Người ở Quảng Châu lúc này, kết hợp tham gia thực tiễn cách mạng
Trung Quốc với thực hiện mục tiêu vận động cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ có hiệu
quả. + Quảng Châu khi đó là nơi tập trung một số nhà hoạt động cách mạng đến từ Việt
Nam. Họ là những người đến Trung Quốc theo lời kêu gọi của bậc tiền bối - nhà cách
mạng dân chủ Phan Bội Châu, tham gia tổ chức "Quang Phục Hội" ở Quảng Châu.
Nhưng khuynh hướng bảo thủ của nhà cách mạng tiền bối khiến họ thất vọng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh ý thức được rằng, Người phải nhanh chóng đến Quảng Châu thay đổi tổ
chức này, dẫn dắt thanh niên Việt Nam theo con đường cách mạng đúng đắn là học theo
chủ nghĩa Mac.
Câu 4: Các văn kiện bản án chế độ thực dân pháp 1925 và các bài báo thanh niên do
NAQ soạn thể hiện rõ quan điểm của người về mục tiêu cách mạng Việt Nam là gì ?
Trl :
Nội dung Bản án chế độ thực dân Pháp – đây là tác phẩm tố cáo tội ác Thực dân Pháp đối
với nhân dân ta, thức tỉnh nhân dân ta và hướng đến các dân tộc bị áp bức đi theo con
đường CMT10 Nga, con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mac – Lenin
Những sách báo NAQ viết đăng trên Báo Thanh Niên một mặt đấu tranh một mặt tố cáo
tội ác của Pháp mặt khác khích lệ long yêu nước cảu đồng bào tuyên truyền chủ nghĩa
Mac lenin vận động quần chúng đấu tranh
Thông qua những văn bản trên, NAQ đã nêu rõ mục tiêu của CMVN đó là chống đế
quốc, thực dân phong kiến làm CMTS dân quyền và CMCNXH.Giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Hướng đến giải phóng dân tộc, giải phòng nhân dân, công
nhân, người đân lao động trên đất nươc Việt Nam khỏi những áp bức bóc lột của thực
dân
Câu 5:
- NAQ đã tìm hiểu kĩ về các phong trào cách mạng trong nước như: phong trào Cần
Vương (1885 – 1896), phong trào Đông Du (1906 – 1908), phong trào Đông Kinh Nghĩa
Thục (1907), phong trào Duy Tân (1905 – 1908).
→ các phong trào đều theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản. bên cạnh đó còn
có rất nhiều phong trào đại diện cho giai cấp tiểu tư sản, tư sản và điền chủ ở VN nhưng
đều đi đến thất bai.
→ điều đó chứng tỏ con đường giải phóng dân tộc theo tư tưởng phong kiến và dân chủ
tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành lại độc lập tự do của dân tộc.
→ HCM tuy rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán
thành các con đường cứu nước ấy nên quyết tâm ra đi tìm 1 con đường khác.
- 1911 NTT ra đi tìm đường cứu nước. trong quá trình đó, Người đã nghiên cứu kĩ các
cuộc CM điển hình trên TG như CM Mỹ (1786), CM Pháp (1789).
Người đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái và quyền con người của 2 cuộc CM
Pháp và Mỹ nhưng cũng nhận thức rõ hạn chế của CM tư sản. “ cách mệnh pháp cũng
như CM Mỹ, là CM tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kì
thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.”

Bởi lẽ đó Người không đi theo con đường CM tư sản. Người khẳng định con đường CM
tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc cho nhân dân
- bên cạnh đó, Người quan tâm đặc biệt đến CM Tháng 10 Nga (1917). Người rút ra kết
luận: “Trong TG bây giờ chỉ có CM Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”
→ HCM thấy đc CM t10 nga không chỉ là 1 cuộc CM vô sản, mà còn là 1 cuộc CM giải
phóng dân tộc và Người đã quyết định hướng CM VN theo con đường CM vô sản.

Câu hỏi 6: Tại sao khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Phương Tây
mà không chọn Phương Đông?
Trả lời:
 Nguyễn Ái Quốc sinh ra và lớn lên trong cảnh mất nước, được tiếp thu truyền
thống yêu nước bất khuất từ ra đình và quê hương. Chứng kiến hàng loạt các
phong trào chống Pháp nổ ra nhưng đều thất bại, được tiếp xúc với nền cách mạng
đương thời.
 Bác nhìn nhận thấy sự khủng hoảng về đường lối cách mạng cho thấy cần tìm 1
con đường cứu nước mới.
Vì vậy từ sớm Nguyễn Ái Quốc đã có một lòng nồng nàn yêu nước, thương dân,
có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
 Rút kinh nghiệm các vị tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh hướng con
đường cứu nước về phía Nhật Bản đều bị thất bại. Người đã từng nhận xét rằng:
con đường cứu nước của Phan Bội Châu là “đuổi hùm cửa trước, rước beo cửa
sau ”, còn Phan Châu Trinh chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”.

 Người quyết định đi các nước Tây Âu với nhận thức rất đúng đắn là muốn đánh
đổ kẻ thù thì phải biết rõ kẻ thù đó.
(Người nói: “ vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi nghe từ Pháp tự do, bình đẳng,
bác ái. Thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn
dấu đằng sau những từ ấy”. Vì thế, Người sang Pháp với mong muốn “đến tận
hang ổ của kẻ xâm lược để xem nước Pháp và các nước khác làm ăn như thế nào
rồi trở về giúp đồng bào”.)

 Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây là để khảo sát, nghiên cứu, “xem người ta làm
thế nào”, chứ không phải đi cầu ngoại viện. Người đã hiểu rất sâu sắc bản chất của
chủ nghĩa thực dân và rút ra những nhận xét sâu sắc: xã hội thì đâu đâu cũng có
cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của
bọn thống trị. Người đau nỗi đau chung của nhân loại và nỗi đau riêng của người
dân Việt Nam bị mất nước.

You might also like