You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

VIỆN ĐÀO TẠO TT, CLC VÀ POHE

BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ BÀI: Bằng sự hiểu biết của mình, anh, chị hãy minh chứng cho luận điểm sau
đây: “Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc; nhà văn hóa kiệt xuất của dân
tộc Việt Nam”.
.

Họ và tên: Dương Đức Thái

Mã sinh viên: 11225720

Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_Quản trị Marketing


CLC 64A_AEP(123)_12

Giảng viên: TS. Nguyễn Chí Thiện

Hà Nội – 2023
MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………………………...tr.3
Nội dung……………………………………………………………………………………
tr.4
Phần 1: Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh…………………………..……………...…
tr.4
Phần 2: Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc…………………………tr.6
Phần 3: Hồ Chí Minh – Nhà văn kiệt xuất của Việt Nam……………………. tr.8
Lời kết………………………………………………………………………………..…tr.12
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………..tr.13
2
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nói về những hình tượng lịch sử tượng trưng cho sự giải phóng và văn hóa của
một quốc gia, tên Hồ Chí Minh luôn đứng đầu trong danh sách của Việt Nam. Không chỉ là
người lãnh đạo vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng, ông còn là một nhà văn hóa tài hoa
đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong những điều kiện cụ thể. Cơ thể Việt Nam kế thừa và phát
triển tinh hoa các giá trị truyền thống tốt đẹp và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh những vấn đề thuộc quy luật và có tính quy luật
của cách mạng nước ta, đã được thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam kiểm
nghiệm và xác nhận. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị dân tộc mà còn có ý
nghĩa thời đại, góp phần vào giải quyết những vấn đề đang đặt ra cho thế kỷ hiện nay.
Chính trong khát vọng chung đó, nhân loại đang ngày càng nhắc nhiều đến tư tưởng Hồ
Chí Minh.

Trong bài luận này, chúng ta sẽ đi sâu vào việc minh chứng cho luận điểm rằng "Hồ
Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc; nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam",
thông qua việc khám phá cuộc đời và công lao của Người trong việc giải phóng dân tộc và
xây dựng một nền văn hóa độc đáo, phong phú, và đa dạng của Việt Nam.
3
NỘI DUNG
Phần 1: Tiểu sử Chủ tich Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là Nguyễn
Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là Nguyễn Ái Quốc),
sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969tại HàNội. Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một
nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống
Pháp và bị tù đày.

Ngày 3-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động cách
mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc lập, tự do của
dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường giải phóng của giai cấp
công nhân và nhân dân các nước thuộc địa. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân
tộc thuộc địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được
bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V
của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp
phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925)
và Đường cách mệnh (1927).

Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng
Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ
Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần
Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng
do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng
Cộng sản Việt Nam ).

Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải
phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng
gian khổ và khó khăn.

Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành lập Việt Nam
độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn
4

cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba
Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và
thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người làm
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).

Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách
mạng.

Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả của Cách
mạng Tháng Tám.

Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã
giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ (1954).

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải
phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III
đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc
kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ;
lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt
trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và
sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế.
5

Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của
giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động
lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

Phần 2: Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, độc lập dân tộc là mục tiêu xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể thấy, trong quá trình ra đi
tìm đường cứu nước, từ năm 1911, với “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”, Hồ Chí Minh đã tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng
của các dân tộc bị áp bức cũng như tham gia phong trào của giai cấp công nhân ở các nước
tư bản. Bằng con đường lao động, Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều vùng đất khác
nhau và thực hiện nhiều hoạt động khác nhau như: tham gia sinh hoạt của công nhân, thợ
thuyền, tiếp xúc với báo chí, lập hội, viết báo, viết sách phản ánh về nỗi thống khổ của nhân
dân Việt Nam, nhân dân các dân tộc thuộc địa, tố cáo tội ác của thực dân, đế quốc. Thực
tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình
thành ở Người tình hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn ấy
đã đem lại cho Người những kết luận quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm
của Người. Đó là, ở đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những
quan hệ phi nhân tính, ở đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè,
anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động đấu tranh, “đem sức ta mà
tự giải phóng cho ta”.

Bước ngoặt lớn nhất trên con đường bôn ba đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí
Minh là khi Người đọc được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa, làm Người sung sướng đến chừng nào vì đã tìm thấy “đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta”. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận ra con
đường cứu nước duy nhất, đúng đắn nhất là con đường cách mạng vô sản, đó là sự kết hợp
chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với chủ nghĩa quốc tế chân chính, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Từ đó, Người mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đồng thời
cũng mở ra con đường giải phóng cho tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Không chỉ
kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh còn góp phần phát triển học thuyết của V.I Lênin về cách mạng thuộc địa, làm
sáng

6
tỏ mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa; đưa ra luận điểm về tính chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa và khẳng định sự nghiệp đấu tranh giải phóng của nhân dân thuộc địa chỉ có thể
thực hiện
được bằng nỗ lực của bản thân các nước thuộc địa. Hơn thế nữa, ngay từ rất sớm Hồ Chí
Minh đã khẳng định: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc mà còn có thể tiến hành trước, và thắng lợi của nó sẽ “giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.

Đối với cách mạng Việt Nam, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trước hết phải có Đảng. Cách mạng có Đảng lãnh đạo như tầu có lái mới vượt qua phong ba
bão táp, “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm
tới công tác xây dựng Đảng, yêu cầu Đảng phải vận dụng một cách sáng tạo những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn ở nước ta, phải
thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, chính trị, tư tưởng và đạo đức, xây
dựng Đảng trong sạch và vững mạnh, giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng “như giữ gìn
con ngươi của mắt mình”.

Cùng với xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930, Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn hết sức coi trọng việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì đoàn
kết là sức mạnh. Ngay sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết
thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi
ra khỏi nước sôi lửa nóng… Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải
kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người
có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng
các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề”.

Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành
lập. Đó là khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc, tạo ra sức mạnh vô địch vượt qua mọi khó
khăn thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,


Thành công, thành công, đại thành công” .
Đây chính là tư tưởng chiến lược xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là động
lực và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và Tổ
quốc. Tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc,
nước

7
Việt Nam ngày nay được độc lập… Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết,
bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa” .

Không chỉ tập trung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn chú ý xây dựng lực lượng vũ trang. Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập. Dưới
sự lãnh đạo và rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ những đơn vị tự vệ ban
đầu, Quân đội nhân dân Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, lớn mạnh và trưởng
thành, để hoàn thành vẻ vang mọi nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu qua các thời kỳ cách
mạng, giữ vững lý tưởng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và một lực lượng Quân đội tinh nhuệ, dân tộc Việt
Nam đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà trước hết phải kể đến là thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, khẳng định vị trí của Việt Nam
trên bản đồ thế giới, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập
dân tộc và tự do, sánh vai cùng các dân tộc đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội công
bằng, tiến bộ, văn minh.

Trong những năm tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Pháp, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới
để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Có thể nói, những thắng lợi này đã khẳng định và
đưa tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào lịch sử cách mạng thế giới như là người khởi
xướng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trong thế kỷ XX.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hết lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất
trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản trong sáng, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông
Dương, các nước láng giềng, cống hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào
cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Năm 1990, Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã tôn vinh Người là Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất là bởi Người là “biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng
định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân
Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội”.
8
Sự nghiệp và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ còn tiếp tục
được nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới ngưỡng mộ và tôn vinh trong nhiều năm sau
nữa, như lời nhận xét của Chủ tịch danh dự Hội đồng hòa bình thế giới, ông Romesh
Chandra trong bài tham luận tại cuộc Hội thảo quốc tế Việt Nam trong thế kỷ XX, được tổ
chức tại Hà Nội, năm 2001: “Trong nửa sau thế kỷ XX, có một từ đã xuất hiện trong tiếng
nói của những người bảo vệ và kiến tạo hòa bình trên thế giới, một từ mà cùng một lúc
mang rất nhiều ý nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng; và nó còn có ý nghĩa là chiến
thắng, độc lập, tự do.
Và có một cái tên đã luôn gắn liền với từ này - từ chỉ tên của một đất nước. Đó là Hồ
Chí Minh. Người là niềm cảm hứng cho cuộc đấu tranh bất khuất của dân tộc mình, và
cũng là nguồn cảm hứng cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh cho những điều tốt đẹp nhất
của nhân loại”.

Phần 3: Hồ Chí Minh – Nhà văn kiệt xuất của Việt Nam

“Sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng dân tộc do
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đem lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc Việt
Nam. Không chỉ vậy, sự nghiệp này còn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã
chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xiềng xích nô lệ, giành
độc lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế
giới”.

Có thể nói, ở Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng dân tộc luôn song hành với sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa mới, thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam
không tách rời công cuộc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Chính vì vậy, thật khó để
tách rời Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc và Hồ Chí Minh, Nhà văn hóa kiệt
xuất. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận
thức được vai trò quan trọng của văn hóa đối với công cuộc xây dựng và kiến thiết nước
nhà. Người chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay trong lúc bộn bề của
những công việc cấp bách trong những ngày đầu thành lập nước, Hồ Chí Minh vẫn chú
trọng xây dựng một nền văn hóa mới, có nội dung cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân.
Tại Lễ khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của
dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn
hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa
xỉ, phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”. Ngay bản thân Người, trong quá trình
bôn ba đi tìm đường cứu
9
nước, Người cũng đã hấp thu mọi tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, đặc biệt
là tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái của truyền thống văn hóa Pháp. Người trân trọng mọi
giá trị văn hóa nhân loại, tôn trọng và chấp nhận những giá trị khác biệt với sự lựa chọn của
mình. Với tấm lòng rộng mở, khoan dung và nhân hòa, Hồ Chí Minh đã tìm thấy điểm gặp
gỡ và giao thoa giữa các nền văn hóa, giữa các tôn giáo, các học thuyết chính trị, các vị
lãnh tụ, các chính khách lớn để tìm ra một phong cách ứng xử, một nhân cách văn hóa rất
Hồ Chí Minh, rất Việt Nam.

Với tư cách là danh nhân văn hóa, Hồ Chí Minh đã góp phần không chỉ tạo ra một
chế độ mới, một thời đại mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong lịch sử phát triển
của dân tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.

Bằng tư tưởng và tấm gương sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy tiềm năng
truyền thống văn hóa Việt Nam, Người phát động phong trào xây dựng đời sống mới, để
xây dựng một nền đạo đức mới, con người mới; chống những thói quen xấu và hủ tục lạc
hậu; phát triển những thuần phong, mỹ tục mới trong nhân dân. Bên cạnh đó, những chủ
trương văn hóa đi trước thời đại của Người như: xóa nạn mù chữ, trồng người, trồng cây,
gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái… hiện đã và đang được Liên hợp quốc đề xuất thành
các cuộc vận động lớn trên toàn thế giới. Hồ Chí Minh rõ ràng đã thúc đẩy và nâng dân tộc
Việt Nam lên một tầm cao mới.

Hơn 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, được tiếp xúc với nhiều nền văn hóa lớn
trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận thức sâu sắc rằng ngôn ngữ chính là chìa
khóa để mở cánh cửa tiếp cận với văn minh. Bản thân Người là tấm gương không ngừng
học hỏi và tiếp cận với các ngôn ngữ trên thế giới. Khi sống, làm việc ở nước Pháp, một
trung tâm văn hóa của châu Âu, Hồ Chí Minh đã học và sử dụng thành thạo tiếng Pháp để
có thể tiếp cận những dòng chảy của tư tưởng dân chủ, tinh hoa của nền triết học ánh sáng
với những tên tuổi lớn như: Voltaire, Rousseau... Khi đến với đất nước của Lênin vĩ đại,
Người lại cần mẫn học tiếng Nga để có thể thâm nhập, nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa
Nga, về những di huấn, nghiên cứu của Lênin về cách mạng và con đường giải phóng cho
những dân tộc bị áp bức, bóc lột. Và trong thời gian ở bị giam cầm ở Quảng Châu, Trung
Quốc, những vần thơ viết bằng chữ Hán (tập thơ Nhật ký trong tù) của Người là những tác
phẩm có thể xếp ngang hàng với những bài thơ của các thi nhân đời Đường, đời Tống của
Trung Quốc.

Không chỉ là nhà thơ, với những vần thơ khi thì sắc bén, mang đậm tính cách mạng,
khi là những câu viết thể hiện chất trữ tình đằm thắm và một tâm hồn lạc quan, tươi sáng
nhưng ẩn chứa trong đó là một tấm lòng luôn canh cánh nỗi niềm lo âu cho vận mệnh nước
nhà, Người còn là nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại. Chính Hồ Chí Minh là người đã khai
sáng ra nền văn học cách mạng, dùng ngòi bút làm vũ khí tuyên truyền cho cách mạng.
Ngay khi mới sang Pháp, tác phẩm Con rồng tre và các truyện Vi hành, Những lời than vãn
của bà
10
Trưng Trắc đã góp phần đả kích và phơi bày sự thật về chuyến đi của vua bù nhìn Khải
Định, khi ông ta sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa tại Marseille (tháng 6-1922). Sau này, với
những bài viết thuộc nhiều thể loại khác nhau đăng trên các báo như L’Humanité (Nhân
đạo), La vie Ouvrière (Đời sống công nhân), La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản),
Pravda (Sự thật)... trong những năm tháng sống và hoạt động ở nước ngoài cũng như những
bài viết đăng trên các báo Nhân dân, Cứu quốc... Khi ở cương vị là Chủ tịch nước, cùng
những tờ báo do Người sáng lập như Le Paria (1922), Thanh niên (1925), Việt Nam Độc
lập (1941)… đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân các
thuộc địa, thức tỉnh phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức, lên
án chủ nghĩa thực dân, chỉ đạo phong trào cách mạng ở thuộc địa, giáo dục về chủ nghĩa xã
hội, xây dựng kinh tế, bồi dưỡng con người mới...

Tổ chức UNESCO đã đánh giá: “Những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của
truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người
là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn
hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Trải qua thời gian, thực tiễn lịch sử càng ngày chứng minh rằng, Hồ Chí Minh - Anh
hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ kết tinh những thành tựu của
quá khứ, không chỉ thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm hồn thời đại mà còn là những phẩm
chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai, đúng như nhận xét tài tình của nhà thơ Liên Xô
Osip Emilyevich Mandelstam: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải
văn hóa Âu châu, mà có lẽ là nền văn hóa tương lai… Qua phong thái thanh cao, trong
giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên
tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới” .

Giờ đây, trong lúc cả nước đang hướng về ngày kỷ niệm 75 năm Quốc khánh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, tưởng nhớ về ngày Người tạm biệt thế giới người
hiền; các cán bộ, viên chức, người lao động Bảo tàng Hồ Chí Minh, những người được giao
trọng trách gìn giữ di sản thiêng liêng mà vô cùng quý giá của Người để lại cho dân tộc
Việt Nam, chúng tôi lại càng thêm trân trọng và trân quý những đóng góp, cống hiến của
Người và luôn tự nhắc nhở mình luôn cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà
Đảng, Nhà nước giao phó để tiếp tục xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, ổn định và
phát triển như mong muốn lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

11
LỜI KẾT
Trong bài luận này, chúng ta đã tận dụng những bằng chứng lịch sử, tư duy phân
tích, và sự suy tư sâu sắc để minh chứng cho tuyên bố rằng "Hồ Chí Minh là anh hùng giải
phóng dân tộc; nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam". Như vậy, thông qua việc
nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Người, chúng ta đã thấy rằng ông không chỉ là một
nhà lãnh đạo vĩ đại trong cuộc chiến tranh giải phóng, mà còn là một bậc thầy về văn hóa
và nghệ thuật.

Hồ Chí Minh đã để lại di sản không thể nào phai nhạt, không chỉ trong việc thúc đẩy
sự giải phóng của Việt Nam khỏi ách thống trị ngoại bang, mà còn trong việc xây dựng một
nền văn hóa độc đáo, bền vững, và đa dạng. Sự hiểu biết của ông về văn hóa dân tộc đã
giúp hội tụ và thúc đẩy các giá trị truyền thống trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động.

Nhìn chung, Hồ Chí Minh không chỉ là biểu tượng của sự đoàn kết và tự do, mà còn
là một biểu tượng của sự thấu hiểu và đầu tư vào bản sắc văn hóa của Việt Nam. Qua tất cả
những khía cạnh của cuộc đời và sự nghiệp của Người, chúng ta có thể tự hào xác nhận
rằng ông thực sự là một anh hùng giải phóng và một nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt
Nam. Sứ mạng của ông sẽ còn tiếp tục sống mãi trong tâm hồn của mỗi người con của Việt
Nam và là nguồn cảm hứng vĩ đại để tiến bước hướng tới tương lai.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2019), Bộ Giáo dục và Đào tạo, (Dành cho
bậc Đại học - Không chuyên ngành Lý luận chính trị)
2. Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam
(2020), Bảo Tàng Hồ Chí Minh, https://baotanghochiminh.vn/ho-chi-minh-anh-
hung-giai-phong-dan-toc-nha-van-hoa-kiet-xuat-cua-viet-nam.htm
3. Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Việt Nam 1945-1998, NXB. Chính trị Quốc
gia, 1999
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (2020) Tạp Chí Cộng Sản https://www.
tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/820758/van-
dung-tu-tuong-ho-chi-minh-vao-nghien-cuu%2C-phat-trien-sang-tao-ly-luan-o-
viet-nam-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
13

You might also like