You are on page 1of 18

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.

Là một sinh viên, em cần làm gì để


học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đà Nẵng, ngày 14 tháng 07 năm 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU: (Giới thiệu về Hồ Chí Minh).....................................................1
CHƯƠNG 1: Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh
1. Vai trò, vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh..................................................3
2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.......................................4
CHƯƠNG 2: Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay ...................................7
2. Phương pháp định hướng của sinh viên trong học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh .................................................................................................................. 10
KẾT LUẬN....................................................................................................... 15

1. LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 2/9/1969) là lãnh tụ vĩ đại được nhân dân Việt Nam và
cả thế giới luôn nhắc đến với một niềm kính trọng sâu xa. Bác là nhà lãnh đạo
được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của Bác được xây ở Hà Nội, nhiều
tượng dài củạ Bác được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của Bác được
nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ. Bác là một nhà cách mạng, một
trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Bác là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng
trường Ba Đình, Hà Nội, là Chủ tịch nước trong thời gian 1945-1969… Bác còn là
một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng
Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Anh,… Tuổi trẻ của Bác Hồ vô cùng vất vả:
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế và học ở trường tiểu học Pháp –
Việt, Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng
bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung
Kỳ. Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Bác dạy chữ Hán và
chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp Ba và Tư tại trường Dục Thanh của hội Liên
Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, Bác nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Bác quyết
định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài đi
tìm con đường cứu nước. Sau đó Bác đã đi và hoạt động cách mạng ở nhiều nước
trên thế giới, học hỏi được nhiều điều từ những đất nước giàu có cho đến những
đất nước thuộc địa. Năm 1911, từ bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường
sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô Latouche – Tréville, với mong
muôn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa
Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), Bác quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết,
đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, Bác trở lại nước Pháp, sông và
hoạt động ở đây cho đến năm 1923. Năm 1919, thay mặt Hội những người An
Nam yêu nước, Bác bấy giờ là Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình
Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo
các nước Đồng Minh áp dụng lí tưởng của Tổng thông Wilson cho các lãnh thổ
thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Bác tham dự
Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30/12/1920) với tư
cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, Bác trở thành một trong
những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm
1922, Bác cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng
khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ
nghĩa đê quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp bằng tiếng Pháp ( de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc 2 viết
dược xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập
đến phong trào đâu tranh của các dân tộc thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc
đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây Bác đã dự Hội nghị
lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ 12 đến 15/10/1923), Bác được bầu vào Ban
chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tê Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế
Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), Bác được cử làm
ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam. Cuối năm 1924, Nguyễn
Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lây tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong
phái đoàn cô vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân
Quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn. Năm 1925, Bác thành lập
tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội Quảng Châu (Trung Quốc)
để truyền bá chủ nghĩa MarxLenin. Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long thuộc Hương
Cảng, Bác thông nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam
(sau đó đổi tên là “Đảng Cộng sản Đông Dương”, rồi đổi thành “Đảng Lao Động
Việt Nam” và nay là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Bác trở về Việt Nam vào ngày
28/1/1941, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu.
Tháng 5/1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng
và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), Bác là chủ
tọa. Ngày 13/8/1942, Bác lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc để tranh thủ sự
ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Bác bị chính quyền địa phương của Trung Hoa
Dân quốc bắt ngày 29/8, bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Bác viết
Nhật kí trong tù trong thời gian này (từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943). Cuối
tháng 9/1944, Bác trở về Việt Nam. Ngày 16/8/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập
Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra úy ban dân tộc giải phóng tức
Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập vào ngày 2/9/1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng
tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua
Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã chỉ
định Hồ Chí Minh đứng ra thành lập và làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng
chiến. Bác bắt đầu viết Di chúc vào dịp sinh nhật năm 1965, và sửa lại trong những
dịp sinh nhật tiếp theo. Trong Di chúc, Bác có viết: “Điều mong muốn cuối cùng
của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thông nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thê giới”. Bác qua đời vào ngày 2/9/1969 hưởng thọ 79 tuổi.
CHƯƠNG 1: Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Vai trò và vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng
của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối.
Như Người vẫn thường nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự
phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ
nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường
xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta. Có
phải như vậy là Hồ Chí Minh theo thuyết chủ nghĩa xã hội đạo đức? Hoàn toàn
không phải như vậy. Người không bao giờ đặt hy vọng vào "lòng tốt" của bọn thực
dân phong kiến cũng như của các giai cấp bóc lột để kêu gọi lòng thương cảm và
sự ban ơn. Người cũng không bao giờ nghĩ rằng chỉ cần mọi người tu nhân tích
đức là đất nước sẽ độc lập, dân tộc sẽ được tự do hạnh phúc. Phải bằng cuộc đấu
tranh kiên cường bất khuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mới đi tới được mục tiêu đó. Đạo
đức là một vũ khí sắc bén phục vụ cho cuộc đấu tranh đó, đúng như quan điểm của
Lênin: "Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của
bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai
cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản". Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức là văn minh", thì mới hoàn thành
được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin:
Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và
của thời đại. Nếu xét đến cùng thì văn minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự
hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa Mác - Lênin, những tri thức hiện đại của nhân
loại, thực tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Còn đạo đức
chính là những phẩm chất đòi hỏi con người cần phải có để tham gia vào cuộc đấu
tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến được nhiều nhất cho
cuộc đấu tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi vì muốn làm cách
mạng thì trước hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy lại
phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày với dân, với nước, với đồng
chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ
được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa được chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống.
Con đường Hồ Chí 4 Minh đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là một minh chứng rất rõ về điều đó. Vấn đề đạo
đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối
với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong
mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối
với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở
rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành
Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức Hiện nay,
trong xã hội đang tồn tại tình trạng một bộ phận dân cư xem nhẹ các giá trị đạo
đức, chạy theo tiền tài, địa vị, bất chấp đạo lý, coi thường pháp luật và tình nghĩa
con người. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là trong một thời gian
dài, đứng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, chúng ta đã tập trung nhiều
cho phát triển kinh tế, trong khi đó nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội. Một xã hội Việt Nam phát triển trong tương lai chắc
chắn không thể để tình trạng đó tiếp tục diễn ra. Với ý nghĩa là nền tảng tư tưởng
cho việc xây dựng nền đạo đức mới, thực hành theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
thực sự là giải pháp quan trọng nhất, giúp xác lập lại vị trí, vai trò của đạo đức -
yếu tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm đạo đức là gốc của mỗi người, trước hết là các cán bộ, đảng viên, khẳng định
đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, cũng giống như gốc của
cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng
của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là phục vụ Tổ quốc, phụng
sự nhân dân. Người chỉ rõ: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng
và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm
đạo đức tạo ra sức mạnh, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc,
phẩm chất, uy tín của mỗi con người. Người cho rằng, mọi việc thành công hay
thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không và
“Tuy năng lực và công việc của mỗi 5 người khác nhau, người làm việc to, người
làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”. Đạo đức cách
mạng giúp người cách mạng đứng vững trong mọi hoàn cảnh, dù khó khăn hay
thuận lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, hay lùi bước, khi gặp thuận lợi và
thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không
quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Đó là đạo đức cách mạng, là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở
những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con người Việt Nam hiện tại và tương lai
Mỗi một mô hình xã hội mới đòi hỏi phải có những con người mới cụ thể, với
những phẩm chất năng lực cụ thể để xây dựng và phát triển xã hội đó. Sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện tại và tương lai chắc chắn phải trải qua
một quá trình khó khăn, gian khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó
là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Riêng về
khía cạnh đạo đức, đó trước hết là những người có tinh thần yêu nước, thương dân,
đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Đó là những người luôn
luôn gắn bó với nhân dân, yêu thương, kính trọng nhân dân và do đó được nhân
dân yêu mến, quý trọng, được dân tin, dân phục, dân yêu. Đó phải là những con
người có ý thức trách nhiệm với công việc, có tinh thần lao động siêng năng, cần
cù, lao động với năng suất và chất lượng cao, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Đó
đồng thời phải là những con người có tinh thần tiết kiệm, biết tiết kiệm sức người,
sức của, tiết kiệm thời gian cho đất nước và nhân dân. Sự phát triển đất nước hiện
nay đòi hỏi những con người trong xã hội, trước hết là cán bộ nắm giữ các cương
vị trong hệ thống chính trị, phải là những người không để các căn bệnh tiêu cực,
như quan liêu, tham nhũng... xâm nhập, khống chế, đồng thời dám đấu tranh chống
các căn bệnh, tiêu cực đó. Đó là những chuẩn mực đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng chỉ ra và quan trọng hơn là nêu gương thực hành trong thực tiễn
đời sống. Sinh thời, Người đã làm cuộc cách mạng về đạo đức khi sử dụng những
khái niệm trong Nho giáo truyền thống nhưng với những nội hàm mới. Trước hết
là phẩm chất “Trung với nước”, “Hiếu với dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ,
người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trung
với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung
thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách
mạng, như một lẽ sống tự nhiên, một nhu cầu luôn luôn thường trực và phải được
đo bằng kết quả cụ thể, bằng hiệu suất công việc thực tế. Hiếu với dân là nội dung
rất cơ bản trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có hiếu với cha mẹ
mình và rộng ra là tình họ hàng, rộng nữa là tình người đối với cộng đồng, với dân
tộc. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ gần dân, 6 kính trọng dân, học tập dân, dựa vào
dân và lấy dân làm gốc, thương dân, tin dân, hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư. Người chỉ ra rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời sống
mới”, nền tảng của thi đua ái quốc; là chuẩn mực đạo đức cần phải có của con
người, là tiêu chí xác định “chất người” của mỗi người, bởi “Thiếu một đức, thì
không thành người”. Cần, kiệm, liêm, chính gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung
cho nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không thể thiếu một yếu tố nào. Thực
hiện được cần, kiệm, liêm, chính, thì sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư, biết đặt lợi ích
chung lên trên lợi ích riêng, lo lắng trước mọi người, hưởng thụ sau mọi người.
Người nhắc nhở: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc”, “khi
làm bất kỳ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến
toàn dân đã. Ta có câu nói: “Có khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”; làm việc gì mình cũng nghĩ đến lợi ích chung trước và lợi ích
riêng sau”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm, chú trọng đến các chuẩn mực đạo
đức khác là tình thương yêu con người và tinh thần quốc tế trong sáng trên lập
trường của giai cấp công nhân. Đó không dừng lại ở lòng trắc ẩn, mà còn được
nâng lên ở tầm cao, gắn tình yêu thương với khát vọng giải phóng con người
không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, tôn giáo khỏi những áp bức, bất công.
Tình yêu thương con người ở Người vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, dân tộc,
đến với nhân loại tiến bộ và thu hút sự ngưỡng mộ, cảm phục của nhân loại tiến bộ.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại Trên thực tế, trong xã hội Việt
Nam hiện nay, tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức xã hội trong một bộ
phận dân cư không chỉ do thiếu sự nhận thức đúng đắn và thống nhất về vị trí, vai
trò của đạo đức trong đời sống xã hội, về các chuẩn mực đạo đức xã hội, mà còn có
một phần nguyên nhân do chưa có sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đúng đắn và
thống nhất trên cả phương diện lý thuyết và thực hành. Nhiều lý thuyết đạo đức,
bài học đạo đức đã được tuyên truyền, nhưng Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong những năm trước đây mới chỉ đạt được
phần nào kết quả, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn và yêu cầu, nguyện vọng của cán
bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Để hình thành được các chuẩn mực đạo
đức, không phải là điều một sớm, một chiều, dễ dàng có được, mà phải trải qua
một quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Đó chính là quá trình trên cơ sở đã
nhận thức thấu đáo vị trí, vai trò của đạo đức, sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, mỗi người trở thành chủ thể của quá trình tự giáo dục đạo đức, tự tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức theo những chuẩn mực chung của xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người, Người đã nêu gương thực hành
những nguyên tắc đó trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn 7 hóa mới, nền đạo
đức mới của Việt Nam. Đó là các nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu gương
đạo đức, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người từng sớm khẳng định từ giữa
những năm 20 của thế kỷ XX rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều
giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền”. Người cũng thẳng thắn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được
họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Một nền
đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một nền tảng rộng lớn, vững chắc, khi
những chuẩn mực đạo đức mới trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng.
Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để xây dựng một nền
đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với
chống, chống nhằm mục đích xây; phải bằng nhiều biện pháp kết hợp cả giáo dục,
phê phán và trừng trị bằng pháp luật; phải kết hợp giữa quét sạch chủ nghĩa cá
nhân và nâng cao đạo đức cách mạng... Đồng thời, Người cũng nhắc nhở hết sức
sâu sắc: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến,
không phải là điểm đến, chỉ cần phấn đấu vươn tới một lần là xong xuôi, mà là quá
trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời. Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên
cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời
đã gần nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người vẫn có giá trị
thời sự đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hôm nay và mai sau, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là nền tảng tinh thần cho xây
dựng nền đạo đức mới ở trong hiện tại và tương lai ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2: Sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay
Biểu hiện tích cực Thanh niên, sinh viên hiện nay đã trở nên năng động,
sáng tạo hơn, dễ dàng tiếp thu cái mới và hội nhập với toàn cầu . Thanh
niên, sinh viên không chỉ chờ đợi cơ hội đến , họ còn tự mình tạo ra cơ hội.
Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng sáng chế, phát minh; và không ít
trong số những phát minh ấy được áp dụng , được viến thành những sản
phẩm hữu ích với thực tiễn. Với thế mạnh được đào tạo bài bản, sinh viên có
mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học
tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng kiến
thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, họ tự mình nghiên cứu, lấy thông
tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có 8 khả năng thích nghi
cao với mọi môi trường sống và học tập. Sinh viên, thanh niên Việt Nam
không chỉ dễ dàng lĩnh hội tri thức nhân loại, mà còn tiếp thu mọi linh vực
như văn hóa, nghệ thuật.....Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở
việc tích cực tham gia các hoạt động như y tế, từ thiện...Bằng sự năng động,
sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự
thay đổi và phát triển xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu
điểm nổi bật của thanh niên, sinh viên Việt Nam. Biểu hiện tích cực thứ hai
trong lối sống thanh niên, sinh viên hiện nay là sự táo bạo, dám nghĩ, dám
làm, dám chiu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ
mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Dù thành công hay thất bại song họ
không hề chùn bước. Từ mỗi thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh
nghiệm hơn. Đó chính là nguồn gốc của làn song Khởi Nghiệp Start-Up
đang nổi lên rất mạnh mẽ gần đây. Thứ ba là phong cách sống độc lập. Khác
với thế hệ sinh viên trước, sống phụ thuộc gia đình, mọi việc đều ngoan
ngoãn theo lời cha mẹ, ngày nay sinh viên, thanh niên độc lập hơn trong suy
nghĩ, tự quyết định tương lai mình mà không muốn bất cứ sự can thiệp nào.
Thứ tư là phong cách muốn tự khẳng định mình. Dù trong bất cứ lĩnh vực
nào sinh viên cũng tự tin vào bản thân. Thanh niên muốn chứng minh cho xã
hội thấy sức mạnh và vai trò của mình trong công cuộc xây dựng phát triển
đất nước. Không những vậy, sinh viên thanh niên hiện nay còn tiếp tục duy
trì phát triển truyền thống siêng năng, cần cù, chăm chỉ, hiếu học của thế hệ
trước. Những biểu hiện tiêu cực Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực,
những biểu hiện tiêu cực trong lối sống thanh niên, sinh viên Việt Nam hiện
nay cũng không phải là ít. Vấn đề tư tưởng: Đây là nét tiêu cực lớn nhất,
đáng báo động nhất trong giới thanh niên, sinh viên hiện nay. Trong thời đại
trước, khi đất nước ta còn trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ tổ quốc hay giai
đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, không khó để thấy lý tưởng Xã hội chủ
nghĩa luôn sục sôi trong mỗi thanh niên Việt Nam, thì ngày nay để tìm được
một thanh niên có lý tưởng sống rõ ràng không phải dễ. Sống và học tập
không có mục đích gì, hay thiếu niềm tin, mục đích là một điểm yếu của giới
trẻ ngày nay. Ngoài ra, một bộ phận thanh niên, sinh viên còn có cái nhìn
lệch lạc, thiếu chính xác về thế giới quan Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
và Chủ nghĩa xã hội. Dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều người đã
không còn tin vào chế độ Xã hội chủ nghĩa, chỉ nhìn thấy những điểm không
tốt của chế độ ta bằng cái nhìn thiển cận, lêch lạc từ một phía. Điều này có
thể gây ảnh hưởng rất lớn đến tương lai đất nước, vì nếu những chủ nhân
tương lai của đất nước mà không tin vào những gì cha ông ta đã xây dựng
thì làm sao lèo lái đất nước một cách vững vàng. Hiện tượng sùng bái vật
chất: Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá trị cuộc sống. Gốc rễ
của việc sùng bái vật chất là sự thiếu tự tin. Khi không chấp nhận mình như
vốn có, họ sẽ cố đeo những cái nhãn để tự thỏa mãn bản thân. Đó là hiện
tượng tôi thấy phổ biến ở những quốc gia đang chuyển mình như Việt Nam -
điều không quá mãnh liệt ở các nước phương Tây phát triển, nơi vẫn được
coi là đỉnh cao của tôn thờ vật chất. Chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân
có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều người chỉ quan tâm tới
những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên đi lợi ích 9 tập thể thậm chí chà
đạp lên lợi ích của người khác. Vì lợi ích cá nhân một số thanh niên còn bất
chấp cả : pháp luật, gia đình, bạn bè,..Một số khác chỉ biết đến mình mà
không quan tâm đến ai, dẫn đến lối sống vô cảm. Thái độ bi quan: Trong khi
phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì tương lai, thì lại có
những người chỉ vì nhiều chuyện không vừa ý mà không tha thiết gì cuộc
sống. Đôi khi chỉ vì thất tình hay không đạt được điều mình muốn mà khép
chặt cánh cửa tâm hồn không còn quan tâm mọi chuyện xung quanh. Thói
lười nhác, ỷ lại: So với học sinh bây giờ, thế hệ trước, chỉ cần như 7x, 8x,
những thế hệ cận kề nhất với giới trẻ bây giờ vất vả hơn nhiều, gian khổ hơn
nhiều. Có thể do bối cảnh của đất nước sau khi trải qua chiến tranh với
những kẻ thù đều là đế quốc như Pháp, Mỹ, do cơ chế bao cấp của nền kinh
tế thời bấy giờ buộc người dân sống trong thời đại đó phải vật lộn như vậy,
trong đó có thế hệ học sinh, sinh viên. Nhưng mặt khác, chính hoàn cảnh ấy
làm cho người ta phải chăm chỉ, phải cố gắng vươn lên với chí tiến thủ gần
như tuyệt đối để thoát khỏi cảnh đói nghèo, thoát khỏi áp bức từ chính tâm
lý của mình. Kinh tế thị trường cùng với sự phát triển công nghệ, bên cạnh
tạo điều kiện cho con người có cuộc sống, việc làm tốt hơn thì lại dễ khiến
người ta trở nên nhác việc hơn do nhiều cám dỗ xung quanh dẫn dụ. Thực tế
chỉ ra thanh niên (15-24 tuổi) dù chỉ chiếm khoảng 20% dân số nhưng lại
chiếm tới gần một nửa số lượng người thất nghiệp hiện nay. Điều đó là do
một bộ phận sinh viên, thanh niên lười biếng, ỷ lại, không chịu khó tìm tòi
và học cách vượt qua khó khăn. Vậy sinh viên Việt Nam hiện nay cần xem
trọng những vấn đề đạo đức nào? - Coi trọng hoạt động giáo dục đạo đức nói
chung và đạo đức nghề nghiệp trong các trường đại học và cao đẳng Các
trường đại học và cao đẳng là những cơ sở đào tạo nhằm cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước. Mục tiêu đào tạo của các trường là hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất năng lực của công dân; đào tạo lớp người lao động có nghề,
năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức và ý chí vươn lên
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trong
hầu hết các trường đại học và cao đẳng không có bộ môn đạo đức học. Sự
thiếu sót này làm hạn chế mục tiêu đào tạo đã được xác định. Các bạn sinh
viên nên xem trọng các hoạt động giáo dục đạo đức - Coi trọng sự tu dưỡng
của bản thân Đạo đức mới chỉ được hình thành trên cơ sở sự tự giác tu
dưỡng của mỗi sinh viên. Nó đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông
qua hoạt động thực tiễn, học tập, trong các mối quan hệ của mình, không tự
lừa dối, phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện cũng như cái chưa tốt, cái xấu,
cái ác của mình để khắc phục. - Phải xây dựng thái độ chính trị đúng Thái độ
chính trị là tình cảm chính trị của mỗi người trước các vấn đề chính trị, thời
sự của đất nước. Tình cảm chính trị là sản phẩm tổng hợp của tình 10 cảm
đạo đức, tình cảm trí tuệ và tình cảm thẩm mỹ, trong đó, tình cảm trí tuệ là
cơ sở, nền tảng. Nội dung của tình cảm chính trị thể hiện rất phong phú, đó
là lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học, lòng
nhân ái, ham học hỏi, yêu cái đẹp, ghét sự bất công xã hội. Các bạn sinh viên
tham gia công tác xã hội - Phát huy vai trò tự học tập, rèn luyện đạo đức, lối
sống của học sinh, sinh viên - Coi trọng sự tu dưỡng của bản thân Đạo đức
mới chỉ được hình thành trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng của mỗi sinh viên.
Nó đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn,
học tập, trong các mối quan hệ của mình, không tự lừa dối, phải thấy rõ cái
hay, cái tốt, cái thiện cũng như cái chưa tốt, cái xấu, cái ác của mình để khắc
phục. - Phải xây dựng thái độ chính trị đúng Thái độ chính trị là tình cảm
chính trị của mỗi người trước các vấn đề chính trị, thời sự của đất nước.
Tình cảm chính trị là sản phẩm tổng hợp của tình cảm đạo đức, tình cảm trí
tuệ và tình cảm thẩm mỹ, trong đó, tình cảm trí tuệ là cơ sở, nền tảng. Nội
dung của tình cảm chính trị thể hiện rất phong phú, đó là lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học, lòng nhân ái, ham học hỏi,
yêu cái đẹp, ghét sự bất công xã hội, Các bạn sinh viên tham gia công tác xã
hội - Phát huy vai trò tự học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống của học sinh,
sinh viên Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh, sinh viên phấn đấu,
rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả,
định hướng phấn đấu cho học sinh, sinh viên. Quan tâm đáp ứng những nhu
cầu chính đáng của học sinh, sinh viên về vật chất, tinh thần; giao nhiệm vụ
phù hợp với sở trường, năng khiếu đặc điểm tâm, sinh lý của họ sẽ tạo điều
kiện tốt để thanh niên rèn luyện đạo đức, lối sống. Sinh viên cần nâng cao
tinh thần tự học của mình Mỗi học sinh, sinh viên phải xác định rõ trách
nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có hoài bão, khát khao
vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự
kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện
của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Học sinh, sinh
viên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào
các giá trị chân thiện mỹ, vượt qua mọi khó khăn gian khổ như Bác Hồ đã
dạy: gian nan rèn luyện mới thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã
từng nói: Có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có
tài thì làm gì cũng khó, đạo đức là một trong những vấn đề cốt yếu tạo nên
một người hoàn thiện.
2. Phương pháp định hướng của sinh viên trong học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh viên là lực lượng chủ yếu ở các học viện, trường đại học, cao đẳng.
Tuổi đời của họ còn trẻ, luôn tiên phong trong mọi hoạt động. Họ là những
con người đang phát triển mạnh về thể chất và tinh thần, giàu ước mơ hoài
bão, luôn 11 có mong muốn vươn lên nắm bắt tri thức của nhân loại để tự
hoàn thiện mình về mọi mặt. Để phát huy hơn nữa vai trò trách nhiệm cũng
như khắc phục những hạn chế yêu kém của sinh viên Việt Nam hiện nay,
sinh viên chúng ta cần định hướng đến tập trung làm tốt việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung trên các nội dung cụ thể
sau: Thứ nhất, học tập đức Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh
cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Trung hiếu là những khái niệm
đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc Việt nam và Phương
Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó những nội dung mới
trước kia là Trung quân, là trung thành với vua, trung thành với vua cũng có
nghĩa là trung thành với nước vì vua với nước là một, vua là nước, nước là
vua còn Hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo
với cha mẹ, tư tưởng trung với nước hiéu với dân của Hồ Chí Minh không
những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà
còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó trung với nước là trung
thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc. Nước ở đây là nước
của dân còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân , bao nhiêu lợi ích đều vì dân . Tóm lại
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân so với trước Đảng và chính phủ là
“đầy tớ của nhân dân” chứ không phải ông quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ
nhân dân, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn . Trung với
nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc tự do của tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt,
qua kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi
hành động vừa là định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về
sau. Thứ hai, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng,
giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Đây là phẩm chất đạo đức gắm liền với
hoạt động hàng ngày của mọi người, vì vậy Hồ Chí Minh đã đề cập đến
phẩm chất này nhiều nhất , thường xuyên nhất từ “Đường kách mệnh ”cho
đến bản Di chúc cuối cùng . Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm Cần
kiệm liêm chính chí công vô tư của đạo đức Phương Đông và đạo đức Việt
Nam.Người đã giữ lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ, lọc bỏ những gì
không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới , do sự nghiệp giải
phóng dân tộc , thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Mỗi chữ cần kiệm liêm chính chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích
rất rõ dàng cụ thể rất dễ hiểu đối với mọi ngườiM, theo Hồ Chí Minh thì :
Cần: Tức là laođộng cần cù, siêng năng lao động, có kế hoạch , sáng tạo , có
năng xuất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh tự giác không lười
biếng , không ỉ lại không dựa dẫm phải thấy rõ “lao độnglà nghĩa vụ thiêng
liêng là nguồn hạnh phúc của chúng ta”.Ngày nay trong sự nghiệp công
nghiệp ho áhiện đại hoá cũng như sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng
chính quy tinh nhuệ ttừng bước hiện đại yêu cầu đối với cán bộ đảng viên
làphải có ý thức 12 vươn lên, lao động sáng tạo cần cù, dũng cảm tổ chức
sản xuất giỏi đạt năng xuất chất lượng hiệu quả cao có khả năng cạnh tranh
cao. Kiệm: Tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ , tiết kiệm tiền
của dân , của nước , của bản thân mình , phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ ,
nhiều cái nhỏ công lại thành cái to “không xa xỉ , không hoang phí , không
bừa bãi”không phô trương hình thức, không chè chén lu bù.Trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và sự nghiệp xây dựng quân đội cách
mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại , đối với cán bộ đảng viên
không được xa hoa , phô trương , hình thức không làm những công trình
không thiết thực đối với đời sống nhân dân vàtập thể đơn vị không xây dựng
những công trình kém chất lượng gây lãng phí thời gian và tiền của và sức
lực của nhân dân quý từng đồng tiền hạt gạo của dân, quý trọng giữ gìn và
sử dụng có hiệu quả tài nguyên của đất nước.Luôn luôn tìm mọi cách lãnh
đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị đạt hiệu quả cao nhất
trong việc sử dụng công sức bộ đội , vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, thời
gian…trong mọi hoạt động của đơn vị hợp lý nhất , có lợi nhất.Không để
lãng phí, mất mát gây tổn thất cho quân đội Liêm: Tức là luôn luôn tôn trọng
giữ gìn của công và của dân, khỗngâm phạm một đồng xu hạt gạo của nhà
nước của dân, phải trong sạch không tham lam , không tham địa vị , không
tham tiền tài , không tham sung xướng, không ham ngưới tâng bốc mình , vì
vậy mà quang minh chính đại , không bao giờ hủ hoá “chỉ có một tham
muốn là ham học ham làm , ham tiến bộ”.Người đã chỉ ra những hành vi trái
với chữ liêm như “cậy quyền cậy thế mà đục khoét dân ăn của đút hoặc trộm
của công làm của tư” “dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình
là đạo vị (đạo là trộm), gặp việc phải làm mà sợ khó nhọc nguy hiểm không
dám đánh là thámsống.Liêm là không tham ô hối lộ , bòn rút của công ăn
bớt của dân , phải sống trong sạch lành mạnh quyết tâm đấu tranh chống
tham nhũng lãng phí quan liêu và mọi tệ nạn mọi sai trái khác. Chính: nghĩa
là không tà, thẳng thắn đứng đắn đối với mình không tự cao tự đại, luôn chịu
khó học tập càu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm phát triển tiếp thu điều hay, sửa
chữa điều dở của bản thân mình .Đối với người không nịnh hót, người trên ,
không xem khinh người dưới , luôn giữ thái độ chân chính khiêm tốn , đoàn
kết, thật thà, không dối trá lừa lọc.Đối với việc để công việc lên trên lên
trước việc t ư, việc nhà.Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho
đến nơi , đến chốn, không sợ khókhăn, nguy hiểm việc thiện thì dù nhỏ mấy
cũng làm cho được, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh mỗi ngày cố làm một
việc lợi cho dân cho nước.Chính là quang minh chính trực, trung thực thẳng
thắn , không làm ăn gian dối, không báo cáo sai sự thật, không dối trên là
dới, không bè phái cơ hội , dám nhìn thẳng vào sự thật , công khai minh
bạch , dân chủ , biết nghiêm khắc biết khoan dung. Chí công vô tư: Người
nói “đem lòng chí công vô tư mà đối với người với việc”khi làm bất cứ việc
gì cũng đừng nghĩ đến mình trước , khi hưởng thụ thì mình nên đi sau “phải
lo trước thiên h ạ, vui sau thiên hạ”. Đối lập với chí công vô tư là dĩ công vô
tư đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống, trước mắt cán bộ , đảng
viên và các cơ quan , các đơn vị đoàn thể, cấp cao thì quyền to 13 , cấp thấp
thì quền nhỏ , dù to hay nhỏ , có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đuục
khoét, có dịp ăn của đút , có dịp “dĩ công vi tư”. Cần, kiệm , liêm, chính, chí
công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau có khi Hồ Chí Minh coi cần kiệm
như hai chân của con người phải đi đôi với nhau, cầnmà không kiệm thì
chẳng khá nào gió vào nhà trống, nước đổ vào chiếc thùng không đáy, làm
chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc “không lại hoàn không”còn kiệm mà
không cần thì sản xuất được ít không đủ dùng , không tăng thêm , không có
phát triển, có khi người coi: Cần, Kiệm, Liêm , Chính là bốn đức tính của
con người Việt Nam, thiếu một đức thì không thành người cũng như: “Trời
có bốn mùa… Đất có bốn phương… Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.” Cùng với việc thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư mỗi sinh viên phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống
lại mọi tàn dư của xã hội cũ, mọi tiêu cực và tệ nạn xã hội. Chủ nghĩa cá
nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm “do chủ nghĩa cá nhân mà
ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô hủ hóa, lãng phí xa hoa…tham danh
trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, coi khinh
quần chúng, độc đoán chuyên quyền, xa rời thực tế, xa rời quần chúng, mắc
bệnh quan liêu mệnh lệnh…” vì thế, muốn xây dựng đạo đức cách mạng ,
hoàn thành nhiệm vụ được giao “người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Đồng
thời, nêu cao tinh thần khiêm tốn, luôn biết lắng nghe, học hỏi, cầu tiến bộ,
có như vậy mới làm cho chúng ta vững vàng trước mọi thử thách, có đủ bản
lĩnh để làm chủ bản thân, tích cực tham gia bảo vệ và xây dựng thành công
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, Học đức tin tuyệt đối
vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu với con người. Với Hồ Chí
Minh, tin vào sức mạnh con người, vào sức mạnh của quần chúng nhân dân
là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng
chính là chỗ khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh
với quan điểm của các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền
bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ
Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân", thì các nhà Nho phong
kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy dân làm gốc", mặc dù
cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm của họ mới chỉ dừng
lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách", một phương tiện để
thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những bậc sĩ phu
tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt
thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân,
chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin
vào dân, vào nhân tố con người của 14 Người thống nhất với quan điểm của
Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử". Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu cũng
như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các
vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt
Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn
thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng
sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp
năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách
mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp
đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Yêu thương con
người sống có nghĩa có tình là một trong những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí
Minh. Với Bác tình yêu thương con người là không biên giới. Người lo cho
dân tộc mình, Người lo cho các dân tộc anh em, những người cùng khổ trên
thế gian này. Bác dạy rằng: Yêu thương con người là phải tôn trọng nhau,
quý trọng nhau. Bác nhắc nhở khi phê bình nhau, cần đúng lúc đúng chỗ.
Phê bình là để giúp đỡ nhau tiến bộ chứ không phải là cái cớ để sát phạt
nhau, bới móc nhau. “Trong mỗi con người đều tồn tại cái xấu và cái tốt.
Hãy làm cho cái tốt ngày càng nảy nở như hoa mùa xuân và cái xấu ngày
càng mất dần đi”. Để làm được điều ấy thì trên hết chính là tình yêu thương,
là nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực. Bác Hồ là "muôn vàn tình
thân yêu" đối với đồng chí, đồng bào. Tình thương yêu đó được mở rộng đối
với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với những người lầm lạc, ngay cả
đối với những người chống đối hay kẻ thù, Người cũng thể hiện một lòng
khoan dung, độ lượng hiếm có. Kẻ thù xâm lược đã gây nên bao tội ác man
rợ đối với nhân dân ta, nhưng khi chúng đã thất thế, đầu hàng hay bị bắt,
Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách khoan
hồng, phải làm "cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh
hơn bọn đi giết người, cướp nước". Với tinh thần đánh kẻ chạy đi không
đánh người chạy lại, Bác đã cảm hóa được những người ở bên kia chiến
tuyến, những phạm nhân trong lao tù. Năm 1946, Bác tới trại giam Hỏa Lò
để thăm hỏi, khuyên bảo những phạm nhân ở đây. Bác ân cần ngồi bên họ,
khuyên bảo họ, nghe họ phân trần, và Người đã rưng rưng nước mắt. Trong
bức thư gửi cho người Pháp, Bác nói: “Than ôi, trước lòng bác ái thì máu
Pháp hay máu Việt cũng đều là máu. Những dòng máu đó chúng tôi đều quý
như nhau”. Thứ tư, học tấm gương về ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, quyết
tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích sống. Trong
cuộc sống, mỗi người trong chúng ta ai cũng chọn cho mình một con đường
đi riêng, một mục đích riêng để đạt tới. Trên con đường ấy, chắc hẳn không
chỉ là những thảm đỏ trải đầy hoa hồng mà còn có rất nhiều chướng ngại
phải vượt qua. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng muốn chọn con đường bằng phẳng,
ít chông gai nhất! Thế nhưng, đã có một con người Việt Nam vĩ đại đã chọn
con đường khó khăn, gian khổ nhất để tìm ra con đường giải phóng dân tộc.
Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Cách mạng
Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Cả
cuộc đời người đã hi sinh cho dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Người quan tâm
sâu sắc tới giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cho thanh
niên, học sinh. Người nêu cao tư tưởng đạo dức là gốc, là nền tảng của xã
hội, là nền tảng của con người, cũng giống như gốc của ngọn cây, ngọn
nguồn của sông suối. Người đã viết “Cũng như sông, có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.. Để
cuộc việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với đội
ngũ sinh viên có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố:
sự giáo dục và việc tự bồi dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của
mọi người trong xã hội, trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy,
cô giáo, các cán bộ quản lí giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và
pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn
luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. 16 Tài liệu tham khảo:
Nguồn: https://taplamvan.edu.vn/gioi-thieu-ve-cuoc-doi-va-su-nghiep-vi-
daicua-ho-chi-minh/#ixzz7Z1I4tDJW Nguồn:
https://hochiminh.vn/book/tac-pham-ve-ho-chi-minh/tac-pham-trongnuoc/
phan-i-tutuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-334 Nguồn:
https://yenbai.gov.vn/hoc-tap-lam-theo-loibac/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-
tintuc.aspx?
ItemID=5&l=TUTUONGDAODUCHOCHIM&fbclid=IwAR2lfxijcys
yMavjru73q6fCB_mVLs9N8zo7waTKMDUjVxWLV-_D7uA1-ls Nguồn:
https://thattruyen.com/em-co-nhan-dinh-gi-ve-ly-tuong-dao-duc-loisong-
cua-thanh-nien-viet-nam-hiennay?
fbclid=IwAR1ou81CUGG5v3RYTOOkOX4x7HcZXq8J7ePQ25iBmAUw
M3zF9sljgLm8-_k Nguồn: https://kllvobi.blogspot.com/2017/01/tieu-luan-
sinh-vien-hoc-tap-valam-theo.html Bảng phân công nhiệm vụ giữa các thành
viên LỜI MỞ ĐẦU Nguyễn Thanh Hằng Chương 1 1. Vai trò, vị trí của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Võ Thị Thu Giang Trần Thị Thu Thúy Chương
1 2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Văn Công Tuấn
Anh Chương 2 1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên hiện nay
Trương Công Quý Lê Tấn Lực Chương 2 2. Phương pháp, định hướng của
sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Hằng
Trần Huỳnh Mỹ Hạnh Trần Hồ Nhật Khoa KẾT LUẬN Nguyễn Thanh
Hằng Tổng hợp nội dung và chỉnh sửa Nguyễn Thanh Hằng 17

You might also like