You are on page 1of 16

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


Sở Giáo dục và Đào tạo Trung học phổ thông Lê Quý Đôn


TIỂU LUẬN BÀI THƠ “TỪ ẤY”

GVHD : Ths Cô Tô Lê Ngọc Linh

LỚP : 11D4

HỌC SINH : DIỆP LÊ ANH CHI

VŨ NGUYỄN BẠCH SƯƠNG

NGUYỄN HỮU SAO MAI

NGUYỄN ĐỨC HẢI


MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.................................................................3
B. Nội dung......................................................................3
I. Tác giả.......................................................................3
1. Cuộc đời.................................................................3
2. Sự nghiệp văn học.................................................4
3. Tác phẩm chính....................................................6
4. Phong cách văn.....................................................7
II. Giới thiệu khái quát bài thơ “Chiều Tối”............8
1. Hoàn cảnh sáng tác...............................................8
2. Bài thơ “Chiều tối”...............................................8
3. Nhan đề..................................................................9
4. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.................9
III. Khổ thơ đặc sắc...................................................10
1. Giải thích khái niệm...........................................10
1.1. Yêu thiên nhiên, con người.............................10
1.2. Sự chuyển biến tâm trạng...............................10
2. Tâm hồn yêu thiên nhiên, con người và sự
chuyển biến trong tâm trạng Hồ Chí Minh.................11
2.1. Tâm hồn yêu thiên nhiên, con người sâu sắc 11
2.2. Sự chuyển biến tâm trạng..............................13
IV. Liên hệ - So sánh.................................................14
V. Nhận định của nhà phê bình................................15
C. Kết luận.....................................................................15
D. Nguồn tham khảo.....................................................16
A. Lời mở đầu
Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong
tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do
cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt
giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy
nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc
quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ "Chiều tối" nằm trong
tập thơ "Nhật kí trong tù" đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài
thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn
chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê
hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Chiều tối" là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù.
Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh "trên
đường"chuyển lao ("Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết
ngày"). Mới đến nhà lao Thiên Bảo) và bài này cũng nằm trong mạch các bài
thơ "Đi đường"ấy. "Chiều tối" (Mộ) là bài thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong "Nhật
ký trong tù". Bài thơ số 32 là bài "Đêm ngủ ở Long Tuyền". Vậy, bài "Chiều
tối" ghi lại cảnh xóm núi lúc ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long
Tuyền vào tháng 10/1942. Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán
là sự thống nhất trong đa dạng của tập "Nhật kí trong tù".Đó chính là sự vận
động của hình tượng thơ, trong thơ Bác bao giờ cũng từ bóng tối hướng ra ánh
sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này cũng được thể
hiện rõ trong bài thơ "Chiều tối ".

B. Nội dung
I. Tác giả
1. Cuộc đời
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc)
sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù,
xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy
tình thương yêu của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh
Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời,
Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học
chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906,
Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp-Việt, sau
học trường Quốc học Huế. Tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình
Định, tháng 8-1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục
Thanh. Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
Tháng 6/1911, người bắt đầu lên tàu ra nước ngoài với mục tiêu ra đi tìm
đường cứu nước. Người từng đặt chân đến nhiều quốc gia và châu lục trên thế
giới như châu Âu, châu Phi, châu Á và châu Mỹ.
Năm 1919, Hồ Chí Minh ra nhập Đảng Xã hội Pháp, hoạt động trong
phong trào công nhân tại Pháp.
Tháng 6/1919, người thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại
quốc gia này, gửi bản yêu sách của Nhân dân An Nam đến hội nghị Versailles.
Tháng 12/1920, người bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc Tế Cộng
Sản, đồng thời tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Năm 1921, người tham gia vào quá trình thành lập Hội Liên hiệp các dân
tộc thuộc địa tại Pháp. Người viết nhiều bài đăng trên các trang báo, tiêu biểu
như “Người cùng khổ” hay “Bản án chế độ thực dân Pháp.
Tháng 6/1923, người đến Liên Xô và bắt đầu giai đoạn hoạt động cách
mạng tại quốc gia này theo chủ nghĩa Mác Lênin.
Tháng 1-0/1923, người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân tại
Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân.
Năm 1925, tại Quảng Châu, người đã tham gia thành lập nên Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông đồng thời sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên.
Ngày 3/2/1930, trước sự chia rẽ của các phe phái, người đã triệu tập hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước tại Cửu Long (Hồng Kông), từ
đó Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Trong giai đoạn từ 1930 đến 1940, người vẫn duy trì tham gia các hoạt
động của Quốc tế Cộng sản tại nước ngoài và theo dõi phong trào cộng sản
trong nước, đồng thời đưa ra những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung
ương Đảng ta.
2. Sự nghiệp văn học
Sự nghiệp sáng tác văn học của Bác in đậm dấu ấn ở 3 thể loại: Văn chính
luận, truyện và kí, thơ ca.
Ở thể loại văn chính luận, Người dùng lối tư duy sắc sảo, giàu trí tuệ, lập
luận sắc bén, giàu chất luận chiến, dẫn chứng xác thực và tính thuyết phục. Các
tác phẩm ở thể loại này được Bác viết với mục đích chính trị, thể hiện những
nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử. Tiêu biểu có thể kể đến
như “Bản án chế độ thực dân Pháp” viết từ năm 1921 đến 1925 bằng tiếng Pháp,
có 12 chương. Đây là tác phẩm chính luận sắc sảo nói lên nỗi đau khổ của người
dân bản xứ và tố cáo trực diện chế độ thực dân Pháp, thức tỉnh, kêu gọi những
người nô lệ đứng lên chống lại ách áp bức bóc lột. Bản án chế độ thực dân Pháp
là một tác phẩm có phần luận bàn lý lẽ, có chứng cứ ở sách vở và cuộc đời, có
phần kết tội đanh thép. Tiếp đó là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, đây là một
văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao phản ánh khát vọng độc lập tự do và
cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc ta và đã giành chiến thắng. Tác
phẩm tuyên bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân Việt Nam
và cả thế giới, được viết với cảm hứng phấn chấn, giàu cảm xúc, cấu trúc chặt
chẽ, lý lẽ sắc bén. Ngoài ra là một số tác phẩm khác như: Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến (1946); Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966); Bản Di chúc
(1965-1969).
Ở thể loại truyện và kí, các tác phẩm của Bác Hồ đem lại cho người đọc
những rung cảm sâu xa và nhận thức lớn lao với một tinh thần nhân đạo chủ
nghĩa. Một số tác phẩm nổi bật như: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Chuyện
con rùa, Những con người biết mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay là
Varen và Phan Bội Châu. Hay Nhật ký chìm tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện,
Giấc ngủ 10 năm… Tất cả các tác phẩm này nhằm vạch trần bộ mặt tàn ác, xảo
trá, bịp bợm của chính quyền thực dân, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tinh
thần tự hào dân tộc.
Hàm chứa chất trí tuệ sắc sảo, nội dung các tác phẩm hướng về những vấn
đề lớn của nhân sinh, của quốc gia và cách mạng với cách viết hiện đại cả về
ngôn từ, cách xây dựng nhân vật. Ngòi bút của Bác chủ động, sáng tạo, khi là lối
kể chân thực tạo không khí gần gũi, có khi lại là giọng điệu châm biếm thâm
thúy và tinh tế. Người thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng
sắc bén, mang giá trị về văn học và chính trị, đem lại cho người đọc những rung
cảm sâu xa và nhận thức lớn lao với một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa.
Ngoài văn chính luận và truyện, kí, Bác còn để lại một di sản thơ ca
phong phú. Trước hết phải kể đến là tập thơ “Nhật kí trong tù”, gồm 133 bài với
hai nội dung lớn: Tố cáo nhà tù vô nhân đạo và xã hội Trung Quốc bất công
đồng thời khắc họa bức chân dung vĩ đại của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí
Minh. Ngoài ra, Bác Hồ còn viết nhiều bài thơ với bút pháp giản dị nhằm tuyên
truyền đường lối của Đảng và động viên nhân dân hăng hái tham gia cách mạng.
Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác cũng viết
nhiều bài thơ tức cảnh, trữ tình thể hiện chất trữ tình đằm thắm và cảm hứng anh
hùng ca thời đại của bậc đại trí, đại dũng với tâm hồn lạc quan tươi sáng, phong
thái ung dung tự tại và một tấm lòng luôn canh cánh nỗi niềm lo âu cho “nỗi
nước nhà”. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Tức cảnh Pác Bó, Cảnh khuya, Đi
thuyền trên sông Đáy, Lên núi, Rằm tháng giêng, Báo tiệp, Tặng cụ Bùi Bằng
Đoàn…
Thơ ca của Bác có sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Nét cổ điển thể
hiện ở ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi, nhân vật trữ tình thường có phong thái
ung dung, đề tài thiên nhiên chấm phá, nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Nét
hiện đại thể hiện ở đề tài dân chủ gắn với chính trị, thời sự và cách mạng, chất
lãng mạn bay bổng, giọng điệu thâm trầm.
Có thể khẳng định rằng, sự nghiệp sáng tác văn thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là di sản vô giá, có những tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của mỗi
con người Việt Nam. Những tác phẩm văn học của Người cũng có sự gắn bó
mật thiết với sự nghiệp cách mạng, thể hiện tư tưởng, tâm hồn cao đẹp của một
bậc vĩ nhân. Văn thơ, dù chỉ là thể hiện phần nào phong cách, con người Bác
nhưng đối với dân tộc Việt Nam, đó lại chính là kho tàng quý giá, chứa đựng giá
trị truyền thống và hiện đại, không chỉ là kết tinh của dân tộc mà còn cả của
nhân loại.

Bản thảo tác phẩm "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến".
3. Tác phẩm chính
Tuyên ngôn độc lập
Đây là một áng văn chính luận xuất sắc, có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Bản
Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh
đã hi sinh của những con người anh hùng Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập
trung trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. “Bản tuyên
ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn
hai mươi triệu nhân dân Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn
kiện lịch sử. Nó là văn bản quan trọng bậc nhất của nước ta. Để có được Tuyên
ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chống
Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất
nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu
một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Độc lập tự do.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc
xâm lược nước ta lần thứ hai, rồi từng bước mở rộng đánh chiếm Nam Bộ, Nam
Trung Bộ. Vừa chỉ đạo quân dân miền Nam chiến đấu chống quân Pháp xâm
lược, Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
động đàm phán, nhân nhượng để tìm kiếm giải pháp hòa bình. Nhưng mọi cố
gắng của ta đều bị thực dân Pháp khước từ. Với trách nhiệm trước Tổ quốc,
trước nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 12/12/1946, Trung
ương Đảng ra Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến; ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đó là văn kiện chính trị quan
trọng, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
Bản án chế độ thực dân Pháp
Đây là tác phẩm dựa trên cơ sở một số bài viết của Người trong khoảng
thời gian từ năm 1921 đến năm 1924. Tác phẩm này được một số đồng chí của
Người xuất bản lần đầu tiên tại Thư quán lao động (Libraire du travail) ở Pari
vào năm 1925.
Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12 chương, trong đó có một số bài đã
đăng trên báo Le Paria. Nội dung của tác phẩm không chỉ tố cáo tội ác của chủ
nghĩa đế quốc Pháp đối với dân tộc Việt Nam cũng như với các thuộc địa khác
trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội mà điều quan trọng là đã nêu lên
những luận điểm cơ bản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc thể hiện tinh thần cách mạng tiến
công, tư tưởng cách mạng triệt để. Tác phẩm đã làm sáng tỏ thêm quan điểm của
Lênin về chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đó là đóng góp quý báu của Nguyễn Ái Quốc vào
quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào các thuộc địa của đế quốc Pháp
nói chung và là sự chuẩn bị về tư tưởng và chính trị cho việc thành lập một
chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
4. Phong cách văn
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống gia
đình, môi trường văn hoá, hoàn cảnh sống, hoạt động cách mạng, cá tính và
quan điểm sáng tác của Người. Phong cách của người rất đa dạng, độc đáo.
Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng
chứng thuyết phục và đa dạng về bút pháp. Giọng văn chính luận rất đa dạng:
khi ôn tồn, thấu tình, đạt lí; khi đânh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
Truyện và kí: giàu chất trí tuệ, tính hiện đại, tính chiến đấu , ngòi bút chủ
động,sáng tạo,khi là lối kể chân thực,gần gũi,khi châm biếm sắc sảo,thâm
thuý,tinh tế.
Thơ ca: phong cách đa dạng vừa cổ điển vừa hiện đại,nhiều bài cổ thi hàm
súc,uyên thâm,nhiều bài vận dụng nhiều thể thơ phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ
cách mạng.
II. Giới thiệu khái quát bài thơ “Chiều Tối”
1. Hoàn cảnh sáng tác
Tháng 8/1942, Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ
trong 13 tháng. Trong thời gian này, Bác đã sáng tác 134 bài thơ chữ Hán và sau
này được tập hợp thành tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ được dịch ra tiếng
Việt và in lần đầu vào năm 1960.
Tác phẩm “Chiều tối” là bài thứ 31 của tập thơ, được Bác lấy cảm hứng
và viết trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Trước thực cạnh một buổi chiều tối, sau khi trải qua một chuyến đi dài
đầy gian lao, vất vả, nhưng phía trước chờ đợi người chiến sĩ cách mạng là một
buổi tối khốn khổ trong gian nhà chật hẹp, có thể nói rằng nỗi đày đọa ban ngày
chưa kịp tàn, thì một trận đày đọa ban đêm lại chuẩn bị ập tới. Mà theo Bác hóm
hỉnh ví rằng "Được cùm chân mới yên bề ngủ - Không được cùm chân biết ngủ
đâu". Tuy nhiên tâm hồn của người chiến sĩ - thi sĩ không vì vậy mà trở nên ảm
đạm, ủ rũ, Chiều tối ra đời trong hoàn cảnh ấy chỉ mang một sắc thái ung dung,
vui vẻ, lạc quan luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Cũng như bộc lộ tấm lòng
yêu thiên nhiên, con người, tấm lòng tha thiết của Hồ Chí Minh với chặng
đường cách mạng lắm gian lao nhưng cũng nhiều hy vọng tốt đẹp về một tương
lai tươi sáng của mình.
2. Bài thơ “Chiều tối”
“Chiều tối” là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối ở nơi núi rừng, cảnh đẹp
bởi nó ánh lên với sự sống ấm áp của con người. Cảm hứng thơ đến với Bác như
một làn gió mới thổi vào tâm hồn cằn cỗi trong ngục tù. Trời về chiều, đi giữa
nơi rừng núi, như một lẽ tự nhiên, người tù ngước lên cao để đón chút ánh sáng
cuối cùng của ngày, đó cũng chính là lúc người bắt gặp cánh chim mỏi mệt đang
tìm bay về tổ, bắt gặp chùm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Bài thơ không
gợi tả màu sắc mà người đọc vẫn cảm nhận được rừng núi chiều tối thật âm u,
tĩnh lặng, cùng với sự mệt mỏi của người tù không biết đi về đâu, đi đến bao
giờ. Hình ảnh cuộc sống lao động bình dị mà người tù nhìn thấy trên chặng
đường chuyển lao đó càng trở nên đáng quý. Đáng tôn trọng biết bao giữa núi
rừng chiều tối âm u, heo hút - vẫn xuất hiện hơi ấm của sự sống, chút niềm vui
hạnh phúc và hạnh phúc trong lao động của con người.
Qua cảnh vật nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, tác phẩm bộc lộ tâm hồn
thi nhân nhạy cảm trước cái vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, thể hiện tấm
lòng nhân hậu của Bác đối với con người cùng phong thái ung dung, làm chủ
hoàn cảnh, luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
3. Nhan đề
“Chiều Tối” còn được gọi là mộ, tiếng Hán để chỉ sự chuyển giao giữa
ngày và đêm, là lúc ngày sắp tàn và bóng tối đang dần bao phủ. Với người tù
cách mạng Hồ Chí Minh, đây là chặng cuối cùng của một ngày bị đày ải. Hoàn
cảnh đó khiến con người ta dễ mệt mỏi, buồn chán. Không biết đi đến bao giờ,
dừng lại hay bước tiếp ở nơi đâu. Thế nhưng vẻ đẹp của thiên nhiên lúc chiều tối
đã làm cảm hứng thơ lại đến với người tù cộng sản một cách tự nhiên.
“Chiều tối” là một đề tài quen thuộc trong văn chương. Khung cảnh chiều
tối dễ sinh tình là vì thế, buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ, tạo nên những vần
thơ tuyệt tác. Trong thời khắc của một ngày sắp tàn, con người và vạn vật
thường dùng mọi hoạt động và trở về sum họp bên tổ ấm. Chính vì vậy, khoảng
thời gian này thường gợi cho những người xa nhà, xa quê cảm giác cô đơn, buồn
bã.
4. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
Giá trị nội dung
“Chiều tối” thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của Bác trong
hoàn cảnh tù đày vô cùng cực khổ. Trong hoàn cảnh gian khổ đó, Bác vẫn bình
thản làm thơ với những cảnh tượng thiên nhiên trước mắt vô cùng đẹp đẽ, những
hình ảnh bình dị của cuộc sống mà trong thơ Bác lại nên thơ đến lạ.
Bài thơ Phản ánh sự thật về nhà tù và xã hội Trung Quốc, chan tình cảm
nhân đạo, cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn
cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Giá trị nghệ thuật
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với những hình ảnh thơ đậm chất cổ điển cùng
với bút pháp chấm phá trong cách xây dựng không gian đã khiến cho người đọc
cảm nhận cả khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống con người chỉ bằng vài nét vẽ.
Ngôn ngữ trong bài thơ hàm súc, chân thực nhưng giàu sức gợi, giàu cảm
xúc khiến bài thơ không chỉ chân thực mà còn mang cả tâm hồn của con người
ấy.
Giống như mọi bài thơ thuộc tập Nhật ký trong tù, Mộ (Chiều tối) là sự
kết hợp hài hoà giữa nét cổ điển và nét hiện đại. Bài thơ vừa mang phong vị
Đường thi, vừa giữ được chất riêng của thơ Hồ Chí Minh – đó là những vần thơ
thép.
III. Khổ thơ đặc sắc
1. Giải thích khái niệm
1.1. Yêu thiên nhiên, con người
Bức tranh cảnh vật mang nét đặc trưng của thơ cổ ước lệ, tượng trưng
nhưng vẫn rất gần gũi hòa hợp với nhân vật trữ tình. Cánh chim mỏi mệt sau
một ngày kiếm ăn hay chính là sự mỏi mệt của người tù. Chòm mây lẻ loi hay
chính là nỗi cô đơn của người tù nơi đất khách quê người. Cảnh vật được bao
phủ bởi tâm trạng của nhân vật trữ tình, người tù như tìm thấy sự đồng cảm, sẻ
chia từ thiên nhiên.
Hình tượng thơ đã có sự chuyển động của thiên nhiên chuyển sang cuộc
sống con người, tâm trạng nhà thơ đang buồn cũng trở nên vui tươi, dường như
nhà thơ đã quên hẳn nỗi buồn của riêng mình để hoà nhập vào niềm vui của mọi
người. Bếp lửa rực hồng gợi nên một gia đình ấm áp, sum họp, nó là vẻ đẹp của
cuộc sống, đồng thời cũng là niềm khao khát mái ấm gia đình. Từ đó, thể hiện
tình yêu thương của tác giả đối với con người nơi đây cũng như những khó khăn
vất vả của Bác trong hành trình cứu nước và cho ta thấy vẻ đẹp của một tâm hồn
cao cả luôn hướng về cuộc đời và ánh sáng dù trong khó khăn gian khổ.
1.2. Sự chuyển biến tâm trạng
Trong bài thơ chiều tối sự vận động của con người và cảnh vật đối lập
nhau. Ở hai câu thơ đầu tả cảnh thiên nhiên cảnh vật rơi vào trạng thái tĩnh lặng,
hình ảnh của cánh chim mỏi của chòm mây lững lờ khiến cho tâm trạng con
người cũng hoàn toàn rơi vào trạng thái lẻ loi, buồn tủi. Tuy nhiên trong hai câu
thơ cuối, với những hình ảnh là bình dị trong cuộc sống sinh hoạt của người dân
xóm núi lại cho thấy một khung cảnh tươi vui, đầm ấm với hình ảnh “lò than”
rực hồng. Khung cảnh trong hai câu thơ cuối cho thấy tinh thần lạc quan của
người chiến sĩ, trong mọi hoàn cảnh đều vui tươi, lạc quan, yêu đời.
Cả bài thơ không chỉ nói về thiên nhiên mà qua đó còn nó đến tâm hồn
người chiến sĩ cộng sản luôn lạc quan tin tưởng và hướng về ánh sáng, những
điều tốt đẹp. Bài thơ là sự chuyển động từ cô đơn đến ấm áp, từ chậm đến
nhanh, từ bóng tối tới ánh sáng, mở ra bức tranh thiên nhiên và con người tươi
đẹp, rộn ràng hơn. Hình ảnh cánh chim bay về tổ, gợi chút gì đó ấm áp của sự
đoàn tụ. Bên cạnh đó, chòm mây lại gợi một tâm hồn khoáng đạt, phong thái
ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh. Hình ảnh chiếc cối xay ngô
của cô gái vùng sơn cước cũng vận động. Tất cả làm bật lên tâm hồn của người
chiến sĩ cộng sản luôn lạc quan tin tưởng và hướng về ánh sáng, về những điều
tốt đẹp.
2. Tâm hồn yêu thiên nhiên, con người và sự chuyển biến trong tâm
trạng Hồ Chí Minh
2.1. Tâm hồn yêu thiên nhiên, con người sâu sắc
“Chiều tối”, đúng như tiêu đề của nó, là một bức tranh thiên nhiên về
cảnh chiều muộn ở nơi rừng núi được người tù Hồ Chí Minh ghi lại trên hành
trình chuyển lao. Vì lẽ đó, vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ
trước hết là vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ với những rung cảm tinh tế trước vẻ
đẹp thiên nhiên và cuộc sống của con người:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bác nâng niu, trân trọng biểu hiện của sự sống, tinh hoa của thiên nhiên,
bởi vậy, ta luôn cảm nhận được những hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng chiếm
vị trí nổi bật trong thơ Bác. Thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc với những
hình ảnh quen thuộc của thi ca cổ điển: cánh chim – chòm mây – bầu trời cùng
với chút ánh sáng cuối cùng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy nơi
đỉnh trời đem lại cảm nhân về một không gian giống như các nhà thơ xưa, tạo ra
sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn. Dường như không
gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh,
và ngay trong cách nhìn cảnh ta cảm thấy tâm hồn Hồ Chí Minh đã thực sự hài
hòa với thiên nhiên. Ngước mắt lên bầu trời, người chiến sĩ bắt gặp chú chim
đang mỏi cánh cố bay về rừng để tìm chốn ngủ “Chim mỏi về rừng tìm chốn
ngủ”. Cánh “chim mỏi” cho thấy trạng thái mỏi mệt của sự vật và cách cảm
nhận của con người trước ngoại cảnh. Nhà thơ cảm nhận được sự gần gũi và
tương đồng giữa mình và cánh chim, sau một ngày dài cánh chim đi kiếm ăn đã
mỏi và người tù cũng mệt mỏi sau ngày dài lê bước trên rừng núi. Một cách rất
tự nhiên, con mắt nhà thơ phải ngước lên cao để nhận ra một cánh chim mỏi mệt
đi tìm chốn ngủ và một chòm mây cô đơn lặng lẽ trôi, nhìn cảnh như thế, dường
như Bác đã xóa nhòa đi cái ranh giới giữa người tù và du khách tự do, để tâm
hồn mình gắn liền với thiên nhiên, dễ dàng hòa nhập, quyến luyến. Hai câu thơ
gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao
giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm
vui thư thái.
Thế nhưng, có ai ngờ, ngay cả trong hoàn cảnh bị áp giải mà thiên nhiên
lại vẫn hiện lên trong thơ Bác một cách tuyệt đẹp như thế. Lời thơ cho ta thấy
một tâm hồn rộng mở, dung hòa với thiên nhiên, cảm thông với cánh chim, tất
cả được bắt nguồn từ tình yêu thương mà Hồ Chí Minh dành cho mọi sự sống có
mặt trên đời. Qua khung cảnh thiên nhiên của buổi chiều tối ta có thể dễ dàng
thấy được sự chuyển biến trong tâm trạng tác giả. Bác đã thể hiện tình yêu
thương con người của mình qua những vần thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển với hình ảnh thơ
bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Rõ ràng hai câu thơ trên
đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến hai câu thơ
sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù nhà thơ
trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “tối” (Chữ “tối” trong bản dịch là
do người dịch tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới
thấy được rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là
không cần dùng đến chữ “tối” mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Và như
thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thôi không ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà
hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô,
một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị.
Cô thiếu nữ mải miết xay ngô, ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia
đình, lòng Bác như cùng hòa với khung cảnh lao động bình dị ấy, như đang reo
vui cùng với âm thanh than hồng cháy tí tách. Hai câu thơ sau còn thể hiện được
cảm nhận tinh tế của Bác trước hành động của con người trong không gian chiều
tối. Không giống như trong thơ cổ, con người không phải chịu sự chi phối của
cảnh vật mà lại đem sức sống truyền vào thiên nhiên, khiến khung cảnh chiều tối
vốn man mác buồn lại bỗng tràn ngập sinh khí, sự ấm cúng cùng với nhịp sống,
lao động của con người. Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu
mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người là Người lại tìm thấy
được niềm vui. Bài thơ không khép lại cảm giác về bóng đêm đang dần xuống
mà lại chan hòa ánh sáng, ánh sáng tạo nên cuộc sống đời thường giản dị, thân
thuộc. Ánh sáng và niềm vui của sự sống con người hiện lên ở trung tâm của
bức tranh đã tỏa hơi ấm ra xung quanh, xua tan đi cái cô quạnh, cái mệt mỏi, cái
lụn tắt của cảnh chiều tối nơi núi rừng, khiến người tù cũng thoát khỏi xiềng
xích mà quyện mình với cuộc sống hạnh phúc của con người nơi xóm núi nhỏ.
Bức tranh thứ hai tác giả “vẽ” lên đó là hình ảnh lao động hăng say của người
lao động. Hình tượng thơ đã có sự chuyển động từ thiên nhiên sang cuộc sống
con người, tâm trạng nhà thơ đang buồn cũng trở nên vui và dường như nhà thơ
đã quên hẳn nỗi buồn riêng mà hòa nhập vào thiên nhiên, cuộc sống con người.
Như vậy, hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn
của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt
gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã
tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính
cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ
mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy
đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
2.2. Sự chuyển biến tâm trạng
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo,
hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui... đó là điểm
đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở
trong những tháng ngày đau khổ nhất. Bên cạnh tình yêu, niềm say mê đối với
thiên nhiên, con người, ở bài thơ, ta còn thấy nổi bật lên ý chí kiên cường, tinh
thần sắt đá của Hồ Chí Minh. Ta bắt gặp một thoáng buồn bã, cô đơn, ảm đạm
“rất người” của Bác khi nhìn vào hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân” , thế
nhưng, trước ngọn lửa hồng, Bác quên đi việc mình vẫn đang phải bước đi trên
con đường đầy ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm
trang thơ xua tan cái lạnh lẽo của lòng người và cảnh vật. Với lộ trình “năm
mươi ba cây số một ngày”, nơi dừng chân có thể là một nhà lao mới hay một
nhà kho ẩm ướt, nhưng thật kì diệu là trong hoàn cảnh như vậy, Người vẫn làm
thơ, vẫn để cho tâm hồn mình bay bổng lên với một cánh chim, một chòm mây,
một làn hương rừng, một cảnh “làng xóm ven sông đông đúc thế”…Thử hỏi,
nếu không có một tinh thần thép, một bản lĩnh thép, thơ của người làm sao có
thể “bay cánh hạc ung dung” như vậy. Đó thực sự là một cuộc vượt ngục tinh
thần của Bác, Người đã hoàn toàn chủ động trước mọi hoàn cảnh, đó chính là vẻ
đẹp của ý chí, nghị lực, là tinh thần thép của người Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đan xen giữa những câu thơ như một mạch cảm xúc ngầm chính là khát
vọng thầm kín và đầy tính nhân văn của Bác. Người tù Cách mạng dù kiên
cường, dũng cảm đến đâu cũng luôn mơ ước, khát khao về một tổ ấm, quanh
quần bên bếp lửa gia đình. Bên cạnh đó, độc giả còn thấy được vẻ đẹp của niềm
lạc quan bất diệt xuyên suốt cả bài thơ. Trong một bài thơ, từ hình tượng thơ ta
có thể nhận ra tư tưởng của tác giả đều có sự vận động nhất quán, hướng tới sự
sống tương lai. Tâm trạng có sự vận động từ buồn đến vui, từ cô đơn, lẻ loi đến
ấm áp. Hình ảnh cánh chim đượm buồn nhưng là cánh chim bay về tổ, gợi một
chút gì đó ấm áp của sự đoàn tụ. Chòm mây cô đơn gợi nỗi buồn lẻ loi, nhưng
chòm mây ấy lại “mạn mạn độ thiên không” gợi một tâm hồn khoáng đạt, một
phong thái ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh. Từ hình ảnh
cánh chim và chòm mây vận động, chiếc cối xay ngô của cô gái vùng sơn cước
cũng vận động. Thời gian trôi dần theo cánh chim và chòm mây theo những
vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi, và đến khi “bao túc ma hoàn” thì “lô dĩ
hồng”. Đặc biệt nhất trong bài thơ phải nói đến chữ “hồng”, đây được coi là
nhãn tự của bài thơ, nó nằm ở cuối bài nhưng lại gánh được 24 chữ kia, và mang
lại thần sắc cho bài thơ. Nếu như 24 chữ đầu luôn gợi nhắc đến một khung cảnh
ảm đạm, lãnh lẽo, hoang vu nơi núi rừng hoang vắng, thì chữ "hồng" cuối bài lại
dường như thắp sáng, xua đi tất thảy những cái hiu quạnh ấy, đem về sự ấm áp,
sinh khí bao trùm lên toàn bộ cảnh vật cũng như tâm hồn của thi nhân. Sự ấm áp
không chỉ đến từ lò than mà còn đến từ chính tình người. Khi bản thân tác giả
đang trong cảm giác trống trải, cô độc, lẻ loi, trôi dạt nơi đất khách thì sự hiện
diện của con người lao động, lò than bừng sáng trong đêm tối đã kéo thi nhân về
những cảm giác của sự ấm áp đoàn viên, sum họp trong gia đình.
Cách tư duy và thay đổi góc nhìn về mối tương quan giao hòa của con
người với thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh đã bộc lộ một cách rõ nét tấm lòng
yêu thương, gắn bó với cuộc sống lao động, gắn bó với nhân dân. Người đã bỏ
qua những nhọc nhằn khốn khó của bản thân để cảm nhận được vẻ đẹp, dồn mối
quan tâm của mình vào những cuộc đời nghèo khó, vất vả đang phải lam lũ kiếm
sống mặc dù trời đã tối muộn. Ta có thể cảm nhận được tâm hồn của nhà cách
mạng đã vượt lên trên nghịch cảnh khắc nghiệt để vui với đời thường bình dị,
bên cạnh đó còn là tâm hồn lớn tràn đầy tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường và
niềm tin tất thắng, hướng về quê nhà và sự tự do, ấm no của dân tộc.
“Chiều tối” cũng như những bài thơ khác trong tập Nhật ký trong tù đều
là những tác phẩm hay có sự hài hòa giữa chất thép và chất tình. Người chiến sĩ
cách mạng ngoài tư tưởng chính trị vững vàng, tinh thần yêu nước, kiên trung
với lý tưởng cách mạng thì còn nổi bật với vẻ đẹp của một tâm hồn lạc quan,
ung dung, thư thái vượt lên trên tất cả những khó khăn nghiệt ngã để hòa mình
vào với thiên nhiên, yêu thương, đồng cảm với cuộc sống lao động vất vả của
con người, luôn hy vọng về một tương lai tươi sáng tốt đẹp của dân tộc, đất
nước.
IV. Liên hệ - So sánh
Với lối văn thơ trữ tình chính trị đậm nét, các tác phẩm của Hồ Chí Minh,
không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước, đả kích quân thù, mà còn ẩn chứa những vẻ
đẹp tâm hồn đáng quý. Không hẹn trước, nhưng dường như giữa Bác và Huy
Cận đã bắt gặp nhau bởi hình ảnh chiều tà. Qua cái nhìn sâu sắc, tinh tế để rồi
trong đó hiện lên một tâm trạng đau đớn nhưng gợi lên một niềm tin phơi phới
vào tương lai. Chiều tối và Tràng giang là một bức tranh của sự vội vã đi tìm
chốn ngủ của những chú chim sau một ngày tìm kiếm thức ăn, sau những vội vã
của cuộc sống mưu sinh vất vả. Những chú chim bất ngờ nhận ra rằng bóng tối
đang ập đến. Trong bài thơ “Chiều tối” của Bác thì hai dòng thơ đầu thể hiện về
những chú chim đang vội vã trở về tổ ấm của mình, cho chúng ta thấy cảnh núi
rừng hoang sơ:
“Chim vội về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Còn trong hai câu thơ đầu của bài thơ Tràng giang, tác giả Huy Cận đã
nói lên về nỗi buồn của những con sóng của mặt nước mênh mông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Trong hai câu thơ này hình ảnh mặt nước, dòng sông gợi lên trong lòng
người cảm giác buồn da diết thể hiện sự thê lương của tác giả. Điệp điệp, song
song, là hai cặp từ láy làm cho câu thơ trở nên sinh động, gợi tính nhạc và chất
trữ tình sâu sắc. Ta tìm thấy nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mông nhưng không
có niềm vui, con người trong bài thơ này không tìm ra phương hướng cho chính
bản thân mình.
Hai bài thơ giống nhau là do tư chất nghệ sĩ của hai tác giả, nhưng sự
khác nhau là một người có khí phách, phương hướng lý tưởng sống của một nhà
cách mạng, tìm thấy con đường lý tưởng mà mình đã chọn. Còn một người thì
vẫn đang trên con đường tìm lý tưởng sống của mình và chưa biết nên đi theo
hướng nào cho phù hợp.
V. Nhận định của nhà phê bình
“Hồ Chí Minh rất Đường mà không Đường một tí nào”. Với một chữ
“hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự
uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong 3 câu đầu, đã làm sáng rực lên
khuôn mặt của cô em sau khi xay ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ
Đường người ta gọi là “con mắt” thơ (thi nhã hoặc nhãn tự), nó bừng sáng lên,
nó cân lại chỉ một chữ thôi với 27 chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa.”
Theo Hoài Thanh: “Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ đầu thì thơ HCM không
khác gì thơ Liễu Tông Nguyên đời Đường:
“Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu thôi lạp ông
Ðộc điếu hàn giang tuyết”

C. Kết luận
“Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông
thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng”. “Từ
ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về
lí tưởng cách mạng, là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một
thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì
lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong
mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu
thương đất nước. Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí
tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng
giản dị, gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới.

D. Nguồn tham khảo


https://loigiaihay.com/chieu-toi-ho-chi-minh-
c359a51456.html#ixzz7rgGpCG2M
https://vietjack.com/tai-lieu-mon-ngu-van/
https://download.vn/cam-nhan-ve-dep-tam-hon-cua-nhan-vat-tru-tinh-
trong-bai-chieu-toi-44414
https://tech12h.com/de-bai/neu-cam-nghi-cua-anh-chi-ve-su-van-dong-
cua-canh-vat-va-tam-trang-cua-nha-tho-trong-bai-chieu

..............................................

You might also like