You are on page 1of 66

ÔN TẬP TÁC PHẨM VĂN CHÍNH LUẬN: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH

1. Hoàn cảnh ra đời


- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ
Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố
Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc
lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập
vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân
đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng
Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng
sau là lính viễn chinh Pháp.
Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị
nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại
với người Pháp.
2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”
- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã đứng
lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa
để hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự
do.
- Giá trị văn học:
+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh
giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.
+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ
đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm,
hùng hồn.
- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân
đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.
- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt
Nam mới; ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.
3. Nội dung
3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung
- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.
- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi
ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.
- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam cùng
một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với
các cường quốc năm châu.Thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết sức quan
trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của
con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh
phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu
tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong
thế kỉ XX.
- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.
3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khảng định thực
tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác
bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :
+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng.
Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm 1945 giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị
(dẫn chứng)
+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)
+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội
chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản
tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
=> Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh
thép tội ác của thùc dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực
dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao.
b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan
trọng:
+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước
VN.
+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp
3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập
của toàn dân tộc
- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc
- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.
- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.
Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của
cái sau.
4. Nghệ thuật
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận hùng hồn, giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ cô đọng, súc tích.
- Giọng điệu đanh thép,linh hoạt.
- Dẫn chứng mang tính xác thực cao.
- Hệ thống luận điểm, luận cứ chặt chẽ, logic.
ÔN TẬP CÁC TÁC PHẨM THƠ CA
I. Tác phẩm : Tây tiến – Quang Dũng.
Hướng dẫn phân tích các đoạn thơ cụ thể.
1. *Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. ( Cách 1)
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ông từng tham gia hoạt động và chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến, chính những
trải nghiệm cùng sống, cùng chiến đấu trong những ngày tháng gian khổ ấy đã để lại
những miền kí ức không bao giờ quên trong tâm hồn của nhà thơ. Hơn nữa, trải
nghiệm về chiến tranh, cuộc sống người lính cũng chính là chất liệu, cảm hứng quan
trọng trong những sáng tác thơ ca của Quang Dũng. Ông đã có rất nhiều bài thơ hay
viết về đề tài chiến tranh, người lính, trong đó Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu
nhất cho tài năng, phong cách và con người của Quang Dũng. Được sáng tác năm
1948, Tây Tiến của Quang Dũng không chỉ tái hiện không khí kháng chiến ác liệt,
nhiều gian khổ mà còn…( đưa vấn đề cần nghị luận vào)
* Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận. ( cách 2)
Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn,
soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ. Ông là gương mặt tiêu biểu
của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với
một hồn thơ phóng khoáng,hồn hậu, lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất
nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây
trắng”.Trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Quang Dũng,“Tây Tiến”
được xem là một trong những thi phẩm đặc sắc nhất.Bài thơ không
chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc
họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và
khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua
đoạn thơ:
2. Phân tích
+ Đoạn: 1. “ Sông Mã xa rồi…thơm nếp xôi”
• Khái quát:
- Bài thơ “ Tây tiến” được In trong tập Mây đầu ô (1986)
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở thượng Lào cũng
như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng:
Thượng Lào & Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh sinh viên (như
Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất,
bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung
đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao
lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên là Tây
Tiến.
- Cảm hứng chính: cảm hứng lãng mạn.
- Tình thần chung: tinh thần bi tráng.
a.Cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Mở đầu bằng một câu cảm thán với vần “ ơi” cất lên như một tiếng gọi thiết tha, trìu
mến vọng về từ quá khứ, tự sâu thẳm trong tận đáy lòng của nhà thơ về:
+ Con sông Mã: Là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc, gắn bó với địa bàn hoạt động của đoàn
quân Tây Tiến trong suốt cuộc trường chinh.Chứng nhân lịch sử đã chứng kiến mọi nỗi buồn
đau, hi sinh, mất mát của cuộc kháng chiến.
+ Tây tiến: là đồng đội, là địa bàn hoạt động một thời gắn bó nhưng hiện tại bây giờ đã
+ Xa rồi:gieo vang âm hưởng ngậm ngùi,xót xa, nuối tiếc về những kỉ niệm đẹp đẽ đã trôi
qua.
+ Điệp từ “nhớ”lặp đi lặp lại hai lần, nằm ở vị trí mở câu, mở nhịp đã khắc sâu, nhấn mạnh,
bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ đang trào dâng mãnh liệt ở trong lòng người.
+ Từ láy “chơi vơi”: Cách dùng từ sáng tạo, vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng
hoá nỗi nhớ.Nỗi nhớ không có hình, không có lượng, mơ hồ, hư ảo, mông lung, chấp chới giữa
hiện tại và quá khứ, giữa cái hư và cái thực.Đó còn là nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh,
mênh mông, bao trùm cả không gian ,thời gian, lắng đọng trong tâm hồn của tác giả.
b. Nỗi nhớ được khắc sâu qua nhiều kỉ niệm:
* Kỉ niệm với Sài Khao, Mường Lát:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát gắn với những địa danh khác của vùng miền núi Tây Bắc...
-> Gợi lên không gian núi rừng đầy hoang sơ, bí ẩn, chứa đựng màu sắc phương xa xứ lạ với nhiều địa
bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến đã từng đi qua.
- Hình ảnh "Sương lấp đoàn quân mỏi“đã được tác giả vận dụng:
+ Bút pháp tả thực: Những màn sương mù vùng cao dày đặc như che lấp, nuốt chửng đoàn quân
TT.Gợi lên những cuộc hành quân đầy khó khăn, vất vả, nhọc nhằn của đoàn quân. Và dưới ngòi bút
chân thực của mình, tác giả đã thấm thía sự gian khổ ấy qua cụm từ “ đoàn quân mỏi”
+ Bút pháp lãng mạn: gợi không gian huyền ảo: cảnh vật về khuya phủ đầy hơi sương lạnh giá.
- Hình ảnh "Hoa về trong đêm hơi":một hình ảnh mang tính chất đa nghĩa, gợi được nhiều sự liên
tưởng, tưởng tượng khác nhau.
+ Ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc đang bùng nở trong đêm sương.
+ Hình ảnh mang tính chất ẩn dụ. Nhà thơ đã lãng mạn hoá, thi vị hoá những bông hoa lửa bập
bùng trên đầu ngọn đuốc trong đêm đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát như đang dẫn đường, chỉ
lối, thắp sáng rừng già, xua tan màn đêm, xua tan sương lạnh.
* Kỉ niệm về những chặng đường hành quân (Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc)
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Điệp từ “Dốc” nằm ở vị trí mở nhịp đã gợi lên hình ảnh những con dốc tiếp dốc
gần như không có điểm dừng và diễn tả độ cao ngất trời của núi đèo, độ sâu hun
hút của vực thẳm.
- Từ láy “Khúc khuỷu” giàu giá trị tạo hình, miêu tả sự hiểm trở, lắt léo, quanh co,
gập ghềnh.
- Từ láy “heo hút”, nghệ thuật đảo cấu trúc câu gợi tả sự xa xôi, hoang vắng.
- Hình ảnh “Súng ngửi trời”
->Vận dụng nghệ thuật nhân hóa nhằm tô đậm độ cao của núi. Cao đến mức những
mũi súng có thể chạm lên đến tận trời. Ngoài ra hình ảnh thơ còn bộc lộ sự tếu táo,
tinh nghịch, hóm hỉnh, trẻ trung, lạc quan, vô tư, yêu đời trong tâm hồn của những
người lính Tây tiến lúc bấy giờ. Những người lính họ cảm thấy thích thú, đầy niềm
phấn chấn, tự hào khi được đứng trên độ cao chon von của núi, được làm chủ
thiên nhiên, làm chủ đất trời.( Liên hệ bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu)
Điệp từ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản đối lập, cách ngắt
nhịp 4/3, các từ trái nghĩa, số từ mang tính chất ước lệ “ ngàn” -> đã làm cho
câu thơ như bị bẻ gãy ra làm đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như
thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm khôn cùng, đặt ra
biết bao thử thách mà đoàn quân Tây tiến phải vượt qua..
- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”-> câu thơ gieo toàn thanh bằng kết hợp với
âm tiết mở đã tạo nên giọng điệu thơ êm đềm, nhẹ nhàng, lan toả, mở ra một
không gian thoáng đãng, một chốn bình yên nơi bản làng, có sự giăng mắc của
sương rừng, mưa núi.
=>Rõ ràng với sự kết hợp thanh điệu bằng trắc một cách khéo léo đã làm cho
những câu thơ giàu nhạc tính, nhạc điệu.
=> Một không gian vừa cao sâu, vừa xa rộng, rất hùng vĩ nhưng cũng rất thơ
mộng, lãng mạn, trữ tình của núi rừng Tây Bắc để làm nổi bật lên tầm vóc lớn
lao, kì vĩ , hào hùng của người lính Tây Tiến.
* Hồi ức về sự hi sinh
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Cách xưng hô: Anh bạn: rất đỗi đời thường, mộc mạc, giản dị,thân thiết, chân thành,
trìu mến.
- Không bước nữa: Nghệ thuật nói giảm, nói tránh nhằm làm nhẹ đi, vơi đi nỗi đau
thương, mất mát đang hiện hữu.Ngoài ra còn diễn tả sự ra đi một cách nhẹ nhàng,
thanh thản của những người lính Tây tiến lúc bấy giờ.Gợi lên niềm cảm thương, đau
đớn, xót xa vô hạn trước sự hi sinh thầm lặng của đồng đội song không hề có sự bi luỵ,
yếu đuối mà ngược lại làm nổi bật vẻ đẹp mang tinh thần bi tráng của người lính Tây
tiến. Bởi đó là sự hi sinh cho những lí tưởng cao đẹp của dân tộc. Do vậy những cái
chết rất đáng để mọi người trân trọng, tự hào, ngưỡng mộ, tôn vinh.
- Gục lên súng mũ bỏ quên đời: Tư thế ngang tàng,ngạo nghễ, gan góc đầy sự quả
cảm.
-> Hình ảnh thơ chân thực, không dấu diếm sự vất vả,khó khăn, mệt nhọc của những
chặng đường hành quân, nhưng chắc chắn là họ không gục ngã. Bởi hòa cùng với sự
Hồi ức về cuộc sống ở Tây Bắc
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi, Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
- Thời gian: Chiều chiều, đêm đêm: đây là thời điểm mà màn đêm đã bắt đầu buông xuống và dần chiếm lĩnh,
ngự trị cả không gian. Đó cũng là thời điểm mà núi rừng trở nên đáng sợ và nguy hiểm hơn bao giờ hết.
- Điệp từ: “ chiều chiều”, “ đêm đêm” vừa gợi lên sự tiếp nối,liên tục của thời gian, vừa diễn tả sự nguy hiểm,
bất trắc luôn luôn rình rập, là mối đe doạ khủng khiếp cho số phận của những người lính khi họ phải đối
diện với sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên.
- Âm thanh: tiếng của thác nước gầm thét dữ dội.Với việc vận dụng biện pháp tu từ nhân hoá phải chăng đó
là tiếng của rừng đại ngàn đang khẳng định sức mạnh của mình, thị uy trước con người. Và âm thanh đó hoà
vào trong nỗi đau của lòng người, trở thành một khúc tráng ca. Có lẽ vì vậy mà cái chết của những người
lính Tây tiến trở nên đẹp đẽ hơn, bi tráng hơn.
- Nhớ ôi: Sử dụng thán từ “ Ôi” -> Biểu đạt nỗi nhớ cồn cào, trào dâng mãnh liệt như được thốt ra tự sâu trong
tận đáy lòng không thể nào kìm nén lại được.
- Hình ảnh “Cơm lên khói” “thơm nếp xôi”-> Biểu hiện cho cuộc sống sinh hoạt ấm cúng, chứa đựng tình cảm
quân dân thắm thiết. Phải chăng đó cũng chính là lúc những người lính được quây quần, sum họp với người
dân sau một chặng đường dài hành quân vất vả, khó khăn, nhọc nhằn. Họ như được trở về với mái nhà thân
thương, yêu dấu của mình.
- Thanh điệu chủ yếu gieo toàn thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng, tình tứ. Và có lẽ Tây tiến,Mai
Châu sẽ mãi là những địa danh đậm sâu ân tình, ân nghĩa trong tâm hồn của người lính Tây tiến.
• Đánh giá:
Đoạn thơ mở đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện nét tài hoa và tâm hồn lãng mạn
phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo
hình, giàu nhạc điệu,kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, bên
cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật như sử dụng nhiều từ láy, cách sử dụng
thanh trắc, thanh bằng, điệp từ, nhân hóa, đối lập đã gây ấn tượng mạnh mẽ
đối với người đọc, người nghe khi nhà thơ đã dựng lên bức tranh sinh động, có
chiều sâu về cảnh hành quân gian khổ, khó khăn, vất vả của đoàn quân Tây
Tiến trên phông nền thiên nhiên rừng núi Tây Bắc hùng vĩ,lãng mạn, thơ mộng
nhưng cũng không kém phần khắc nghiệt, nguy hiểm, dữ dội. Qua đó, ta cảm
nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng về
những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để
nhớ và tự hào.
. Kết bài:
Tóm lại, mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài Tây Tiến,
một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong chín
năm kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc. Bức tranh
thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh những
chiến sĩ Tây tiến can trường, gan góc và lạc quan, vô tư, yêu đời
đang dấn thân vào khói lửa của cuộc chiến tranh không sợ hi
sinh, mất mát.Nguyện chiến đấu để bảo vệ hoà bình cho đất
nước.
2. Đoạn 2. Tám câu thơ “ Doanh trại bừng lên…hoa đong đưa”.
+ Vấn đề cần nghị luận: Nhớ về những kỉ niệm đẹp, ấm áp tình
quân dân và cảnh sông nước miền Tây Bắc lãng mạn, thơ mộng,
trữ tình.
Luận điểm 1: Cảm nhận khái quát về đoạn thơ
   Ở đoạn thơ trước, tác giả Quang Dũng có những nét vẽ về miền Tây
Bắc xa xôi với những nét vẽ đậm vẻ hoang sơ, bí hiểm thì ở đoạn thơ
này, thiên nhiên và con người như mang vẻ đẹp của một thế giới
khác. Hình ảnh thiên nhiên con người Tây Bắc được khắc hoạ trong
đoạn thơ bằng những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tài hoa tinh tế,
thấm đẫm chất thơ, chất nhạc, chất hào hoa, lãng mạn của một thi sĩ
đa tài.
Luận điểm 2: Cảnh liên hoan đêm lửa trại – những kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết.
+ Không gian: Doanh trại với ánh sáng lung linh, huyền ảo, rực rỡ của
lửa đuốc .
-> một không gian lãng mạn, đậm chất lãng mạn, trữ tình.
+ Động từ “ bừng” -> vừa miêu tả cường độ, vừa miêu tả tốc độ của
ánh sáng phát ra mạnh mẽ, rực rỡ, bất ngờ bỗng bừng sáng lên để xua
tan bóng đêm đen tối, thâm u lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Do đó,
đêm liên hoan trở thành đêm hội tưng bừng với hình ảnh “ hội đuốc
hoa” nổi bật không gian lung linh, rực rỡ sắc màu, gợi những liên
tưởng thú vị, mang đến niềm vui rạo rực, náo nức trong lòng người.
Đặc biệt, nó biểu đạt tâm trạng hân hoan, háo hức, phấn chấn, say mê
của những người lính đang đắm chìm trong không gian đó.
+ Hình ảnh trung tâm của đêm hội là đuốc hoa ,là những cô thiếu nữ miên sơn cước: “Kìa
em xiêm áo tự bao giờ”. Câu thơ có sự kết hợp của từ “Kìa” và cụm từ nghi vấn “tự bao
giờ” đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng,ngạc nhiên, thích thú, vừa trầm trồ, ngưỡng mộ ,
thán phục của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của những cô gái. Do đó cách xưng hô “ em”
vừa lãng mạn lại vừa thân thương, trìu mến.Có thể nói đến lúc này, người xem hội, người
tham gia liên hoan ngất ngây trong tiếng khèn, trong man điệu mang đậm chất núi rừng
vừa bí ẩn, vừa quyến rũ, vừa tình tứ e ấp nhưng  cũng vừa mãnh liệt tha thiết của những
thiếu nữ miền Tây làm say mê lòng người.
Cảnh vật, con người như ngả nghiêng, ngất ngây, bốc men say rạo rực vì vui sướng được
sống trong những giây phút bình yên. Có thể nói, đến lúc này, không gian núi rừng hoang
vu, lạnh lẽo, bí hiểm đã được thay thế bởi không gian của cái đẹp, của chất thơ, chất nhạc
Dư âm của chiến tranh tàn khốc bị đẩy lùi xa chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, đắm chìm
trong tiếng nhạc, hồn thơ. Đây là một khoảnh khắc hiếm hoi trong thời chiến, là một kỉ
niệm đẹp khó phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến nói chung và trong lòng Quang
Dũng nói riêng.
Luận điểm 3: Cảnh thiên nhiên con người miền Tây trữ tình, thơ mộng để lại trong tâm
hồn thi sĩ kí ức khó phai mờ.
+ Hình ảnh “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” phải chăng là người lính Tây Tiến, họ
như đang dẫn người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, lặng tờ mang một sắc
màu huyền thoại.
  + Cảnh thơ mộng, trữ tình được nhà thơ diễn tả qua các chi tiết chiều sương giăng mắc,
bao phủ cả núi rừng,tạo nên một không gian vừa hư, vừa thực, vừa mờ ảo. Dòng sông
trôi lặng tờ đậm sắc màu cổ tích, dáng người mềm mại, uyển chuyển lướt trên con
thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng thác lũ.
+ Vận dụng bút pháp chấm phá tinh tế tác giả đã vẽ lên trước mắt người đọc một không
gian sông nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt, thấp thoáng bóng người bóng hoa. Nhưng
cảnh không vô hề tri vô giác mà trong gió trong cây như có linh hồn của vạn vật “Có
thấy hồn lau nẻo bến bờ”.
Nét bút của Quang Dũng đã nắm được sự mộng mơ của cảnh, cái hư ảo của hoài niệm
và cái tinh tế của tình cảm nên đã phác hoạ lên một bức tranh thuỷ mặc nhưng không
tĩnh tại mà sống động, đậm chất thơ.
 +Hình ảnh bóng dáng con người Tây Bắc hiện lên trong khung cảnh huyền ảo,
mờ xa. Dáng người mềm mại, bé nhỏ nhưng lại cứng cỏi ,kiên cường khi song
hành cùng con thuyền độc mộc lướt đè lên dòng thác lũ. Hoa trên dòng thác lũ
đong đưa tình tứ như níu giữ cái nhìn say mê của “Những người đi Châu Mộc
chiều sương ấy”. Bóng người bóng hoa hoạ thêm vẻ đẹp cho nhau tạo ấn
tượng giàu cảm xúc về cảnh và người miền Tây.
Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát cất lên từ tâm hồn ngất ngây,
mê say, lãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc dẫn người đọc vào thế giới
của cái đẹp, của cõi mơ, cõi nhạc. Bức tranh thiên nhiên miềnTây Bắc không chỉ
đẹp ở sự hùng vĩ, dữ dội mà nó còn đẹp cả ở những nét mềm mại, mộng mơ
khiến lòng người xao xuyến, vấn vương.
• Đánh giá:

Đoạn thơ thể hiện bút pháp lãng mạn tài hoa của tác giả. Qua đó, người đọc thấy cảnh đêm liên
hoan văn nghệ, cánh sông nước miền Tây Bắc mang vẻ đẹp hiện thực lãng mạn mà huyền ảo với
từng vần thơ vừa giàu chất nhạc vừa giàu chất họa. Đó cũng chính là sự kết hợp hài hòa tuyệt
diệu giữa ba yếu tố: thơ, nhạc, họa trong thi phẩm của Quang Dũng.

. Kết bài
   Bằng một tâm hồn thơ phong phú, sáng tạo và giàu chất lãng mạn, chỉ với tám dòng thơ mà
Quang Dũng đã đưa người đọc trở về với những với hoài niệm năm xưa, để được sống lại trong
những phút giây bình yên hiếm có của thời chiến tranh. Đọc đoạn thơ này, chúng ta càng hiểu
và càng thêm trân trọng, yêu mến vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa, đa tình của những
người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm xưa. Vẻ đẹp này cùng với vẻ đẹp can trường, quả cảm
ở đoạn một và đoạn ba của bài thơ đã tạo nên một bức chân dung đầy ân tượng về người lính
thủ đô trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
3. Đoạn 3. “ Tây tiến đoàn binh không mọc tóc…khúc độc hành”
• Mở bài:
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ông từng tham gia hoạt động và chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến, chính những
trải nghiệm cùng sống, cùng chiến đấu trong những ngày tháng gian khổ ấy đã để lại
những miền kí ức không bao giờ quên trong tâm hồn của nhà thơ. Hơn nữa, trải
nghiệm về chiến tranh, cuộc sống người lính cũng chính là chất liệu, cảm hứng quan
trọng trong những sáng tác thơ ca của Quang Dũng. Ông đã có rất nhiều bài thơ hay
viết về đề tài chiến tranh, người lính, trong đó Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu
nhất cho tài năng, phong cách và con người của Quang Dũng. Được sáng tác năm
1948, Tây Tiến của Quang Dũng không chỉ tái hiện không khí kháng chiến ác liệt,
nhiều gian khổ mà còn tạc dựng lên bức chân dung về người lính với những vẻ đẹp
đáng trân trọng, ngợi ca, tôn vinh và ngưỡng mộ. Nếu như ở hai đoạn đầu của bài
thơ, người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn
thơ thứ ba trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:
• Thân bài.
1.Khái quát:
- Bài thơ “ Tây tiến” được In trong tập Mây đầu ô (1986)
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở thượng
Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến
khá rộng: Thượng Lào & Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh sinh viên
(như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ sống rất lạc quan và chiến đấu
rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập
trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ
chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác
giả đổi tên là Tây Tiến.
- Cảm hứng chính: cảm hứng lãng mạn.
 2.Phân tích:
Nội dung phân tích chính bám theo 3 ý luận điểm sau:
+ Bức chân dung tự họa độc đáo, lạ thường về ngoại
hình của người lính Tây Tiến với những chi tiết tả thực
sống động.
+ Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của người lính Tây
Tiến giữa chiến tranh ác liệt
+ Lí tưởng sống cao đẹp, coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng.
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua những nét vẽ gián
tiếp - nói đến gian khổ, hy sinh và địa bàn hoạt động - thì ở đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với
những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi.
* Luận điểm 1. Vận dụng bút pháp mang tính chân thực cao, tác giả đã miêu tả ngoại hình
bên ngoài của những chàng trai Tây tiến qua:
+ Hình ảnh: “ đoàn binh không mọc tóc”; “ quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Như ta đã biết, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây tiến chủ yếu là những vùng rừng núi
hoang vu, hiểm trở, chốn “ rừng thiêng nước độc”. Do đó điều kiện sinh hoạt vô cùng vất vả,
khó khăn, thiếu thốn. Phần đông những người lính đều bị những cơn sốt rét rừng hành hạ
triền miên khiến cho những mái đầu xanh của họ đều bị rụng tóc và da dẻ thì trở nên xanh
xao, vàng vọt, tái nhợt như màu xanh của lá. Do vậy hình ảnh thơ đã
-> Gợi lên dáng hình xơ xác,tiều tuỵ đến đáng thương bởi những cơn sốt rét rừng hành hạ..
-> Cách diễn đạt tạo nên sự đa nghĩa, đa giọng cho lời thơ, ý thơ. Bộc lộ khẩu khí ngang tàng,
tinh nghịch đó là để thuận tiện cho việc sinh hoạt và chiến đấu với kẻ thù, những người lính
Tây đã chủ động cạo trọc đầu, gợi đến hình ảnh những anh lính vệ trọc của một thời khói lửa
của dân tộc.Còn hình ảnh “ quân xanh màu lá” phải chăng là những vòng lá nguỵ trang rung
rinh, nhấp nhô trên ba lô của những người lính khoác trên vai trong những chặng đường
hành quân.
+ Cách nói thậm xưng “ dữ oai hùm” có phần cường điệu hoá, khoa trương, phóng đại -
> thể hiện sư đối lập giữa vật chất ><tinh thần; giữa cuộc sống bên bên ngoài với sức
mạnh tinh thần bên trong mạnh mẽ.Chính điều này phù hợp với cảm hứng lãng mạn,
ngợi ca, tôn vinh, phi thường hoá nhân vật của tác giả.
+ Sử dụng từ Hán Việt “ đoàn binh” đã gợi lên sắc thái trang trọng, thiêng liêng, cổ kính
cho lời thơ, ý thơ.
* Luận điểm 2. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang
Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
+ Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô thân
yêu.Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về
Hà Nội.Vì vậy, khó khăn, gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi
vơi đi những tình cảm lãng mạn thầm kín ở trong lòng:
+ “Mộng” và “mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: biên cương, nơi
còn đầy bóng giặc - mộng giết giặc để lập công danh, công trạng cho đời, và Hà
Nội, quê hương yêu dấu - mơ những bóng dáng thân yêu. “Dáng kiều thơm”, ấy
là vầng sáng lung linh trong ký ức, “tố cáo” nét đa tình của người lính. Nhưng
với các chiến sĩ Tây Tiến, nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau
mỗi chặng hành quân vất vả, chứ không phải để thất chí nản lòng. Vậy mà có
một thời, câu thơ “đẹp một cách lãng mạn” này đã khiến cho tác giả của nó và
chính bài thơ phải “trải bao gió dập, sóng dồn”. Người lính Tây Tiến dẫu "mắt
trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một
"dáng kiều thơm“, đó là khát vọng về tình yêu, hạnh phúc rất đỗi đẹp đẽ, dung
dị, đời thường chân chính của mỗi con người.Chính điều này đã làm dịu đi, vơi
đi phần nào những gian khổ,khó khăn, vất vả,hi sinh mà người lính đang phải
gánh chịu; là động lực tinh thần để tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, ý chí, nghị lực
chiến đấu lớn lao, mạnh mẽ, can trường cho họ.
=> Rõ ràng,Quang Dũng đã tạo nên một nét tương phản hết sức đặc
sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng
chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính
Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non
sông đất nước mà còn rất hào hoa,lãng mạn giữa bao nhiêu gian khổ,
thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng
kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những
nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh
mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ đầu của đoạn thơ, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình
ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và
một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn, hào hoa thì ở bốn câu thơ cuối của
đoạn, bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét
nổi bật về lí tưởng cao cả, đẹp đẽ về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu
thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một
cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi
nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không
quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh
thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của
người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi
vào bi lụy mà còn có sức bay bổng lạ thường.
* Luận điểm 3. Lý tưởng cao cả, đẹp đẽ về sự hi sinh của những người lính Tây tiến.
+ Hình ảnh “ rải rác biên cương mồ viễn xứ” -> đậm chất bi thương, gợi lên sự lạnh lẽo, xa xôi,
bỏ thân, bỏ xác nơi đất khách quê người.
-> vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, nhịp điệu câu thơ
chậm, giọng trầm lắng đã nhấn mạnh sự nhỏ bé, lạnh lẽo, hoang vu, quạnh vắng của những
nấm mồ rải rác ở nơi xa xứ.Khơi gợi lên cảm xúc đau đớn, xót xa, tiếc nuối khôn nguôi ở trong
lòng người.
+ Sử dụng từ Hán – Việt : biên cương, viễn xứ -> vừa tạo sắc thái cổ kính, trang trọng, thiêng
liêng làm cho những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở
thành những nấm mồ chí tôn nghiêm, vừa làm nhẹ đi, vơi đi những mất mát, bi thương, đau
đớn đang hiện hữu lúc bấy giờ.
Có thể thấy câu thơ nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu nói về cái chết,
về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc
một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm
mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những
nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những
người đồng đội.
Mặt khác, chính cái bi thương, mất mát của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi
tráng trước lí tưởng quên mình, sẵn sàng xả thân cho lí tưởng cao đẹp của dân tộc “
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
-> Giọng thơ vang lên một cách mạnh mẽ, dứt khoát, đầy khẩu khí.
-> Mang âm hưởng của một lời thề, một lời tâm niệm thiêng liêng “ Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Có thể nói những người lính họ xem cái chết “ nhẹ tựa lông hồng”.
Họ đi vào cõi chết như đi vào một giấc ngủ nhẹ nhàng, thanh thản vô cùng.
+ Sự hy sinh của người lính còn được biểu đạt trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về
đất". Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình ảnh "da ngựa bọc thây" đầy vinh quang thì
người lính tây tiến với hình ảnh "áo bào thay chiếu" đấy sức mạnh ngợi ca. Thực tế,
những người lính gục chết trên chiến trận nhiều khi manh chiếu cũng không có, huống
chi là "áo bào". Người lính hy sinh, trên người đâu còn lại gì. Thế nhưng, ở đây, Quang
Dũng đã mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho vua chúa quý
tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh
dành cho người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu.
+Do đó, hình ảnh "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa, mỹ lệ hóa
sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao có
vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh để làm
nhẹ đi, vơi đi nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho
những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ
chỉ trở về với đất mẹ. Bởi chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại trở về với đất
mẹ.Đất mẹ nhân từ mở rộng vòng tay ấm áp để đón những người con
thân yêu trở về với non sông, đất nước, về với cội nguồn của sự sống. Do
đó,cái chết của những người lính Tây tiến đã trở thành những cái chết
bất tử, vĩnh hằng với thời gian. Linh hồn của các anh trở thành hồn
thiêng của non sông, đất nước.
+Kết thúc đoạn thơ là hình ảnh “ Dòng sông Mã gầm lên khúc độc
hành”.Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng bi hùng
của khúc chiêu hồn tử sĩ dội lên từ chữ "gầm". Thiên nhiên đã tấu
lên khúc nhạc dữ dội, oai hùng của nó, vừa là để đưa tiễn hồn người
chiến sĩ về nơi vĩnh hằng, vừa nâng cái chết lên tầm sử thi hoành
tráng, lớn lao, cao cả vô cùng. Các anh ra đi và lại trở về với đất mẹ,
về với những người anh hùng dân tộc đã ngã xuống, là tiếp nối
truyền thống cha ông. Và phải chăng tiếng gầm của dòng sông Mã
cũng chính là tiếng lòng của người còn sống? Bởi cái chết của đồng
đội không làm họ chùn bước mà chỉ làm tăng thêm lòng quả cảm và
chí căm thù đánh giặc cứu nước mà thôi.
• Đánh giá:
Từ sự kết hợp một cách hài hoà nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực với lãng mạn.Sử dụng triệt để
thủ pháp tương phản, đối lập, cường điệu, phóng đại ,cách nói giảm, nói tránh,ngôn ngữ giàu giá trị
tạo hình, giàu chất thơ,chất nhạc và hoạ, giọng thơ trầm hùng, bi tráng, vận dụng các từ Hán – Việt.
Quang Dũng đã tạc dựng thành công bức chân dung, bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân
thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả
dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài
được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó còn là bức tượng đài được khắc tạc
bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ
bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con
anh hùng của dân tộc.
• Kết bài:
Tóm lại, khổ thơ thứ ba trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên tượng đài bất tử về người lính Tây
Tiến. Người lính ấy không chỉ là những chàng trai trẻ tuổi hào hoa mà còn là những người anh hùng
kiêu hãnh của đất nước. Họ mang trong mình tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, khát vọng hòa
bình và lời thề quyết tâm hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là một lý tưởng thật cao đẹp, kiên trung, đáng để
mọi người trân trọng, ngưỡng mộ, ngợi ca, tự hào.
. Đoạn 4. “ Tây tiến người …về xuôi”
a. Hai câu thơ đầu:
+ Nhắc lại lời hẹn ước của những chàng trai Tây tiến thuở mới lên đường “ Nhất
khứ bất phục phản” ( Ra đi không hẹn ngày trở về). Họ chỉ trở về với gia đình,
quê hương khi đất nước đã sạch bóng quân thù.
+ Tâm thế của người lên đường đã thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của người anh
hùng mang màu sắc riêng của một thời khói lửa.-> Đẹp, cao cả, thiêng liêng.
b. Hai câu cuối:
+ Lời tự nhắc nhở,vừa là sự duyệt lại lòng mình để khẳng định một chân lí không
thể nào lãng quên về những chặng đường đã qua bằng việc tác giả vận dụng
cách nói mang tính đối lập: Sầm Nứa ( tâm hồn) >< Về xuôi ( thể xác).
-> Như vậy dù người có đi đâu, về đâu thì tâm hồn,tình cảm vẫn luôn gửi về Sầm
Nứa, về với miền Tây Bắc. Bời vì những chặng đường đã qua là kỉ niệm,là đồng
đội, là sự hiến dâng,là cuộc đời riêng có dịp phát sáng trong cuộc đời chung của
dân tộc.
Văn bản: Sóng – Xuân Quỳnh.
I. Mở bài:
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất cho thế hệ các
nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc và cũng
là gương mặt đáng chú ý của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh là
tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa
chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời
thường. Do đó, Xuân Quỳnh được xem là nhà thơ của tình yêu, của hạnh phúc
đời thường.Ngoài những tác phẩm đã trở thành ca khúc bất tử như “Thuyền và
biển”, “Thơ tình cuối mùa thu" thì “Sóng” cũng là bài thơ về tình yêu có sức
sống lâu bền trong lòng bạn đọc. “Sóng” không chỉ thể hiện những nét tương
đồng, những chiều dài của nỗi nhớ, những băn khoăn trong tình yêu mà còn thể
hiện những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình yêu. Những
nỗi niềm khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn thơ sau:(Vấn đề nghị
luận)
II. Thân bài:
1.Khái quát:

+ Sóng được viết vào năm 1967, nhân một một chuyến đi thực tế ở vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình), là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ, phong
cách thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc
chiến hào” (1968). Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những
đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín chắn về
tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác
giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát
vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.
+ Văn bản được viết theo thể thơ ngũ ngôn. Phù hợp với việc diễn tả nhịp điệu
của sóng, nhịp điệu của tình yêu trong cuộc sống con người.
+ Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh sóng. Đó là một hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu,
là sự phân thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. Cùng với hình tượng sóng, bài thơ còn có hình tượng
Em. Hai nhân vật trữ tình này có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có
lúc lại hòa nhập vào nhau tạo nên một âm vang. Xuân Quỳnh thật tài tình khi sáng tạo hình tượng sóng
giàu giá trị thẩm mĩ để diễn tả tâm trạng, tình cảm với nhiều cung bậc sắc thái của một trái tim phụ nữ
khao khát tình yêu và hạnh phúc.
2. Phân tích khổ 1,2,3,4.
a. Khổ 1,2.
• Khổ 1. Những đặc tính và hành trình của sóng
*Những đặc tính của sóng.
+ Hai câu thơ mở đầu với nghệ thuật tương phản đối lập kết hợp với 4 tính từ trái nghĩa  : dữ dội- dịu
êm, ồn ào- lặng lẽ đã làm nên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực.
+ Cách ngắt nhịp thay đổi linh hoạt lúc 2/3,lúc 3/2, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã
cho thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng. Với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là
những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận
động và có sự chuyển hóa lẫn nhau. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển dữ dội, ồn ào,còn
những giây phút sóng gió đi qua thì biển lại trở nên hiền hòa, dịu êm, lặng lẽ. Đó là những đặc tính đa
dạng, khác nhau của sóng,là quy luật muôn đời bất biến của thế giới tự nhiên.
+ Xuân Quỳnh nói sóng, miêu tả nhịp sóng , nhưng thực ra tác giả
đang muốn mượn nhịp sóng để nói tới nhịp lòng của chính mình
trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa của tình yêu. Tình yêu của
người con gái cũng vậy, có bao giờ yên định đâu, bởi có lúc họ yêu rất
nồng nàn, tha thiết, yêu mãnh liệt,dữ dội hết mình với những nhớ
nhung, đôi khi ghen tuông, giận hờn vô cớ, nhưng cũng có lúc người
con gái thu mình trở về với nét nữ tính, đáng yêu, họ lặng lẽ, dịu êm,
trầm lắng, suy tư, chiêm nghiệm.
+ Như vậy “ sóng” là một hình ảnh ẩn dụ, mang ý nghĩa biểu tượng
cho tình yêu, cho sóng lòng ở trong lòng người. Thi sĩ Xuân Quỳnh đã
vận dụng một cách khéo léo, tài tình để rồi từ quy luật vận động của
sóng, của thế giới tự nhiên để nói tới quy luật tình cảm của con
người.
*Hành trình của sóng: Hướng ra bể rộng.
Có thể nói, với những đặc tính phức tạp của mình, sóng đã sớm rời bỏ không gian chật chội, tù túng, nhỏ
hẹp, bế tắc đó là sông để tìm đến với không gian thoáng đãng, mênh mông, bao la, rộng lớn đến khôn
cùng của biển cả, hoà nhập với sóng biển, với đại dương để khám phá những hiểu biết về chính bản thân
mình.
+ Vận dụng nghệ thuật nhân hoá qua động từ “ tìm” đã thể hiện:
-> Sự chủ động của sóng trong việc rời bỏ sông để tìm ra bể lớn. Và đó cũng chính là cuộc hành trình
chất chứa một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, bền bỉ để vươn tới, hướng tới những giá trị tuyệt đích,
tuyệt đỉnh của chính bản thân.
+ Qua hành trình của sóng, dụng ý của tác giả muốn nói đến hành trình của tình yêu. Người phụ nữ khi
yêu cũng vậy, họ không cam chịu, thụ động để chấp nhận sự sắp đặt của người khác mà giống như sông
biết dứt khoát, tự tin,mạnh mẽ thoát khỏi sự ràng buộc, chật chội, tù túng, ngột ngạt, bế tắc của thứ
tình cảm thông thường, nhỏ nhen, ích kỉ để chủ động vươn tới sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt của một
tình yêu đích thực. Tìm thấy sự cộng hưởng, sự đồng điệu trong cảm xúc, tư tưởng, tâm hồn.
-> Đây là một khát vọng chính đáng, cao cả, đẹp đẽ, đậm chất nhân văn.
-> Thể hiện quan niệm về tình yêu mới mẻ, tiến bộ của người phụ nữ trong thời hiện đại. Điều này khác
với quan niệm của XHPK ngày xưa “ Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” để rồi biết bao cô gái phải cất lên
tiếng than đau đớn, ai oán, não nùng, xót xa cho thân phận, số kiếp của mình “ Thân em như tấm lụa
đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.
* Khổ 2. Nhà thơ đã phát hiện ra quy luật của sóng cũng là quy luật của tình yêu con người.
+ Thán từ “ôi” được đặt lên đầu câu kết hợp với hai trạng từ chỉ thời gian: “ngày xưa - ngày
sau”, từ “vẫn thế” đã thể hiện niềm sung sướng của nữ sĩ khi phát hiện ra quy luật của “sóng”
là quy luật của sự vĩnh hằng. Con sóng ngày xưa, ngày nay,ngày sau vẫn thế – nghĩa là sóng
ngàn năm vẫn vỗ mãi vào bờ thể hiện niềm khát khao bờ trong mối tình thủy chung, bất diệt.
Sóng muôn đời không thay đổi thì tình yêu sẽ mãi mãi song hành cùng với con người và khát
vọng tình yêu cũng sẽ là khát vọng muôn đời mà thể hiện rõ nhất là tuổi trẻ.
+ Ý niệm vĩnh hằng không chỉ hiện qua thời gian mà còn hiện qua không gian. Biển tựa như
lồng ngực lớn lao của đất trời. Nhịp đập của sóng giống như hơi thở cồn cào của biển. Còn
biển, còn sóng và còn con người thì sẽ mãi còn tình yêu thương bất diệt. Chữ “trẻ” được Xuân
Quỳnh khéo léo đặt cuối dòng thơ như muốn nhấn mạnh tình yêu là sức sống, là nhịp đập của
tuổi trẻ, tình yêu mang đến sự tươi tắn, viết lên thanh xuân có ý nghĩa cho cuộc đời mỗi con
người. Và xét cho cùng không chỉ riêng nhà thơ mà bất cứ ai cũng đều khát khao cháy bỏng
một tình yêu vĩnh hằng, trường tồn với không gian, thời gian.
*Khổ 3,4. Tiếp tục nghĩ về sóng và cội nguồn của tình yêu đôi lứa.
+ Những câu thơ thốt ra khi sóng đã hoàn thành nhiệm vụ vươn ra biển lớn. “Giữa
muôn trùng sóng bể” – con sóng ấy đã phá vỡ được giới hạn của mình để đi tới đích
tìm kiếm tình yêu chân chính. Đứng trước một nơi mênh mông như biển cả, “em” có
cơ hội được nhìn nhận về anh, về chính mình và về tình yêu:
“Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên”
+ Đáng lẽ, cuộc hành trình vươn ra biển lớn phải là của sóng nhưng ở đây, tác giả đã
đồng nhất hình tượng sóng và em, để ngầm nói rằng thật ra đây cũng chính là hành
trình em đi tìm cội nguồn của tình yêu lứa đôi thuần khiết.
+ Bằng việc sử dụng điệp từ,điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu đã
thể hiện một nhu cầu tự nhận thức về nơi khởi nguồn của sóng, niềm khát khao tìm
kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lí giải cặn kẽ nơi khởi sinh của tình yêu con
người.
+ Và càng yêu nhiều bao nhiêu người ta lại càng khao khát muốn thấu hiểu bấy nhiêu. Do đó,
đáp án của câu hỏi: "Từ nơi nào sóng lên?" thật đơn giản, chóng vánh: "Sóng bắt đầu từ gió".
Nhưng đáp án của câu hỏi "Gió bắt đầu từ đâu?" lại khiến người ta ngập ngừng, không chắc
chắn "không biết nữa".
+ Những câu hỏi tu từ được đặt ra liên tiếp thể hiện sự băn khoăn, day dứt, trăn trở, nghĩ suy,
tác giả đã bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn của tình yêu, đồng thời lý giải bản chất
của nó.
+ Cuối cùng đáp án nhận được lại là: "Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau". Nó vừa
giống như câu trả lời đầy nũng nịu,đáng yêu lại như lời thú nhận mộc mạc,giản dị, tự nhiên,
chân thành, đầy nữ tính về kết quả khám phá cội nguồn tình yêu bởi thực sự không thể lý giải
được ngọn nguồn của tình yêu xuất phát từ đâu. Thứ tình cảm ấy nó đến một cách kỳ lạ, bỗng
dưng thổn thức, bỗng dưng tương tư và yêu thương người ta lúc nào không hay. Tình yêu có
thể bắt đầu từ cái nhìn đầu tiên, thoáng qua những cũng đủ lưu lại trong tâm trí ta một ấn
tượng khó phai. Như vậy, tình cảm của em dành cho anh là thật, nó mãnh liệt và đầy dâng tràn
như những con sóng vỗ ngoài kia nhưng để lý giải thì em không biết. Em chỉ biết giây phút em
dành tình yêu cho anh thì mọi thứ chẳng còn tiêu chuẩn gì, em chỉ khao khát được sống trong
tình yêu của anh mà thôi.
3. Đánh giá:
Có thể nói, chỉ 4 khổ thơ ngắn gọn nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng những biện pháp
nghệ thuật đối lập, nhân hoá, ẩn dụ, điệp từ, điệp cấu trúc cùng những câu hỏi tu từ dồn dập,
kết hợp với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt tạo âm hưởng dạt dào, da diết, hình ảnh
thơ giàu sức gợi tả. Để rồi qua việc tạo dựng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã thể hiện được
những chiêm nghiệm, suy ngẫm về đặc tính , hành trình,quy luật,cội nguồn của sóng cũng là
của tình yêu. Đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, nét truyền thống pha lẫn vẻ hiện
đại của người phụ nữ với tình yêu chân thành, tha thiết. Đó còn là khát khao được dâng hiến,
đắm chìm trong tình yêu dạt dào, nồng nàn và vĩnh cửu.Và sau này dù cho cuộc đời có trải qua
nhiều đắng cay nhưng khát khao đó vẫn luôn luôn cháy bỏng trong trái tim nhiệt thành của nhà
thơ.
III. Kết bài:
Tóm lại, 4 khổ thơ đầu bài thơ sóng là những khổ thơ hay nhất của bài thơ. Qua đoạn thơ,
người đọc cảm nhận được trái tim yêu của sóng và người phụ nữ rất nồng nàn say đắm, mãnh
liệt cuộn trào nhưng cũng rất nữ tính đáng yêu. Đoạn thơ giúp ta hiểu được tình cảm và hồn
thơ Xuân Quỳnh, dù trong mọi hoàn cảnh như thế nào thì tiếng thơ của chị vẫn là tiếng thơ hồn
hậu với những khát vọng hạnh phúc bình dị, đời thường.
• Phân tích khổ 5,6,7,8,9.
Mở bài:
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất cho thế hệ các nhà thơ
trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc và cũng là gương mặt
đáng chú ý của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một
tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và
luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Do đó, Xuân Quỳnh
được xem là nhà thơ của tình yêu, của hạnh phúc đời thường.Ngoài những tác phẩm
đã trở thành ca khúc bất tử như “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu" thì “Sóng”
cũng là bài thơ về tình yêu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc. “Sóng” không chỉ
thể hiện những nét tương đồng, những chiều dài của nỗi nhớ, những băn khoăn trong
tình yêu mà còn thể hiện những suy tư lo âu trăn trở trước cuộc đời và khát vọng tình
yêu. Những nỗi niềm khát vọng ấy được thể hiện rõ nét trong đoạn thơ sau:( Đưa vấn
đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài:
1.Khái quát:
+ Sóng được viết vào năm 1967, nhân một một chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái
Bình), là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ, phong cách thơ giàu chất nữ tính của Xuân
Quỳnh. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi
25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín chắn
về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng
không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một
nhu cầu tự nhận thức, khám phá.
+ Văn bản được viết theo thể thơ ngũ ngôn (5 chữ). Phù hợp với việc diễn tả nhịp điệu của sóng,
nhịp điệu của tình yêu trong cuộc sống con người.
+ Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh sóng. Đó là một hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang
yêu, là sự phân thân của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh. Cùng với hình tượng sóng, bài thơ còn có
hình tượng Em. Hai nhân vật trữ tình này có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự
tương đồng, có lúc lại hòa nhập vào nhau tạo nên một âm vang. Xuân Quỳnh thật tài tình khi sáng
tạo hình tượng sóng giàu giá trị thẩm mĩ để diễn tả tâm trạng, tình cảm với nhiều cung bậc sắc
thái của một trái tim phụ nữ khao khát tình yêu và hạnh phúc.
2. Phân tích khổ 5,6,7,8,9.
a.Khổ 5.Nỗi nhớ nhung da diết của người con gái khi yêu.
+ Xét về mặt dung lượng thì đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong
“Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ
tâm điểm của tác phẩm, tô đậm rõ hơn độ dài, độ sâu, độ rộng của nỗi nhớ mà dung
lượng của khổ thơ 4 câu không thể nào dung chứa và biểu đạt được.
+ Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ
tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng
con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ,
những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một
con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương
“bờ”.
+ Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể
cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển.
+ Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước” - “dưới lòng
sâu”, “ngày” - “đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng
hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng.
Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì
con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình.
Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian
mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm
vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”.
+Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải
cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Có thể nói,nỗi nhớ da diết
trong tâm hồn của người con gái đã vượt qua mọi trạng thái, đi từ miền ý thức cho đến những lúc vô
thức. Nó tồn tại ở mọi lúc, mọi nơi thường trực trong sâu thẳm trái tim em và có thể bất giác trào lên
những cảm xúc nghẹn ngào .
+ Do đó, đọc những câu thơ này, người đọc không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh
liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng nỗi nhớ bao trùm cả không gian,
kéo dài theo thời gian.
+ Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin,
trực tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản khắt khe của xã hội mà chủ
động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Nhà thơ đã dùng từ “lòng” thật chính
xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của
tâm hồn, là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài trải qua biết
bao gian nan, thử thách.Do đó, “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị,
chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Để rồi,ban ngày em nhớ anh vẫn còn
chưa đủ mà ban đêm những nỗi nhớ ấy lại len lỏi trong cả những giấc mơ,lắng sâu vào
trong tiềm thức.  Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất
cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt vô cùng mới có thể đủ can đảm để khẳng định được
tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu
tự do,mang nét hiện đại mới mẻ của Xuân Quỳnh.
b. Khổ 6 Sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu của người phụ nữ.
+ Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn để hướng tới một
tình yêu khoáng đạt, trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình
cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng
một dạ với người mình yêu.
+ Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của nhà thơ thật thú vị, mới lạ:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”.
Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật
thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là
hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định
rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà
thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật có đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ
thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt,
mặn nồng trong tình yêu.
 
+ Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ,điệp cấu trúc “dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và
chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn
thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những
khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
+ Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Lời thơ đọc lên như tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ở đây, ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng mà chỉ
nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù
đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải
cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám
hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất - phương anh. Phương của tâm trạng, phương của người con gái
đang yêu nồng nàn, tha thiết, đắm say, mãnh liệt.
+ Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu
lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của
mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của
cuộc đời.
=>Tấm lòng thủy chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây
cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của
người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
c. Khổ 7,8. Tình yêu sẽ chiến thắng mọi khó khăn, gian nan, thử thách
+ Hình ảnh “ đại dương với trăm ngàn con sóng” và “ con sóng sẽ tới bờ dù muôn vời cách trở” đã gợi
lên không gian biển cả mênh mông, bao la,rộng lớn, vô cùng vô tận. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng
hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội,
ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc
hành trình tìm về bến bờ quen thuộc.
+Hai câu thơ sau là sự khẳng định:
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
+ Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”, câu sau như một điều kiện
“dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế, khéo léo của nhà thơ. Khi ta muốn khẳng định điều
gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở
nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù
bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua
không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ
vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu,đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua
bao khó khăn, gian nan, thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh
liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc.
 + Chuyển sang khổ 8
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
+ Thời gian và không gian được đặt trong hai bình diện đối lập: “cuộc đời” và “năm tháng”;
“biển cả” và “mây trời”. “Cuộc đời” chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp người, “năm
tháng” là hoán dụ cho dòng thời gian vô thủy vô chung; “biển cả” là một không gian mênh
mông nhưng vẫn chỉ là hữu hạn, còn “mây trời” lại gợi sự phiêu du trong vũ trụ vô cùng vô
tận.
 + Sử dụng cặp quan hệ từ: Tuy vẫn; Dẫu vẫn đã cho thấy cuộc đời tuy dài, biển cả tuy rộng
nhưng năm tháng sẽ đi hết cuộc đời như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với những
không gian bao la trong vũ trụ khôn cùng. Do đó,khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự
trôi chảy của thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu, cảm giác hữu hạn
này thường xuất hiện ở những con người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn
thương trong lòng như chính cuộc đời của nữ thi sĩ đã từng trải qua và vì thế, luôn khao khát
sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn.
+ Thời gian cứ thế trôi đi, bốn mùa luân chuyển, nó chẳng bao giờ vì ai mà dừng lại cũng
chẳng đứng lại chờ ai bao giờ. Tình yêu là vô biên, là vĩnh cửu, trường tồn mãi với thời gian.
Sóng biển ngàn năm nó vẫn thế, vẫn lăn mãi vào bờ chỉ có thời gian cuộc đời con người là
hữu hạn. Lúc này ta có thể thấy được những lo âu, trăn trở, nghĩ suy của Xuân Quỳnh về sự
bền vững của tình yêu. Đối với Xuân Quỳnh, dù biển kia có “rộng” lớn bao nhiêu, bao dung
đến mấy như tình yêu của người thi sĩ thì áng mây là tình yêu nhỏ bé mong manh vẫn có thể
“bay về xa” mãi mãi. Tâm hồn người phụ nữ khi yêu là thế, dù có đang hạnh phúc bao nhiêu,
say đắm bao nhiêu thì vẫn mang trong lòng một chút trắc trở và hoài nghi về sự bền chặt của
tình yêu.
+Nhưng những dự cảm, lo âu không đem lại một cách ứng xử tiêu cực, bi quan mà trở thành
nguồn gốc của những khát vọng mãnh liệt trong tâm hồn Xuân Quỳnh.
d. Khổ 9. Khát vọng mãnh liệt trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu.
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
+ Hai từ “làm sao” mở đầu câu thơ vang lên như một câu hỏi tu từ cho thấy nhà thơ đang băn
khoăn, day dứt, trăn trở, nghĩ suy, mong mỏi tìm kiếm một phép màu để có được tình yêu chân
thành, hạnh phúc trọn ven.
+ Từ những con sóng lòng trong tình yêu, tác giả khát khao “được tan ra” thành “trăm con sóng
nhỏ”. Đối với trái tim đang yêu của người phụ nữ, dường như một con sóng vẫn chưa đủ, một con
sóng quá nhỏ bé so với “biển lớn tình yêu” mênh mông,rộng lớn. Bởi thế ước muốn hoá thân
thành “trăm con sóng nhỏ” của nhà thơ là khát vọng vô cùng chính đáng, bay bổng, lãng mạn.
+Nhà thơ không chỉ ước muốn tan ra thành trăm con sóng mà còn khát khao “ngàn năm còn vỗ”
để vĩnh viễn hóa tình yêu của mình, để tình yêu trường tồn sống mãi với thời gian. Vượt ra cái
ngưỡng của thời gian trăm năm để hướng tới thời gian của “ ngàn năm”. Đọc câu thơ, người đọc
hình dung ra những con sóng đang xôn xao va đập trên biển lớn, từng con sóng cứ dồn dập nối
tiếp nhau vào bờ. Đó cũng chính là nhịp tim, là tiếng sóng lòng của thi sĩ Xuân Quỳnh vẫn đang rạo
rực,thiết tha, khao khát và đắm say được sống với tình yêu vĩnh hằng,bất tử.
Và có thể thấy, con sóng Xuân Quỳnh giàu nữ tính ở chỗ nó tìm hạnh phúc không phải để hưởng
thụ mà là dâng hiến cho cuộc đời.Hoà cái tôi nhỏ bé vào cái ta chung rộng lớn của nhân loại. Hạnh
phúc được dâng hiến là vẻ đẹp thánh thiện của phụ nữ trong tình yêu.
3. Đánh giá:
+ Những đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, sự thuỷ
chung son sắt mặn nồng trong tình yêu, sự vượt qua mọi khó khăn
gian nan, thử thách để khẳng định một tình yêu vững bền trong
tâm hồn của người con gái khi đã yêu. Ngoài tình yêu riêng, mang
vẻ đẹp truyền thống lại thêm một ước vọng, một tình yêu bất tử,
vĩnh hằng, đậm chất nhân văn của tình yêu chung trong tâm hồn
người phụ nữ. Phải chăng, tình yêu là sự kết hợp hài hoà giữa cái
riêng và cái chung, giữa bản thân và cộng đồng, quê hương và đất
nước.
+ Xuân Quỳnh đã sử dụng thể thơ năm chữ, với nhịp thơ uyển
chuyển, nhẹ nhàng, linh hoạt. Những vần thơ có giá trị biểu cảm
cao, mang tính triết lí, chất suy tưởng, kết hợp với biện pháp tu từ
đặc sắc như nhân hóa, ẩn dụ, tương phản đối lập, điệp từ ,điệp
ngữ, điệp cấu trúc câu,…
III. Kết bài:
Qua những gì đã phân tích ở các khổ thơ, ta có thể thấy được tình yêu của
người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, thủy chung cùng với những khát vọng tình
yêu mãnh liệt và khao khát vươn tới sự vĩnh hằng, bất biến nhưng vẫn chứa
đựng những dự cảm của sự lo âu qua nhãn quan của một người phụ nữ đa sầu,
đa cảm. Tình yêu đã được khám phá, nhìn nhận thông qua hình tượng “sóng”
trong sự hòa quyện, sóng đôi với hình tượng nhân vật trữ tình “em”. Hình
tượng “em” vừa mang nét truyền thống lại vừa mang nét hiện đại, chủ động
tìm đến tình yêu, táo bạo thể hiện nỗi nhớ, niềm lo âu. Bằng ngôn ngữ trong
sáng và bình dị, những đoạn thơ nói riêng và bài thơ “ sóng” nói chung đã để lại
nhiều ấn tượng sâu sắc, khó phai mờ trong lòng người đọc, người nghe.
Tác phẩm : ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
I. Mở bài:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ
trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc. Trong sự nghiệp
sáng tác thơ ca, ông đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học cách mạng Việt Nam
rất nhiều tác phẩm thơ hay viết về đề tài đất nước, chiến tranh và người lính. Một trong
những tác phẩm tiêu biểu nhất và được đánh giá là đỉnh cao cho sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Khoa Điềm có thể kể đến là bản Trường ca “Mặt đường khát vọng” trong đó có
đoạn trích “ Đất nước”. Đoạn trích viết về chủ đề đất nước và hình ảnh đất nước được làm
nên bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn, độc đáo bởi cảm xúc nồng nàn cùng những suy
tư sâu lắng về đất nước, về con người Việt Nam.Giọng điệu thơ thấm đẫm chất trữ tình
chính luận thiết tha, sâu lắng. Cũng qua những cảm nhận về đất nước, tác giả đã gợi lên ở
thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu nước nồng nàn, cùng với đó là tinh thần dân tộc và trách
nhiệm của bản thân đối với đất nước, quê hương, xứ sở…( Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II.Thân bài
Đoạn 1.( 9 câu thơ đầu “ Khi ta lớn lên…Đất Nước có từ ngày đó”)
Vấn đề cần nghi luận: Tác giả tập trung đi vào lí giải cội nguồn của đất nước để trả
lời cho câu hỏi : Đất Nước có từ bao giờ?
1.Khái quát về tác phẩm trường ca “ Mặt đường khát vọng” và đoạn trích “Đất
nước”
+ Trường ca “ Mặt đường khát vọng” được Nguyễn khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị
Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, thời điểm miền Nam bị tạm chiếm, đế quốc Mĩ và bọn
tay sai ra sức xuyên tạc về Đảng Cộng Sản, về cách mạng nhằm lôi kéo,dụ dỗ, mua chuộc
thanh niên vào chốn ăn chơi và quên đi trách nhiệm với đất nước. Bản trường ca ra đời đã
đánh thức tinh thần trách nhiệm và giúp thế hệ trẻ tự nhận thức rõ hơn về vai trò và trách
nhiệm của mình đối với đất nước, để từ đó biết xuống đường đấu tranh, hoà nhịp vào
cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
+ Đoạn trích “ Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca, được xem là
chương trụ cột và được đánh giá là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về đề tài
đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
2.Phân tích.
*Luận điểm 1.Đất nước có từ bao giờ?
+Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi “.Lời
khẳng định đã cho thấy, đất nước đã có từ rất lâu,rất xa, chúng ta không thể
đong ,đo, đếm được mà nó tồn tại như một điều hiển nhiên với chiều sâu cội
nguồn và chiều dài về sự hình thành phát triển suốt bốn ngàn năm văn hiến của
dân tộc.
+ Đặc biệt, ngay từ dòng thơ mở đầu, tác giả đã viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như
một niềm tôn kính,thiêng liêng. Với nhà thơ,đất nước từ lâu đã mang một linh hồn
dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng
liêng, ruột thịt này.Chỉ bấy nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm
hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức
sống lâu bền của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu lắng.Cùng với đại
từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được
ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi
qua.
b. Luận điểm 2: Quá trình hình thành đất nước?
“ Đất nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Hai câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp của đất nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục, tập quán
của dân tộc. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là đã diễn tả rất
nhẹ nhàng, tinh tế về sự ra đời của Đất Nước.
+ Tác giả đã mượn chất liệu văn học dân gian để viết về đất nước. Do đó, đất nước không
phải là một khái niệm trừu tượng mà hiện lên vô cùng thân quen và gần gũi trong cuộc sống
hàng ngày của mỗi con người qua những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay
kể. Bởi trong những câu chuyện mẹ kể là những bài học đạo lý dạy ta cách làm người, biết
phân biệt thiện ác,đúng sai, tốt, xấu, sống phải biết ơn, thủy chung son sắc, là nguồn sữa
ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mỹ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người.
+ Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái
buổi ban đầu ấy qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà
Việt Nam, đó là phong tục ăn trầu.Đất Nước lớn lao, kì vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng
trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả
những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ.
+ Câu thơ gợi nhớ về câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong
những câu chuyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên. Như vậy là thẩm
thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ
phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng
là biểu tượng tâm linh của người Việt.
+ Một đất nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý
báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
+Nhà thơ đã liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước
lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc
cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc.
Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà
đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt
Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. 
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trong mỗi làng quê. Nó như là sự đồng
hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu
chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường, cứng cỏi, bất khuất trong tranh đấu.
 + Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm,Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp
thuần phong mỹ tục của con người Việt:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Trước hết, đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục
“búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy) đã tạo cho họ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng, mang
đậm cốt cách người phụ nữ Việt.
+ Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên
mảnh đất quê hương . Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm
biết bao ân tình, ân nghĩa. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già
càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà đất nước đã ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn
trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”.
+ Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là
kiểu làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau để cho ngôi nhà được vững chãi,
bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình
đoàn tụ, sum vầy bên nhau; siêng năng tích góp dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt
tên con cái kèo, cái cột cũng ra đời.
+ Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần
cù,chăm chỉ, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần
sàng”.
+ Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi lên truyền thống lao động cần cù, chăm chỉ,
chịu thương, chịu khó của cha ông ta trong đời sống nông nghiệp lúa nước. Để làm
ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua biết bao nắng mưa vất vả
gieo cấy , chăm sóc. Do đó,các động từ “xay – giã – dần – sàng” là quy trình sản
xuất ra hạt gạo. Và thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn chát của những giọt
mồ hôi nhọc nhằn của những người nông dân lao động chân lấm tay bùn từ bao
đời nay.
+ Từ tất cả các yếu tố trên, câu thơ cuối cùng khép lại bằng một câu khẳng định với niềm tự hào lớn lao, cao
đẹp: Đất Nước có từ ngày đó.
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày
ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều nét văn hoá riêng biệt khác với quốc gia
khác trên thế giới. Đó là ngày ta có đất nước của dân tộc Việt Nam.
3. Đánh giá
Bằng việc vận dụng khéo léo, tài tình các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc,tục đặt
tên con cái, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, tình nghĩa vợ chồng thuỷ chung, son sắt, truyền thống làm nông
nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, tinh tế giọng
thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí, chiêm nghiệm, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến
cho người đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước, về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ
truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn tư tưởng đất nước của nhân
dân. Điệp từ, điệp ngữ Đất Nước được nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ luôn luôn viết hoa
hai từ Đất Nước đã tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm đà không
gian văn hóa người Việt.
III. Kết bài:
Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình
ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và đoạn trích “Đất nước” nói
chung, ta cảm nhận như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu
ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu, thêm quý quê hương Tổ quốc của mình.

You might also like