You are on page 1of 237

TÁC PHẨ M CHỌN LỌC

(DÙNG TRONG NHÀ TRƯỜNG)

Thơ
TỐ HỮU

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO d ụ c GIẢI PHÓNG— 1974


LỜ I NÓI ĐẦU

Trong chương trình văn học ở bậc phổ thông theo hệ thống 12 năm của ta, học
sinh học khá nhiều về thơ Tố Hữu, qua các bài tập đọc, học thuộc lòng, giảng văn, văn
học sử Việt nam v.v . . . , vì thơ Tố Hữu có một vị trí quan trọng trong nền thơ ca cách
mạng, cũng như trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca.
Thơ Tố Hữu, cho đến nay, đã xuất bản được bốn tập chính : 1) T ừ ấy (1937 —
1946) ; 2) V iệt b ắc (1946 — 1954) ; 3) Gió lộ n g (1955— 1961) ; 4) Ra
trận (1962 — 1971) và sau tập « Ra tr ậ n », tác giả còn tiếp tục sáng tác.
Nhằm giúp cho học sinh, nhất là học sinh cấp 2 và cấp 3 có tài liệu đọc thêm về
thơ Tố Hữu, chúng tôi xuất bản tuyển tập « Thơ Tố Hữu » (giới thiệu và chọn lọc)
này, để qua đây học sinh hiểu thêm về Tố Hữu, hiểu thêm về xu hướng của thơ ca
cách mạng Việt nam hiện đại, mà Tố Hữu là người tiêu biểu nhất.
Trong nội dung tuyển tập, ngoài phần chọn lọc những bài thơ hay, tiêu biểu, có
phần « g iớ i tliiệu ch u n g » đề người đọc có thể nhìn tồng quát về quá trình phát triển
của thơ Tố Hữu và các phần g iớ i thiệu riên g về từ n g tập thơ của Tố Hữu,
để học sinh nắm được những đặc điểm cơ bản của từng tập thơ đó.
Về các bài thơ chọn lọc, do muốn để cho học sinh sau khi đọc mỗi bài thơ, tự tìm
hiểu, cảm thụ cái hay, cái đẹp của nó, cho nên chúng tôi không có gợi ý gì thêm.
Mong rằng tập « Thơ Tố Hữu » này, cũng như những tác phẩm chọn lọc khác,
sẽ đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng học tập văn học trước mắt và lâu
dài của học sinh miền Nam chúng ta.

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC GIẢI PHÓNG


GIỚI THIỆU CHUNG
VỀ TỐ HỮU VÀ THƠ TỐ HỮU

«Huế ơi, quê mẹ của ta ơ i . ..»


Tố Hữu là người Huế. Tên thật của nhà thơ là Nguyễn Kim
Thành, sinh năm 1920, sau Cách mạng tháng 10 Nga ba năm :
«Liên xô nở trước đời tôi ba tuổi »
Quê hương xứ Huế, với sống Hương, núi Ngự, với những điệu
hò mái nhì, mái đẩy ,... đã nhiều lần in đấu và lắng đọng trong thơ
T ố Hữu.
Đọc thơ Tố Hữu, đôi khi nghe như có giọng hò xứ Huế :
« Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi, tiềng mẹ ru nhè nhẹ.. .»
Tố Hữu sinh trong một gia đình nhà nho nghèo. Bà mẹ giàu
tình thương, hiền từ, nhưng không may mất sớm đã để lại cho
nhà thơ những kỷ niệm sâu sắc. Người cha yêu thích thơ văn, đã
giúp cho Tố Hữu — ngay từ nhỏ — thuộc nhiều thơ. T ừ bé, Tố
Hữu đã biết làm thơ đường lu ật. Cuộc sống thanh bần của gia đình
làm cho nhà thơ sớm hiểu biết những cảnh đời ngang trái trong
xã hội thực dân, phong kiến và do chung đụng với cảnh khổ chung
quanh, nhà thơ sớm có một trái tim dễ hòa nhịp với quần chúng
nhân dân.
Tố Hữu lớn lên giữa lúc phong trào «Mặt trận dân chủ » của
Đảng Cộng sản Đông dương dương cao ngọn cờ đấu tranh công
khai với thực dân Pháp. Năm 1936, nhà thơ đã giác ngộ cách mạng
và trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng, từ đó, bắt đầu trên

9
báo chí công khai, trong nhà tù thực dân nhất là sau Cách mạng
tháng T á m . . . , người ta thấy Tố Hữu là một nhà thơ «trữ tình
cách mạng» của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt nam,
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác — Lê-nin.
Từ ấy đến nay, Tố Hữu là người chiến sĩ đã chiến đấu quên
mình cho cách mạng Việt nam. Hiện nay, nhà thơ là bí thư trung
ương Đảng Lao động Việt nam.
Nhìn chung, khi người chiến sĩ trong Tố Hữu cất bước lên
đường đấu tranh cho lý tưởng cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc cũng là khi con người nhà thơ trong Tố Hữu cất tiếng
thơ để phục vụ cách mạng. T ừ ấy, con người chiến sĩ và con
người thi sĩ trong Tố Hữu, tuy hai mà một, thống nhất biện chứng
với nhau. Con người chiến sĩ đã chắp cánh cho con người thi sĩ,
và con người thi sĩ đã làm cho con người chiến sĩ có thêm một
vũ khí đấu tranh trên con đường hoạt động cách mạng của mình.
Trước Cách mạng tháng Tám, người chiến sĩ yêu nước và người
chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, trên con đường đấu tranh giành độc
lập, tự do cho xứ sở, có Từ ấy, để cổ vũ chính mình, khích lệ đồng
chí, và tuyên truyền giác ngộ quần chúng.
Trong kháng chiến chống Pháp, người cán bộ kháng chiến Tố
Hữu có thêm Việt bắc để tâm tình và động viên quần chúng tham
gia đánh giặc, giữ nước.
Kiến thiết chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống
nhứt nước nhà, người cán bộ cách mạng Tố Hữu có thêm Gió
lộng để cùng quần chúng cất tiếng reo ca trước cuộc sống mới xã
hội chủ nghĩa và cất tiếng thét căm thù, tiếng gọi đấu tranh chống
lại bọn cướp nước và bán nước ở miền Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tố Hữu có thêm Ra
trận để cùng nhân dân quần chúng hát khúc ca chiến đấu và
chiến thắng . . .
Con đường cách mạng của nhân dân, của dân tộc chúng ta hiện
nay, cũng là con đường thơ của Tố Hữu. Vinh dự cho Tố Hữu
là trên con đường cách mạng đó, nhà thơ đã cắm được những nhành
hoa tươi đẹp, tạo nên những cái mốc nhất định cho bước đường
thơ ca của mình. Nhà thơ trong Tố Hữu đã lớn lên theo bước
trưởng thành của người chiến sĩ và bước trưởng thành của cuộc

10
sống cách mạng. Lý tưởng, tâm hồn, cuộc sống cách mạng, cùng
những tình cảm lớn của dân tộc, của thời đại, với muôn màu vẻ
cao đẹp của nó, là cơ sở của tất cả những gì đẹp đẽ, cao quí trong
thơ Tố Hữu.
T ự hào về Tố Hữu, về thơ Tố Hữu, chúng ta càng tự hào
về cách mạng Việt nam, về nhân dân Việt nam, dân tộc Việt nam. . .

★★

Phải nói rằng : trong văn học Việt nam hiện đại, từ những
năm 30 trở lại đây, nói đến thơ ca cách mạng sau khi nói đến thơ
Bác Hồ — vì thơ Bác có một vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử
thơ ca nước nhà — người ta nói đến thơ Tố Hữu. Tố Hữu là
con chim đầu đàn trong làng thơ Việt nam hiện nay. Và thơ Tố
Hữu là lá cờ đầu của thơ ca Việt nam, từ sau Cách mạng tháng
Tám. Thực tiễn sáng tác của Tố Hữu đã giải quyết hàng loạt vấn
đề mà thơ ca dân tộc ta đã và đang đặt ra. Chẳng hạn như các
vấn đề : quan hệ giữa thơ ca và cuộc sống, giữa phục vụ kịp thời
và giá trị lâu dài, giữa phổ cập và nâng cao, giữa tính dân tộc và
tính hiện đại của thơ; vấn đề xác lập phong cách và tìm sự đổi
mới cho phong cách; v.v. . . cả vấn đề dịch thơ n ữ a . . . Trên thực
tế sáng tác, tất cả các vấn đề đó đều được nhà thơ giải quyết ổn
thỏa. Do đâu và nhờ đâu mà thơ Tổ Hữu có sự thành công ấy ?
Tất nhiên có vấn đề tài năng. Nhưng trước hết vẫn là vấn đề lý
tư ởng. Lý tư ởng cách mạng, làm thơ để phục vụ cách mạng, đó
là bí quyết thành công của Tố Hữu trong thơ ca. T ừ buổi đầu,
nhà thơ đã đứng vững trên lập trường cách mạng để mà sáng tác,
mà phục vụ. Từ buổi đầu, nội dung lý tưỏng cách mạng đã được
nhà thơ quan niệm rất cụ thể : giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân lao động, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng một
xã hội công bằng, không còn áp bức, bóc lộ t.. . trên đất nước Việt
nam thân yêu. Từ năm 1930 đến nay, cuộc sống của dân tộc Việt
nam ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không ngừng đi lên,
không ngừng tiến lên trên con đường đó. Kết tinh từ cuộc sống anh
hùng của nhân dân, của đất nước, trên 35 năm nay, thơ Tố Hữu

.
là bài ca về sự chiến thắng của lý tưởng cách mạng tiên tiến trên
đất nước Việt nam anh hùng
Thơ Tổ Hữu là bức tranh trung thành về hình ảnh những
con người mới và cuộc sống mới của dân tộc, của thời đại mang

11
ánh sáng của lý tưởng cách mạng trong từng chặng đường lịch sử.
Trong vừng hào quang của lý tưởng đó, những sự kiện lịch sử vĩ
đại của đất nước, những con người anh hùng của thời đại đã đi
vào thơ Tố Hữu với vẻ đẹp vốn có của mình.
Trong thực tế cuộc sống cách mạng, chúng ta có một Điện biên
phủ, một Việt bắc, một miền N am . . . và trong thơ ca Việt nam,
chúng ta cũng có một Điện biên phủ «trên đất nước như huân
chương trên ngực», một Việt bắc «bốn phương lồng lộng thủ đô
gió ngàn», một miền Nam «ngọn đèn mặt biển», «đất anh hùng
của thế kỷ hai mươi» . . .
Trong thực tế cuộc sống cách mạng, chúng ta có một chị Lý,
một anh Trỗi, một mẹ Suốt. . . Nhưng trong thơ ca Việt nam chúng
ta có một «người con gái Việt nam », một «con người như chân
lý sinh r a » một bà mẹ «một tay lái chiếc đò ngang» và mái tóc
«gió lay như sóng biển tung trắng bờ » . . .
Thơ Tố Hữu sáng ngời lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Và
có nhiều lý do để nói : thơ Tố Hữu là hài ca của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt nam, là thiên anh hùng ca của thời đại.
Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp, sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước đã phát huy
đến cao độ truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Kết tinh từ
cuộc sống anh hùng đó, thơ Tố Hữu là bài ca của chủ nghĩa yêu
nước Việt nam trong thời đại mới. T ư tưởng, tình cảm yêu nước
trong thơ Tố Hữu, do đó, chiếm những đỉnh cao mà thơ ca thời
trước không thể có được.
Hình ảnh đất nước, bóng dừa, sông lạch, cánh cò, con ong,
hạt mưa, ánh nắng, ánh mây chiều, màu xanh lúa. . . đi vào thơ Tố
Hữu thiết tha muôn quí ngàn yêu và cũng hết sức hùng vĩ. Cả
những tên của từng địa phương đất nước mà ta mới đặt sau cách
mạng, như khu Bốn, khu N ăm . . . cũng reo lên như nhạc, ánh lên
như ngọc.
Hình ảnh nhân dân đất nước : những em bé, những bà mẹ
chiến sĩ, những chị phụ nữ, những anh du kích, anh bộ đội, anh
giải phóng quân. . . đều được nhà thơ ghi lại với bao nhiêu niềm
mến thương trân trọng.

12
/

Quá khứ dân tộc, tương lai đất nước cũng được Tố Hữu nói
đến với tấm lòng hiểu biết sâu sắc và với niềm tin sắt đá. Trong
thơ Tố Hữu, có Nguyễn Du « lệ chảy quanh thân Kiều», có
« tiếng gươm khua» của Nguyễn Trãi, có «gió ngày mai thổi lại»,
có «hồn thời đại bay cao», có hình ảnh của Bác Hồ « Người đi
trước nghìn sương muôn tuyết» «cánh chim không mỏi sớm
chiều vẫn bay », hình ảnh những liệt sĩ cách mạng « những hồn Trần
Phú vô danh, sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn», hình ảnh
những người anh hùng «chết như sống anh hùng vĩ đại» . . . và
đất nước hôm nay, nhất là trong những ngày chống Mỹ, rực rỡ
như mặt trời phương Đông :
«Hãy nhìn hướng phương Đông mà tiến
Hỡi những con tàu trên các đại dương.»
Sự nghiệp của nhân dân anh hùng lừng lẫy bốn biển năm châu :
«Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương.»
Bám rất chắc vào đời sống hiện thực, phản ánh những vấn đề
nóng hổi của cuộc sống, ghi nhận những hình ảnh mới của con
người, cùng những tình cảm lớn của dân tộc, của thời đại trong
từng chặng đường lịch sử, thơ Tố Hữu vì thế vừa có tính chất
thời sự lại vừa có giá trị lâu dài. Không có bài thơ nào mang
tính thời sự hơn những bài thơ : Hoan hô chiến sĩ Điện biên,
N gườ i con gái Việt nam , H ãy n h ớ lầy lờ i t ô i . . . , nhưng
chính những bài thơ đó, cho đến nay, vẫn rất xúc động lòng người,
dù những vấn đề thời sự mà các bài thơ đó đề cập đến có khi
không còn là vấn đề nóng hổi nữa.
Bám rất chắc vào cuộc sống cách mạng, kết tinh từ cuộc sống
cách mạng luôn luôn đổi mới, thơ Tố Hữu vì thế vừa có vẻ đẹp
cổ điển, lại vừa mang vẻ đẹp mới lạ.
Đọc Tố Hữu, trong từng tập thơ cũng như trong từng bài
thơ, nhiều khi ta gặp những hình ảnh, những tứ thơ bất ngờ, thú
vị mà lại rất đúng, rất quen. «Bài thơ của Tố Hữu thường đầy
bất ngờ và rất phong phú. Bất ngờ và phong phú như cuộc sống.»
(Hoài Thanh), v ẻ đẹp, vẻ thơ của Tố Hữu, trước hết và trên căn
bản, là vẻ đẹp của con người và cuộc sống dân tộc ngày một đi
lên theo con đường cách mạng. Thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc
mà cũng rất hiện đại, bởi vì một chị dân công Bắc giang, một bà

13
mẹ Suốt, một chị Lý, một anh T rỗ i. . . là những con người của
thòi đại mới, nhưng trong tâm h ồ n của mình, họ mang biết bao
nhiêu vè đẹp phong phú của truyền thống dân tộc đã được cách
mạng xây đắp, bồi dưỡng và phát huy. Họ là hình ảnh những người
p h ụ nữ, những người thanh niên của từng thời kỳ lịch sử nhất
định, nhưng đều là hình ảnh của những người Việt nam chân chính
biết yêu nước, yêu cách mạng. Nhìn vào họ, người ta tìm thấy từng
bước trưởng thành của những người phụ nữ, những người thanh
niên của thế hệ Hồ Chí Minh.
Tố Hữu không ngừng tìm tòi những hình thức mới của thơ
ca để biểu đạt cuộc sống mới, con người mới và những tư tưởng,
tình cảm mới, nhưng bao giờ nhà thơ cũng tìm tòi, sáng tạo trên
vốn thơ ca truyền thống của dân tộc. Chỉ riêng về thể thơ mà nói,
người ta có thể lấy nhiều ví dụ v ề nhiều thể thơ dân tộc được
Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo và nâng lên ở mức độ cao
hơn. Tiếp tục Nguyễn Du và các nhà thơ khác, T ố Hữu đã làm
cho thể thơ lục bát uyển chuyền, nhuần nhụy hơn trong bài thơ
Việt b ắc; Tố Hữu đã đặt dấu nối giữa diễn ca và thơ ở Ba
m ươi năm đ ờ i ta có Đảng, đã đưa thể vè kể chuyện lên tầm
những bài thơ hay ở Con cá, chột nư a . . . Người ta cũng có thể
tìm thấy việc T ố Hữu thổi hồn thơ dân tộc vào những bài thơ theo
một thể rất mới, vào những vần thơ mà cách đặt câu, ghép tiếng
rất khác với thơ truyền thống. Các bài thơ : T iếng chổi tre, Vớ i
Lê-nin và một số câu, số đoạn trong Em ơ i . . . Ba l a n . . . là
những ví dụ cụ thể. Cũng còn tìm thấy đây đó trong thơ Tố Hữu
bóng dáng một câu Kiều, một câu ca dao, một lời thơ của Phan
Bội Châu. . . , thậm chí một tứ thơ của văn học tiến bộ thế giới,
mà vẫn rất Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu rất đại chúng, rất gần gũi với lời nói thường
ngày của nhân dân, mà vẫn rất diêu luyện, nhuần nhụy ; cái hay,
cái đẹp của thơ Tố Hữu là cái hay, cái đẹp mà quần chúng nhân
dân đều có thể hiểu được. Tố Hữu không bao giờ cầu kỳ, trái lại
luôn luôn chân tình và thân tình. Nhân vật trữ tình quen thuộc
của thơ T ố Hữu là những con người bình thường mà rất anh hùng :
những em bé, những người phụ nữ, những người chiến s ĩ . . . ;
cảm nghĩ của họ là cảm nghĩ của quần chúng tiên tiến. Do đó, đọc
thơ Tố Hữu, quần chúng nhân dân nhận được mình và nâng được
mình lên.

14
Xung quanh vấn đề đặc điểm về phong cách và bút pháp củ a
Tố Hữu, có khá nhiều ý kiến nhận định. Có người cho rằng thơ
Tố Hữu rất giàu nhạc điệu : nhạc, đó là một yếu tố góp phần làm
nên phong cách của nhà thơ ; Tố Hữu không những cảm nghĩ qua
âm nhạc, mà còn bằng âm nhạc ; yếu tố nhạc trong thơ đã góp
phần chở hồn thơ dân tộc trong thơ Tố Hữu (Chế Lan Viên). Có
người đã nhận xét rằng : từ trước đến sau, thơ T ố Hữu được viết
ra chỉ để phục vụ cách mạng, nhưng thơ Tố Hữu lại ấm áp như
tình mẹ, ngọt ngào như tình yêu. . . (Xuân Trường). Một số người
khác cũng đã đi sâu tìm hiểu cách xây dựng hình ảnh củ a nhà
thơ : có ý kiến cho rằng tác giả thiên về xây dựng hình ảnh động
hơn là hình ảnh tĩnh , v. v. . .
Và để lý giải vấn đề đặc điểm phong cách và bút pháp Tố Hữu,
người ta đã tìm đến quê hương xứ Huế, hoàn cảnh gia đình, thơ
văn truyền thống, cuộc sống cách mạng của dân tộc và của nhà thơ,
cũng như ảnh hưởng của văn học Pháp và cả của phong trào « Thơ
m ới» trong phần hình thức thể thơ, ngôn ngữ thơ v.v.. . Nhưng
thực tế là, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
về phong cách thơ Tố Hữu một cách toàn diện và sâu sắc. Rõ ràng
là để tìm hiểu và lý giải một phong cách như phong cách Tố Hữu,
cần phải có một công trình củ a nhiều người và lâu dài.
Có điều chắc chắn rằng có một phong cách thơ Tố Hữu. Và
phong cách đó không đóng đinh một chỗ mà ngày một đổi mới, và
sự đổi mới đó ngày một trở thành đặc sắc riêng của T ố Hữu. Đó là
một phong cách rất đa dạng mà vẫn nhất quán và không ngừng đi
lên. « Rất T ố Hữu mà không đơn điệu» (Hoài Thanh). Khi đọc một
câu thơ của Tố Hữu, dù không được giới thiệu tác giả, người
ta vẫn nhận biết tác giả c ủ a nó. Cũng như khi đọc một câu thơ
nào đó, biết chắc tác giả củ a nó không phải là T ố Hữu, người ta
vẫn cứ nói : giống thơ Tố Hữu quá. Bài thơ trước củ a nhà thơ
quen thân chúng ta khác với bài thơ sau, tập thơ trước khác với
tập thơ sau, nhưng đó vẫn là thơ Tố Hữu.

Nói chung, thơ Tố Hữu thể hiện một sự hài hòa tuyệt đẹp của
những hương sắc tình cảm của con ngươi Việt nam trong tình cảm đối
với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước.

15
« Vì sao ngày một thanh tân ?
Vì sao người một mến thân hơn nhiều ?
Vì sao cuộc sống ta yêu
Mỗi giây mỗi phút sớm chiều thiết tha ?
Vì sao mỗi hạt mưa sa,
Mỗi tia nắng rọi cũng là tình chung ? ... »
Vì sao ? Vì có cách mạng, có lãnh tụ, có đất nước. Vì :
«Bốn nghìn năm, ta lại là ta.»
« Nói nghệ thuật là nói qui luật của tình cảm» (Lê Duẩn). Thơ
T ố Hữu biểu hiện thành công một hiện tượng có tính qui luật của
đời sống tình cảm Việt nam : Từ trên 40 năm nay, tình cảm đối
với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước, như sợi chỉ hồng xuyên
qua mọi mặt c ủ a cuộc sống tình cảm người dân Việt nam, tạo nên
một sự hài hòa tuyệt đẹp trong đời sổng tình cảm c ủ a dân tộc.
Điều đó giải thích thơ Tố Hữu chỉ nói và hát vì cách mạng thôi,
nhưng lại có cái ấm áp của tình mẹ, cái ngọt ngào củ a tình yêu,
cái mát lành củ a tình quê, cái tím ngát của tình bạn, cái thắm thiết
của tình đồng ch í. . . Điều đó làm nên cái đầm ấm, tươi mát, ngọt
lành, thân thương c ủ a lời thơ Tố Hữu.
Hãy lấy bài thơ V iệt b ắ c làm ví dụ. Chúng ta nghe thấy cái
mình — ta muôn thuả ngọt ngào một ý vị mới thấm đượm trong
bài thơ :
«Mình về, mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha, mặn nồng.
Mình về, mình có nhớ không ?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn» . . .
Mình — ta, ta — mình có cây, có núi, có sông, có nguồn, có mười
lăm năm ấy. M ình—ta, ta— mình có « hắt hiu lau xám, đậm đà lòng
son», có «sớm khuya bếp lửa người thương đi v ề », nhưng cũng
có « đèn pha bật sáng như ngày mai lên». Mình— ta, ta — mình keo sơn,
gắn bó giữa người cán bộ miền xuôi với người dân miền núi, giữa
nhân dân miền núi với nhân dân miền xuôi, giữa người dân kháng
chiến với cán bộ và anh bộ đội kháng chiến, giữa những người
dân kháng chiến với nhau. Mình— ta, ta— mình là tình cảm thắm thiết
giữa nhân dân với Chính phủ kháng chiến, với Bác Hồ, vói Đảng
Lao động Việt nam . . . Mình— ta . . . ta— mình . . . bao nhiêu là mối tình
kháng chiến thức dậy trong lòng ta. Tình dân, tình nước, tình nhà,

16
tình đồng đội, đồng chí quyện chặt lấy nhau như mình — ta, ta — mình.
Cái đẹp của bài thơ Việt bắc là ở sự hài hòa kỳ diệu mọi hương
sắc tình cảm dân tộc của cả một thời.
Sự hài hòa kỳ diệu mọi hương sắc tình cảm trong tình cảm
đối với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước biểu hiện ở rất nhiều
bài thơ, quyện chặt vào từng câu, từng vần, từng hình ảnh, làm
cho thơ Tố Hữu có một sức rung động kỳ lạ. Những câu thơ :
« Trên đường ta về lại Thủ đô
Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ.»
hay : «Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều.»
và : «Én bay mặt sóng H ồng hà
Én bay vào lại bay ra gọi đàn.»
còn nhiều và rất nhiều câu thơ khác nữa, do đó mà rung động lòng
ta. Đến cả những vần thơ chỉ ghi lại cảm xúc gần như rất riêng
tư và cũng gần như chỉ là một thoáng thôi, khi đi trên đất nước
bạn, như các chuyện :
« Em đẹp, em thơm như quả táo đầu cành,
Phơi phới đời em cao vút như đương xanh.»
hay : «Bâng khuâng nghe năm tháng
Đẹp như người con gái nước Nga.»
hoặc : «Em ơ i . . . Ba lan . . . mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.»
cũng tìm sự rung động người đọc ở tình cảm đối với cuộc sống
mới mà Cách mạng đã đem lại. Biểu hiện thành công một hiện
tượng tình cảm có tính chất qui luật trong đời sống tình cảm dân
tộc, thơ Tố Hữu đã tự khẳng định giá trị hiện thực lớn lao tự chắp
cho mình những cánh thơ khỏe khoắn và lộng lẫy màu sắc, có thể
hay tới những đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm của thời đại, của dân
tộc và đến với trái tim của hàng triệu quần chúng nhân dân.
Đặt nền móng vững chắc, làm lá cờ đầu cho thơ ca hiện thực
xã hội chù nghĩa ở Việt nam, thơ ca cách mạng của Tố Hữu là thơ
hiện thực mà cũng giàu y ếu t ố lãng mạn. Trong thơ Tố Hữu,
những yếu tố lãng mạn cách mạng ngày càng kết hợp chặt chẽ với
hiện thực cách mạng. Trên cơ sở hiện thực cách mạng ngày càng

17
đổi mới, đôi cánh lãng mạn c ủ a thơ Tố Hữu ngày một bay cao
để đáp ứng với những sự nghiệp lớn lao của đất nước, c ủ a nhân
dân : nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập, tự do, hòa bình, thống
nhất của T ổ quốc, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp
chống giặc giữ nước hết sức vĩ đại, hết sức anh hùng của nhân
dân. Hiện thực cách mạng và lãng mạn cách mạng, chất trữ tình
và chất anh hùng ca, h ồ n thơ dân tộc và hơi thơ thời đại nhuần
nhuyễn, hài hòa trong nhiều bài thơ đã đem lại cho thơ Tố Hữu,
cho thơ dân tộc ta nhiều bài thơ đẹp : Tiếng hát sông Hương,
Việt bắc, Ta đi tớ i, N gư ời con g ái Việt nam, Bài ca mùa
xuân 61, Theo chân Bác. ..
Là lá cờ đầu của thơ ca dân tộc ở một thời đại có những
biến chuyển cách mạng lớn lao, thơ Tố Hữu thường thiên v ề những
đề tài «lớ n », tổng họp, có thiên hướng lịch sử, như : Ta đi
tới, Ba m ươ i năm đờ i ta có Đảng, Theo chân Bác . . . Tuy
vậy, nhà thơ vẫn có nhiều bài thơ viết về những đề tài « nhỏ » như :
Tiếng chổi tre, Tấm ảnh . , . Nhưng ở những bài thơ viết về đề
tài «nhỏ » ấy thường vẫn bao hàm những ý nghĩa «lớ n ». Cũng như
trong khi thể hiện đề tài «lớn », xây dựng hình tượng «lớn », Tố
Hữu vẫn thể hiện và xây dựng trên cơ sở những chi tiết, những
sự kiện «nhỏ» song có ý nghĩa khái quát. Thơ T ố Hữu, vì thế,
vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. (Chế Lan Viên.)
Tóm lại, có những thành công trong thơ Tố Hữu là nhờ có
sự nghiệp cách mạng củ a nhân dân ta, có truyền thống thơ ca của
dân tộc. Vì, ở thời đại Hồ Chí Minh ngời sáng hiện nay, mọi biểu
hiện tươi đẹp của đời sống đều là nhờ công lao của Cách mạng, của nhân
dân. Chính máu thịt của thơ Tố Hữu là do Cách mạng, do nhân dân, do dân
tộc đã mang lại cho nhà thơ và chính thời đại mới đã thổi vào hồn thơ Tố
Hữu một tiếng tiêu mới. Nhưng, chỉ qua một tâm hồn nhạy cảm, luôn được
lý tưởng cách mạng soi đường, cộng với một quá trình lao động nghệ thuật
cần cù, nghiêm túc, tiếng tiêu đó mới ngân xa, vang dội vào tâm khảm của
chúng ta.
Chúng ta tự hào có Tố Hữu, có thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu —một hiện tượng đẹp của thơ ca dân tộc Việt nam.

18
4

I—TỪ ẤY
Tham gia cách mạng ở Huế vào năm 1936, Tố Hữu bắt đầu
làm thơ cách mạng. Và những bài thơ đầu tiên củ a Tố Hữu xuất
hiện trước công chúng từ năm 1937. Đến tháng 9 năm 1939, bị
thực dân Pháp bắt ở Huế và giam ở nhà lao Thừa thiên rồi bị
đày đi Lao bảo, Ban mê thuột, Qui nhơn, Công tum, Đắc lây. . .
và từ tháng 3 năm 1942, vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách
mạng, cho đến sau ngày khởi nghĩa tháng Tám 1945, Tố Hữu vẫn
tiếp tục sáng tác. Năm 1946, tập thơ đầu c ủ a nhà thơ được xuất
bản với nhan đề « Thơ Tố Hữu» do Hội văn hóa cứu quốc Việt
nam in. Rồi năm 1959, những «bài thơ đ ầu » đó được Tố Hữu sửa
chữa, bổ sung và in lại, lấy tên là «Từ ấy ».
Tập thơ Từ ấy gồm ba «tập » nhỏ :
1. Máu lửa (sáng tác trong 19 tháng: 10-1937 — 4-1939).
2. Xiềng xích (sáng tác trong 3 năm bị tù : 1939 — 1942).
3. Giải phóng (sáng tác từ 1942 đến 1946).
Tiêu đề c ủ a các tập thơ nhỏ đó nói lên nội dung của từng
«tậ p ». Từ ấy phản ánh một giai đoạn hoạt động cách mạng và
sáng tác của Tố Hữu, trước và sau Cách mạng tháng Tám (cho
đến năm 1946).
Nói chung, Từ ấy là tiếng hát cảa người thanh niên yêu nước
Việt nam giác ngộ lý tưởng Mác — Lê-nin trong ngày hội lớn c ủ a
cách mạng.
« Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lý chói qua tim.»

19
1'

« Từ ấy » ... cho đến khi :


«Đêm nay pháo nổ giao thừa
Mà người chiến sĩ không nhà còn đi.»
hình ảnh người thanh niên yêu nước giác ngộ lý tướng cách mạng
Tố Hữu ngày càng dày dạn và lớn lên trong bước đường đấu tranh,
được khắc họa ngày càng đậm nét trong Từ ấy. Cùng với hình
ảnh trung tâm đó, hình ảnh những người chiến sĩ cách mạng khác,
mà đối với nhà thơ là những người đi trước, tạo nên một bức tranh
đặc sắc về hình ảnh người cách mạng Việt nam trong giai đoạn
cách mạng 1930 — 1945.
Người cách mạng Việt nam trong Từ ấy là người chiến đấu
say sưa cho lý tưởng Mác — Lê-nin, cũng là người chiến đấu nhiệt
tình cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Người chiến sĩ cách mạng và người chiến sĩ yêu nước trong Từ
ấy là ngư ời:
«Đã say dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giống nòi.
Nước non rên xiết trong xiềng xích,
Đã giục ta ra giữa chiền đài.»
Trong thực tế lịch sử, sau bao thất bại của những lớp người
đi trước và trải qua hàng chục năm tìm tòi c ủ a bản thân, người
cách mạng Việt nam tìm đến với lý tưởng Mác — Lê-nin và thấy
được ở đó con đường cứu nhân dân, cứu đất nước. Có lý tư ởng
Mác — Lê-nin, sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động, giải phóng
dân tộc, tuy còn nhiều gian khổ, hy sinh, nhưng thắng lợi đã nắm
chắc trong tay. Lý tưởng Mác — Lê-nin, do đó, đối với người cách
mạng Việt nam, chẳng những là một lý tư ởng cao đẹp, mà còn là
một nguồn hạnh phúc to lớn. Với người cách mạng Việt nam, lý
tư ởng Mác — Lê-nin đến cũng có nghĩa là hạnh phúc đến với tâm
hồn. Với Tố Hữu, người thanh niên yêu nước được lớp người đi
trước giác ngộ chân lý Mác — Lê-nin, niềm hạnh phúc như vẫn
tràn đầy :
«Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.»
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say ở Từ ấy rạo rực và ngọt
lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lý tưởng, của

20
niềm hạnh phúc mà lv tưỏ-ng đưa lại. Niềm vui của người chiến
sĩ yêu nước Việt nam khi gặp lý tưởng Mác — Lê-nin ớ T ừ ẩy,
tuy biểu hiện có khác — vì đây là một tâm hồn thanh niên bồng
bột, rạo rực và củ a lớp người đi sau — nhưng vẫn gợi nhớ niềm
vui của Bác Hồ khi đọc luận cương Lê-nin :
«Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khỏi,
sáng tồ, tin tướng biết bao í Tôi vui sướng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo : «Hỡi đổng bào bị đọa đầy đau khổ !
Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng
của chúng ta 1»
(HỐ CHÍ MINH « Con đường đẫn tôi đèn
chủ nghía Lê-nin »)

Lý tường Mác — Lê-nin, đỏ chinh là cơ sỗ' của niềm lạc quan


tràn đẩy và niềm vui bất tuyệt trong thơ Tố Hữu — niềm lạc quan
mà cả đèn cái chết cũng không đập nồi cánh thơ v u i:
« Vui về chềt như cày xong thừa ruộng
Lòng khỗe nhẹ, anh dân quê sung sướng
Ngừa mình trên liềp cỗ ngả ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đổng xanh
Vui nhẹ đền trên môi cười hy vọng.»
Người cách mạng Việt nam, ở đây bước vào sự nghiệp giải
phóng nhân dân, giải phóng đất nước như đi vào ngày hội lớn.
Không khí của T ừ áy, trên một bình diện nào đó mà nói, là không
khí của ngày hội lớn, dù T ử ẩy có nhiều bài thơ nói về những
bất công của cuộc đời, những số phận bơ vơ, tùi cực, bị dày vò,
chà đạp.
Tương lai — hiện thực thứ ba — ỏ* T ừ ay, hiện lên rất đẹp,
rất sáng trong ánh hào quang của lý tưỏtig :
( « Tương lai đổ, trước mẳt ta biển rộng
J Trên đầu ta lồng lộng gió trời cao
1 Rồi mai đây, giữa một buổi xuân đào
\ T a sẽ tới ru mình trong vịnh bạc.»
Chất lạc quan cách mạng và lãng mạn cách mạng trong T ừ ấy
chính đã bắt nguồn từ tâm hồn rạo rực yêu nước, yêu người, tin

21
tường ớ tương lai tươi đẹp c ủ a đất nước, c ủ a xã hội củ a người
cách mạng Việt nam đêm trưỏ'c c ủ a Cách mạng tháng Tám.
«Các anh chị hước lên đài gươm máy,
Đầu sẳp rơi mà môi vẫn cười tươi.»
T ừ áy là tiếng chim báo bão, trong đó có tiếng nói căm
giận đối với xã hội thực dân nửa phong kiến và bè lũ thống trị,
có tiếng phê bình đối với quần chúng chưa giác ngộ, có tiếng còi
giục giã lên đường đấu tranh, nhưng trên cản hàn vẫn là tiếng
hát tin yêu. Tố Hữu là nhà thơ của lòng tin yêu : tin yêu quần
chúng, đổng chí, bè bạn, tin yêu tiền đồ xã hội mới, tương lai đất
nước . . .
T ừ áy là tiềng hát chiến đầu sôi nỗi. Đó là bài ca về chù
nghĩa yêu nước và chù nghĩa anh hùng cách mạng cất cao lên trong
luồng gió mới c ủ a thời đại, trong giai đoạn cách mạng Việt nam
tiấp thu chù nghĩa Mác — Lê-nin và vận dụng vào hoàn cảnh
thực tiễn c ủ a đất nước làm cách mạng phản đế và phản phong.
Trên một ý nghĩa nào đó, T ừ ầv là cuốn sách giáo khoa c ủ a chù
nghĩa Mác — Lê-nin bằng nghệ thuật thơ ca, đã góp phần vào phong
trào vận động văn hóa mác-xít của Đảng Cộng sản Đông dương hổi
bấy giờ. Cuốn sách giáo khoa mác-xít viết bằng thơ — T ừ ầv đã
dạy cho người ta những kiến thức mới về cuộc đời và hạnh phúc
ồ1 đời :
«Đời đấu tranh là một bản hùng ca.»
về lẽ sống chết:
« Không! khôngỉ khôngỉ Anh không chết.
Trong tôi
Ý đời anh đã nấy lộc đâm chồi. .. »
về đức hy sinh và tinh thần xả thân vì nghĩa lớn :
«sồng đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà.»
về hành vi đạo đức và tinh thần danh dự mới :
«Danh dự của riêng thân
Là cảa chung đồng chỉ.»
Với T ừ ăy, nhà thơ thanh niên cách mạng yêu nước Tố Hữu
đẵ trở thành nhà thơ chân chính của thanh niên Việt nam trước

22
Cách mạng tháng Tám, đồng thời của cả những thế hệ thanh niên
Việt nam trong thòi đại cách mạng hiện nay.
Là người thanh niên yêu nước, giác ngộ lý tường Mác — Lê-
nin và nguyện dâng cuộc sống và thơ ca c ủ a mình cho lý tường
đó, người chiến sĩ cách mạng trè tuồi Tố Hữu yêu thương đất nước
rất mực :
« Nước non muôn quí ngàn yêu . . . *
yêu thương nhân dân và đất nước vô hạn :
«Hui những con khôn cảa giông nòi
Những chàng trai qui, gái vêu ơ i!»
Tình yêu đất nước đó cũng chính là tình yêu những cánh đổng quê :
«Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơ iỉ»
Đó cũng là tình yêu thương những em bé « mổ côi», những
chị «vú em », những «lão đầy t ớ », những «lưng cong xuống luống
cày» . . .
Tình yêu thương đó đã dấy lên <juyết tâm giành độc lận, tự
đo cho Tố quồc :
« Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng.»
Trên cơ sò* củ a tình yêu nhân dân lao động kết hợp với tình
yêu nước chân chính, chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp trong T ừ áy
thật là sâu sắc. Một «tiếng rao đêm », một «con chim nhồ» chết
trong lồng, một «tiếng hát sông Hương» . . . vang dội trong thơ Tố
Hữu như là tiếng nổi thiết tha về hạnh phúc, về quyển sống con
người củ a những người dân mất nước, mất tự do, độc lập và do
đó mất cả những gì quí nhất trên đời.
Rõ ràng là thơ ca Việt nam trước Tố Hữu đã có không ít
những bài thơ sáng ngòi giá trị nhẳn đạo chù nghĩa. Nhưng cái
tinh thẩn nhân đạo trong thơ ca trước năm 1930 nói chung không
có được cái chiều rộng và cái tầm cao của chù nghĩa nhân đạo củ a
thơ ca cách mạng hiện đại nói chung và thơ Tố Hữu nói riêng.
Ờ Tố Hữu, nhờ có chù nghĩa Mác — Lê-nin và tinh thần quốc tể
vô sản cao cả soi sáng, nên tình yêu thương c ủ a tác giả đã mò’
rộng cả những người Thượng, người lính gác tù, người đàn bà
Nhật bản dưới ách phát x ít . . .

23
Do có lý tường cách mạng nắm được bước đường tương lai
của xã hội. Tố Hữu đã khẳng định một sự trong sạch vô cùng củ a
người con gái sông Hương về cả thể xác và tâm h ồ n , khi xã hội
đồi mới :
« Ngày mai, cô sẽ từ trong đền ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài,
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai, gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân.
Ngày mai, trong giá trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hổ.»
TỐ Hữu hiểu biết những khổ đau c ủ a quần chúng bị tước
mất quyền tự đo, cơm áo ; nhưng, không dừng lại & đấy, trong
nhiều bài thơ của minh, tác giả còn nuôi cho họ một «mầm uất
hận», một «tròi hy vọng» . . . và kêu gọi họ khắc phục những thái
độ không đúng đề vùng lên đấu tranh với kẻ thù :
«Quyết chiền đầu ỉ Nào ta liên hiệp lại,
Hỡi tù nhân khốn nạn của bần cùngh
Nhìn chung, ồ* T ừ ấy,' cũng như ồ* nhiều thơ văn cách mạng
cùng thòi kỳ, tinh thần nhân đạo chủ nghĩa đã mang một sẳc thái
mới, một tính chất mới, đó là tư tường nhân đạo cộng sản chủ
nghĩa mà cơ sở của nó là lòng tin & bản chất cách mạng cửa
quần chúng, ở sự tẩt thẳng của một chế độ xã hội tươi đẹp, một
tương lai sáng sủa cửa con người.
Thêm vào đó, những tình cảm mới khác của thòi đại như tình
cảm đối vói đồng chí mà Tố Hữu gọi là bạn đời, tình quốc tế
vô sản, tinh của nhân dân đổi vói lãnh tụ trong T ừ ấy cũng được
TỐ Hữu thề hiện vói một vẻ tươi mới và say nồng, « rất đậm hương
và rộn tiểng chim».
Vì vậy, tuy về mặt nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca nói chung, T ừ
ãy chưa thật cô đúc điêu luyện bằng các tập thơ sau của Tố H ữu—
vì đây là tập thơ đầu tay củ a một nhà thơ trẻ — nhưng T ừ ấy vẫn
là một tập thơ «gối đẩu giường» c ủ a nhiều thanh niên, học sinh
cách mạng ; nhiều anh chị em thanh niên, ngay cả ỏ' những vùng
bị địch kiềm soát, o ép, đã vồ vập đọc và chép ở sồ tay củ a mình
nhiều bài thơ trong T ừ áy để học thuộc và hành động theo gương
của nhà thơ thanh niên yêu nước và cách mạng Tố Hữu.

24
HAI ĐỨA BÉ
Tôi không muốn mời anh đi xa lạ
Tìm đau thương trong xã hội điêu tàn.
Kể làm sao cho hết cảnh lầm than
Lúc trái ngược đẵ tràn đầy tất cả ỉ
Này đây anh, một bức tranh gần gũi í
Nó thô sơ ? Cỏ lẽ. Nhưng trung thành.
Nó tẩm thường ? Nhưng chính bồi h ồ n anh
Chê chán kẻ bị đòi vui hất hủi.
Hai đứa bé cùng chung nhà, một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim non
Bụi đòi dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới.
Ố lạ c h ử a ! đứa xinh tròn, mủm mỉm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi t í m !
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày : «Nhạt lắm ! em không ă n ! *
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho cù sắn !
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa ngà, đây lính thổi kèn tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chư ờiK1)
vẫn chưa hết những cảnh đời đau khồ
Nhưng kể làm chi nữa, bạn lòng ơi í
Hai đứa kia như sống dưỏi hai trời
Chi khác bỏi không cùng chung một tồ.
Đứa vui sướng là đứa con nhà chù
Và đứa buồn, con mụ ở làm thuê.
Huế, tháng 10-1937

(1) Chtr&i : chửi.

25
v ú EM

Nàng gồi con về nương xổm cũ


Nghẹn ngào trò1 lại đầy xe nôi
Rồi từ hôm ấy, ôm con chù
Trong cánh tay êm, ỉuèng ngậm ngùi

Nàng nhớ con nằm trong tổ lạnh


Không chăn, không nệm ấm, không màn.
Biết đâu trong những giờ hiu quạnh
Nó gọi tên nàng tiếng đã khan ỉ

Rồi từ hôm ấy, dưới đêm sâu


Hồi ' hộp nàng ra vịn cửa lầu
Nhìn xuồng ven tròi dày bóng nặng
Tìm nghe trong gió tièng con đâu

Gió vẫn vô tình lơ đãng bay


Những tàu cau yèu sẽ lung lay
Xạc xào động cánh đau lòng mẹ
Nghe tiềng lòng con vẳng tỏi đ â y !

Ta thấy nàng nghiêng mình rũ rượi


Gục đầu thổn thức trong bàn tay. *.
Bạn ơi, nguồn thảm sầu kia bới
Số phận hay do chế độ này ?
Huề, tháng 5-1938

Đ I ĐI EM

Rứa là hểt 1 chiểu ni em đi mãi


Còn mong chi ngày trò* lại, Phưỏ*c ơi !
Quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
Bới khác cảnh, hai đứa mình nghẹn nói.

26
Em len lét, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cẳp chiếc nón le te
vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nể
Hàng giây tiếng rùa nguyền trên miệng chù !

Biết không em, nỗi lòng anh khi đó ?


Nó toi bòi, đau đớn lẳm, em ơi ỉ
Bàn chân em còn luyến tièc không ròi
Noi em đã cùng anh vui phút chốc.

I Những đêm tối, anh viết bài em học


Cho em quên bớt nỗi nhọc ban ngày
Nơi bao nhiêu âu yếm tuồi thơ ngây
Anh đã trút cho lòng em tầt cả ỉ
Ỷ)
1 Em ngoái cổ nhỉn anh ỉ ta chỉ trầ
Thẩm cho nhau đôi mắt ư ớt ỉy sầu !
Bỉềt làm sao, em hõt, nói cùng nhau ?
í Tiếng chườií1) mắng vẫn phun hoài, nhục nhã !

Thì em hỡi, đi đi, đừng tiếc nữa


Ngại ngùng chỉ ? nấn ná chỉ thêm phiền ĩ
Đi đi em, can đảm bưởc chân lên
ừ đói khổ phải đâu là tội lỗi ỉ

Anh mới hiểu càng ngậm ngùi khổ tủi


I Càng dày thêm uất hận cửa lòng ta
I Nuôi đi em, cho đến lớn đến già
Mầm hận ầy, trong lổng xương ổng máu.

Đề thêm nóng mai kia h ồ n chiến đấu


Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng !
Huề, tháng 2-1938

(1) Chưởi : chửi.

I 27
DỬNG DƯNG

Du khách bảo đây vườn kín đáo


Với hương đìu dịu, ý ngàn xưa
Tròi mây xanh nhạt màu hư ảo
Đây xứ mơ màng, đây xứ t h ơ . . .

Cô gái thẫn thờ vê áo mồng,


Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai
Ven bờ sông phẳng con đò mộng
Lẳ lướt đi về trong gió mai. . .

Thành quách trăm năm sầm mặt lạnh


Ngọn cờ uể oải vật vờ lay
Lâu đài đường bệ màu kiêu hãnh
Áo gấm hài nhung cánh phượng bay.

Tôi nện gót trên đường phồ Huè


Dửng dưng không một càm tình chi ỉ
Không gian sặc sụa mùi ô uè
Mà nước dòng Hương mãi cuồn đ i . . ♦

Ý chết đã phơi vàng héo úa


Mùa thu lá sắp rụng trên đường
Mơ chi ảo mộng ngàn xưa nữa ?
Cây hết thời xanh đến tiểt vàng !

Ai tưởng ngàn năm nương đất ấy


Mầm non thêm nhựa, lá thêm tươi
Ôi mỉa mai ! hồn ta chi thấy
Rêu hèn sống gửi nhánh khô thôi.

Ai tướng thiên đường sao nhấp nhánh


Tài hoa tinh kết, ngọc long lanh
Ta chỉ thấy nơi đây mố lạnh
Chôn linh hốn đắm đuối hư danh.
Huề, tháng 5-1938

28
HÓI CỤ NGÁO í1*

Nghe nói ngày xưa lão chặt đầu


Đầu xanh đầu bạc, tội gì đâu ?
Sao không chặt hết đầu bao đứa
Mũ mão rồng bay, áo phượng chầu ?

Nay lão vác tròng đi thịt chó


Chó vàng chó mực, tội gì đâu ?
Sao không thịt hết bao con đó
Liếm gổt giày Tây, béo mượt đầu ?
1938

TIẾNG HÁT SÔNG HƯƠNG

Trên đòng Hương giang


Em buông mái chèo
Tròi trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên đòng Hương giang.

Trăng lên, trăng đứng, trăng tàn


Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em chưa chổng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến ròi dòng dâm ô !
Tròi oi em biết khi mô
Thân em hết nhục giày vò năm canh.
Tình ôỉ gian dổi là tĩnh
Thuyền em rách nát còn lành được không ?

(1) Tên một đao phủ của triều đình Huè, đã từng chém những nhà ái quốc, về
già làm nghề thịt chó.

29
— Răngt1) không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tỏi ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi, tháng rộng ngày dài
Mổ* lòng ra đón ngày mai huy hoàng.

Trên dòng Hương giang . . .


Tháng 8-1938

HẴY ĐỨNG DẬY


Người ta lởn bbi vì người cúi xuồng
H ỡi nhân dân, hãy đứng thẳng lên 1
MA-RÁTÍ2)

Người ta lớn bởi vì ta quỳ xuống


Có gì đâu ta cầu khần van lơn ?
Có gì đâu ta ôm mãi căm hờn ?
Hãy đứng dậy, ta có quyển vui sống !

Ai đi gõ cứa vào lòng lạnh ngắt


Và thiết tha năn nỉ với hồn say
Trên muôn thây, tiệc rượu máu tràn đầy ?
Không ! Không thể sống như bầy hành khất l12

(1) Răng : sao (tiếng địa phưong Quàng nam, Thừa thiên. . .).

(2) Ma-rát (1743 — 1793) : một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Cách
mạng tư sản Pháp, tham gia ú y ban cứu quốc trong thời kỳ Công ước quốc dân.

30
Hãy đứng dậy ! ta có quyền vui sống !
Cứ tan xương, cứ chảy tủy, cứ rơi đầu !
Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu
Cho ta bước đến cõi đời cao rộng.
Huề, tháng 4-1938

LIÊN HIỆP LẠI


VÔ sản thè giới liên hiệp lại Ị
CÁC MÁC

Khóc là nhục. Rên, hèn. Van, yếu đuối


Và dại khờ là những lũ người câm
Trên đường đi như những bóng âm thầm
Nhận đau khồ mà gồi vào im lặng.

Đòi ta đã chứa bao nhiêu cay đẳng


Bao nhiêu xương, bao nhiêu máu oan hồn
Chưa vừa ư, những xác không mổ chôn
Những thi thể khô gẩy đương mòn mỏi !

Đời đói lạnh bồi không hề đòỉ hồi


Ngậm căm hờn mà chuốc những ưu tư
Nẻo đường ra đã vạch tự bao giờ
Mời chân bước mà vẫn còn e ngại !

Quyết chiến đấu 1 Nào, ta liên hiệp lại


Hỡi tù nhân khốn nạn của bần cùng ỉ
Ngày mai đây, tất cả sẽ là chung
Tất cả sẽ là vui và ánh sáng !
Tháng 7-1938

31
NHƯ NHỮNG CON TÀU

Khi ta đẵ say mùi hương chân lý


Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng.
Ta bước tói. Chi một đường : Cách mạng
Vững lòng tin sẽ nắm chắc thành công
Như những con tàu giữa biền mênh mông
Còn xa đất, vẫn tin ngày cập bến.
Cũng cỏ lẽ, hổi bạn đời yêu mến
Bờ đương mò*, hải cẳng hãy còn xa
Có lẽ nhiều mòm đá với phong ba
Sẽ đánh đắm một đôi tàu mỏng mảnh !
Đời tranh đấu có bao giờ yên tĩnh
Bạn đường ơi ! Nhưng nếu chí bình sinh
Ta đem phoi trải với đạ chung tình
vỏi huyết khí của tinh thần mãnh liệt ?
Sự sống đã phát sinh từ cái chết
Thì gian nguy hiểm nạn có hề chi ỉ
Ta hãy là đoàn chiền hạm ra đi
Hùng dũng tiến, đạp muôn đầu ngọn sóng
Tương lai đó, trước mặt ta, biền rộng
Trên đầu ta, lổng lộng gió tròi cao !
Rồi mai đây, giữa một buổi xuân đào
Ta sẽ tới ru mình trong vịnh bạc.
1938

T ừ ẤY

T ừ ấy trong tôi bừng nắng hạ


Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim . . .

32
Tôi buộc lòng tôi vói mọi người
Đề tình trang trải vói trăm noi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời,
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù b ơ . . .
7-1938

TIẾNG SẢO LY QUÊ*1’

Ly Quê trên súng thần công


Xinh xinh như một tiên đồng Bồng lai
Trăng khuya len xuống rừng dài
Đường non thăm thẳm, đá gài lô nhâ
Hồng quân mê mầi sông hổ
Đêm nay tạm nghi bên bò* suối reo
Đêm nay như những chiều chiều
Đôi con chim đứng lưng đèo ngần ngơ
Ly Quê nâng ống tre tơ
Thổi bài Quốc tè dưới cờ Hồng quân
Hồng quân bên suổi xoa chân
Chân rơm rớm máu, Hồng quân không giày !
Ra đi từ ấy Giang tây
Nước non vạn lý, đêm ngày trường chỉnh
Quản chi lên thác xuống ghểnh
Một vầng cờ đồ đinh ninh lời thể
Can trường trải vói sơn khê
Bước đi đã hẹn ngày về thành công.

(1) Tên một thièu niên anh dũng trong cuộc trường chỉnh của Hông quân Trung
hoa. Trên đường hành quân, em thường thổi sáo cho Hồng quân nghe (Theo thiên
phóng sự lớn «Nước Trung hoa đỏ trên đường» của nhà văn tiền bộ Mỹ Smidley).

33
Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân
Sáo kêu rẻo rắt xa gần
Sáo kêu giục giã bước chân quân Hồng
Ly Quê trên súng thần công
Nghe con chim hót trong lồng tim xanh. . .
1938

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG CHÉT


Kỉnh tặng anh Nguyễn Chi Diều

Anh vói tôi giữa bốn tường vôi lạnh


Lặng nhìn nhau, lựa phải nói năng chi !
Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi
Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại.
Anh là một thủy thù già vững lái
Tôi, bên anh, là bạn mới cầm chèo
Gần nhau đây mà xa biết bao nhiêu
Giữa hai đứa mênh mông là biền rộng !

Thuyền anh đã bao lần leo ngọn sóng


Trôi điêu linh trên vực mặn không cùng
Cánh buồm xưa kiêu hãnh gạt cuồng phong
Nay toi tả rủ dòng trên cột lỏng
Và mạn ván miên man theo nhịp sóng
Chiều hôm nay giông tố giạt vô bờ
Chiểu hôm nay, trên bãi đá chơ vo*
Tôi đứng ngó thuyền anh trơ xác chêt
ổ i trong đỏ biết bao ngày oanh liệ t!

Chềt hay không, nhân loại, những linh hồn


Đã từng đau khổ lẳm, đã tiêu non
Tất cả máu của một thời trai trẻ
Để đem lại cho Người ngày mới mẻ ?
Không ! Không 1 Không ! Anh không chết.
Trong tôi

34
Ý đòi anh đã nầy lộc đâm chồi
Trong cân não của một loài cơ cực
Anh đương sống với bao nhiêu sinh lực
Của thân cây đương buổi nhựa lên cành !
Kim nam châm đã hướng dần đời anh
Tôi sẵn có trong tay từ thuở ấy
Đường đi đó, nhổ sào lên, tôi lái
Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyển
Nào cẩn chi biền rộng dẫu bình yên
Hay ghê gớm nồi cồn cao sóng dữ
Tôi cứ lái cho tới ngày mệt lử
Một chiểu kia, dù lại cũng như anh
Trò* về đây trong mạn ván tan tành
Giữa lúc những thuyền kia lưót tới*
Mùa tha 1938

Ỷ XUÂN

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới


Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng !
Hết lạnh rồi, gió bắc với mưa đông
Đây nắng tới với chim ca lanh lảnh
Thì vui chút cho hồn thêm nhựa mạnh
Gân thêm săn và máu hận thêm nồng !
Đời lạt mùi và đau đớn bất công
Là đề việc cho thời xuân sức khỏe.
Kiêu hãnh chút, bạn đời ơi, tuồi trè
Say tương lai là tuồi của anh hùng l
Đứng lên đi, xây dựng cuộc đời chung
Nắm tay sẳt quyết đống tâm lật đồ
Cả chế độ hung tàn gây thống khổ
Và tị hiểm, và gian dối, điêu vong !
Đứng lên đi, hỡi tuổi trẻ xung phong
Sóng cách mạng đang gầm rung thế giới !

35
\

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới


Bạn đời oi, vui lắm, cả trời hống I
Xuân 1939

TÂM T U TRONG T ù

Cô đơn thay là cảnh thân tù !


Tai mò’ rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lẳng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu !
Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều
Len nhẹ nhẹ qua rào ô cửa nhỏ
Đây lạnh lẽo bổn tường vôi khắc khố
Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u . . ♦

Cô đơn thay là cảnh thân tù !


Tai mờ rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lẳng nghe tiếng đòi lẩn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu !
Nghe chim reo trong gỉó mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng doi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giểng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi v ề . . .

Ôi ỉ Hôm nay sao nhựa sổng tràn trề


Trong những tiếng nghe chừng quen thuộc quá !
Nghe gió xối trên cành cấy ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loàỉ
Tôi mơ hổ nghe tất cả bên ngoài
Đang ríu rít giữa một tròi rộng rẵi
Đang hút mật của đòi sây hoa trái
Hương tự do thơm ngát cẳ ngàn ngày. . *

36
Ôi ! Bao nhiêu ảo tường của hồn ngây
Tôi phút bỗng như quên đời thê thảm
Ở ngoài kia. . . biết bao thân tù hãm
Đọa đầy trong những hố thẳm không cùng!
Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ một con chim non bé nhò
Vứt trong lồng con giữa một lổng to
Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
vẫn đứng thằng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ !

Tôi, hôm nay, dầu xa tạm ngọn cờ


Hồn tranh đấu vẫn còn thôi thúc não !
Noi đày ẳi là Đắc pao, Lao bảo
Là Côn lôn, thế giới của ưu phiền ?
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bần.
Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc !

Có một tiếng còi xa trong gió r ú c. . .


X à lùn số 1, lao Thừa thiên
29-4-1939

CON CHIM CỦA TÔI

Nó chết rổi, con chim của tôi


Con chim sẻ sẻ mới ra đòi !
Hôm qua nó hãy còn bay nhảy
Chi một ngày giam, đã chết rồi !
Tôi muốn cô đơn dịu bót sầu
Nên tôi yêu nó, có gì đâu I
Tình thương vô ý gây nên tội
Tôi đã tù, sao bẳt nó tù ?

Sao nỡ dù trong giây phút thôi


Bắt con chim nhồ hận câm lời
Sao không trả nó về mây gió
Cho nó say sưa uống ánh trời ?

Tôi dẫu dành cơm mỏtn nó ăn


Đù làm sao được : thiếu không gian !
Sao tôi không hiểu, sao không hiều
Đề tội tình chưa, nó chết oan !
X à lim số 1, lao Thừa thiền
Tháng 5-1939

KHI CON TU H ủ

Khi con tu hú gọi bầy


Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiẽng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đẩy sân nẳng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không . ♦.

Ta nghe hè dậy bên lòng


Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !
Huề, thảng 7-1939

38
NHỚ ĐỒNG
Tặng Vịnh

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ


Hiu quạnh bên trong một tiếng hò 1
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thớ yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mờn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi ?
Đâu những đường cong bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngù im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi. . .
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đổng quê thương nhớ ơi ỉ
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai ?
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ớ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò l
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi !
Đâu những hồn thân tự thuớ xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà !

39
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiểm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chằng rời
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơK1)
Say đống hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát tròi ♦. ♦
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơ i !
Tháng 7-1939

GIỜ QUYẾT ĐỊNH

Không thể nữa, lưng chừng hay tính toán


Trọn đời ta rút gọn ở giờ này.
Bão đã rốc thổi già trên biển loạn
Sồng là đây mà chết cũng là đây 1
Không thể nữa, lơi chèo hay quay lái
Đằng sau kia còn bãi cát nào đâu ?
Chỉ ghê gớm núi chồm trên sóng đại
Chực quăng ta vào mỏm đá nhô đầu I
Không thể nữa, cầu xin êm eió nước :
Gió vô tri và nước cũng điên cuồng
Phật vẫn lặng như ngàn năm thuở trước
Và Trời hay Thiên chúa chỉ hư không !

(1) Cà lơi : loại chim sơn ca.

40
Không thể nữa, không bao giờ được nữa !
Đoàn ghe ta chỉ sống ở trăm tay
Bão cồ xé cho đoàn ta tan rã
Thì mau lên, riết chặt mối ngàn dây !

Xích sát lại, cập kể nhau vững chắc


Dầu sóng tung hay gió quật thâm người
Da rét, mặc ! tả tơi quần áo, mặc !
Phải găng lên, mỗi đứa chúng mình ơi !

Tay bình tĩnh cứ ghì ôm vững lái


Còn bao nhiêu cứ cắm cổ bơi chèo !
Không một tiếng thỏ- dài buông rã rượi
Không một lời đề chán nản thầm gieo !

Dầu phải chết một phần ta, cứ chết !


Không kêu ca, không tièc hối, than phiền.
Quyết không để cả đoàn tan nát hết
Bạn thuyền ơi ! nỗ lực bơi chèo lên !
Thảng 4-1940

DẬY LÊN THANH NIÊN


L ời TỔ Quốc

Hỡi những con khôn của giống nòi


Những chàng trai quý, gái yêu ơi !
Bâng khuâng đứng trước đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi ?

Hỡi những con khôn của giồng nòi


Đã từng đau tự thuở trong nôi
Đã từng thấy Mẹ lăn trong máu
Lệ đã chua cay ngấm nụ cười.
Mẹ đã vì con khổ vạn đời
Hận thù đế quốc quyết không nguôi
Còn chỉ đâu nữa nuôi con lớn
Vú Mẹ giờ đây cạn sữa rồi ỉ

Há đề ai bênh vực lọi quyển


Dậy lên, tất cả những thanh niên !
Dậy lên, hỡi những linh hồn thép
Dân tộc lưu đây vạn tập truyền !

Phất ngọn cờ lên, tung bước lên


Với kho hùng khí của thanh niên
Vang lừng mặt trận rung trăm trống
Cách mạng quân ta cướp chánh quyển !
Cờ tự do bay rợp chiến đài
Bốn phương trời đò rực tương lai
Dậy lên, hỡi những linh hồn trẻ
Máu của con yêu nhuộm thẳm đời 1
Tháng 5-1940

CHÂU RO

Châu Ro oi, xa rừng quê núi cũ


Tù nơi đây buồn lâm phải không anh ?
Người Thượng già đương mải ngó xa xanh

Vói đôi mẳt dại đờ trong tuyệt vọng


Bỗng quay lại, cơ chừng nghe xúc động
Cả một lòng thương nhớ, dưới chiều đi
Ánh nhìn tôi, đau đớn, rồi thẩm t h ì :
« Tôi nhớ lắm, chui cha, tôi nhớ lắm !»

Ôi tiếng nhớ sao mà nghe buồn thảm


Nó kéo dài như một tiếng dè kêu
Lạc bầy đi ngơ ngác dưới sương chiểu. ♦♦
Tôi để lặng nghe nỗi lòng đau khổ

42
Của anh bạn, trong khi sầu não đó
Kể bên tai, bằng một giọng rừng non :
« . . . Mấy năm rồi, xa cái vợ cái con
Tôi nhớ lẳm ! nhớ cái nhà cái cửa
Nhớ cái rẫy nhiều khoai, nhiều bắp lúa
Nhớ con bò to, nhớ mấy con heo
Không biết còn hay Ông(!) bắt chết queo
Đề con đỏi với vợ nghèo trong núi ?»
Rồi bỗng lặng trầm ngâm anh rã rượi
Há hốc mồm như đề gió rừng xa
Cùa quê hương đem lại chút hơi nhà. . .

Và dưới bóng mày đen, trong hốc tối


Như hang đá chiều hôm dày khí núi
Đọng sương mờ trên đôi mắt chứa chan
Bao nhử nhung, thờ thẫn, ngó lên ngàn. . .
Anh không khóc nhưng vì đâu chẳng biết
Có lẽ bời bao nhiêu điều nhớ tiếc
Trong lòng anh hun lại khối căm hờn
Những bàn tay độc ác đã chia tan
T ố yên ấm trên đầu ngàn ngọn núi
Tôi bỗng thấy chóp lòe lên dữ dội
Lửa thù trong đôi mẳt tối chiểu đông
Đôi vành môi thành một lưỡi dao cong
Anh nghiến chặt hai hàm răng lẩm bẳm í
« Đau cái bụng(2), ui chui cha, tức lắm !»

Và hồi lâu, bên ngưỡng cửa song tù


Tôi còn nghe tiếng nói của Châu Ro :
Đau cái bụng, ui chui cha, tức lắm. . .
Lao bảo, mùa Đông 1940

(1) ồng ỉ tiếng gọi bọn quan Pháp cai trị.

(2) Đan cải bạng : một lối nói của đổng bào Thượng để chì sự uất ức trong lòng.

43
TRĂNG TRỐI

Từ thuở ấy, quăng thân vào gió bụi


Đến hôm nay phút chết đã kề bên
Đến hôm nay kiệt sức, tôi nẳm rên
Trên ván lạnh không mảnh mền, manh chiếu.
Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kể tận cổ, súng kể tai
Là thân sồng chỉ coi còn một nửa
Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa
Bạn đời ơi ! ta đã hiểu nhau rồi.
Nếu mai đây có chết một thân tôi
Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa !
Hai mươi tuổi mới qua vòng thơ bé
Dù phải chết, chết một đời trai trẻ
Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn
Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa ?
Tôi chẳng tiếc, chỉ cười trông mai mỉa
Bao nhiêu hình ảnh đó vẽ quanh tôi.
Tiếc làm chi ? Thế cũng đã sống rồi,
Trường dông tố mầy năm trời vật lộn
Với cách mạng, tôi không hề đùa bỡn
Và không hề dám chối một nguy nan.
Dẫu bao nhiêu thành quả của thanh xuân
Tôi mới hái một đôi lần ít ỏi
Và bên bạn, chỉ là tên lính mới
Gót chân tơ chưa dày dạn phong trần
Tôi vẫn hằng tự nghĩ : Miễn quên thân
Dâng tất cả để tôn thờ chù nghĩa
Thế cũng được, lựa chi nhiều tài trí
Mới là tên lính quý của đoàn quân ?
Và lòng vui, trí nhẹ đù trăm phần
Tôi sẽ chết bình yên, không hối hận.

44
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
Nẻo đường xa, đã mạnh dấn chân vào
Đã từng lăn trong máu dưới gươm trào
Thân đã nặng bới bao gông xiềng xích !
Tôi sẽ chết, tuy chưa về tới đích
Nhưng cần chi, đã có bạn chung đời
Tung hoành trên mặt đất bốn phương trời
Trường giao chiến không một giờ phút lặng !
\ Rồi chiến thẳng sẽ về ta, chiến thẳng
' Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta 1
Trường đấu tranh là một bản hùng ca
Ta sẽ chết trong điệu đàn tranh đấu.
Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu
Cùa một người bạn nhỏ, trước khi đi
Đây là lời trăng trối đề chia ly
Hãy đón nó, bạn đòi ơi, đón nó !
Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ
Sổng đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà 1
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng.
Lao bảo, thảng 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)

CON CẢ, CHỘT NƯA

Năm sáu ngày mệt xỉu


Thuốc làm khuấy mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồngt1)
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đầu sàn, canh bốc khói
(1) Bao đồng : lan man.

45
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ !
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì :
« Ăn đi thôi, ăn đi !
Chết làm chi cho khổ !»
Nghe hẳn thầm quyến rũ
Tôi đò mặt bừng tai :
«Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết !»

Hẳn nằm im đỡ mệt


Rối tha thiết van lơn :
«Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ !»
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lề chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Hắn liền thay chiến thuật :
« Thôi thì thôi, cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn, với đời
Cho đến ngày kết quả.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ ?
Thế vẫn tròn danh dự !
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
uồng vô là sạch hết !»

Lần này tôi thú thiệt :


Lời hẳn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đẩy
Nghe ra chừng phải quá !

46
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự !
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lẳc đầu
Đành không ai biết đâu
vẫn không làm thế được !
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mẳt thần : chù nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bênh vực lợi quyển chung
Sổng chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mì
Như tròng mắt, con ngươi
Đến cạn máu tàn hoi
Không xa ròi kỳ luật !
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội !
Bụng nghe, chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thò’ than chi
Và tôi cười đắc thẳng.
Lao bảo, 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)

47
QUYẾT HY SINH
Kinh tặng các đồng chi hy sinh
trong cuộc khởi nghía Nam kỳ 1940

Các anh chị bước lên đài gươm máy


Đẩu sắp rơi mà mối vẫn cười tư ơ i!
Chi còn đây một giây sổng nữa thôi
Mà mẳt đó vẫn trông đời binh thản.
Giữa lúc giặc hằm hằm tay ỉẳp đạn
Anh hùng lên tấm ván vẫn hiên ngang
vẫn oai nghỉ, như bao thuỏv đường hoàng ỉ
Hơi chiến sĩ vẫn rền vang, dõng dạc :
« Hỡi giặc Pháp, tám mươi năm tộỉ ác
Trên đầu bay. Sống thác ta cần chi l
Giết ta đi, lũ khốn, gỉềt ta đi
Máu ta thấm vào muôn lòng rên xiết
Bay sẽ thấy cả Việt nam đoàn kết
Đứng phắt lên, giết chết cả loài bay
Đứng phắt lên, chặt đứt xích xiềng này !
Một thây ngã, một trăm đầu xốc tói
Trăm đầu rụng, thi muôn chân lính mỏì
Sẽ xông lên ! Cờ phấp phỏi bay cao
Sẽ không rơi xuống đất một giây nào !
Kèn xung trận kêu gào muôn chiến s ĩ !
Quyết chiến thẳng, hỡi đổng bào, đồng chí 1
Nưỏ*c Việt nam độc lập . . . »
ô i thương đau
Lời chưa xong chiến sĩ đã rơi đầu I
Các anh chị
Hãy ngàn năm yên nghỉ ỉ
Bao lòi ngọc, chúng tôi ghi xương tủy
Và xin thể trước bóng dáng thiêng liêng :
Quyèt hy sinh, phá tan hết gông xiềng
Cho Tố quốc muôn muôn năm độc lập !
Ban mê thuột, 2-1941

48
BÀ MÁ HẬU GIANG

£^ Trời Hậu giang, tù và đậy rúc


4 -
Phèng la kêu, trống giục vang đổng
Đường quê đồ rực cờ hồng
Giáo gươm sáng đất, tẩm vông nhọn tròi
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông !

xS : Hỡi ô i ! việc chửa thành công


,_ Hôm nay máu chảy đò đồng Hậu giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.

★★
Cổ ai biết, ai ngờ trong đỏ
Còn chơ vơ một ồ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Mả ơi, má ở làm chi một mình ?
Rừng mệt dải Ư minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất cùi khô làm gì ?
Hay má lẫn quên vì tuồi tác
Hay má liều một thác cho yên ?

Bỗng đâu một buổi mai lên


y Trên đường quê ấy, qua miền nghĩa quân
Một toán quỷ rầm rầm rộ rộ
Mẳt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạch vẳng, im hoi
Chi đôi bóng quạ ngang tròi loáng qua
Ách-làí1) 1 Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo

Xa xa, sau lớp nhà xiêu


Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên . . .
Hẳn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
vẫy tay lũ tở gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bưỏ*c chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh. . ♦

Má già trong túp lều tranh


Ngồi bên bếp lửa, đun cành cùi khô
Một mình má, một nổi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cư ờ i. . .

' •' Chết ! Có tiếng gì roi sột soạt ?


Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu ? Thôi chết, chết rổi !
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thẳng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đổc gươm dài tuổt vò cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đẩy lối đi !

Hẳn rướn cổ, giương mi, trợn mẳt


Như hò mang chợt bẳt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa : một nổi cơm to.
Hẳn rổng hét : « Con bò cái chết 1
Một mình mày ăn hết này sao ?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?

(1) Ách-ỉà : tiêng Pháp nghĩa là đứng lại.

50
Khai mau, tao chém mất đầu !» '
Má già lầy bầy như tàu chuối khô
Má ngẵ xuồng bên lò bềp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngó trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
« Các con oi, ở trong rừng u minh ^
Má có chềt, một mình má chèt
Cho các con trừ hết quân Tây ! »
Thẳng kia bỗng đậm gót giày
Đạp lên đầu má : « Mẹ mày, nói không ?»
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
« Các con oi ! Má quyết không khai nào !»
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn : « Tụi bay đồ chó ỉ
Cướp nước tao, cẳt cổ dân tao ỉ
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng 1
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm !
Thân tao chết, dạ chẳng s ờ n !»
Thương ôi I lời má lưỡi gươm cắt rồi I
Một dòng máu đò lên tròi
Má oi, con đã nghe lòi má kêu !
Nước non mụôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiểu Hậu giang.
Đầu năm 1941

BA TIẾNG

Nghĩa đòi trong ba tiếng :


Máy điện giục gầm gừ
Chuông đạo hát vô tư
Kiểng tù khua gẳt gồng
Mỗi tiếng riêng một giọng
Mỗi giọng riêng một lòi.

★★

51
Máy bảo : «Đổ mồ hôi
Hay dầu sôi nước mắt
Rã rời tay cũng mặc
Mi phải suốt đời mi
Làm nữa, phải làm đi
Không một giây ngừng nghỉ».

Chuông khuyên, lòi ùy mị :


« Con, nhận khổ đời con
Đề nhẹ thoát linh hồn
Thiên đàng trong nhẫn nhục
Oán thù là địa ngục
Cười vui theo gió quên ».

Và kiểng dọa : « Nằm yên


Phải cúi đầu khuất phục
Đây thành lao cửa ngục
Đây xiềng xích, gông cùm
Đây mũi súng, làn gươm
Chết, nếu mi đòi sống».

Kiềng tù khua gắt gỏng


Máy điện giục gầm gừ
Chuông đạo hát vô tư
Nghĩa đòi trong ba tiếng
X à lim Qui nho-n, tháng 8-1941

TIẾNG CHUÔNG NHÀ THỜ

Mỗi buổi mai lên


Trên tường mái phố
Chuông nhà thờ đồ
Mỗi buổi hoàng hôn
Rù xuống linh hồn
Chim hôm về tổ
Chuông nhà thờ đổ ♦ ..

52
Tiếng đổng ngân nga
Khoan thai bao la
Bình yên ủy mị
Dịu dàng mang ý
Muôn lời ngọt thương . . . !

Ai nằm trong sương


Bên đường phố lạnh
Áo tàn nửa cánh
Cơm thừa nửa mo

Ai dưới đồng khô


Buồn lo méo mặt
Thuế sưu chống chất
Nặng ách trâu cày
Ai hai bàn tay
Dầy chai lấm mỡ
Hỡi người bạn thợ
Đường đi bước cùng

Có lúc nào không


Nghe hồi chuông đổ
Mà lòng bớt khồ
Mà môi nò1 cười ?
Hay tiếng chuông rơi
Buông lời an ùi
Cùng khua sầu tủi
Càng rung oán hờn !
X à lim Qui nhom, tháng 9-1941

MỘT TIẾNG RAO ĐÊM

Ai ăn bánh bột lọc không ?


Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng !

53
Không phải giọng của một hầu đứng tuổi
Cao thánh thót hay rồ khan giổ bụi
Đây âm thanh của một cồ non tơ
Mà giây ngân còn vương vấn dại khò*
Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ,
Tiếng rao nhò của một em gái bẻ
Không vang lâu, chi vừa đù rao mời
Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi
Nên cái bánh nửa chừng ra cái bén
Thôi cũng được, tiếng em vừa ngon đến
Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồ i. . .
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xồi
Tiếng em bước trên đường đêm nhồ nhỏ
Nhưng cũng đù cho lòng anh lắng rỗ,
Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng
Như cây dương liễu nhò tóc chưa viển
Manh áo mỏng che em không kín ngực
Đầu không nón, bụi sương thầm chấm ướt
Đuôi tóc chuôi chừng bảy tám năm thôi !
Ầy chân em leo lên bước đường đòi
Ngày tháng đó trong mùng vài chục bánh.
Gia tài đó, mấy đồng xu mỏng mảnh,
Biết bao giờ mà sướng được em ơ i !
Có ai thương một con bé giữa tròi
Mà thương nữa, cũng đôi người lơ đễnh
Kêu em lại, mua cho vài chiếc bánh
Trả vài xu và thoa má, ngọt ngào
« Ổ cái con bẻ nó mới ngoan sao
Chừng ấy tuồi đã làm ăn bán dạo ỉ

Và con bé đi rồi, tình mới đậu


Chưa nồng trên lòng khách, đã phôi pha
Theo dáng hình sương khuất, tiếng rao x a . . .
Xà lim Quì nhơn, thảng 11-1941

54
DẬY MÀ ĐI!

Dậy mà đ i ! Dậy mà đi ! •
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thẳng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
Huống đường đi còn lẳm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu ỉ
Thì đứng dậy, xoa tay, và tự bảo :
Chí còn đây sức lực hãy còn đây ?
Lòng không nghèo tin tường ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
Thua ván này, ta đem bày ván khác
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kỉnh nghiệm ở bao lẩn thất b ạ i :
Một lần ngã là một lẩn bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo oi !
5-1941

TIẾNG HẲT ĐI ĐÀY


Tặng Huỳnh Ngọc Huệ

Đường qua mấy phố Qui nhơn


Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần
Người đi quấn áo chen chân
Ờ* sao như đã quen thân từ nào ?

Xe oi, chậm chậm ngừng giây phút


Kéo nữa rổi đây lại khát khao ĩ

55
Nhưng nhà đã rải lơ thơ
Người đi mấy bóng vẩn vơ trên đường
Đống xanh gợn nhớ quê hương
Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiểu
Xa rồi bóng dáng yêu thương cũ
Nhàn nhạt ngàn xa buồn cô liêu . ..
Đường lên xứ lạ Công tum
Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao.
Thông reo bờ suối rì rào,
Chim chiều chiu chít, ai nào kêu ai ?
Muốn gầm một tiếng tan u uất
Hận bỗng tuôn theo gió thổi dài
Đường lên Đắc sút, Đẳc pao
Đèo leo ngọn thác, cầu treo mặt ghềnh
Đìu hiu mấy ải đồn canh
Lòng đau lại nhớ các anh những ngày. ..
Chao ôi, xưa cũng chốn này đây
Thân bạn vùi xương dưới gốc mây
Roi vụt rát tay bầy lính rợ
Máu dầm khoái mắt lũ đồn Tây 1
Mỗi hòn đá đó, bao hòn huyết
Một khúc cầu đây, mấy khúc thây !
Hỡi những anh đầu qua trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đày 1
Đường lên đỉnh núi Đắc lay
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
Gà đâu gáy động im lìm
Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây
Đồn xa héo hẳt cờ bay
Hiu hiu phất lại buồn vây vây lòng
Có ai hiểu nỗi hờn ghê gớm
Trên mắt người trông với núi sương
Núi hỡi I từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm đường ?
Thảng giêng 1942

56
ĐÊM GIAO THỪA

Đêm nay pháo nổ giao thừa


Mà người chiến sĩ không nhà còn đi
Truông dài, bái rậm, đổng khuya
Người đi như chẳng nhớ gì tết xuân
Người đi quên hết gian truân
Say mê như một dân quân trên đường
Xóm làng phảng phất quê hưcmg
Nước non man mác tình thương mặn nồng.
Song trong mưa gió lạnh lùng
Tái tê chân cũng ngại ngùng bưửc gieo
Nép lưng vào miếu tranh nghèo
Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng
Xuân 1943

ĐI
Tặng bạn trề

Đi, bạn ơi, đi ! Biệt tháng ngày


Hoang mang không định hướng tương lai
Buồn thiu như dưới chiều quê lặng
Giải nước mương lê xuống vũng lầy*

Đi, bạn ơi, đi ! Sống đù đầy


Sống trào sinh lực, bồc men say
Sổng tung sóng gió thanh cao mới
Sống mạnh, dù trong một phút giây*

Đi, bạn ơi, đi ! Cả cuộc đời


Của ta nào chỉ của ta thôi ỉ
Đã vay dòng máu thơm thiên cổ
Phải trả ta cho mạch giổng nòi !
Trả hết, không quyền tiếc mảy may
Trả ngay, không hẹn khất rày mai
Nước non rên xiết trong xiểng xích
Đã giục ta ra giữa chiến đài !
Và vạn anh hùng trên gió mây
Và nghìn thế hệ tới sau đây
Đ ương nhìn ta đó ! Đi đi bạn
Cất nhẹ thân lên giữa phút này ?
Nỗ lực bình sinh diệt địch cừu
Chúng ta nào phải lũ phiêu lưu
Tung bừa sinh mạng lên đùa bỡn
Với gió mây như đứa thả diều.
Ta đã đi, là ta quyết đi !
Đạp bằng trồ' lực, vượt gian nguy
Ngực còn thoi thóp, tim còn đập
Còn nghiến răng giương thẳng nghĩa kỳ !
1944

XUÂN ĐẾN

Hôm nay xuân ốm dậy


Buồn như đông, nhợt nhạt, mưa phùn.
Trên đường quê nhớp nháp lầy bùn
Đôi bóng xám nghiêng nghiêng trong gió rét.
Ôi xuân đó, những mẳt viền bóng chết
Những manh buồm xơ xác phù vai gầy
Những chân run bấm ngón trên đường lầy
Không biết định về đâu, noi sống sót ỉ
— Hỡi người bạn đã bao ngày đau xót
Lòng ưu tư giá lạnh như chiều nay
Hãy đưa tôi nắm chặt lấy bàn tay
Của bạn 1 Trong mưa phùn gió rét
Lòng sẽ ấm cùng nắm tay đoàn kết
Ta đi đi, tìm hạnh phúc từ đây !

58
Cùng những ai chán ngán cuộc đời này
Ta hớn hồ’ riết bàn tay huynh đệ
Không gì mạnh bằng đoàn quân nô lệ
Mà hờn căm đã bổc lửa ran đầu.
Cả loài người đau khổ đã kêu nhau
Vùng đứng dậy, nghiền chặt răng chiến đấu ỉ
— Hỡi người bạn 1 Vui lên đi 1 Ât dậu
Sẽ là năm khới nghĩa, năm thành công 1
Trời hôm nay dầu xám ngắt màu đông
Ai cản được màu xuân xanh tưoi sáng
Ai cản được những đoàn chim quyết thẳnịg
sẳp về đây tắm nắng xuân hồng ?
Xuân Ầ t dậu
(1945)

HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết chièn hy sinh
Cho Việt nam độc lập
Cho thế giới hòa bình !
Người đã sống năm mưoi năm vũ bão
Vì nhân loại
Người quyết dâng xưong máu
VI giang sơn
Người quyết dứt gia đình !

HỒ Chí Minh
Người đã quyết
Mặc phong ba giá tuyết
Mặc gưom súng xiểng gông
Làm tên quân cảm tử đi tiên phong
Đánh trăm trận, thể trăm phen quyết thắng !
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đẳng
Hồn vẫn tưoi vui, thơm ngát tĩnh đòi
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi
Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến
Cờ đã phất, phải giương cao quyềt tiến !
Người xông lên
Và cả đoàn quân, thừa huyết khí thanh niên
Rập bước tiến bên người Cha anh dũng
Tiếng Người thét
Mau lên gươm lắp súng !
Và cả đoàn quân
Đã bao nhiêu năm tháng trải phong trần
Mẳt sáng quắc tay xanh lòe mã tấu
Vụt ào lên quyết hy sinh chiến đấu
Diệt cường quyển í
Ôi sức mạnh vô biên !

Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc
Trăm thế ký trong tên Người : Ái Quốc
Bạn muôn đời của thế giới đau thương !
Chúng tôi đây
Lớp con cháu trên đường
Gươm tuốt vỏ, súng cầm tay, xốc tới
Ngọn cờ đò sao vàng bay phấp phới
Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca

Hồ Chí Minh
Người trẻ mãi không già.

26-8-1945

60
HUẾ THÁNG TÁM*')

Huế ưầm mặc hôm nay sao khác khác


Những mắt huyền ngơ ngác hòi thầm nhau
Chân nôn nao như khách đọi mong tàu
Bước dò bước, không biết sau hay trước ?
Tim hồi hộp, vì sao ? Ai hẹn ước Ị
Ai đang về ? Dáng đó thấp hay cao ?
Mắt sáng ngòi, như ỉửa hay như sao ?
Người hay mộng ? Ngoài vào hay trong tới ?
Giáng từ trên hay là vươn từ dưới ?
Huế xôn xao, lo lắng, những đêm mơ
Khát khao hoài, như cô gái mong chờ
Sau cửa hé, người yêu chưa biết m ặt. . .
Trên Hương giang mênh mang đò lạnh ngắt
Tiếng đàn im. Ca kỹ nép phương nào ?
Trăng thì thầm chi với sóng lao xao. . .
Đức Kim thượng(2) đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lẩu, trông lên cao xao xuyến
Muôn vì sao. . . Lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
Nổi cô độc giữa gió triều biển động.
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới sân chầu
Người đứng đây. Trăm họ đang về đâu ?
Đình thần đó rầu rầu thân đá trắng
Quá khứ nặng đè xuồng đầu cúi lặng. . .
Một ngai vàng không thể thắng cả giang sơn !
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã sôi dòng nhân loại
Người phải xuồng, đêm nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thẳng giữ ngôi son !

(1) Bài này làm trong thời kỳ Bảo Đại còn được Chính phù dân chù cộng hòa
cho giữ chức cố vấn, sau khi hắn thoái vị trước áp lực của cách mạng.

(2) Tiếng gọi nhà vua, dưới chế độ phong kiến.

61
Người phải lui, cho dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa !
Hãy mớ mẳt : quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mớ mắt trông : trời đất bốn phương chào.
Một dân tộc đã ào ào đứng dậy !

Chừ đây Huế, Huế oi ! Xiềng gông xưa đã gãy


Hãy bay lên ! Sông núi của ta rồi l
Nước mắt ta trào, húp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc !
Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc
Hả hê chưa, ai bịt được mồm ta ?
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta say, say thần thánh ?
Ngực lép bổn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên* Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót choi
Ha ! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ í
Gió gió ơi l Hãy làm giông làm tố
Cuồn tung lên cờ đồ máu thơm tưoi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi !
Ta ngã vật trong dòng người cuộn thác
Ôi thiên đường ! Tai miên man lắng nhạc
Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm
Việt nam ! Việt nam í Việt nam muôn năm !
1945

GIẾT GIẶC

Máu Việt nam đang chảy


Đỏ đồng, ôi máu yêu !
Miền Nam đang bốc cháy
Đồng bào ôi lửa thiêu !

62
Mau mau lên đứng dậy !
Gươm gươm đâu, tuốt ra
Súng súng đâu, vác chạy
Cứu cứu đồng bào ta !

Giết giết quân xâm lược !


Mau xung phong I Xung phong !
Cờ bay lên cứu nước
Máu giặc phải thành sông !

Ha ha ! Bay phải chết


Lũ tàn ác gian tham !
Muôn trái tim đoàn kết
Toàn dân tộc Việt nam !

Mỗi khu vườn, góc phố


Mỗi ô ruộng, đường quê
Và rừng xanh núi đồ
Đã vang động lời thể

Đất ta, ta quyết giữ


Một tấc cũng không nhường !
Đây là giờ sinh tử
Ta cần chi máu xương ?

Tiến lên, Quân giải phóng !


Qua cái chết vinh quang
Tiền lên, giành quyền sống
Dưới cờ đỏ sao vàng !
13-10-1945

XUÂN NHÂN LOẠI

Mấy bữa trời chưa ngớt gió sưong


Cành xoan chưa phù lục bên đường
Song lòng ta đã nghe đâu đó
Có một mùa xuân phảng phất hương

63
Không phải mùa xuân mấy thuổ* sang
Lá xanh không mát dạ khô vàng
Hoa thơm không át mùi xương máu
Nắng chỉ lây buồn trên áo tang

Đây một mùa xuân tói tới gần


Đây mùa bất tuyệt của muôn xuân
Hương tình nhân loại bay man mác
Gió bốn phương truyền vang ý Dân

Ôi hài âm mạnh của nhân gian !


Mỗi giọng thân yêu, một tiếng đàn
Cao vút từng không, băng vượt núi
Trường sơn, Hy mã lạp, U-ran^1).

Lâu rồi, khao khát lẳm, xuân ơi


Nhân loại vươn lên ánh mặt trời
Nhân loại trườn lên trên biển máu
Đang nghe xuân tới nờ môi cười*
Xuân, 1946

(1) U-ran : tên một dãy núi lớn trên đất nước Nga.

64
II—VIỆT BẮC
Việt bắc là tập thơ thứ hai của T ố Hữu gồm những bài thơ
sáng tác từ năm 1946 đến năm 1954, thời kỳ dân tộc ta làm cuộc
kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp xâm lược.
Xét chung nội dung tập thơ, phải nhận định rằng : V iệt b ắ c
là bản hợp xướng của nhân dân Việt nam kháng chiến chổng Pháp.
Ờ đây, nhà thơ đã làm nổi bật vai trò củ a nhân dân trong chiến
tranh cách mạng và xác định văn nghệ phải phản ảah cho được cái
vai trò đó ; vì ngay ở «lời đề » đầu tập thơ, tác giả đã v iế t:
«Nhân dân là bề
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên. ..»
Nếu T ừ ẩy là tiếng nói của một tâm hồn tự ca hát, thì Việt
b ắ c lại là bản hợp xướng của nhân dân kháng chiến. Sự bièn chuyền
về để tài và phương pháp biểu hiện đánh dấu một bước chuyền biến
quan trọng trong thơ Tố Hữu. Không phải là trusớc Việt b ắ c , thơ
Tố Hữu không có những nhân vật trữ tình là quần chúng cách mạng,
nhưng trên căn bản, nhân vật trữ tình trung tâm củ a T ử áy vẫn
là cái tôi trữ tình của nhà thơ. Điểu đó hoàn toàn đúng đắn và
hoàn toàn cần thiết trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, vì
lúc bấy giờ, việc nhà thơ trình bày tâm tình của bản thân mình —
một thanh niên yêu nước giác ngộ lý tường cách mạng và hy sinh,
phấn đấu cho lý tưởng đó — sẽ có tác dụng vô cùng to lớn đối vỏi
quần chúng cách mạng, đưa họ đến với chủ nghĩa Mác — Lê-nin,
vói sự nghiệp giành độc lập, tự do cho đất nước ; và bằng nghệ

65
thuật thơ ca, nhà thơ cho quẩn chúng hiểu biết thế nào là sồng như
những người cách mạng. . . Thế nhưng, khi cách mạng đã thành công
và nhân dân ta tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt mà
cách mạng đang đặt ra, cụ thể là tiến hành công cuộc kháng chiến
chống Pháp, thì nhân vật trung tâm của thơ ca cách mạng nói chung
và thơ Tố Hữu nói riêng phải là quần chúng cách mạng, và kháng
chiến là hoàn cảnh thúc đẩy thơ ca dân tộc bẳt rễ sâu hơn vào đời
sống hiện thực của nhân dân.
vỏi tư cách là một cán bộ kháng chiến, T ố Hữu có điều kiện
thuận lợi đì sâu vào đòi sổng quần chúng và vẽ lại đưọ’c nhiều bức
tranh sinh động về những con người Việt nam đang làm một cuộc
chiến tranh nhân dân vĩ đại chống xâm lược. Đó là hình ảnh những
em bé liên lạc, những bà mẹ chiến sĩ, những chị dân công, những
anh bộ độ i. . . và đặc biệt là hình ảnh của Bác Hồ — một hình ảnh
tập trung, kết tinh củ a nhân dân Việt nam kháng chiến :
«Ngirời ỉà Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm đòng máu nhồ.»
Điểu đáng chú ý là khi ghi lại những hình ảnh nhẫn dân anh
hùng, TỐ Hữu bao giờ cũng đi sâu vào bản chất củ a hiện thực để
miêu tẩ và phản ảnh cuộc sống, cho nên hĩnh ảnh của quần chúng
cách mạng trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng chân thật, cụ th ể , sinh
động và bao giờ cũng có ý nghĩa khái quát rộng lớn. Một anh bộ
đội cùng nhà thơ «Lên Tây bắc» đánh giặc, một hình ảnh rất
cụ thể :
« Tay dao tay súng, gạo đầy bao
Chân cứng đạp rừng gai, đá sẳc.»
Nhưng trong hình ảnh rất cụ thể ấy lại chứa đựng một cái gì
rất rộng lởn : Đó là bần chất anh hùng của quân đội ta, là tinh thần
chịu đựng mọi hy sinh và vượt lên trên mọi khó khăn, gian khố
để chiến thắng quân thù, đã kết lại thành một hình tượng thơ ca
độc đáo, cao rộng :
«Rất đẹp hình anh lúc nằng chiều,
Bóng dài lên đinh dồc cheo leo.
Núi khàng đè nổi vai vurơn tới,
Lá ngụy trang reo với giô đèo.»
Lượm, một em bé làm liên lạc gặp chú ở « Hàng Bè » — Huế —
chào chú bằng hai tiếng «đồng chí» và nói thẳng «0- đốn Mang cá

66
thích hơn ỏ’ nhà», đã hy sinh trong chuyển đi công tác chuyền thư
«thượng khẩn», rầt cụ thể ; nhưng cái tươi trẻ hồn nhiên của tuổi
nhỏ anh hùng trong kháng chiến chống Pháp cũng hiện lên thật rõ
nét trong hình ảnh của em :
«Chú bẻ ỉoẳt choẳt,
Cải xẳc xinh xinhỷ
Cải chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chỉch
Nhầy trên đường vàng.»
Một chị phụ nữ Bẳc giang có « con bề con bồng», một «bà bủ »
Phú thọ «nằm ồ chuối khô», một bà mẹ Việt bắc «con mé có ba,
trai hai gái m ột», một bà bầm «mưa phùn ướt áo tứ thân» c ủ a
vùng đồng bằng Bẳc b ộ . . . đểu rất cụ thể, nhưng đổng thời đều
có cái cao đẹp củ a tâm hồn người phụ nữ Việt nam. Đó là ý chí
phấn đấu đảm đang việc nhà, việc nước, là tinh thần chịu đựng, hy
sinh anh dũng — cái anh dũng thầm lặng — là lòng yêu thương chồng
con mênh mông và thăm thẳm . . . Bà bù nghĩ về con :
«Nó đi đánh giặc đêm nay,
Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn.
Nhà còn ổ chuồi lừa rơm,
Nó đi đảnh giặc đêm hôm sưởi gì?
Năm xưa, cơm cả ngon chi,
Năm nay, cơm gié nhà thì vẳng con.»
Lòng yêu thương con và đức hy sinh của người phụ nữ Việt
nam lớn đẹp biềt bao I Yêu thương con, nhưng bà mẹ Việt nam
càng yêu thương sự nghiệp mà con mình đang xả thân để phấn đấu
cho đất nước. Bà mẹ Việt bắc nói với con :
« . . . Mày đi,
Mày lo cho khỏe,
Đừng nghĩ lo gì,
Ở nhà có mẻ.»
Có nhiều hình ảnh bà mẹ, cũng có nhiều hình ảnh anh bộ đội
trong V iệt bắc và mỗi người một vẻ độc đáo riêng, không lẫn lộn

67
được, nhưng ở trong mỗi hình ảnh đó đều có những nét chung
tiêu biểu cho nhiều người. Vì vậy mà nhân vật trữ tình c ủ a thơ
Tố Hữu trong V iệt bắc đã đề lại trong trí ta những hình ảnh rất
đậm nét và ta có cảm giác như đã từng gặp họ nhiều lẩn trong
cuộc sống.
Thành công của T ố Hữu trong khi khắc họa hình ảnh nhân dân
ta rất anh hùng, chính là vì nhà thơ bao giờ cũng chú ý đến cá tính
dân tộc biều hiện trong những hoàn cảnh cụ thể c ủ a cuộc kháng
chiến chống Pháp. Do đó, trong V iệt bắc, tâm hồn nhân dân kháng
chiến bao giờ cũng mới, cũng đẹp mà lại rất Việt nam. Người ta
có thể thấy ở đây những «cánh đồng quê tháng mười, thơm nức
mùa gặt hái» c ủ a Việt nam, những «xóm tre xanh» Việt nam cổ
«bà ru cháu nằm khoanh lòng già». Người ta cũng có thể tìm thấy
những chi tiết về cuộc sống của con người Việt nam năm 1947 quen
cày cuốc, «tỳ tay trên mũi súng», bà mẹ Việt nam « nằm ồ chuối
khô», «mặc áo tứ th ân », một vị Chù tịch nước «áo nâu túi vải,
đẹp tươi lạ thưò'ng». Nhưng vè đẹp, vẻ thơ của những bài thơ Tố
Hữu viết về nhân dân kháng chiến, trước hết vẫn là vẻ đẹp c ủ a
những tình cầm c ủ a người Việt nam trong kháng chiến. Đó là vẻ
đẹp của tình yêu thiên nhiên đất nước, tình yêu gia đình, tình đồng
chí, đồng đội, tình quân dân, tình dân đối với lãnh tụ, với cách
mạng — những biểu hiện cụ thể củ a tình yêu nước. Đó là lòng tin
ỏ1 cuộc kháng chiển nhất định thẳng lọi — biểu hiện cụ thể của tinh
thần lạc quan cách mạng.
Tình yêu nước đúng là một tình cảm lớn được tập trung phản
ảnh trong Việt bẵc. Những màu sắc kháng chiến của tình cảm yêu
nước ò* Việt nam trong kháng chiến lại là «tinh kháng chiền» ; sau
này, trong bài thơ Lá th ư Bến tre, Tố Hữu đẵ có lần nhắc lại :
« vẫn đậm như xưa tình kháng chiền,»
Tinh yêu nước biều hiện trong vẻ riêng của «tình kháng chiến »,
nên rất đậm đà và sâu nặng.
- Tinh yêu thiên nhiên đất nước có thêm một tình yêu thiên
nhiên cùng nhân dân đánh giặc :
«Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thà.»
Và những tên riêng c ủ a đất nước, trong thơ Tố Hữu, như
những nổt nhạc của bài ca chiền thẳng :

68
«Tỉn vui chiền thẳng trăm miền,
Hòa hình, Tây bắc, Điện biên vui về.
Vui từ Đổng tháp, An khê,
Vui lên Việt bắc, đềo De, núi Hồng.»
Cỏ lòng yêu chiến khu kháng chiến thấm thìa, V iệt bắc đã đề
lại cho tho1 ca dân tộc những vần thơ đẹp miêu tả phong cảnh đất
nước đạt mức « cổ điển » :
«Rừng xanh hoa chuối đồ tươi,
Đèo cao nằng ánh dao gài thẳt lưng.
Ngày xuân, mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan áo chuốt từng sợi dang.
Ve kêu rừng phách đồ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.»
* Tình yêu giữa những người dân trên một đất nước cùng làm
nhiệm vụ đánh giặc giữ nước thật là nồng đượm. Nhà thơ đối với
anh bộ đội :
«Một thoáng lặng nhìn nhau
Đã âm thầm thương mến.»
Anh con trai đối với mẹ :
«Con đi đánh giặc mười năm
Không bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.»
Bà mẹ đổi với con trai :
«Nó đi đánh giặc đêm nay
Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn.»
Người vợ đồi vói chổng :
«Nhà em con bế, con bổng,
Em cũng theo chồng đi phá dường quan. »
Nhân dân đổi với Chính phù kháng chiến :
«Nẳng trưa rực rỡ sao vàng,
Trung ương, Chỉnh phù luận bàn việc công.»
Đối với Đảng Lao động Việt nam và Bác Hồ :
«Không gì vinh bằng chiền đầu dưới cờ
Đàng chói lọi Hồ Chỉ Minh vĩ đại.»

69
Tất cả đểu là tình yêu nước đậm màu sắc kháng chiến. Nói chung,
đọc V iệt bắc, chúng ta càng thấm thìa mối tình gẳn bó keo son
giữa những người dân trên đất nước đang chiến đấu gian khổ và
anh dũng giành độc lập, tự do.
Tinh thần lạc quan cách mạng, một biểu hiện đẹp đẽ c ủ a đời
sồng tình cảm dân tộc trong thời đại mới, được biều hiện trong
Việt bắc, là lòng tin & cuộc kháng chiến gian khổ nhất định
thắng lợi.
T ừ những năm đẩu tiên c ủ a cuộc kháng chiến, Tố Hữu
đã viết :
« Từ trong đồ nát hôm nay
Ngày mai đã đền từng giây, từng giờ.»
Kháng chiến càng gian khồ, tinh thần lạc quan càng thấm, càng
đượm :
«Gian nan, ầời vẫn ca vang núi đèo.»
Kháng chiến càng đi tới thẳng lợi, tinh thần lạc quan càng tỏa
sáng rực sỡ :
«Đền pha bật sáng như ngày mai lên.»
Và khi kháng chiến thành công, hình ảnh đất nưó-c trong bức
tranh tương lai mới đẹp làm sao !
«Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng.
Than Phấn mễ, thiếc Cao bằng,
Phò phường như nấm như măng giữa trời. »
Tinh thần lạc quan cách mạng ớ Việt bắc còn được thể hiện
trong những bức tranh sinh hoạt của quần chúng. Tiếng cười khoái
trá của nhà thơ và anh bộ đội & «lưng đèo N he» hay tiếng hát,
hò của anh chị dân công ỏ* «dốc Pha đin, đèo Lũng lô » nghe thật
hồn nhiên, khổe khoắn :
«Dôc Pha đin, chị gánh, anh thồ
Đèo Lãng lô, anh hò, chị hát.»
Nhờ phần ảnh chân thực đời sống hiện thực, Tố Hữu đã ghi
lại trong những biểu hiện cụ thể của đời sổng tâm hồn nhân dân
những tình cảm lớn của thòi đại : lòng yêu nước và tinh thần lạc
quan cách mạng.

70
Việt bắc ghi một thành công cho thơ ca kháng chiến và một
bước tiến cho thơ ca cách mạng Việt nam phấn đấu theo ngọn cờ
của chủ nghĩa hiện thực xã hội chù nghĩa.
Việt bắc là bức tranh sinh động, chân thực của cuộc sống
kháng chiến, con người kháng chiến và những tình cảm c ủ a thòi
đại biểu hiện cụ thể trong cuộc kháng chiến trường kỳ và vĩ đại
của dân tộc Việt nam chống bọn xâm lược Pháp.
Việt bắc là kết quả của đường lối văn nghệ cách mạng sáng
suốt : văn nghệ phấn đấu theo con đường dân tộc hóa, quần chúng
hóa và khoa học hóa.
Nếu T ừ ãy đã góp phần làm sáng t ố quan điểm văn nghệ là
vũ khí đấu tranh cách mạng thì Việt bẵc tự thân nó đã góp phần
giải quyết các vấn đề : văn nghệ phục vụ kháng chiến, phục vụ công
nông binh, mối quan hệ giữa người công dân và người nghệ sĩ, giữa
tuyên truyền cách mạng và nghệ thuật cách mạng.
Việt bắc là một tập thơ tương đối mỏng, nhưng đã chứa đựng
khá nhiều bài thơ hay, có sức trường tổn của Tố Hữu : P h ả đ ư ờ n g ,
Bầm ơ i, L ư ợ m , Sảng th ản g Năm , H oan h ô chỉển sĩ Đ iện
biên, T a đ i tó i, V iệt b ắ c . . . Cả một số bài thơ dịch, nhất là bài
Đ ợ i an h vè, cũng được nhiều người ghi nhớ.

TỈNH KHOAI SẮN«>

Ngày xưa, khoai sắn sống lang bang


Bãi cát nghèo khô, mé núi hoang
Như chẳng đòi chỉ, hồn giản dị
Quanh năm bè bạn chị em làng.
Một bữa, cờ son lên đồi ngôi
Sao thiêng nghiêng xuống những lưng đổi.
Sắn khoai hăm hồ’ về dinh(2) chiêm
Quyển sống trên miền rối cồ hôi.

(ỉ) Sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ta «chống giặc đ ối».
Khắp nơi sôi nổi phong trào tăng gia sản xuất, khoai sẳn (mi) mọc xanh thành Huè.
(2) Dinh : kinh đô.

71
Rổi từ hôm đó, bọc hoàng cung
Lớp lớp khoai xanh mượt vạn vồng
Lòng đất kiêu kiêu nghe nặng cù.
Khách dừng, âu yếm, ngẩn ngơ trông. . .
Khoai mãn mùa đi, đền sẳn về
Say màu hương mới, dậy hồn quê
Rướn thân lên trải ngàn tay rộng
Như những chàng trai đón bốn bể.
Những buổi mai hường, nắng mới tinh
Bên đường sương mát, lá rung rinh
Ta đi trong gió thơm khoai sắn
Lòng nhẹ, vui vui, bát ngát tình . . .
1946

TRƯỜNG TÔI
Tặng các chiền sĩ Bình dân học vụ

Trường tôi kiểu cách gì đâu ?


Không ham mái ngói, không cầu tường vôi.
Nhà tranh vách đất đù rồi
Đình quang điếm chật, được ngồi là hay !
Trường tôi vui giữa luống cày
Bến sông, bãi chợ, bóng cây, lưng đổi
Trường tôi vui giữa biển khơi
Chữ reo mặt sóng, chữ ngời ghe câu
Trường tôi vui giữa rừng sâu
Chữ theo đuốc lửa, đêm thâu tiếng người.
Lại đây, ơi bạn mình ơi !
Trường tôi vang giọng rộn lời nước non
Ta nghèo, không mực thì son
Bút tre phấn gạch, bà con tạm dùng.
Nghiêng đầu trên tấm bảng chung
Phơ phơ tóc bạc bạn cùng tóc xanh.

72
Này em, này chị, này anh,
Chen vai mà học, rách lành sao đâu !
I tờ mớm chữ cho nhau . ♦.
1946

CÁ N ư ớ c

Tôi ớ Vĩnh yên lên


Anh trên Sơn cốt xuống
Gặp nhau lưng đèo Nhe
Bóng tre trùm mát rượi.

Anh là Vệ quồc quân


Tôi là người cán bộ
Hai đứa mỏi nhừ chân
Nghỉ hơi ngồi một chỗ.

Gặp nhau mới lẩn đầu


Họ tên nào có biết ?
Anh người đâu, tôi đâu
Gần nhau là thân thiết.

Một thoáng lặng nhìn nhau


Mắt đã tìm hỏi chuyện
Đôi bộ áo quần nâu
Đã âm thẩm thương mến.

Giọt giọt mổ hôi rơi


Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !

Tôi nhích lại gần anh


Người bạn đường anh đũng
Anh chiến sĩ hiền lành
Tì tay trên mũi súng.

73
Anh kể chuyện tôi nghe
Trận chợ Đồn, chợ Rã
Ta đánh giặc chạy re
Hai đứa cười ha hả.

Rổi Bông lau, Ỷ la


Ba trăm thằng tan xác
Cành cây móc thịt đa
Thối inh rừng Việt bắc.

Tàu giặc đẳm sông Lô


Tha hồ mà uống nước
Máu tanh đến bây giờ
Chưa tan mùi bữa trước.

Mồm anh nồ1rất tươi


Mặt anh vàng thẳm lại
Cánh đồng quê tháng mười
Thơm nức mùa gặt hái. . .

Xa xôi đầu xóm tre xanh


Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già
Cháu ơi cháu lớn với bà
Bố mày đi đánh giặc xa chưa về
Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe
Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau
Bố đi đánh giặc còn lâu
Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày

Anh có nghe thấy không


ơ i người anh Vệ quốc ?

Chẳc có lúc lòng anh


Nhớ nhà anh nhớ lắm
ơ i người bạn hiển lành
Mắt nhìn xa đăm đăm . . .

Trưa nay trên đèo cao


Ta say sưa vài phút
Chia nhau điếu thuốc lào
Nào anh hút tôi hút.
Rồi lát nữa chia đôi
Anh về xuôi tôi ngược
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tĩnh cá nước ♦*.

1947

PHÁ ĐƯỜNG

Rét Thái nguyên rét về Yên thế


Gió qua rừng Đèo Khế gió sang ♦ .,

Em là con gái Bắc giang


Rét thì mặc rét, nước làng em lo
Nhà em phơi lúa chưa khô
Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chổng đi phá đường quan.
Con oi con ngù cho ngoan
Sang canh trăng lặn, buồi tan mẹ v ề . . .

Trên đồi quê


Trăng non mới hé
Đường thì đài, hố xẻ chưa sâu
Chưa sâu thì cuốc cho sâu
Có anh có chị cùng nhau ta đào í

Hì hà hì hục
Lục cục lào cào
Anh cuốc em cuốc
Đá lò* đất nhào !
Nào anh bên trai
Nào em bên nữ
Ta thi nhau thử
Ai nào hơn ai í

75
Anh tài thì em cũng tài
Đường đài ta xè, sức dai ngại gì.
Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi
Hố ngang hố đọc chữ i chữ tờ,
Thằng Tây mà cứ vẩn vơ
Có hố này chờ chôn sồng mày đây.
Ớ anh ớ chị nhanh tay
Khanh tay ta cuốc, chôn thây quân thù !
Đêm nay gió rét trăng lu
Rộn nghe tiẽng cuốc chiến khu phá đường. . .
1948

BÀ MẸ VIỆT BẮC

Đêm nay trên sàn


Bập bùng ngọn lửa
MéO) kể nguồn cơn
Chuyện nhà chuyện cửa :
« Con mé có ba
Trai hai gái một
Gái gả chồng xa
Trai còn đứa rốt.
Thằng hai ngày trước
Trốn vào chiến khu
Nó đi cứu nước
Làm lính Cụ Hồ.
Một hôm lính lệ
Theo thằng quan châu(1
2)
Đến nhà hoạnh họe :
Con mày đi đâu ?»

(1) Mé ỉ mẹ (tiêng Tày).


(2) Quan châu ĩ người cai trị một châu (gần như một huyện) ở miền núi dưới
chề độ thực dân phong kiên trước đây.

76
Tôi sợ khiếp quá
Lạnh chân lạnh tay
Đứng trơ như đá
Hồn bay vía bay !

Ông Ké(1) lẳc đầu


Một hai không biết
Nó đỏ mũi trâu :
« Nói không, ông giết !»

Nó giật mái tranh


Nó tìm lục khắp
Lấc láo nhìn quanh
Như thằng ăn cắp*

Nó tung đĩa bát


Nó đập héc vài(12)
Nó gầm nó quát (
Đá đít tạt tai.

Suốt ngày nó phá


Nó chẳng thấy gì
Nó trói thẳng cả
Lôi ông Ké đi.

Nó khảo nó tra
Bố con nhừ tử
Rồi tha ông già
Còn con nó giữ

Nó nộp cho Tây


Đày đâu không biết
Biền biệt lâu ngày
Nghe đồn nó chèt. . .

(1) ông Ké : ông cụ (tiềng Tày).


(2) Héc vài : chão trâu, dây buộc vào mũi trâu để dắt chúng.

77
Nỏ lành như đất
Tội nghiệp con tôi
Tây nó giết mất
Con oi, con oi !
Phên nan gió lọt lạnh lùng
Ngọn lửa bập bùng, mé khóc rưng rưng
Nghẹn ngào chuyện cũ nửa chừng ..»
T ừ đó ò’ nhà
Gieo neo túng quá
Hai ông bà già
Vợ thằng con cả.
Rồi ông Kẻ mất
Nhà lại còn hai
Mẹ con quần quật
Kiếm ăn qua ngày.
Bữa đói bữa no
Chạy quanh chẳng đù
Ngày đôi bát ngô
Lên rừng đào cù . . .
Tường rồi chết tất
Biết đâu có ngày
Trời còn có mẳt
Cụ Hồ về ngay.
Cụ Hồ ra lệnh
Đuổi Nhật đuổi Tây
Cụ Hồ cho đánh
Lấy hết châu này.
Thẳng châu con chó
Cúp đuôi chạy đài
Mả bố nhà nó
Nịnh Tây hết thời.
Ôi trời, sướng quá
Dân kéo về châu
Rầm rập hề hả
Mổ bò mổ trâu*

78
Cờ treo đò chói
Trên nóc trên cây
Pỉ ỉè(lì inh ổi
Suốt đêm suốt ngày.

Cụ Hồ mò* nước
Chia thóc cho dân
Tôi cũng lĩnh được
Tôi cũng có phần !

Rồi ba tháng sau


Thằng hai ngày trước
Chằng biết & đâu
Chạy về bất chọt.

Thoạt trông thấy nó


Tôi chẳng biết ai
Nó cao hơn bố
Tôi chi bằng vai.

Bộ nó rõ oai
Vai thì đeo súng
Ngực chéo hai quai
Áo thì thẳt bụng.

Đầu nó đội mũ
Có cái sao vàng
Trước nó lam lũ
Bây giờ thấy sang !

Tôi ôm lấy nó
Tôi kề trước sau
Nỗi nhà mất bổ
Nỗi anh chết tù . . ♦

Mẳt nố đổ nọc
Nó cầm tay t ô i :
«Mé ơi đừng khóc
Nước độc lập r ố i !»

(1) Pỉ lẻ : kèn (ờ miền núi Bẳc bộ).

79
Tôi bảo con tôi :
« Mày đi tao nhớ
Tuổi đã lớn rồi
Liệu mà cưới vợ ».

Nó chỉ cười khì :


«Vợ con gì gấp !
Con còn phải đi
Giữ gìn Độc lập 1»

Ờ chơi ít bữa
Nó hát cả ngày
Dọn nhà sửa cửa
Xới vườn luôn tay.

Rồi nó xung phong


Vào Nam đảnh giặc
«Bao giờ giặc xong
Lại về Việt bắc !»

Tôi bảo : « Mày đi


Mày lo cho khỏe
Đừng nghĩ lo gì
Ờ nhà có mé . . . »

Từ ấy đến nay
Ngày đêm tôi khấn
Tôi mong có ngày
Nó về, thẳng trận . . . »

LÊN TÂY BẮC

Sáng nay ra trận lên Tây bắc


Hai đứa ta cùng đi đánh giặc
Tay dao tay súng, gạo đầy bao
Chân cứng đạp rừng gai đá sấc.

30
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo . . .

Quê hương anh đó : gió sương mù


Và rú rừng đằy của chiến khu
Cồ ngập đồng khô mờ lồi cũ
Tan hoang làng cháy khói căm thù.

Anh đi tìm giặc, tôi tìm anh


Người lính trường chinh áo mỏng manh
Mỗi bước, vàng theo đổng lúa chín
Lửa vui từng mái nứa tươi xanh.

Po tào, Mường khủa, Mường tranh


Mường la, Hát lót, chân anh đã từng.

Anh về, cồi lại vang rừng


Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân.
Anh về, sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng c a . . .

Nhưng rồi khói từ xa gió thổi


Núi kêu anh bộ đội lên đường
Lại những ngày đi, vẳt với sương
Ngô bung xôi nhạt, nước lưng bương
Đêm mưa rình giặc, tai thao thức
Mùa lại mùa qua, rét nhức xương.

Ai biết trưa nay giữa bụi bờ


Anh nẳm sưới nắng mắt lơ mơ
Tôi ngồi, không ngù, nghe anh thớ
Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ . . .
1948

81
BÀ BỦ<D

Bà bù nằm ồ chuối khô


Bà bù không ngủ bà lo bời b ờ i. . .
Đêm nay tháng chạp mồng mười
Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm.
Bà bù không ngủ bà nằm
Bao giờ thẳng út về thăm một kỳ ?
Từ ngày nó bước ra đi
Nó đi Giải phóng đến khi nào về ?
Bao giờ hềt giặc về quê ?
Đêm đêm bà bù nằm mê khấn thầm . . ♦
Bà bù không ngủ, bà nằm
Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù
Ngoài phên gió núi ù ù
Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về . , .
Đêm nay bộ đội rừng khe
Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay
Nổ đi đánh giặc đêm nay
Bước run, bước ngậ, bước lầy, bước trơn.
Nhà còn ồ chuối lửa rơm
Nó đi đánh giặc, đêm hôm sưởi gì ?
Năm xưa cơm củ ngon chi
Năm nay cơm gié nhà thì vẳng con !
Bà bù gan ruột bồn chốn
Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồ i. . .
1948

BẦM ƠI<12>

Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhỏ* thẩm . . .

(1) Bà bă : bà cụ (tiếng địa phương Phú thọ).


(2) Bầm : mẹ (tiếng địa phương vùng Bắc bộ).

82
Bầm ơi có rét không bầm ?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu !
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe !
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con, bầm yên tâm nhẻ
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đổng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đống bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm !
Bao bà cụ từ tâm mhư mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con !
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con...
1948

83
LƯỢM

Ngày Huế đồ máu


Chú Hà nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè.

Chú bé loẳt choẳt


Cái xẳc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch
Mốm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng . . .

—Cháu đi liên lạc


Vui lắm chủ à
Ờ đồn Mang cả
Thích hưn ở nhà ĩ

Cháu cười híp mí,


Má đỏ bổ quân
—Thôi, chào đồng chỉ ỉ
Cháu đi xa dần . . .

Cháu đi đường cháu


Chú lên đường ra
Đến nay tháng sáu
Chợt nghe tin nhà.

Ra thế
Lượm oi !

Một hôm nào đó


Như bao hôm nào
Chú đồng chí nhò
Bồ thư vào bao

84
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề «Thượng khần»
Sợ chi hiểm nghèo ?

Đường quê vẳng vẻ


Lúa trồ đòng đòng
Ca lồ chú bé
Nhấp nhô trên đồng . . .

Bỗng lòe chớp đỏ


Thôi rồi, Lượm ơi !
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng mau tươi l

Cháu nằm trên lúa


Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng . . .

Lượm ơi, còn không ?

Chú bẻ loẳt choẳt


Cái xẳc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng . . .
1949

EM BÉ TRIỀU TIÊN

Em bé Triểu tiên ơi
Mẹ củ a em đâu rồi ?

85
11111đâu mẹ của em
Có ai đâu mà hỏi ?
Giặc bốn bể, lửa khói. . .

Xác ai nằm ngổn ngang ?


Bãi tuyết lặng quanh làng
Phố đổ nhà hoang vẳng.

Mẹ của em đấy ư ?
Cái thân trẳng ỉẳc lư
Đầu dây treo lùng lẳng.

Cha c ủ a em đấy ư ?
Cái đầu lâu rũ tóc
Máu chảy dài thân cọc

Không, không phải em oi


Mẹ của em đây rồi !
Mẹ em đây, người dân công tải đạn
Mẹ em đây, người nữ cứu thương.
Cha em đây, giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lu i. . .

Anh của em đã đến đây rồi :


Anh chí nguyện
Con Bác Mao đã đến
Anh đã đến bên nôi em cháy dờ
Với cha em, giết hết loài man rợ
Cho mẹ em xây lại tổ mềm
Cho em sướng cho em ca múa
Trên đổng hoa bãi lúa
Nhịp sóng vui muôn thuồ* của Triều tiên !

Bé em oi, giữa súng rển


Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều. . .
1951

86
V O I«>

Voi là voi oi
Voi yêu voi quý
Voi nằm voi nghi
Voi nghi voi choi.

Voi là voi oi
Voi ta đầu thép
Voi cong chân đẹp
Voi nghểnh voi cười !

Voi là voi oi
Voi con voi mẹ
Voi nặng voi nhẹ
Nào đi, trưa rồi í

Voi là voi oi
Voi đi đánh nhé
Voi gầm voi ré
Voi xé toi bời !

Ta bế ta bồng
Voi lên ta vác
Vai ta vai sắt
Chân ta chân đồng !

Ta đi qua rừng
Lau tre san sát
Voi nghe ta hát
Núi dội vang lừng !

Ta đi lên đèo
Ta leo lên dốc
Voi oi khó nhọc
Khó nhọc cũng ưèo !

(1) Voi ĩ đại bác.

87
Con đường gieo neo
Là đường Vệ quốc
Tha hồ đèo dốc
Ta hò ta reo !

Voi là voi oi
Đường đi dằng dặc
Chông gai cũng mặc
Ta vui ta cười !

Một tí nữa thôi


Đứng trên đầu địch
Nhanh lên đến đích
Tói rồi voi oi !

Hoan hô voi ta
Hoan hô vệ pháo
Yêu voi còi áo
Lau cho voi nhà.

Nào voi nào Vệ


Ta quyết một lòng
Voi hăng voi nhé
Trận này lập công !
1948

ĐỢI ANH VÈ
Dịch th<y Xi-mô-nốp

Em ơi đợi anh về
Đợi anh hoài, em nhé.
Mưa có roi dầm dề
Ngày có dài lê thê
Em oi em, cứ đợi ỉ

88
Dù tuyết roi gió nổi
Dù nắng cháy, em oi
Bạn cũ có quên rồi
Đọi anh về, em nhé !

Tin anh đù vẳng vẻ


Lòng anh đù tái tê
Chẳng mong chi ngày về
Thì em oi, cứ đợi !

Em oi em, cứ đ ợ i!
Dù ai nhớ thương ai
Chẳng mong có ngày mai. . .
Dù mẹ già con đại
Hết mong anh trỏ* lại
Dù bạn viếng hồn anh
Yên nghi nấm mồ xanh
Nâng chén tinh dổc cạn
Thì em oi, mặc bạn
Đợi anh hoài, em nghe
Tin rằng anh sắp về I

Đọi anh, anh lại về


Trông chết cười ngạo nghễ
Ai ngày xưa roi lệ
Hẳn cho sự tình cờ

Nào có biết bao giờ


Bồi vì em ước vọng
Bồi vì em trông ngóng
Tan giặc, bước đường quê
Anh của em lại về 1

Vì sao anh chằng chết


Nào bao giờ aỉ biết ?
Có gì đâu em oi
Chi vì không ai người
Biết như em chờ đợi.
1947

89
CHO ĐỜI T ự DO
Dịch dân ca Nam tư

Chuyện rằng : ở xứ Coóc-đon


Cỏ người mẹ đền mổ con sụt sùi
Khóc rằng : «Con của mẹ oi
Con vàng con ngọc bồ đòi đỉ đâu
Đề cho bổ khốc mẹ sầu
Đất oi trả lại con đầu cho ta !»
Con nghe thấy tiềng mẹ già
— Mẹ ơi, đừng khóc nữa mà hẻo hon
Đằt đen phà nặng mình con
Nhưng đòng nước mẳt mẹ còn nặng hơn!
Mẹ đừng khóc bên mồ con nữa
Trờ về lo nhà cừa mẹ ơi
Nhẳn cho nhà biẽt một lời
Rằng con mẹ chềt cho đời tự do.
1949

BÀI CA THẢNG MƯỜI

Thuỏ- Anh chưa ra đòi


Trái đất còn nức nò*
Nhân loại chửa thành người
Đêm ngàn năm man rợ.
Nưỏ*c mẳt, máu, mổ hôi
Đong hàng bất, hàng bát
Bán đồỉ lấy cơm ôi
Nhặt từng hạt, từng h ạ t. . .
T ừ khi Anh đứng đậy
Trái đất bẳt đầu cười
Và loài người, từ đấy
Ca bài ca Tháng Mười ỉ

90
Những mắt buồn sẳp nhẳm
Bừng dậy, thấy tương lai
Những bàn tay lại nắm
Cờ đỏ qua đêm dài. . .
Những đầu lên máy chém
Nhìn đao phủ, hiên ngang :
« Muôn năm, Đảng cộng sản ỉ
Chào Xô viết Liên bang !»
c n người Anh dũng cảm
Lũy thép sáng ngòi ngòi
Đây Việt nam Tháng Tám
Em Liên xô Tháng Mười ỉ
Hoan hô Xta-lin
Đòi đòi cây đại thọ
Rợp bống mát hòa bình
Đứng đầu sóng ngọn gió !
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng mặt biền
Bão táp chằng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến !
1950

SÁNG THÁNG NĂM

Vui sao một sáng tháng Năm


Đường về Việt bắc lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mưót nương ngô
Bốn phương lồng lộng thù đô gió ngàn. . .
Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác vièt nhà sàn đơn sơ
Con bổ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn
Lát rồi, chim nhé, chim ăn
Bác Hồ còn bận khách văn đến nhà.

91
Bàn tay con nẳm tay Cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biền rộng ruộng đồng nước non .

Bác Hồ, Cha của chúng con


Hồn của muôn hồn
Cho con được ôm hôn má Bác
Cho con hôn mái đầu tóc bạc
Hôn chòm râu mát rượi hòa bình !

Ôi cái tên kính yêu Hồ Chí Minh !


Trong sáng lòng anh xung kích
Nửa đêm bôn tập diệt đồn.
Vững tay người chiến sĩ nông thôn
Bẳt sồi đá phải thành sắn gạo.
Anh thợ, má anh vàng thuốc pháo
Cánh tay anh dày sẹo lửa gang.
CFi những em đồt đuốc đến trường làng
Và các chị dân công mòn đêm vận tải !
Các anh chị, các em ơi, có phải
Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta thầm kêu Bác : Hồ Chí Minh !
Và mỗi trận, mỗi mùa vui thẳng lợi
Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi
Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ
Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đ i . . .

Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh


Ôi người Cha đôi mắt mẹ hiển sao !
Giọng của Người, không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước.
Con nghe Bác, tưởng nghe lòi non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau . . .

Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị


Màu quê hương bền bỉ đậm đà
Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ớ bên Người một chút.
Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông, thanh thản một vùng tròi.
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi !
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài giơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.

HỒ Chí Minh
Người ồ* khắp nơi n ơ i . . .

Hồn biền lớn đón muôn lời thù thỉ


Lẳng từng câu, từng ý chưa thành
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ.
Người ngồi đó, với cây chì đỏ
Vạch đường đi, từng bước, từng giờ . . .

Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ


Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại !
Con nhớ hết mỗi lời Người dạy :
Kháng chiến gian nan, kháng chiến trường kỳ

Bác bảo đi, là đi.


Bác bảo thẳng, là thẳng.
Ị Việt nam có Bác Hồ
’ Thế giới có Xta-lin.
Việt nam phải tự do
Thế giới phải hòa bình !

Chúng con chiến đấu hy sinh


Tấm lòng son sẳt, đinh ninh lời thể.

Bẳt tay Bác tiễn ra về


Nhở hoài buổi sáng mùa hè chiến kh u. . .
9-1951

93
HOAN HÔ CHIẾN s ĩ ĐIỆN BIÊN
fp/ ịtOiA
' Tin về nửa đêm
ị Hỏa tốc hồa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuổc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đò đèn đồ l ử a . . .

Ị Hoan hô chièn sĩ Điện biên


ị Hoan hô đổng chí Võ Nguyên Giáp
: Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp í
Ị Vinh quang T ố quốc chúng ta
Ị Nước Việt nam dân chù cộng hòa !
I Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta
ngàn năm sống mãỉ
Quyết chiền quyết thẳng, cờ đồ sao vàng vĩ đại l

Kháng chiến ba ngàn ngày


Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng ỉ

Điện biên vời vợi nghìn trùng


Mà lòng bốn biền nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chẳc cũng chan hòa vui chung.

Hoan hô chiến sĩ Điện biên


Chiến sĩ anh hùng
Đẩu nung lửa sẳt
Năm mưoi sáu ngày đêm, khoét núi, ngù hầm,
mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn ỉ

94
<ỉ
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Đăng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mồ* đường cho xe ta lên chiến
trường tiếp viện.
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lcm mưa to
Dốc Pha đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuồi xanh.
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống !
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng ĩ
Sẽ xanh tươi đổng ruộng Việt nam
Mường thanh, Hồng cúm, Him lam
I^Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng k ^
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện biên !
Quân giặc điên *
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng tròi ?
Tròi không của chúng bay
Đạn ta rào lưới s ắ t !
Đất không của chúng bay
Đai tháp ta thắt ch ặt!
Cùa ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta ỉ
Chúng bay chỉ một đường ra :
Một là tử địa, hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm !

Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy


Trên đầu bay, thác lửa hờn căm !
Trông : bồn mặt, lũy hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông : chúng ta cờ đò sao vàng
Rực tròi đất Điện biên toàn thắng l
Hoan hô chiến sĩ Điện biên !

|V 'Tiếng reo núi vọng sông rển


Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo. ..
T ừ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông.
Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ.
Tin đây Anh, Điện biên phù hoàn thành.
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smitt1)
Anh sẽ nói : « Thực dân, phát xít
-^_Đã tàn rồi 1 _
T ố quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hòa bình trớ lại
Không muốn lửa bom đồ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh.
Nếu còn say máu chiến tranh
Ớ Việt nam, các anh nên nhó*
Tre đã thành chông, sông là sông lửa.
Và trận thẳng Điện biên
Cũng mới là bài học đầu tiên ! »

(1) Bi-đôn (Bidauỉt) : ngoại trường Pháp. Smit (Smith) ĩ thứ trướng ngoại
giao Mỹ.

96
TA ĐI T Ớ I

Ta đi giữa ban ngày


Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bẳc sơn, Đình cả, Thái nguyên
Đường qua Tây bắc, đường lên Điện biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến . . *
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, T ố quốc ta ơi !
Rừng cọ đồi chè, đổng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước Bình c a . ♦♦
Ai qua Phú thọ V
Ai xuôi Trung hà
Ai về Hưng hóa
Ai xuống Khu Ba
Ai vào Khu Bơn
Đường ta đó, tự do cuồn cuộn
Bốt đổn Tây đã cuốn sạch rồi !
Sông Thao nao nức sóng dồi
Ai về Hà nội thì xuôi cùng thuyền.
Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ !
Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ
Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân.
Ngẩng đầu lên : trong sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu xanh thắm
Mây nhớn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lẳm !
Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt nam dân chủ cộng hòa !
Đã tan tác những bóng thù hẳc ám
Đã sáng lại tròi thu tháng Tám
Trên đường ta về lại Thủ đô
Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ !

97
Mẹ oi, lau nước mẳt
Làng ta giặc chạy rồi ỉ
Tre làng ta lại mọc
Chuối vườn ta xanh chối
Trâu ta ra bãi ra đồi
Đồng ta lại hát hơn mười năm x ư a . . .
Các em oi, đã học chưa ?
Các anh dựng cho em trường mới nữa.
Chúng nó chằng còn mong giội lửa
Trưcmg của em đứng giữa đối quang
Tiếng các em thánh thót quanh làng.

Ai đi Nam bộ
Tiền giang, Hậu giang
Ai vô thành phố
Hố Chí Minh
Rực rỡ tên vàng.
Ai về thăm bưng biền Đồng tháp
Việt bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp
Nơi chôn rau cẳt rồn của ta !
Ai đi Nam — Ngãi, Bình — Phú, Khánh hòa
Ai vô Phan rang, Phan thiết
Ai lên Tây nguyên, Công tum, Đắc lẳc
Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung
Ai về với quê hương ta tha thiểt
Sông Hương, Bến hải, Cửa tùng . . .

Ai vô đó, với đổng bào, đồng chí


Nói với Nửa — Việt nam yêu quý
Rằng : nước ta là của chúng ta
Nước Việt nam dân chù cộng hòa !
Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương, tim óc dính liền.

Đừ ai nói ngả nói nghiêng


Lòng ta vần vững như kiềng ba chân
Dà ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ ỉ
Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng.
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc môn, Ba tơ, Cao — Lạng
Lừng lẫy Điện biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đẩu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp !

Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp,


Rẳn như thép, vững như đồng.
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biền Đông trước m ặ t !
Ta đi tới, không thể gì chia cắt
Mục nam quan đền bãi Cà mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biền
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt nam.
8-1954

VIỆT BẮC

— Mình về mình cổ nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?

Tiềng ai tha thiềt bên cồn


Bâng khuâng trong dạỷ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biềt nói gì hôm nay . . .

99
— Mình đi, có nhử những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi đề rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non


Nhớ kki kháng Nhật, thuở còn Việt minh
Mình đi, mình có nhở mình
Tân trào, Hồng thái, mái đình cấy đa ?

— Ta với mình, mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đẳng cay ngọt b ù i. . .

Thương nhau, chia củ sắn lùi


Bát cơm xè nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan.
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tièng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đểu đều suối x a . . .
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuồi đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nờ trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đồ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng dọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thùy chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phù thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao — Lạng, nhớ sang Nhị hà . . .

Những đường Việt bắc của ta


Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiền thẳng trăm miền
Hòa bình, Tây bắc, Điện biên vui về
Vui từ Đổng tháp, An khê
Vui lên Việt bắc, đèo De, núi Hồng.

Ai về ai có nhớ không ?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

101
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phỏ luận bàn việc công
Điểu quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mồ1 đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu . . .

Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt bắc : Cụ Hồ sáng soi
Ờ đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhở ta
Mái đình Hồng thái, cây đa Tân trào.

— Nir&c trôi nước cỏ về nguồn


Mây đi mây có cùng non trử về ĩ
Mình về, ta gừi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với hè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.
Trâu về, xanh lại Thái bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôù

— Nước trôi, lòng suối chẳng trôi


Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình.
Thái bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui. . .

— Mình về thành thị xa xôi


Nhà cao, còn thầy nải đồi nữa chăng ?
Phố đông, còn nhử bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mành trăng giữa rừng ?
Mình đi, ta hồi thăm chừng
Bao giờ Việt bắc tưng bừng thêm vui ĩ

102
— Đường về, đây đó gần thôi !
Hôm nay rỏi bản về noi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại vể.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bổn bể lưới giăng
Than Phấn mễ, thiếc Cao bằng
Phổ phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đò tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái bình ngược Hà giang
Cày bừa Đông xuất, mía đường tinh Thanh.
Ai về mua vại Hương canh
Ai lên mình gửi cho anh vói nàng
Chiếu Nga sơn, gạch Bát tràng
Vải tơ Nam định, lụa hàng Hà đông.
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khòe, cuộc đòi càng vui I

— Mình về với Bác đường xuôi


Thưa giùm Việt bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ ông Cụ mẵt sáng ngời
Áo nâu túi vài, đẹp tươi lạ thường ỉ
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung đung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Ngưĩri bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bỏng N gư ời. . .

Lòng ta ơn Đảng đời đòi


Ngược xuôi, đôi mặt một lòi song song
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nổi dòng dài lâu.
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cẩm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thù đô.
10-1954

LẠI VỀ

Hà nội ơi Hà nội !
Cay đẳng tám năm ròng
Quê ta thành đất giặc
Ôi ngàn năm Thăng long !

Năm cửa ô rào thép


Xe gíp bụi mù đường
Nghênh ngang bầy mũ đỏ
Tanh trường học nhà thương.

Còi hét ga Hàng cỏ


Đêm này nó chạy đâu ?
Bóng tối đè mái phồ
Bay đâu lũ diều hâu ?

Xé ruột, lòng thao thức


Giày đinh nghiến nửa đêm
Tim đập dồn trống ngực
Ai đấm cửa ngoài thềm ?

Đầu phố ai kêu đó


Ú ớ mấy thằng say
Cuồng loạn quay đèn đỏ
Quỳ sứ cười đêm ngày !

Hà nội ơi Hà nội !
Đến bao giờ bao giờ
Hết đêm dài đen tối
Ngày mai đò rực cờ ?

104
Hà nội ta không ngủ
Nước Hồ gươm vẫn trong
Đêm đêm nhìn ảnh Cụ
Mẳt Người nhìn ấm lòng.
Hà nội ta không khuất
Hòa lò thêm Nhà tiền
Những đứa con vào chật
Hà nội oi vùng lên !
Giành lại bao năm tháng
Giành lại mỗi người con
Từng ngọn đèn tươi sáng
Từng giọt nước lành ngon !
Hà nội ơi Hà nội !
Bao giờ
Giữa Thủ đô
Cụ Hồ về
Bộ đội
Tiến vào năm cửa ô.

★★
v ề đến đây rồi, Hà nội ơi !
Người đi kháng chiến tám năm trời
Hôm nay về lại đây Hà nội
Ràn rụa vui lên ướt mắt cười !
Đường quen phố cũ đây rồi
Thủ đô tươi dậy mặt người như hoa
Vườn hồng ngớt gió mưa qua
Cờ hoa đỏ nắng, mái nhà vàng sao . . .
Tay vui sóng vỗ rạt rào
Người về kẻ đợi, mừng nào mừng hơn ?
Biết bao vui sướng tùi hờn
Trông nhau mà tưởng như còn trong mơ !
Hồ gươm xanh thẳm quanh bờ
Thiên thu hồn Nước mong chờ bấy nay
Bây giờ đây lại là đây
Quốc kỳ đỉnh Tháp, sao bay mặt h ồ . . .
10-1954

105
III—GIÓ LỘNG
Gió lộng là một tập thơ của Tố Hữu gồm những bài thơ sáng
tác từ năm 1954 đến năm 1961, thời kỳ miền Bẳc nước ta hàn gắn
vết thương chiến tranli, náo nức xây dựng chù nghĩa xã hội, sau
khi hòa bình được lập lại (1954), và cả nưỏc tiếp tục làm cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ ỏ* miền Nam ta.
1. Gỉó lộng — bài ca vui kiến thiết chủ nghĩa xã hội
trên một nửa o ư ỏ c Việt nam.
«ơió lộng đưỉrng khai rộng đất trài.»
Sau 1954, trong khi miền Nam ta còn bị đẫm máu dưới chế độ
Mỹ — Diệm thì & miền Bẳc nước ta, trong không khí hòa bình yên
ổn, nhân dân ta náo nức bẳt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc sống mới xã hội chù nghĩa vói những công cuộc khôi phục
và phát triền kinh tè, hàn gắn vết thương chiến tranh, hợp tác hóa
nông nghiệp, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát
triển kinh tè, văn hóa miền núi, nông thôn . . . đi vào thơ Tò Hữu
với muôn vẻ diệu kỳ.
Đây là nông thôn Việt nam mỏi đi lên con đường hợp tác hóa :
«Dân có ruộng dập dìu hợp tác,
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê.
Chiêm mùa, cờ đồ ven đê,
Sám trưa, tìềng trống đi về trong thôn»
« Tiếng trổng đi về . . . » trong cuộc sống và trong thơ ca nghe
thật rộn rã ! Xa rồi những tiếng trống gợi lên sầu não chia ly củ a
những ngày xưa :

106
« Trồng Tràng thành lang lay bóng nguyệt*
hoặc « Thùng thùng tròng đánh ngã liên . ..»
Đây là quang cảnh tấp nập xây dựng công nghiệp ĩ
«Xuân ơi xuân, em mới đền dăm năm
Mà cuộc sòng đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay giữa công trường đồ bụi
Những đoàn xe vận tải nồi nhau đi.»
Đây là cửa hàng bách hóa thay thè cho hình ảnh cô hàng xén
đi về trên chợ Huyện và trong thơ văn c ủ a một thòi :
«Đời vui đó hôm nay mờ cừa
Như dãy hàng bách hóa của ta»
Và đây là cảnh mà mấy năm trước trong Việt bắc mới là viễn
cảnh :
«Nghe hơi thồ1 của đổng quê mập mạp
Bãi phù sa xanh mượt ngô nọn
Những đàn trâu Việt bắc béo tròn
Đảng đỉnh về xuôi, quê hương mới lạ.»
■Nhưng kỳ diệu nhất vẫn là mổi quan hệ mới giữa người và
người được xác lập và cùng cố ĩ
«Có gì đẹp trên đời hơn thế,
Người yêu người sòng dề yêu nhau.*
Đứng trên đỉnh cao của cuộc sống mới/ hình ảnh con người
mới xuất hiện trong thơ ca Tố Hữu thật lớn đẹp :
«Chào 61, đỉnh cao muôn trượng.
Ta đứng đây; mẳt nhìn bồn hướng,
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau,
Trông Bẳc, trông Nam, trông cả địa cầu.*
Và thật hào hùng :
«Đầng cho ta trải tùn giàu
Thẳng lưng mà bước, ngừng dầu mà bay.*
Con người mới Việt nam trong Giỏ lộ n g là con người sổng
trong quan hệ mới và có trái tim thuộc về Cách mạng, làm chủ
cuộc sống, cai quản thiên nhiên, nắm chìa khỏa của đất nước rừng
vàng bề bạc :

107
«Hồi núi non cao đâu sẳt đâu vàng,
Hồi biền khơi xa đâu luồng cá chạy,»
Cổ Cách mạng dẫn dắt, soi đường, con người mới Việt nam nẳm
được bước đường phát triển tất yếu c ủ a lịch sử, nghe được sức
chuyền mình vĩ đại c ủ a nhân dân, cái rạo rực của mạch sống
T ố quốc :
«Đã nghe nước chầy lên nonỷ
Đã nghe đất chuyến thành con sông dài,
Đã nghe gió ngày mai thồi lạiỷ
Đã nghe hồn thời đại bay cao,»
Trong khi biều hiện hình ảnh con người mới trong thơ ca, Giỏ
lộng đã có những bức tranh tạo hình rất đẹp :
« Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cảnh tay như hai cánh bay lên
Ngực .dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bàn không sợ các loài sên,»

hoặc ĩ
« Chị lao công
Như sẳt
Như đồng
Chị lao công
Đêm đông quét rác,»
Cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt nam cũng
như trên đất nước xã hội chủ nghĩa anh em đã đưa lại cho Giỏ
lộ n g những vần thơ vui tươi, đầm ấm, phơi phới lạ thường I
Cái vui củ a Giỏ lộng có khi thấm đượm trong những sự việc
cụ thể :
<rCành táo đầu hề rung rinh quầ ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh,»
Có khi rộn rã, tưng bừng :
« ừa cầ dậy vui tràn đẩy chói lọi
Những trái tim, những ánh mẳt, bàn tay.»

108
cỏ khi bát ngát, mênh mông :
«Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh
Biến vui dâng sóng trắng đầu ghểnh.
Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
Đ ư ờ n g lên hạnh phúc rộng thênh thênh ỉ »
Cái tươi c ủ a Gió lộng cũng nhiều màu sẳc. Khi như là vổn
có tự bao giờ :
« Nẻt vàng lịch sừ vừa tươi lại
Trong cuộc hổi sinh tạnh gió mưa.»
Khi lại roi rói như sự sống tươi nguyên :
«Màu áo mới nâu non nẳng chói
Mái trường tươi roi rỏi ngói son.»
Khi lại rực rõ* khoe sẳc :
«Rực rỡ những làng vàng tươi mái rạ
Gạch mới nung, đá trắng chất bên đường.»
Cái ấm củ a Giỏ lộng cũng rất nhiều nồng độ. Khi thi là cái
ấm của nẳng ban trưa trải rộ n g :
« Ta đi dưới Tìẳng trưa
Mùa xuân ầm áp.»
Có khi cũng là cái nắng ban trưa, nhưng chụm lại vừa đù
đề sưỏi ấm người và cảnh :
«Em đi cùng anh lên thành xưa
Vác-sa-va nẳng ầm ban trưa.»
Cái phơi phới của Gió lộng cũng thật nhiều vẻ. Khi bay nhảy
từ mặt đất vươn lên :
«Hiền hiện Lê-nin phơi phới diệu kỳ
Nhịp sồng lớn trên dáng đi bay nhảy.»
Khi bay lượn trên cao :
« Trên bãi Thái bình dương sổng gió
Phấp phới bay cờ đỏ sao vàng.»
Khi thì vút thẳng lên :
«Em đẹp, em thơm như quả táo đầu cành
Phơi phới đời em cao vát như dương xanh. >

109
Nguồn thơ củ a cuộc sổng mới xã hội chủ nghĩa trên đất nước
ta và đất nước anh em đã làm nên nhiều vẻ đẹp, vè thơ của nhiều
câu thơ trong Giỏ lộng.
Ở* Gió lộng, cuộc sống xã hội chù nghĩa, ấy là cuộc sổng «mùa
xuân», cuộc sống «thiên đường» cuộc sống «bình minh dậy», cuộc
sồng «gió lộng đường khơi», cuộc sống bay trên « đôi cánh tự d o »,
trên «đôi hài vạn dặm» . . . Trong thực tế lịch sử Việt nam, chử
nghĩa xã hội gằn liền với độc lập, tự do, nên con người Việt nam
cảm nghĩ rất sâu sẳc về những quyển tự do mà chù nghĩa xã hội
đã mang lại :
* Ỏ thích thật, bài tha miền Bẳc
Rất tự do, nên tưai nhạc, tưai vần.»
Trên đất nước mình đã vậy, khi đi trên đất nước anh em,
nhà thơ vẫn thấy vẻ đẹp củ a cuộc sống và con người xã hội chù
nghĩa là vẻ đẹp c ủ a cuộc sống và con người có tự do. Trên đất
nước Liên xô :
«Khẳp những nẻo đường náo nức tôi đi
Hiển hiện Lê-nin phai phái diệu kỳ
Nhịp sồng ìán trên đảng đi bay nhầy
Những ánh mẳt của thiên tài thừc dậy
Rầt tự do, nên rất tự hào
Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao.»
Trên đất nước Trung hoa :
«Ôi hai chữ tự do: đôi hài vạn dặm
Tôi đã trông, tôi đã thầy nai đây
Hai mưai năm nhảy vọt một ngày
Sáu trăm triệu bàn tay: một núi.»
Cũng do bắt nguồn từ hoàn cảnh thực tế : đất nước Việt nam
xây dựng chù nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
nên cái vui tươi, đầm ấm, phoi phới của Giỏ lộng, vì thế mà thấm
thìa, sâu xa :
« Ta còn nghèo, phồ chật, nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tềt.»
Cuộc sống mới xã hội chù nghĩa đã đưa lại cho thơ Tố Hữu
ở thời kỳ Giỏ lộng cảm hứng anh hùng trong lao động xây dựng
sáng tạo. Đôi cánh lãng mạn cách mạng của thơ Tố Hữu vốn đã

110
bay cao trong T ử ấy, Việt bắc, nay trên cơ sỏ1 hiện thực mới
của đất nước, lại càng bay cao hơn, Bay cao hơn nhưng vẫn cắm
rễ sâu vào đời sống hiện thực :
«Ồ đâu phải, qua đêm dài lạnh cóng
Mặt trời lên là hềt bóng mà sương
Ôi đâu phải, qua đoạn đường lửa bồng
Cuộc đời ta bỗng chốc hóa thiên đường.»
Yếu tố lãng mạn cách mạng trong Giỏ lộng kết hợp vói hiện
thực cách mạng trong từng dòng thơ :
«Ngày mỗi ngày từng chiềc lá tre xanh
Đã mọc lên quanh những làng kháng chiên.
Ngày mỗi ngày từng miếng đất cồ tranh
Đã lật lên dưới lưỡi cày mới luyện.»
Cơ sờ của sự kết hợp ấy chính là hiện thực lởn lao : chồ
nghĩa xẵ hội đang thực hiện những ước mơ ngàn đòi củ a nhân
đân và gọi dậy những ước mơ cao cả. Hiện thực xã hội chù nghĩa
chính là hiện thực của ước mơ, là ước mơ mang chất đốt c ủ a
hiện thực :
« Vui cứ đền ngày mỗi ngày nhò nhỏ
Như từng cây cà đỏ mọc trên dời,
Vui cứ đền tự lúc nào chẳng rõ
Như suối ngầm trong đất chảy trăm nơi.»
Tình cảm yêu nước là tình cảm lớn mà Giỏ lộng nhằm phản
ảnh, nhưng trong Giỏ lộng, tình cảm đỏ lại biểu hiện tập trung
ở lòng yêu chế độ xã hội chù nghĩa, yêu cuộc sống và con người
xã hội chù nghĩa.
Biểu hiện thành cồng tư tường làm chủ, Giỏ lộng của Tố Hữu,
cũng như nhiều bài thơ của các tác giả khác viết cùng thời kỳ,
đã mang lại cho thơ ca Việt nam viết v ề chù nghĩa yêu nước một
nội dung mới : tinh thần làm chù tập thể «tập làm chù, tập làm
người xây dựng», đoàn kết, cần kiệm xây dựng đất nước :
«Đời vui dỏ, tiềng ca đoàn kềt
Ta nằm tay nhau xây lại đời ta . . .
. . . Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sẳt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp, dựng cơ đồ.»

111
Biểu hiện thành công của con người mới Việt nam xã hội chủ
nghĩa kểt tinh ỏ* Bác Hố, Gió lộng đã ghi lại được hình ảnh vị
lãnh tụ củ a cách mạng Việt nam trong điểu kiện lịch sử mới :
«Bác về, tóc có bạc thêm
Năm canh bồn biền có đêm nghĩ nhiều?
Hỡi Người, tim những thương yêu
Cánh chìm không mồi, sớm chiểu vẫn bay.»
2. Giỏ lộ n g —tiếng th ét cầm th ù , tiến g th ét đáu tra n h đối
với bọn cư ớ p n ư ớ c và bản n ư ớ c ở m ièn Nam Việt nam .
Nhưng hiện thực đất nước ta trong thời kỳ 1954 — 1961 không
phải chl có miền Bẳc xây dựng chù nghĩa xã hội mà còn có miền
Nam — nửa nước Việt nam thân yêu — đang kiên cường bất khuất
đấu tranh chống Mỹ — ngụy tàn ác.
Hiện thực miền Nam Việt nam mà Giỗ lông phản ảnh phần
lớn là hiện thực của những năm trước ngày đống khỏi. Bọn Mỹ —
Diệm trong khoảng thời gian này đã gây ra không biết bao nhiêu
là tội ác đổi với nhân dân ta, nhất là đối với cán bộ kháng chiến
cũ. Với luật 10-59, bọn chúng kéo lê máy chém đi khắp miền Nam,
dựng nên những trại tập trung gièt người kiều Phú lợi và tiến hành
những cuộc thảm sát vô cùng tàn khốc, như : Hướng điển, Vĩnh
trinh, Chợ Được, Duy xuyên . . . , những tên đất mà mấy nghìn năm
sau lịch sử sẽ còn ghi lại vỏi những dòng máu đồ.
Trong Gió lộng, cuộc sồng mà bè lũ Mỹ — Diệm dựng nên
ồ1 miền Nam là <(cõi chết», là « com ác mộng », là «một nhà tù lỏm»,
là cuộc sống mà «thịt roi máu chảy đêm d ài», có «nghìn hồn oan
bay khắp nhân gian », «hồn kêu trên mái muôn n h à» . . .
Đứng trên đỉnh cao củ a cuộc sổng mới xã hội chù nghĩa, nhà
thơ giáng xuống đầu bọn Mỹ và tay sai một mối căm thù mang
sức mạnh của bão tố :
«Bão ngày mai là gió nồi hôm nay
Trời chớp giật tất đền ngày sét đánh.»
Điểu mà nhà thơ tiên đoán, trong những năm 60 và đầu 70,
đã trờ thành sự thật.
Nhưng hiện thực miền Nam trong giai đoạn 1954— 1961 mà Gió
lộng phân ảnh chù yếu không phải là bộ mặt của bọn Mỹ — Diệm

112
và cuộc sống ngột ngạt, đen tối mà chúng đã dựng nên với những
tội ác man rợ. Hiện thực miền Nam— mặt chù yếu mà Tố Hữu
phản ảnh qua Gió lộng — chính là hình ảnh những con người và
cuộc sổng của nhân dân cách mạng, trong máu lửa vẫn kiên trì đấu
tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chù ồ* miền Nam,
tièn tới hòa bình thống nhất T ố quốc.
Trong Giỏ lộng, hình ảnh nhân dân cách mạng miền Nam là
những con người có «trái tim vĩ đại, còn một giọt máu tươi còn
đập m ãi» đấu tranh kiên cường cho «lẽ phải», cho sự nghiệp giải
phóng quê hương, thống nhất T ố quốc và giải phóng loài người.
Lẽ sống của họ là độc lập, tự do và thống nhất nước nhà :
«Dù phải chềt mà còn trời', còn đất
Mà Tố quốc ta hòa bình, thống nhất.*
Trong ánh hào quang c ủ a lý tường độc lập, dân chù và c ủ a
chù nghĩa anh hùng cách mạng, họ xuất hiện trên trang thơ Tố
Hữu vói những vẻ đẹp hết sức rạng rỡ :
«Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuồi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây, là suối?
Đôi mắt em nhìn hay chớp lừa đêm đông ?
Thịt da em hay là sắt, là đồng?»
Và cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do củ a nhân dân cách mạng
miền Nam đã được phản ảnh vào thơ Tố Hữu với một sức sổng
không có gì dập tắt nổi :
<?Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng dựng thành âồng.»
Và đến năm 1961 thì cuộc sống đó đã rằt náo động ĩ
«Mấy hôm nay như đứa nhở nhà,
Tôi vẩn vơ hoài, rạo rực vào ra,
Nghe tièng mõ và nghe tiềng súng
Miền Nam dậy hò reo náo động.»
Trong mấy câu thơ đó có cuộc sống của nhân dân cách mạng
miền Nam và cũng có tâm tình củ a tác giả. Tình cảm Bắc — Nam
cũng là một biểu hiện tươi đẹp c ủ a tình yêu nước củ a nhân dân
ta mà Tố Hữu đã tập trung phản ảnh trong Giỏ lộng. Đất nước
bị chia cắt, miền Bắc sống trong cảnh tươi vui của cuộc sống mới,

113
miền Nam «những tiếng giày đinh» vẫn «đạp núi đ ồ i» trên đất
Quê m ẹ; tình cảnh đó đã đưa lại cho thơ Tố Hữu ỏ* những bài
vièt về miền Nam trong Gió lộng một nỗi ray rứt, canh cánh
không nguôi:
«Tỗi viềt cho ai bài thơ 61
Đêm đã khuya rồi, gió về tẽ buòt
Hà nội rì rầm tàu thối ngoài ga
Một chuyền tàu chuyền bánh đi xa
Tiếng xinh xịch chạy đọc đường Nam bộ.»
Ray rứt, canh cánh, nhưng mà lòng tin c ủ a tác giả vẫn.
một màu son tươi thẳm. Đây là hình ảnh chị Lý trên đường quê
hương ngày miền Nam được giải phóng :
«Em sẽ đứng trên đôi chần tuổi trẻ
Đôi gót đồ lại trờ về quê mẹ
Em sẽ đi trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa rực rỡ sao vàng.»
Hình ảnh người con gái Việt nam có «đôi chân tuồi tr ẻ » và
« đôi gót đò » đó đẹp, hay cảnh đất nước miền Nam ngày giải phóng
đẹp ? Lòng tin c ủ a tác giả thật chói sáng.
Biểu hiện thành công tình Bắc — Nam ruột thịt và lòng tin sẳt
đá vào sự nghiệp cách mạng trong cầ nước, Gió lông đã góp phần
với những tác phầm thơ ca c ủ a các tác giả khác viết cùng thời
sự biểu hiện thành công một màu sắc đặc biệt củ a tình cảm yêu
nước Việt nam trong giai đoạn lịch sử mới.

★★
Giỏ lông chính là bàỉ ca vui kiến thỉềt chủ nghĩa xã hội, chào
mừng cuộc sổng mởi và con người mới. « Gió lộng chứa đựng một
niềm vui lớn, một niềm vui tràn đầy, trong trẻo, phoi phới không
thể cưỡng được mà lại là một niềm vui có suy nghĩ, tỉnh táo và
sáng suốt.» (Hoài Thanh).
Gió lộng cũng chính là tiềng hát chiến đấu, tiếng thét căm
thù đối vói bọn Mỹ — ngụy, tiếng thét đấu tranh đòi độc lập, tự
đo, dân chù ồ' miển Nam, tiếng hát lạc quan, tin tưởng và cháy
bòng nhớ thương:
«Như lừa cháy trong lòng ta gió ỉộng.»

114
Xét về nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca, từ T ừ áy, qua Việt bắc
đến Giỏ lộng, lời thơ c ủ a Tố Hữu càng ngày càng trồ* nên đẹp
đẽ, điêu luyện, uyển chuyền, nhuần nhụy, đậm đà màu sắc, hương
vị dân tộc, đồng thời mối mẻ, hiện đ ại. . . Gió lộng cũng đề lại
nhiều bài thơ hay, có sức trường tồn c ủ a Tố Hữu : Quê m ẹ,
N gư ờ i con g ái V iệt n am , Em ơ i . . . Ba l a n . . . , T iếng ru ,
Cảnh chim không m ỏi, Bài ca m ủ a x u ân 61, Mẹ T ơ m ...

XƯA . . . NAY

Xưa là rừng núi, là đêm


Giờ thêm sông biền, lại thêm bàn ngày*1)
Ta đi trên trái đất này
Dang tay bè bạn, vui vầy bốn phương

Trên bẵi Thái bình dương sóng gió


Phơi phới bay cờ đò sao vàng
Chúng ta đứng thẳng hiên ngang
Sáng ngòi một ngọn hải đăng hòa bình.

Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đ ạ i!


Bổn nghìn năm, ta lại là ta.
Việt nam dân chủ cộng hòa
Hôm nay mười tuổi cầm hoa tặng Người
Mừng ngày lịch sừ
HỒ Chả tịch và Chinh phả
Việt nam dân chả cộng hòa
về Thủ đô Hà nội

(1) Ngày 25-12-1954, trong Hội đông Chính phù Việt nam dân chủ cộng hòa, Hồ
Chủ tịch có n ổ i: « Trước kia ta mới có rừng núi, có đêm ; ngày nay ta có thêm sông,
thêm bỉền, thêm cả ban ngày. Đất nước ta bao la, anh em ta đông đủc. . . »

115
TRÊN MIỀN BẲC MÙA XUÃN

T ôi chạy trên m iền Bắc


H ớ n h ớ giữa mùa xuân
Rộn rực m uôn màu sắc
N áo n ứ c m uôn bàn chân.

Đ ư ờ n g nhựa dài óng ả


Đ ồ n g chiêm mạ xanh rờn
Ga m ới hồng đôi má
Cầu m ớ i th ơ m m ùi sơn.

Bà con đi đâu vậy


V ui h ơn cả hội hè ?
T rống đánh cờ bay dậy
Sôi sục khắp đổng quê.

Đ i đi ra trư ờ n g đấu
Quật địa chù cư ờ n g hào !
R uộng đất, ta làm chủ
Chấp ch ớ i đỏ cờ cao.

Đ i đi ra chống hạn
T hay trời, ta làm m ưa
V ui sao tiếng n ư ớ c lên đồng cạn
V u i sao tiếng hát trên đồng bừ a !


★★
T ồi đi d ư ớ i nắng trưa
M ùa xuân ấm áp
N gh e h ơ i th ớ c ủ a đổng quê mập mạp
Bãi phù sa xanh m ư ợ t ngô non
N h ữ n g đàn trâu V iệt bắc béo tròn
Đ ù n g đỉnh về xuôi quê h ư ơ n g m ới lạ.
R ự c rỡ nh ữ n g làng vàng tư ơ i mái rạ
G ạch m ớ i nung, đá trắng chất bên đ ư ờ n g
K hói lò bay quanh nh ữ n g phố p h ư ờ n g
Sắt sáng chói nh ữ n g bề dầu x ư ở n g máy
Và trư ờ n g học đã m ọc lên từ n g dãy . . .

116
S ư ớ n g vui thay, m iền Bẳc của ta í
Cuộc sống tư n g b ừ n g đổi sắc thay da.
T a nghe rõ : m ỗi giờ m ỗi phút
Cả đất n ư ớ c ta tiến lên vùn vụt
N h ư cỗ xe trăm mã lự c khổng lồ
M à bàn tay thần diệu của Bác H ồ
Cầm chắc lái, bay trên đ ư ờ n g vạn dặm
Đ ư ờ n g gai góc đang nồ 1 đầy hoa thẳm . . .


★★

G iữa mùa xuân, v ữ n g b ư ớ c tớ i tư ơ n g lai


T ô i vu i đi, m ê mải . . .m ột . . .hai
G iật m ình nghe tiếng còi dài gióng giả
T rên đ ư ờ n g sẳt, chuyến tàu trưa hối hả
Chạy v ề N am . N h ư m ột đạo quân
C huyền rầm rầm trên m iển Bắc m ùa xuân.

5-2-1956

QUÊ MẸ
G ởi Huề yêu

H uế ơ i, quê m ẹ của ta ơ i !
N h ớ tự ngày xưa, tuồi chín m ư ờ i
M ây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
M ư a nguồn gió biền, nẳng xa k h ơ i. . .

T iến g hát đâu mà nghe n h ớ th ư ơ n g !


Mái nhì man mác n ư ớ c sông H ư ơ n g
Hà ơ i, tiếng m ẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trư ờng !

117
Ôi n h ữ n g đêm xưa, tối m ịt m ùng
Con nằm bên m ẹ, ấm tròn lư n g
N goài hiên nghe tiếng giày đi rỏn í1)
M ẹ bấm con im : chúng nó lùng(*23*>

Con hỏi vì sao chúng nỏ tìm


T ìm ai, con hỏi, m ẹ rằng : im !
M ẹ ơ i, đ ờ i m ẹ buồn lo mãi
T hẳt ruột m òn gan, héo cả tim ỉ

★★
M ẹ không còn nữa, còn đây H uế
Con lớ n lên, con biềt lẽ rồi :
N ư ử c mất nhà tan, đ ờ i khổ thế
K hông làm nô lệ, đ ứ n g lên thôi !

Con lớ n lên, con tìm Cách m ạng


A nh L ư u , anh D iều dạy con đ i(5>
M ẹ không còn nữa, con còn Đ ẩn g
D ìu dẳt khi con chửa biểt gì.

H u ế không buồn nữa, H u ế ta ơ i


M ẳt ư ớ t trăm năm đã hé c ư ờ i
N gh ìn m ảnh tư ơ n g lai về phấp p h ớ i
T ruyền đ ơ n c ờ đò gió tu n g trời

R oi điện cùm xai tóe m áu tư ơ i


X à lim không thể khóa h ồ n n g ư ờ i
B ừ n g b ừ n g tiếng hát rung song sắt
T iến g hát ta bay lộng giữ a đ ờ i . . .

(ỉ) Đi rón : đi tuắn.


(2) Nãm 1930, đế quốc Pháp khủng bổ phong trào cách mạng do Đáng Cộng sàn
Đông dương lãnh đạo.
(3) Phan Đăng Lưu : chièn sĩ cách mạng bị xử bẳn trong cuộc khời nghĩa Nam
kỳ 1940.
Nguyễn Chí Diều, chiến sỉ cách mạng mất ở Huề năm 1938.

118
Tháng Tám vùng lên Huế của ta
Quảng — Phong ơi, Hương thùy, Hương trà
Phú vang, Phú lộc đò lên Huế
Đò ngập dòng sông rộn tiếng ca.

★★
T ừ ấy, xa quê mẹ đến rày
Lẳng nghe từng buổi, nhớ từng ngày
Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cò cây 1
Cẳn răng gian khố tám năm trời
Huế của ta không một bước lùi
Huế của ta đây cầm vững súng
Chúng bay không thể có ngày vuií1)
Chúng bay không thể có ngày mai
Chết dưới chân bay vạn bẫy gài
Chết xuống đầu bay từng hồc núi
Hải vân thăm thẳm huyệt đêm ngày !
Làng ta giặc đốt mấy lần qua
Mà đất Phù lai vẫn tốt cà
Mà quít Hương cần ta vẫn ngọt
Nhớ anh du kích trấn Dương hòat2>
Chí ta như núi Thiên thai ấy
Đò rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương giang ấy
Xanh biếc lòng sông những bóng thông . . .
*
**
Lửa chiến tranh nay đã tẳt rồi
Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi
Mẹ ơi dưới đất còn chua xót
Những tiếng giày đinh đạp núi đổi !

(1) Đoạn đường từ Huê ra Quảng trị, quân Pháp gọi là <• Con đường không vui *
(Route sans joie).
(2) Dương hòa : chièn khu cúa Thừa thiên.

119
Ôi H u ế ngàn năm , H u ế c ủ a ta
Đ ư ờ n g vào sẽ nối lại đ ư ờ n g ra
N h ư con của m ẹ về quê m ẹ
H uề lại về đây giữa « Cộng h ò a ».
6-2-ỉ 955

BA BẦI T H Ơ TRĂNG
I
Trăng qua rào song
T răng nghiêng mặt cư ờ i
L âng lâng m ây hồng
T răng lên khơi vơi

Trăng bằng vàng diệp


M ây bằng thủy ngân
T rờ i tung sẳc đẹp
T h ơ bay lên vần

R ồi thôi trăng qua


Trăng đi xa rồi
Ô i vầng trăng xa
Bao giờ luân hồi ?

N g ư ờ i tù đ ứ n g lặng
N gh e buồn tê da
Rào song sẳt nặng
Tàn canh tiếng gà . . .
1940
Lao Thừa thiên

II
Trăng đi qua núi qua rừng
H ỏi anh T .S (!) : « Có ư n g nhắn gì ? »
— Qua rừng qua núi trăng đi
N hẳn dùm vớ i bạn : « Có khi m ình về ».
Đắc lây, 19421

(1) T .s. : Travaiỉlenr spéciaỉ : tên gọi những người tù ớ trại tập trung của thự c
đân Pháp trong những năm 1940 — 1945.

120
III

Đ êm qua trăng sáng c ổ n gư


Trăng đầy mặt n ư ớ c, trăng n h ư mặt ngư ờ i
Trăng tư ơ i mặt ngọc trên trời
N gẩn n gơ trăng ngó mặt n g ư ờ i n h ư trăng.

1959

VỚI LÊ-NIN

N h à L ê-n in , ớ G oóc-ky.
K hi tôi đến
L ê-n in n h ư vừ a đi
— N g ư ờ i rất bận :
N gày ngày
V ô tận
N g ư ờ i n g ư ờ i nối b ư ớ c trư ớc K rem -lin
M on g gặp L ê-n in
T rong m ột phút giây im lặng.

L ê-n in đi vắng
N h ư n g trong v ư ờ n sên đầy nẳng
Chiếc ghế sơn xanh còn ấm h ơ i N g ư ờ i
Ba m ư ơ i bốn năm xư a
N gồi d ư ớ i mặt trời
V iết nh ữ n g dòng
Á nh sáng.

Bâng khuâng nghe năm tháng


Đ ẹ p n h ư n g ư ờ i con gái n ư ớ c N ga
H ôm nay đưa tôi qua n h ữ n g căn nhà
K ể lại từ n g ch ư ơ n g sử đỏ.

121
Cách mạng tháng Mười
Đảng Cộng sản Liên xô từ đổ
Với Lê-nin, làm lại loài người
Với Lê-nin, làm thè kỷ hai mươi
Trong đêm tối, mớ chân trời hừng hực.
Mẹ ơi, đẻ con ra trong khổ cực
Mẹ chưa hay từ đó có Liên xô
Có Lê-nin hằng che chớ con thơ
Người nhắm mắt khi con vừa bốn tuổi.
Người đã sống đến giây phút cuối :
Chiếc gậy cầm tay còn gác cạnh bàn
Bậc thang nhà còn ấm những lan can
Và tấm lịch đứng lại ngày 2K1)
vẫn tươi sáng một con người : Sê-kốp K12)
Ôi Lê-nin
Có thể nào tin
Thòi đại ta đã mất
Một con Người đẹp nhất ?
Vĩnh viễn Lê-nin sống giữa loài người
Vầng trán mênh mông đôi mắt yêu đòi
Như trái đất vui mùa xuân mới dậy.

★★
Tôi đã đi
Giữa mùa hè chín mầy
Xi-bê-ri hay Tbi-li-xi
Đâu đâu tôi cũng thấy
Lê-nin
Mỗi công trường xưởng máy
Lê-nin, ấy là lò thép chảy
Thành những óc tim, lửa cháy bừng bừng
Trên thảo nguyên, đồng nội, núi rừng
Lê-nin, ấy là nguồn điện lực
Với Xô viết, làm thiên đường sáng rực !

(1) Lê-nin mất ngày 21-1-1924.


(2) Tấm lịch của Lê-nin dùng có ảnh của Sê-kốp.

122
Khắp những nẻo đường náo nức tôi đi
Hiền hiện Lê-nin phoi phới diệu kỳ
Nhịp sồng lớn trên dáng đi bay nhảy
Những ánh mẳt của thiên tài thức dậy ..
Rất tự do, nên rất tự hào
Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao !


★★

Lê-nin đó
Muôn triệu lần nảy nò1
Giữa Loài ta
Muôn triệu lần rạng rỡ
Như mặt trời chói giữa biển bao la
Và mỗi lần sóng gió nổi quanh ta
Lê-nin đó
Ngòi ngời chân lý.

Như những ngày xưa


Người là đồng chí
Hồn nhiên giản dị
Giữa công nông ngồi chật quanh Người
Rất yêu thương, đôi mẳt nheo cười.
Như những ngày xưa
Người là chiến sĩ
Không sợ gian nguy, không giờ phút nghỉ
Ghểt mọi quân thù, ghét mọi nước sơn
Suốt đòi mang tấm áo dạ sờn
Đôi giày ống gót mòn sỏi đá.


★★

Đám tang ai
Đi trong tuyết giá
Mạc tư khoa trắng lạnh
Muôn nghìn kim
Đau buốt trái tim í
Tôi vẫn thấy Lê-nin
Bình thường khòe mạnh
Giữa mùa đông nước Nga
Cùng công nhân đi vác gỗ xây nhà.
Và chiều nay trước phút vội đi xa
Người còn nghe
thánh thót
Krúp-skai-a
Đọc trong sách
« Tình yêu cuộc sống »(1).
7-1958

PHẠM HỒNG THẢI

Sổng, chết, được như Anh


Thù giặc, thương Nước mình.
Sổng, làm quả bom nổ
Chềt, như dòng nườc xanh K12>.

MÙA THU MỚI

Ngày mỗi ngày, từng chiếc lá tre xanh


Đã mọc lên quanh những làng kháng chiến.
Ngày mỗi ngày, từng miếng đất cò gianh
Đã lật lên dưới lưỡi cày mới luyện.

(1) Lê-nin mất lặng lễ trong khi Krúp-skai-a, vợ của Người, đọc cho Người nghe
tiểu thuyết «Tình yêu cuộc sổng I> của Jắc Lòn-đôn.
(2) Năm 1924, liệt sĩ Phạm Hồng Thái đùng bom mưu giết Méc-lanh, viên toàn
quyến Đông dương, lúc y ghé qua Sa điện ở Quẳng châu, Trung quốc. Việc không thành,
Phạm Hồng Thái nhảy xuống Châu giang tự vẫn.

124
Vui cứ đến, ngày mỗi ngày, nhồ nhồ
Như từng cây cờ đỏ mọc trên đời
Vui cứ đến, tự bao giờ chẳng rõ
Như suối ngầm trong đất chảy trăm noi .

Bỗng hôm nay nghe mùa thu mới gọi


Bao nhiêu vui chất chứa bấy nhiêu ngày
ừ a cả dậy, vui tràn đầy, chói lọi
Những trái tim, những ánh mắt, bàn tay !

Õ đâu phải, qua đêm dài lạnh cóng


Mặt tròi lên là hết bóng mù sương !
Ôi đâu phải, qua đoạn đường lửa bỏng
Cuộc đời ta bỗng chốc hóa thiên đường !

Nhưng sắc đẹp đã ửng hường đôi má


Cộng hòa ta nay tuồi mới mười ba
Sức đang lớn, chưa nò’ nang tầt cả
Đã vui rồi, môi đỏ nụ cười hoa !

Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát


Giữa đôi bờ rào rạt lúa ngô non
Yêu biết mấy, những con đường ca hát
. Qua công trường mới dựng mái nhà son !

Ị Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng


I Của đời ta chập chững buổi đầu tiên
'• Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên !

Yều biết mấy, những con người đi tới


Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên !

Thơ ta ơi ! Hãy cất cao tiếng hát


Ca ngợi trăm lần T ố quốc chúng ta I
Mùa thu đó, đã bắt đầu trái ngọt
Và bắt đầu nò* rộ những vườn hoa . . ♦
NGƯỜI CON GẤI VIỆT NAM
Tặng chị Lý anh đũng

Em là ai ? Cô gái hay nàng tiên


Em có tuổi hay không có tuồi
Mái tóc em đây hay là mây là suốỉ
Đôi mẳt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đổng ?

Cho tồi hôn bàn chân em lạnh ngắt


Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh
Trên mình em đau đớn cả thân cành !

Tình lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng


Em đã sống lại rồi, em đã sống !
Điện giật, dùi đâm, dao cẳt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng !

Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại


Còn một giọt máu tưoi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đòi
Cho quê hương em. Cho Tố quốc, loài người !

T ừ cõi chết, em trờ về, chói lọi


Như buồi em đi, ngọn cờ đỏ gọi
Em trở về, người con gái quang vinh
Cầ Nước ôm em, khúc ruột của mình.

Em đã sổng, bồi vì em đẵ thẳng


Cả Nước bên em, quanh giường nệm trắng
Hát cho em nghe như tiếng mẹ ngày xưa
Sông Thu bồn giọng hát đò đ ư a . . .

Cầ Nước cho em, cho em tất cả


Máu tiếp máu, cho lại hồng đôi má
Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân
Cho thịt da em lại nò* trắng ngần ỉ

126
Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
Đôi gót đò lại trò* về quê mẹ
Em sẽ đi, trên đường ầy thênh thang
Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng !

Ôi đôi mắt cửa em nhìn, rất đẹp


Hãy sáng mãi niềm tin tươi ánh thép
Như quê em Gò nồi, Kỳ lam
Hỡi em, người con gái Việt nam !
7-12-1958

THỦ MUÔN ĐỜ I MUÔN KIÉP


KHÔNG TAN

Đồng bào oi, anh chị em oi ỉ


Hỡi lương tâm tất cả loài người ỉ
Hãy nghe tiếng của nghìn người bị giết
Không sồng nữa, nhưng không chịu chết
Nghìn hồn oan bay khắp nhân gian
Thù muôn đời, muôn kiếp không tan ỉ

Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết


Chết thê thảm, chềt một ngày bỉ thiết
Cả nghìn người, trong một trại giam
Cùa mệt nhà tù lớn : miền Nam !
Hãy nghe tiếng của một nghìn cái xác
Không chịu chết, vạch tròi kêu tội ác !

Trong một ngày — mồng một tháng mười hai


— Nào ai ngờ không sống nữa ngày mai í
Chúng tôi chết, chèt quay lăn lóc
Đ ứt ruột đứt gan, nắm cơm thuốc độc *
Chèt mà chưa giết được, lũ đê hèn
Trái tim hồng chết uất máu bầm đen !

127
Õi, chết thế, không thể nào chết được
Không thể chết, những người dân yêu nưởc
Những con người không chịu ô danh
Những người con không muốn chiến tranh
Những người cha không muốn nhơ quốc thể
Những người mẹ không muổn con nô lệ !

Đồng bào oi, anh chị em oi !


Sống, chúng tôi mong được sống làm người
Dừ phầi chết, mà còn trời còn đằt
Mà T ố quốc ta hòa bình, thống nhất
Chúng tôi không sợ máu chảy đầu roi
Thà chết không chịu khuất phục một lời !

Chúng đã giết, nhưng làm sao giết được


Hồn chúng tôi quẩn quanh cùng đất nước
Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu
Như bóng cờ bay sớm sớm chiều chiều
Như sông lạch vẫn tẳm đổng xanh mát
Như sông biền vẫn dập dìu ca hát !

Đồng bào oi, anh chị em oi !


Chúng tôi không thể sổng lại rồi
Những xác chết, không thể nào cứu nữa !
Hãy cứu những anh em trong máu lửa
Nhỏ' lấy : nẳm cơm thuốc độc giết người
Quân thù còn vung vãi khắp nơi !

Thuốc độc đó, trong tay bầy chó Mỹ


Những « độc lập », « quồc gia », « nhân v ị»
Những đô la và những súng gươm
Miền Nam ơi ! Thuổc độc giấu trong cơm
Quăng xuống biền những thằng mang thuốc độc
Những con chó giữ vàng cho Bạch ốc*1)

(1) Bạch ồc : tên tòa nhà của tổng thổng Mỹ còn gọi ỉà «Nhà trẳng».

128
Đồng bào oi, anh chị em oi !
Chúng tôi không thể thét nữa rồi !
Lửa đã đốt những thây đen thuốc độc
Súng đã bắn những đầu xanh gan góc
Chết vẫn leo lên những mái nhà giam
Kêu cả loài người : Cứu lấy miền Nam !

Đổng bào oi, anh chị em oi !


Chúng tôi không còn sống trên đời
Chúng tôi chẳng còn trên mặt đất
Nhưng miền Nam, những trại giam còn chật
Nghìn vạn chúng tôi, nghìn vạn con người
Chết rục chết mòn, vẳng bặt tăm hoi !
Hỡi tất cả những người đang sống
Hãy thay chúng tôi, truyền đi vang động
Tiếng vọng căm thù, tiếng vọng đau thương
Của miền Nam bầt khuất kiên cường :
Hẵy chặn lại những bàn tay đẫm máu
Cùa Mỹ — Diệm 1 Và bển gan chiến đấu !

Và chúng bay, Mỹ — Diệm giết người


Hãy nghe đây, chủng ta nói một lòi
Hãy nghe tiếng của những người đã sổng :
Những thuốc độc, xiểng gông, gươm súng
Đã giết ta, sẽ giết lại loài bay
Bão ngày mai là gió nổi hôm nay !

Tròi chớp giật, tất đến ngày sét đánh !


20-1-1959

EM Ơ I . . . BA LAN . . .

Em oi, Ba lan mùa tuyết tan


Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn

129
Có phải Sô-panh tình chứa chan
Nâng đàn ca cô gái Ba lanơ)
Có phải A-đam hồn vĩ đại
Bay trên đầu thế kỳ nhân gian. . .(123>

Em đi cùng anh lên thành xưa


Vác-sa-va ấm nắng ban trưa
Nét vàng lịch sử vừa tưoi lại
Trong cuộc hồi sinh, tạnh gió mưa.

Hãy nghe em, từng viên đá lát


Những con đường, tiếng hát đau thương
Ba lan, Ba lan
Thịt da đã bao lần tan nát
Nước mất, tim về vọng cố hươngO)

Hãy nghe em, từng viên ngói đỏ


Những mái nhà phố cũ hồi xuân
Máu đã quyện, em ơi, trong đó
Máu Ba lan và máu Hồng quân !

ô i máu đọng mười lăm năm trước


Bốn triệu hồn kêu Nước trong đêm
Em ơi em, làm sao quên được
Ồt-sơ-ven-xim, Ồt-sơ-ven-xim í(4)

Nhớ nghe em, những đôi giày nhồ


Tưồ*ng còn đi chập chững chân son
Những mái tóc vàng tơ đóng bó
Dệt thành chăn rợn bóng oan h ồ n !

(1) Cô gái Ba lan : bản nhạc nổi tièng của Sô-panh, nhạc sĩ thiên tài của Ba lan.
(2) Ý một câu thơ của A-đam Mích-ki-ê-vích, nhà thơ lớn của Ba lan :
« Tôi vươn lên, bay Un, trên đầu thời đại, trên loài n gư ời. . . »
(3) Nhạc sĩ Sô-panh mầt ở Pháp. Trái tim của ông được đưa về Ba lan, đặt trong
một nhà thờ. Khi quân phát xít Đ ức đánh đền, nhân dân đem cầt giấu trải tỉm ấy, đợi
đến ngày Ba lan được giàỉ phóng mớỉ đem trái tỉm vế lại nhà thờ.
(4) Ổ t-sơ-ven-xim (tiếng Đ ức gọi là Au-sơ-vích) là một trong những trại tập trung
ghê tớm nhất của phát xít Đức, đã giết bốn triệu người cả trẻ em và phụ nữ của hai
mươi tám nước.

130
Anh đẵ đến quê em Cra-cốpO)
Như quê anh, lộng lẫy cung đển
Hồng quân cứu Va-ven xinh đẹp
Như Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên.
Anh đã đến quê em Ban-tích
Sóng ngời xanh, ngọc bích biền khơi
Đã xóa sạch những ngày Đăng-dích(2)
Màu Ba lan trong trắng đò tươi.
Khắp quê em, mùa xuân đến rồi
— Dù đêm qua chút tuyết còn rơi —
Hỡi người chị bên đường quét tuyết
Xuân đến rồi, nắng đò trên môi.
Nắng trên cao cần trục xây nhà
Nắng lưng tàu phấp phới đi xa
Nắng đò ngực anh, người thủy thà
Đẹp như lò Nô-va Hu-ta(J)
Khắp quê em, mùa xuân mang tên
Những người con đẹp của trăm miền
Hôm nay gọi nhau về Đại hội(4)
Mô* thêm đường, đi lên đi lên
Mùa xuân đó, quê em ấm áp
Chân người đi, vào cuộc đòi chung
Ngựa đang kéo đồng lên hợp tác
- Đường ta đi tấp nập vô cùng J
Em oi, Ba lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng đàn xuân ấy
Ca ngàn năm : Ba lan Ba la n __
4-19591234

(1) Cra-cồp : kinh đô xưa của Ba lan, có cung Va-vcn rất đẹp đã được Hông quân
Liên xô cứu thoát khồi sự phá hoại của phát xít Đức.
(2) Thành phồ hài cảng Gơ-đanh của Ba lan được gọi là « hòn ngọc của biền Ban-
tích » trước kia bị người Đ ức khống chế và đặt tên là Đâng-dích.
(3) Nô-va Hu-ta ỉ nhà máy gang thép lớn mang tên Lê-nin, do Liên xô giúp cho
Ba ỉan.
(4) Đại hội lần thứ 3 Đảng Công nhân thống nhất Ba lan (10-3-1959).

131
BA MƯƠI NĂM ĐỜI TA CÓ ĐẢNG

Anh chị em ơi !
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng đường dài . . .
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con chim én mới
Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nớ hoa.

Thuớ nô lệ, thân ta nước mất


Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm
Một đời đau suốt trăm năm
Chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao !
Giặc cướp hết non cao biền rộng
Cướp cả tên nòi giống tố tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Núi sông một khúc ruột liền chia ba.
Lũ bán nước lột da dân nước
Tan mồ cha cũng rước voi giày
Máu đà nhúng đỏ bàn tay
Bièt chi đau đớn cồ cây đồng bào !
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy.
Cha trốn ra Hòn gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất đỏ làm phu
Bán thân đổi mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao-su mấy tầng !
Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hoi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi !

★★

132
Lần đêm bước đến khi hừng sáng
Mặt trời kia ! Cờ Đảng giương cao í
Đảng ta, con của phong trào
Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm*
Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương, sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ớ trên đời
Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay*

Đảng ta đó, trăm tay nghìn mắt


Đảng ta đây, xương sắt da đồng.
Đảng ta, muôn vạn công nông
Đảng ta, muôn vạn tấm lòng niềm tin*
Đảng ta Mác — Lê-nin vĩ đại
Lại hối sinh, trả lại cho ta
Trời cao, đầt rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người.

Từ ấy đã ba mươi năm chẵn


Cuộc đời ta theo Đảng tiến lên
Đường xa bao nỗi truân chuyên
Ngọn đèn đêm gió, con thuyền biển khơi
Đèn vẫn tỏ, thuyền bơi tới trước
Đảng ta đưa dân nước ta đ i . . .
Con đường cách mạng trường kỳ
Ba mươi năm ấy, bước đi vững vàng.

Trống Xô viết Nghệ an vang động


Bắc Trung Nam tràn sóng đấu tranh
Hầm than, xường máy, lều gianh
Đứng lên tự cứu mà giành ấm no !
Đứng lên cứu tự do, độc lập
Đứng lên giành ruộng đất, áo cơm !
Đứng lên, thân cồ, thân rơm
Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn !
Máu có chảy, xương tan thịt nát
Bớ công nông / Tiếng hát càng cao
Năm năm chìm nổi ba đào
Phong trào tạm lẳng, phong trào lại l ên. . .

133
Chồng phát xít cường quyền hiếu chiến
Khẳp năm châu, trận tuyến Bình dân
Trùng trùng cách mạng ra quân
Phất cao cờ đỏ, công nhân dân đầu
Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ
Hòn gai kêu Đất đỏ đấu tranh
Áo nâu liển với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
Đòi cơm áo, đòi quyển dân chù
Đường càng đi đội ngũ càng đông
Suối ngàn đã chảy thành sông
Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi !

Càng tức nước, càng xui bờ vỡ


Lòng dân ta như lửa thêm dầu
Lưỡi lê, mũi súng, nhà tù
Càng đau, càng khổ, càng thù, càng căm.
Nước đà mất tám mươi năm
Đã Tây lại Nhật, đứng nằm sao yên ?
Thân một cồ hai xiềng nô lệ
Phải vùng lên mà bẻ cho tan
Diệt bẩy Tây Nhật việt gian
Việt nam độc lập hoàn toàn tự do ỉ
Lời Đảng gọi vang to khắp nước
Núi sông nghe chân bước trước sau :
Bẳc san phất ngọn cờ đầu
Nam kỳ khởi nghĩa bắc cầu tiến lên
Máu dù chảy hai miền thấm đỏ
Nghìn đầu rơi xuống cỏ, không lui !
Núi càng rung, biển càng sôi
Thép nung càng luyện, càng tôi, càng bển.

Rừng Việt bắc, Thái nguyên chống địch


Bước chân đoàn du kích càng hăng
Quân càng đông, sức càng tăng
Biên cương nổi lửa, Cao bằng xuất binh
N ổ súng trận, V iệt M in h truyền lệnh
G iải phóng quần tràn đinh non cao
V iệt M in h n h ư thác ào ào
Chiến khu kháng N hật, cao trào nhân dân
Đ ã nghe súng H ồn g quân oanh liệt
Chân trời xa n h ư sét đêm t h â u . . .
Đ ứ c hàng, N h ật cũng cúi đầu
B ồn p h ư ơ n g châu Á , châu  u vẫy vùng
Đ ồ n g cỏ héo đã bùng lửa cháy
N ư ớ c non ơ i, hết thảy vùng lên !
Bẳc T rung N am khắp ba m iền
T oàn dân khởi nghĩa ỉ Chính quyển về tay !
L ờ i Đ ản g gọi, m ột ngày sấm nổ
B iến n g ư ờ i dâng ngập phố ngập đồng
M ùa thu Cách m ạng thành công
M ùa thu đây, h ỡ i cờ h ồ n g vàng sao !


★★
Ôi hai tiếng đồng bào, T ố quốc
Đ ế n hôm nay m ớ i thuộc về ta
Trăm năm m ất n ư ớ c m ất nhà
H ôm nay m ỏ i cất lờ i ca íiền g cư ờ i
T a đã đ ứ n g nên n g ư ờ i độc lập
Cao bằng n g ư ờ i, nào thấp thua ai ?
T ay ta, tay búa, tay cày
T ay g ư ơ m , tay bút d ự n g xây n ư ớ c m ình.
Đ ờ i đang b uổi bình m inh h ử n g đỏ
'tà y lại vào cắn cổ, cắn chân
C hém cha cái lũ th ự c dân
Đ ã leo đằng cẳng lại lân đằng đầu !
M ột b ư ớ c nhịn, b ư ớ c sau cố nhịn
G iặc càng hung, còn nín đ ư ợ c sao ?


★★
Hỡi quồc dân ỉ Hỡi đồng bào ĩ
Cổ gươm, có sủng, có dao hãy dùng
Quyết kháng chiền đến cùng cứu nước ỉ
Toàn dân trông phía trước tiền lên I
Nửa đêm vang tiếng lệnh truyền
Phố giăng chiến lũy, đường xuyên chièn hào
Hồn Nước dựng thành cao muôn trượng
Tay Đảng rèn lực lượng muôn dân
Chín năm kháng chiến thánh thần
Gậy tầm vông đánh tan quân bạo tàn !
Một dân tộc hai bàn tay trắng
Đồng tâm là chiến thẳng thành công
Dân ta gan dạ anh hùng :
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn
Chân toạc máu, chân dồn đuổi giặc
Tay chém thù, tay sắc như gươm !
Cù khoai, cù sẳn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can !

Chín năm nắng núi mưa ngàn


Nắng mưa có Đảng, cơ hàn có nhau
Nhớ những lúc hầm sâu địch hậu
Nhớ những đêm theo dấu đường dây
Giặc lùng, giặc quét, giặc vây
Có dân, có Đảng đêm ngày vẫn vui
Làng kháng chiến không lui một bước
Nhổ sạch đồn cho nước ta yên
Chín năm làm một Điện biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng !

Ôi T ố quốc, vinh quang T ố quốc !


Ngàn muôn năm dân tộc ta oi !
Việt nam anh dũng sáng ngời
Ánh gươm độc lập giữa trời soi chung
Hỡi ai kiếp bần cùng nô lệ
Hãy đứng lên mà bẻ xiểng gông !
Tự do đã nồ* hoa hống
Trong dòng máu đò, trên đồng Việt na m. . .

136
Đường hạnh phúc gian nan lắm khúc
Đời đấu tranh không lúc dừng chân
Đã rằng vì Nước vì Dân
Nước Dân còn khồ thì thân sướng gì ?
Đường giải phóng mới đi một nửa
Nửa Mình còn trong lửa nước sôi
Một thân không thể chia đôi
Lửa gươm không thể cẳt rời núi sông
Gươm nào chém được dòng Bèn hải ?
Lửa nào thiêu được dải Trường sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu !
Miền Nam đi trước về sau
Bước đường cách mạng dài lâu đã từng
Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng dựng Thành Đồng
Trăm sông về một biển Đông
Bẳc Nam lại sẽ về trong một nhà !

★★
Đường thống nhất chân ta bước gấp
Miền Bắc ta xây đắp nhanh tay
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông tròi đất đồi thay đã nhiểu . . .
Dân có ruộng, dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng, ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
Màu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyền thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao . . ♦
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người
Đời hết kẻ sống lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm hy sinh
Những người lao động quang vinh
Chúng ta là chủ của mình từ đây. . *
Nghìn năm giấc mộng đêm ngày
Ba mươi năm Đảng, hôm nay có mình.

★★
Ba mươi tuổi Đảng sinh, phấn đấu
Đã bao lần đổ máu con yêu ỉ
Đường đi mấy núi mấy đèo
Núi bao nhiêu ngọn, bấy nhiêu anh hùng !
Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng
Tầm lòng son chói sáng nghìn thu
Mặt trời có lúc mây mù
Trái tim kia vẫn đồ bầu máu tươi !
Người đang sống nhớ người đã khuất
Nhớ những anh chị mất trên đường
Tù lao, máy chém, chiến trường
Dẫu tan nát thịt, còn vương vấn hồn :
Chết nằm xuống, còn hôn cờ Đảng
Chết còn trao súng đạn, quên đau
Chết còn trút áo cho nhau
Miếng cơm dành đề người sau ấm lòng !
Hỡi những trái tim không thể chết
Chúng tôi đi theo vết các anh
Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biền cả, cây xanh núi ngàn . . .
Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ
Ta nhớ người đau khổ nuôi ta :
<Tn người như mẹ như cha :
Lòng dân yêu Đảng như là yêu con !
Nghèo rau cháo, từng lon gạo bữa
Dành cho ta chút sữa cầm hơi
Dù khi tẳt lửa tối trời
Vững lòng quyết sống, không rời Đẳng ta
Dù khi giặc khảo giặc tra
cẳn răng thà chết, không xa Đảng mình !
Ta nhớ nghĩa nhớ tình bốn biển
Anh em ta yêu mến gần xa
Máu Hồng quân, máu Trung hoa
Cũng là máu đổ cho ta đất này.
Một ngày nhớ bao ngày xưa ấy
Ba mưoi năm, biết mấy buồn vui l
Đẳng cay nay mới ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau . . .
Ngọn cờ đỏ trên đầu phấp phới
Bác Hồ đưa ta tới trời xa
Ba mươi năm bước đường qua
Đời ta có Bác xông pha dẫn đường
Người đi trước, nghìn sương muôn tuyềt
Dắt dìu dân, nước Việt nam ta
Bạc phơ mái tóc người Cha
Ba mươi năm Đảng nớ hoa tặng Người.

TIẾNG CHÒI TRE

Những đêm hè
Khi ve ve
Đã ngù
Tôi lẳng nghe
Trên đường Trần Phú
Tiếng chồi tre
Xao xác hàng me
Tiếng chối tre
Đêm hè
Quét rác . . .

Những đêm đông


Khi cơn dông
Vừa tắt
Tôi đứng trông
Trên đường lặng ngắt
Chị lao công
Như sắt
Như đồng
Chị lao công
Đêm đông
Quét rác . . .

139
Sáng mai ra
Gánh hàng hoa
Xuồng chợ
Hoa Ngọc hà
Trên đường rực nớ
Hương bay xa
Thơm ngát
Đường ta
Nhớ nghe hoa
Người quét rác
Đêm qua.

Nhớ em nghe
Tiếng chổi tre
Chị quét
Những đêm hè
Đêm đông gió rét
Tiếng chổi tre
Sớm tối
Đi vể
Giữ sạch lể
Đẹp lối
Em nghe !
6-1960

TIẾNG RU

Con ong làm mật, yêu hoa


Con cá bơi, yêu nước ; con chim ca, yêu trời
Con người muốn sống, con ơi
Phải yêu đổng chí, yêu người anh em.

Một ngôi sao, chẳng sáng đêm


Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng,
Một người — đâu phải nhân gian ?
Sồng chăng, một đốm lửa tàn mà thôi !

140
Núi cao bồi có đất bồi
Núi chê đất thấp núi ngồi ớ đâu ?
Muôn dòng sông đổ biển sâu
Biền chê sông nhỏ, biển đâu nước còn ?

Tre già yêu lấy măng non


Chẳt chiu như mẹ yêu con tháng ngày.
Mai sau con lớn hon thầy.
Các con ôm cả hai tay đất tròn.

CÁNH CHIM KHÔNG MỎI

Chiểu nay gió lặng. Nắng hanh


Mây bông trắng nõn, tròi xanh. Bác vềO)
Sông Hồng nắng rực bờ đê
Nẳng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa.

Bác đi, muôn dặm đường xa


Hôm qua tuyết lạnh, nay vừa nắng lên
Bác về, tóc có bạc thêm ?
Năm canh, bổn biền, có đêm nghĩ nhiều ?

Hỡi người, tim những thương yêu


Cánh chim không mỏi, sớm chiểu vẫn bay
Chim bay tung cánh chim bay
Ba mươi sáu triệu chim bầy gọi nhau(2)

Chim kêu ríu rít trên đầu


Mùa cam đương ngọt địa cầu của ta
Giá sương đương hẹn mùa hoa
Nắng xuân từ Mạc tư khoa đã vể.

(1) Chiều 6-12-1960 HS Chủ tịch cùng các đại biểu của Đ ảng Lao động Việt nam
từ L iên xô trờ về n ư ớ c với bản tuyên bố lịch sử của Hội nghị các Đảng Cộng sần và
Công nhân ở Mạc tư khoa.

(2) 36 triệu đảng viên cộng sàn của 87 Đảng anh em trên thè giới.

141
Sông Hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mỏi, đồng quê gặt mùa
Hoa ơi, con gái của cha
Cha nâng con nhé, làm hoa mừng Người.
Bác về, vui đó, con ơi !
Bác hôn các cháu, Bác cười với dân
Ngày vui, vui những hai lần :
Bác về, mang cả mùa xuân lại nhà.
12-1960

BÀI CA MÙA XUÂN 1961

Tôi viết bài thơ xuân


Nghìn chín trăm sáu mốt
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh . . .
Rét nliiểu nên ấm nắng hanh
Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng ?
Giã từ năm cũ bâng khuâng
Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường !

Chào xuân đẹp ! Có gì vui đấy


Hỡi em yêu ? Mà má em đồ dậy
Như buổi đầu hò hẹn, say mê
Anh nắm tay em, sôi nồi, vụng về
Mà nói vậy : « Trái tim anh đó
Rất chân thật, chia ba phần tươi đò :
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần đề em yêu . . . »
Em xấu hổ : « Thế cũng nhiều anh nhỉ ỉ »
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đèn trong tay í

★★

142
Ô tiếng hót vui say con chim chiền chiện
Trên đổng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân oi xuân, vui tới mông mênh
Biền vui dâng sóng trắng đầu ghểnh
Thơ đã hát, mát trong lời chúc :
Đ ư ờ n g lên hạnh p h ú c r ộ n g th ên h th ê nh(l)
Tam đảo, Ba vì vui nủi xuân xanh . . .

Chào 61 ! Đinh cao muôn trượng


Ta đứng đây, mẳt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bẳc trông Nam, trông cả địa cầu ỉ

T r ả i qu a m ộ t cu ộc hề d â u '12)
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiềp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thẫn Kiểu !
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêq diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xẻ lòng . . ♦

Ôi tiếng của cha ông thuở trước


Xin hát mừng non nước hôm nay :
Một vùng tròi đất trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn, đã bay cờ hồng l
Việt nam, dân tộc anh hùng
Tay không mà đã thành công nẫn Người !

Có gì đẹp trên đòi hơn thể


Người yêu người, sống đề yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thằng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay !

★★

(1) Câu thơ của H ô Chủ tịch trong bài th ơ chúc m ừng năm m ới 1961.
(2) Câu thơ của Nguyễn D u (Tố N hư) :
Trải qua một cuộc bể đâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

143
Đòi vui đó, hôm nay mở cửa
Như dãy hàng Bách hóa của ta
Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa
Và đến đó, sẳm ít quà lễ cưới :
Lụa Nam định đẹp tươi mát rượi
Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh I
Ta còn nghèo, phồ chật nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết.

Đòi vui đó, tiếng ca Đoàn kết


Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sẳn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn trâu, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mầu sắt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đổ !

Ố thích thật, bài thơ miền Bẳc


Rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần
Cả không gian như xích lại gần
Thời gian cũng quên tuần quên tháng.
Đời trẻ lại. Tất cả đểu cách mạng !
Rũ sạch cô đon, riêng lẻ, bần cùng
Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung
Người hợp tác nên lúa dày thêm đó.

Đường nỏ* ngực. Những hàng dương liễu nhỏ


Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm.
Xuân oi Xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sồng đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi
Những đoàn xe vận tải nối nhau đi
Hống quảng, Lào cai, Thái nguyên, Việt trì
Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi. . .

★★

144
Nào đi tói ! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiềng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước !
Đi ta đi ỉ Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng ?
Hỏi biền khơi xa, đâu luồng cá chạy ?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều ?
Hỡi những người trai, nhữ'ng cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả !
Xuân đã đến rồi. Hồi hả tương lai
Khói những nhà máy m ới ban m ai. . . -V-

★★
Tôi viết cho ai bài tho1 61 ?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buồt
Hà nội rì rầm . . . Còi thổi ngoài ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xinh xịch chạy dọc đường Nam bộ . . .
Ôi đâu phải con tàu ! Trái tim ta đó.
Tiềng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi I
Ta biết em rất khỏe, tim oi
Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng
Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng ?
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động 1
Ba con tôi đã ngù lâu rồi
Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi
Miền Bắc thiên đường của các con tôi !

145
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi ! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhò
Treo trước mắt của loài người ta đó :
Hòa bình
Độc lập
Ầm no
Cho
Con người
Sung sưcmg
Tự do !
24-1-1961

MẸ TƠM<>>

Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa


Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biền đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiẽng h á t. . .
Mười chín năm rồi. Hôm nay lại bước
Đoạn đường xưa, cát bòng lưng đồi.
Ôi có phải sóng bồi thêm bãi trườc
Hay biền đau xưa rút nước xa rồi ?
Hòn Nẹ(12) ta 0 'i ! Mảng về chưa đó
Có nhiều không con nục con thu ?
Chào những buồm nâu thuyền câu Diêm phố !
Nhó' nhau chăng, hỡi Hanh cát, Hanh cù ?

(1) Sau 19 năm đi xa, tôi lại về Hanh cù, Hanh cát — làng ven biển Hậu lộc, Thanh
hóa — nơi ngày xưa có bà mẹ Tơm rất nghèo đã nuôi giấu chúng tôi, mấy anh em trốn
tù về hoật động. Mẹ Tơm có hai người con trai đều là đằng viên cộng sẳn ngày ngày
đi cúp tóc để nuôi nhà và nuôi đống chí; về sau cả hai anh đều bị giặc bắt và tra tấn, nhưng
đều một mực không khai cơ quan và cán bộ Đảng. (Chú thích của T.H.)
(2) Hòn Nẹ, Hồn M ê : hai hòn đảo ven bờ biển Thanh hóa.

146
Tôi lại về đây, hỡi các anh
Hỡi rừng sa mộc, khóm dừa xanh
Hỡi đổi cát trắng rung rinh nắng
Hỡi những vườn dưa đồ ngọt ỉành !

Như đứa con đi, biệt xóm làng


Nửa đòi bỗng nhớ bóng quê hương
Nhớ lều rơm ướt sương khuya sớm
Bãi vẳng đìu hiu lạc dấu đường. . .

Con đã về đây, ơi mẹ Tơm


Hỡi người mẹ khổ đã dành cơm
Cho con, cho Đảng ngày xưa ấy
Không sợ tù gông, chấp súng gươm !

Nhà ai mới nhỉ, tường vôi trắng


Thơm phức mùi tôm nặng mấy nong
Ngồn ngộn sân phơi khoai dát nẳng
Gièng vườn ai vậy, nước khơi trong ?

Ngơ ngác trông quanh, lạ mấy lẩn


Hỏi thăm cô gái má bổ quân
Mái đẩu tóc xõa xanh bên giếng
— Vâng, đúng nhà em, bác nghỉ chân

— ơ* kìa, cô bé nói hay sao !


Nhà của tôi, ai lại hòi chào
Như thể khách đường xa ghé lại
Bố đi đâu, hĩm, mẹ đâu nào ?

Nhiềuí1) đấy ư em, mấy tuổi rồi ?


— Hai mươi
— Ờ nhỉ, tháng năm trôi
Sóng bồi thêm bãi, thuyền thêm bến
Gió lộng đường khơi, rộng đất trời !

(1) Nhiều : tên con gái đông chí Hậu. Lúc chúng tôi ờ, em mới 1 tuồi. Ở nông thôn
Thanh hóa thường gọi con gái là hĩm (chú thích của T.H.)

147
— Ông mất năm nao, ngày độc lập
Buồm cao đỏ sóng bóng cờ sao
Bà « v ề» năm đói, làng treo lưới
Biển động : Hòn Mê, giặc bẳn vào. .

★★
Bâng khuâng chuyện cũ : một chiều thu
Mười chín năm xưa, mấy bạn tù
Vượt ngục, băng rừng, tìm mối Đảng
Duyên may, dây nối, đất Hanh cù,

Đầu thôn, cồn vắng, túp lều rơm :


T ố ấm chim về. Có mẹ Tơm
Hai đứa trai ngày đi cúp dạo
Nồi khoai sớm tối lót thay cơm.

Thương người cộng sản, căm Tây — Nhật


Buồng Mẹ — buồng tim — giấu chúng con
Đêm đêm chó sủa . . . Làng bên động ?
Bóng Mẹ ngồi canh lần bóng cồn . . .

Chợ xa, Mẹ gánh mớ rau xanh


Thêm bó truyền đơn gọi đấu tranh
Bãi cát vàng thau in bóng Mẹ
Chiểu về . ♦♦ Hòn Nẹ . . . biển reo quanh . .

Sóng hãy gầm lên, gió thét lên !


Triều dâng. Chèo mạnh, thuyền ơi thuyền
Vui chăng, hỡi Mẹ, đòi vui đó :
Cờ đò ta lay động mọi miền ỉ

Nhưng một đêm mưa, ướt bãi cổn


Lính về, lính trói cả hai con
Máu con đỏ cát đường thôn lạnh
Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non !

★★

148
Ôi bóng người xưa, đã khuất rổi
Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi.
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời !

Đốt nén hương thơm, mát dạ Người


Hãy về vui chút, mẹ -Tơm ơi !
Nắng tươi xóm ngói, tường vôi mới
Phấp phới buồm dong, nắng biển khơ i. . .
7-1961

149
IV—RA TRẬN
Năm 1960, Mặt trận đân tộc giải phóng miền Nam Việt nam ra đòi*
Phong trào đồng khởi dâng lên. Cách mạng miền Nam liên tiếp thu những
thẳng lợi vô cùng to lớn.
Năm 1964, Mỹ thua đau ò* rniển Nam nưởc ta, leo thang ra miền
Bẳc xã hội chù nghĩa. Theo lệnh c ủ a Bác Hô, cầ nước sục sôi
chống Mỹ cứu nước. Việt nam trỏ’ thành tuyến đầu củ a cuộc đấu
tranh chống Mỹ của nhân dân toàn thế giới.
Chính trong không khí đấu tranh cách mạng sôi sục đó củ a
toàn dân tộc, những bài thơ trong tập R a trậ n của Tố Hữu được
sáng tác (từ năm 1962 đền năm 1971).
Nhìn chung, Ra trậ n là tiếng hát chiến đấu và chiến thẳng
trong những ngày cả nước ta chống Mỹ cứu nước.
Ở Ra trậ n , trong những năm « cả nước có chiến tranh» chống
Mỹ này, thơ Tố Hữu đã kịp thời ghi nhận được hình ảnh nhân dân
ta rất anh hùng ớ cả hai miền Nam — Bẳc.
Đây là hình ẳnh anh Giải phóng quân :
<?Anh đi xuôi ngược tung hoành,
Bước dài như gió lay thành chuyến non.
Mải chèo một chiếc xuồng con ¥
Mà sông nước dậy sông cồn đại dương.»
Đây là hình ảnh cô đu kích :
«0 du kích nhỗ dương cao súng,
Thằng Mỹ lom khom hước cúi ẩầu. »

150
Đây là hình ảnh một bà mẹ chống Mỹ :
«Một tay lái chiếc đò ngang
Bẽn sông Nhật lệ quân sang đêm ngày.»
và đây, hình ảnh những em bẻ :
« Chào các em những đồng chí tương lai
Mang mã ro'm đi học đường dàù»
Rõ ràng những hình ảnh của nhân dân Việt nam anh hùng đang
chống Mỹ trên đây có cái gì khác, so vởi hình ảnh nhân dẫn anh
hùng chổng Pháp trong Việt bắc trước đây. Đó là cái độ lớn của
những con người biểu hiện sự lớn mạnh hơn c ủ a sức ta, thế ta.
Cỏ tiền tuyến lớn miền Nam được tôi luyện trong mười năm
máu lửa đấu tranh, có hậu phương lớn miền Bắc sau mười năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đánh Mỹ với khí thế của cả
một dân tộc bưởc vào những ngày xuân chiến đấu và chiền thắng
rạo rực, náo động:
« Ôi sáng xuân nay như lưỡi gươm trần sáng quẳc
Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung.»
Cuộc sống chống Mỹ, cứu nước củ a nhân dân ta được phản
ánh trong thơ T ố Hữu là cuộc sồng của cả một đất nước đang
hành quân ra trận :
«Xuân hãy xem cuộc diễu hình hừng vĩ
31 triệu nhân dân
Tầt cả hành quân
Tầt cả thành chiền sĩ»
« Tất cả thành chiến s ĩ», cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại đã
động viên lực lượng toàn dân «cỏa ngày xưa và của bây giờ» để
giải phóng miền Nam, bảo vệ và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã
hội ỏ1 miền Bẳc, là thiên anh hùng ca lớn mà cũng là một bài
ca trữ tình lớn.
«Đường vào Khu Bồn, và Thanh,
» Không đi thì nhớ không đành phầi đi.»
Chuyến đi vào Khu Bốn cũ (Bẳc Trung bộ) năm 1965 đã đưa
lại cho nhà thơ một chùm hoa thơ tươi thắm. Tố Hữu vièt một
loạt bài thơ về con người và cuộc sống anh hùng củ a nhân dân
«vùng tuyến lử a» : Đ ư ở n g vào, Chiếc ảo xanh, Bài ca lải xe

151
đêm , Ngọn đèn, Mẹ Suốt — những bài ca trữ tình đằm thắm,
phơi phới lạc quan và rạo rực khí thế anh hùng ca :
«Đường vui không đợi mùa trăng,
Ta đi lầm ánh sao băng giữa đời.
Người đi không thầy mặt người,
Vẫn nghe ríu rít tiềng cưĩri tuồi xuân.»
Nhân dân ta đánh Mỹ vì nghĩa cả và vì tình lớn, nên con người
và cuộc sống chống Mỹ cứu nước trong thơ Tố Hữu lớn đẹp vô
cùng, lạc quan và đáng yêu vô cùng. Câu chuyện của bà Mẹ Suốt
là câu chuyện c ủ a một bà mẹ anh hùng mà cũng là câu chuyện
« ơn tình » rất «say » lòng người. Chiếc xe đêm là « con ngựa chiến »,
có pháo, có đạn, mà cũng có chì, có kim, có «thư tinh chung thủy*
«nặng biết bao ơn ngãi». « Ta vì ta ba chục triệu ngưcd, cũng vì
ba nghìn triệu trên đ ờ i», nên dù cuộc sống chiến đấu c ủ a chúng
ta có nhiều gian khổ, hy sinh, «sống chềt từng giây mưa bom bão
đạn», con người củ a chúng ta vẫn «ngọt ngào qua muôn nỗi đẳng
cay», vẫn vui, vẫn đẹp và trong trẻo lạ thường :
<rGương mặt người ai cũng sáng long lanh
Những đôi mẳt trong lành vui ầm lạ.»
Chưa bao giờ Tố Hữu viết nhiều thơ xuân và trong thơ xuân
lại có nhiều câu sảng khoái như thế :
«Như nghìn năm đẹp nét xuân xưa
Bỗng tỏa gương trong sạch bụi mờ
Xuân mới đơn sơ, đần thẳm vậy
Căng đầy sức dậy dáng non tơ.»
bay : <?Xuân vui ca múa mọi vừng
Bẳc Nam đâu cũng anh hùng vì sao ĩ
Ngần ngơ nghe tiếng ai chào
Chị hàng hoa rẽ lối vào Đổng xuân.»
«Ngẩn n g ơ » ! Đấy là cái «ngẩn ngơ » củ a người thi sĩ trước
cảnh xuân tưoi của đất nước anh hùng.
Tình cảm yêu nước, lòng yêu chế độ xẵ hội chù nghĩa, tình
câm Bẳc — Nam, tinh thần lạc quan cách mạng vẫn là tinh cảm quán
xuyến trong Ra trậ n . Thế nhưng, theo bước những chiến thắng
của cách mạng, những tình cảm đó đã có một nội dung mỏi, và
rõ ràng là, trong Ra trậ n , những bài thơ sau so với những bài thơ

152
trưửc cũng có những nét mới trong sự biểu hiện tình cầm. Trong
các bài thơ Cỏ th ể nào yên, Lả thtr Bến tre, Miền Nam
(1962 — 1963), ta thấy có những câu thơ, trong đó T ố Hữu diễn
tả rất đạt cuộc sống cách mạng sôi nồi, hào hùng củ a nhân dân
ta ; tuy vậy, cái ray rứt, nóng bồng vẫn canh cánh :
«Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiêng bầu, tièng trúc
Một câu hò cũng động trong tim.»
Không biết có phải vì những tiếng cùng vần : «lúc, giục, tr ú c »
và hình ảnh «mây chiểu xa bay giục cánh chim» hay vì bản thân
những «tiếng bầu, tiếng trúc, tièng h ò » của miền Nam yêu thương
mà mấy câu thơ trên đọc lên nghe nhức nhối.
Đến những bài thơ xuân trong «những năm cả nước có chiến
tranh » lần này (1965 — 1971), khi nhân dân cách mạng của hai miền
liên tiếp thu những thẳng lợi quan trọng thì nỗi ray rứt, nhức
nhối đó hầu như không còn nữa, mà thay vào đó là niềm vui mừng
óng ả ỉ
«Ngoài này nằng đỗ cành cam
Chắc trong ầy nắng xanh lam ngọn dừa.»
hay ĩ «Kỳ diệu thay! Nơi chảy lừa na-pan
Trại lá cây rừng, hạt lúa thành than
Lại là đất xanh tươi cuộc sống.
Và xanh nhất màu xanh hy vọng,»
Cảm hứng anh hùng cất cánh trên hiện thực cách mạng miền
Nam — một hiện thực cách mạng có ý nghĩa quốc tể trọng đại —
lại có hiện thực của chủ nghĩa xã hội ớ miền Bẳc làm điềm tựa,
lòng tự hào về miền Nam và đằt nước anh hùng trong Ra trậ n
càng về sau càng cao đẹp :
« Ta giữ cho ai mảnh đất này
Việt nam., hai tiềng gọi hôm nay
Mênh mông đôi cánh bay muôn dặm
Qua mầy tràng dương vượt tuyềt dày.»
Trong thơ Tố Hữu trước đây, chưa bao giờ đất nước Việt nam
lại hiện lên với hình ảnh «mênh mông đôi cánh» rực rỡ như
thè cả.

153
Sự phản ánh những cung bậc tình cảm Bấc— Nam và lòng tự
hào dân tộc ăn nhịp với bước đường tiến lên củ a sự nghiệp cách
mạng hai miẻn đất nước khẳng định giá trị phản ánh hiện thực
kịp thòi và sâu sắc của thơ Tố Hữu. Tự hào về đất nước, về nhân
dân anh hùng, lòng yêu nước trong Ra trận của Tố Hữu có một
chiểu sâu rất !ạ :
« Việt nam, ôi Tố quốc thương yêu
Trong khổ đau Người đẹp hơn nhiều
Như người mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con suốt đò'i im lặng.»
« Trong khồ đau Người đẹp hơn nhiều» ; đất nước trong chiến
đấu hiện lẽn trên trang thơ Tố Hữu sao mà tươi thẳm í T ừ cái
nẳng đỏ cành cam» đến cái «nắng xanh lam ngọn d ừ a», từ cái
«óng xanh lúa chan hòa mặt đất, xanh ngắt trời quê ấy miền N am »
đến «đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn, sương lung linh nắng
gấm mây tơ», bức tranh đất nước màu sắc thật rộn rã. Nhưng
cái đẹp hơn hết c ủ a đất nước trong những ngày chổng Mỹ vẫn
không phải là những «đổng xanh bốn mùa hoa lá », những « dòng
sông cửa thơ ca nhạc họa», mà là những « em thơ cũng hóa những
anh hùng», những «ong dại cũng luyện thành chiến s ĩ», những «hoa
trái cũng bièn thành vũ k h í» là « chiếc mũ tai bèo» — những chiếc
mũ c ủ a chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là anh Giải phóng quân
mà «cả năm chầu chân lý đang nhìn theo bóng anh đ i», là nhân
dân anh hùng và rất giàu tình cảm, «lòng nóng bòng căm thù vẫn
mát tươi tình bạn».
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam kết tinh vói lý tướng
xã hội chù nghĩa trên đất nước anh hùng có truyền thống chống
xâm lăng trong những ngày cả nước chống Mỹ đã đưa lại cho thơ
ca viết về T ố quốc Việt nam c ủ a Tố Hữu những vần thơ sang
sảng, hào khí :
« ồ i TỔ quồc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hàng cảa thế kỷ hai mươi
Hãy kiêu hãnh trên tuyền đầu chống Mỹ
Có miền Nam anh dũng tuyệt vòi
Miền Nam trong lừa đạn sáng ngời ĩ »
Trong không khí hào hùng c ủ a dân tộc đang sôi sục, phấn
khòi đánh Mỹ và thẳng Mỹ đó, ngày 3-9-1969 là ngày đau thương

154
nhất củ a toàn thể nhân dân Việt nam, cổng như nhân loại tiến bộ
trên thế giới. Bác Hồ vĩ đại và kính yêu qua đời. Cùng với toàn
dân, Tố Hữu đã đau đớn khóc thương :
«Suồt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa ...»
Thương tiếc không nguôi, vì đã không còn nữa Người dắt dìu
và yêu thương cả dân tộc, nhưng đối với người cách mạng, không
có cách nào khác là phải biến đau thương thành sức mạnh, cho
nên toàn dân ta quyết thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, quyết
tiếp tục «Theo chân Bác»ĩ
«Nhớ lời đi chúc, theo chân Bác.»
Bài thơ lớn T heo chân Bác c ủ a Tố Hữu không những toát
lên lòng kính yêu đối với vị lãnh tụ vĩ đệi c ủ a dân tộc, mà còn
khắc sâu hình ảnh và cuộc đời c ủ a một chiến sĩ cách mạng lỗi
lạc trong một giai đoạn lịch sử vẻ vang củ a nhân dân Việt nam.
Phải T heo chân Bác, phải tiếp tục làm cách mạng, tiếp tực
đánh Mỹ và thẳng Mỹ, tiếp tục R a trận .
« Thời đại lớn cho ta đôi cánh
K h ô n g g ì hơ n Độc lập , T ự d o !
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.»

Nhìn chung mà nói, kết tinh trên một hiện thực vĩ đại là sự
nghiệp chồng Mỹ, cứu nước c ủ a cả hai miền Nam — Bắc nước ta,
Ra trận đã ghi một thành cổng củ a thơ Tố Hữu trong việc biểu
đạt những tư tướng, tình cảm lớn mà cuộc song anh hùng c ủ a
dân tộc cho phép.
«Nếu được làm hạt giống đề mùa sau
Nếu lịch sừ chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lỉnh đi đẩu
Trong đêm tối, tỉm ta làm ngọn lừa.»
Thật tự hào và cũng thật lạc quan : T ự hào và lạc quan, nên
nhiệm vụ lớn lao mà «mọi gánh nặng hầu như nhẹ nhàng bòi vì
lòng ta đang vô cùng phấn khỏi» (Phạm Văn Đổng).

155
Ra trận là tiếng hát chiến đấu và chiến thẳng của một dân
tộc đã đánh thẳng đế quốc xâm lược Mỹ, tên hung nô của thế kỳ 20,
kẻ thù hung bạo và quỉ quyệt nhất của loài người.
Xét về mặt văn phong c ủ a Tố Hữu, qua Giổ lộng đến Ra
trận , phong cách thơ ca của nhà thơ cách mạng đầu đàn củ a thơ
ca cách mạng Việt nam hiện đại đã có một sự chuyền biến
khá rõ rệt : trong khi vẫn thấm đượm những tình cảm tinh tế, thơ
Tố Hữu đã chứa đựng thêm nhiều suy tve&ng sâu sẳc, thâm trầm,
đáp ứng được những yêu cầu nghệ thuật mỏi c ủ a thời đại
hiện nay.

c ó THỀ NÀO YÊN ?


Cửi miền Nam thương yêu

Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh


vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy.

Có thể nào yên ? Miền Nam ơi, máu chảy


Tám năm rồi. Sáng dậy, giữa bình mình
Tim lại đau, nhức nhối nửa thân mình.

Hôm nay, buổi mai hè, tháng sáu


Phượng đỏ bờ đê, ve kêu hàng sấu
Hà nội dập dìu, rộn rã đường vui
Nghe tin ra, dạ lại ngùi ngùi ỉ

★★

Có thể nào nguôi ? Từng viên đạn Mỹ


Bắn miền Nam, nát thịt da xương tủy
Của mẹ cha, đồng chí, vọ* con
Anh chị em ta, ai mất ai còn ?

156
<•Hôm nay, sảng mát trong, trời lặng
Hai mươi tám mảy bay lên thẳng
Của lục quân, lính thảy Mỹ, đì càn
Cách Sài gòn 35 dặm phía Nam . . . í^1)

* Hôm nay, mầy trung đoàn tinh nhuệ


Đang hành quân lên hướng tây thành H uề. . . »(2)
Lại hôm nay . . cứ thế . . . hôm nay
Tin miền Nam/ máu chảy ngày ngày.

★★

Có thể nào khuây ? cỏ cây vẫn nhắc


Từng ngọn cỏ cành cây miền Bắc
vẫn rung rinh theo gió tự miền Nam
Cả đôi miền xao xuyến tiềng ve ran !

Có thể nào quên ? Hỡi miền sâu thẳm


Cùa lòng ta ! Hõi ngày xanh thẳm
Nắng quê hương rười rượi đường dừa
Ngột tiếng hò đưa nhựng chuyến đò xưa . . ♦

★★

Xuồng ai đó, bơi trong lau lách


Áo bà ba, súng nách/ tay chèo ?
Hỡi đổng chí dọc ngang sông rạch
Hãy cho hồn ta ruổi ruổi theo 1

Cho ta lại trò* về quê cũ


Bờ sông Hương hay bến sông Bồ
Cùng các mẹ, các O/ các chú
Giành lại từng mảnh đất thành đô !

Cho ta được làm kho mìn nổ


Đèo Hải vẳn, quật đổ quân thù
Cho ta được làm cây chông miệng hố
Đâm chết bầy giặc bố chiến khu !

★★

(1), (2) Theo tin hàng ngày của Mỹ.

157
Ôi đất mẹ hiển tử, yêu quý
Có noi đâu, trên trái đất này
Như miền Nam, đắng cay, chung thủy
Như miền Nam, gan góc, đạn dày !
Đầu T ố quốc, chính đây tiền tuyến
Mũi Cà mau nhọn hoắt mũi chông
Xưa, xung kích, tầm vông kháng chiền
Nay, hiên ngang, một dải Thành Đồng l
Miền Nam đó, ngọn đèn mặt biển
Giữa đêm đông, đồ lửa đưa đường
— Hãy nhằm hướng phương Đông mà tiến
Hỡi những tàu trên các đại dương ỉ
16-6-1962

LẢ T H Ư BẾN TRE

Anh,
Phải chi em đến đưọ’c cùng anh
Chỉ một ngày thôi, kể ngọn ngành !
Thư viết đôi trang, lòng cuộn cuộn
Như dòng sông cuốn lá tre xanh . . .
Anh ạ, từ hôm Tết tới nay
Giặc đi ruồng bồ suốt đêm ngày
Thới lai, Thới thuận, liền hai trận
Ba bồn nghìn quân, bẩy máy bay.
Biết không anh ? Giồng keo, Giồng trôm
Thảm lắm anh à. Lũ ác ôn
Giết cả trăm người, trong một sáng
Máu tươi lênh láng đồ đường thôn.
Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sần nhà
Có chị gần sinh, không chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra.

158
Anh biết không ? Long mỹ, Hiệp hưng
Nó giết thanh niên, ác quá chừng.
Hăm sáu đầu trai bêu cọc sẳt
Ba hôm mắt vẫn mớ trừng trừng í
Có em nhò nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vồ vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười. . . em nhỏ hét :
« Má ơi, nóng quá, cứu con mau 1»

★★

Ôi kề làm sao hết được anh !


Bao nhiêu máu chầy, bấy dòng kênh
Phải chi em gỏi cho anh được
Nắm đất đang nồng lửa đấu tranh ỉ
Anh ở ngoài kia, anh có nghe
Quê ta sông dậy tiếng chèo ghe
Ghe đưa trăm xác đi đòi mạng
Rầm rập ngày đêm lên Bến tre ?
Người chết đi cùng người sống đây
Tử sinh một dạ, trả thù này.
Võ trang mấy trận, vang Bình đại
Cờ phất, bừng tươi đất Mỏ cày.
Anh ạ, quê ta khá lại rồi
Như cây dừa cháy lại xanh chổi
Khổ thì vẫn khồ, nhưng tan giặc
Nhà lại xây nhà, vui ỉại vui 1
Xin anh hãy tướng, ò* quê hương
Mía mọc xanh um, đất mật đường
Ghe máy từng đàn săn đuổi cá
Tưng bừng mặt biền buổi tinh sương.
Trống cờ « giải phóng » vui đêm hội
Ngói đỏ bờ kênh những mái trường,
vẫn đậm, như xưa, tình kháng chiến
Lại về, những tiếng hát yêu thương .. .

159
Oi nói làm sao được hớ anh
Buồn vui muôn nỗi của quê mình !
Phải chi em gởi cho anh được
Những ảnh hình ghi những tấm tình . . .

Anh ở ngoài kia, có mạnh không ?


Nhớ anh, em vẫn đề trong lòng
Như con sông nhỏ ngày đêm ấy
Cứ chảy, trăm năm chẳng đồi dòng.
Em ở trong này, em vẫn trông
Cao cao ngoài đó, có mây hồng
Có anh đi đó, bên em đó,
Em đó, bên mình, anh thấy không?
4-7-1962

MIỀN NAM

Nếu tâm sự cùng ta bạn hỏi


Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói
Như nỗi niềm nhức nhói tim gan ?
— Trong lòng ta, hai tiếng : Miền Nam !
Khi âu vềm cùng anh, em hồi
Tên nào trong muôn ngàn tên gọi
Như mối tình chung thủy không tan ?
— Trong lòng anh, tên ấy : Miền Nam !
Nếu con hỏi quê nào đẹp nhất ?
Bóng dừa xanh quanh sóng biển lam
Ổng xanh lúa chan hòa mặt đất
Xanh ngắt trời. . . Quê ấy : Miền Nam !
Ôi miền Nam, vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiếng bầu, tiếng trúc
Một câu hò . . . cũng động trong tim ?

160
Vì sao chẳng ngày vui trọn vẹn
Như bâng khuâng việc hẹn chưa làm ?
Vì sao miếng cơm ăn bỗng nghẹn ?
— Một nửa còn cay đẳng : Miền Nam !

Có ai biết ba ngàn đêm ấy


Mỗi đêm là biết mấy thân rơi ỉ
Có ai biểt bao nhiêu máu chảy
Máu miền Nam, hơn chín năm trời !
Vì sao, hỡi miền Nam yêu dấu
Người không hề tiểc máu hy sinh ?
Vì sao, hỡi miền Nam chiến đấu
Người hiên ngang không chịu cúi mình ?
Có ai hòi vì sao không nhỉ
Ớ* miền Nam còn lửa chiến tranh ?
Có phải ồ* miền Nam, giặc Mỹ
Đang cùng ta chung sống hòa bình ?
Xin hãy trông những đôi mắt nhỏ
Đôi tròng đen lặng ngó, rưng rưng
Rào gai thép giam em bé đó
Và quanh em lửa đỏ bừng bừng !

Hãy trông những người con gái ấy


Người ta yêu, khuôn mặt trái xoan
Một sáng sớm mùa xuân, thức dậy
Bỗng dội tràn bom cháy, thành than !

Hãy nghe tự miền Nam, tiếng rú


Xé trời xanh, lũ « phượng hoàng »(D bay
Bầy chó dữ, những con-người-thú
Ăn gan người, uống máu no say !

Hãy nghe tiểng những người đang sồng


Như biển động, ầm ầm tiểng sóng
Và hãy nghe cả tiếng người xưa
Như gió khơi reo vọng rừng dừa !

(1) Tên gọi những máy bay lên thẳng của Mỹ.
Tất cả nói một lời : Giải phóng !
Cứu miền Nam ! Cứu miền Nam !
Ôi cửa Phật, cũng dầu sôi lửa bỏng
Dẫu thiêu minh làm đuốc, vẫn cam !

Có phải, hỡi miền Nam anh dũng 1


Khỉ ta đứng lên cầm khẩu súng
Ta vì ta, ba chục triệu người
Cũng vì ba ngàn triệu trên đòi !

Ta tha thiết tự do dân tộc


Không chỉ vì một dải đất riêng
Kẻ đã rẳc trên mình ta thuốc độc
Giết màu xanh cả trái đất thiêng ỉ

Ôi T ố quốc giang scm hùng vĩ


Đất anh hùng của thè kỳ hai mươi !
Hãy kiêu hãnh : trên tuyến đầu chống Mỹ
Có miền Nam, anh dũng tuyệt vời.

Miền Nam trong lửa đạn, sáng ngời ỉ


14-12-1963

TRÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ

Có những lúc trên đường thiên lý


Ta đang đi, bỗng thấy, lạ lùng
Trên đầu ta, tròi rộng vô cùng
Và trước mặt, đất dài vô tận

Đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn


Sương lung linh núi gấm mây tơ
Như trong m ơ . . . khồng bièt tự bao giờ
Nghìn nãm cũ đang hồi xuân, thắm lại. . .

162
Ta đứng vậy, ngần ngơ mà ngắm mãi
Quê hương ta. Nghe phấp phới trong ỉòng
Đôi cánh cò trắng vẫy mênh mông
Ôi T ố quốc I Đơn sơ mà lộng lẫy I

★★
Này các chị, các anh đi trên đường, có thẩy
Nư&c non mình, đâu cũng đẹp như tranh
Gương mặt người, aỉ cũng sáng, long lanh
Những đôi mẳt trong lành vui ấm lạ !

Phải không vậy ? Trong tay ta, tất cả


Bỗng đua nhau sống dậy gấp nghìn lần
Như muôn loài cây cỏ gặp mưa xuân
Nồ’ hoa lá cho ong say bướm lượn.

Hỡi em nhỏ, có biết em đang lớn


Khỉ em quàng khăn đổ trên vai ?
Biết không em, mỗi quãng đường dài
Là một cuộc hành quân chiến đấu ?

★★
Mỗi trận đánh, đổ mồ hôi và máu
Đâu phải là một cuộc phiêu du.
Mỗi giờ qua phải thắng mấy quân thù
Ai tỉnh được giá một ngày xuân đẹp ỉ

Ai tính được giá một cân gang thép


Một nén tơ tằm, một bát cơm ngô ?
Đã bao nhiêu ngày lụt, ngày khô
Và biết mấy chiến công, chiến s ĩ !

Ai tính được giá một ngày chống Mỹ


Ở miền Nam ? Hỡi em nhò của anh
Người anh hùng mười tuổi, vô danh
Trước súng giặc, không cúi đầu khuất phục ỉ★

★★

163
Vì sao nhỉ, anh em oi, có lúc
Ta vần vơ mơ tưồ*ng trên đường
Mà bỗng quên đang giữa chiến trường
Rất dữ dội, chưa ngừng trận đánh.

Phải chăng có những khúc đường nóng lạnh


Ta bước đi, nghe nặng gánh trên vai
Mà bỗng quên cà trời rộng đất dài
Và tự nghĩ : sao ngày mai chưa lại ?

Cho tôi hòi, anh em ơi, có phải


Trên đường ta, ai cũng trầi đôi lần
Giữa ngày xuân mà lòng chợt phân vân
Nghe rét tới với gió mùa đông — bắc !

★★
Sáng mai nay, như mọi ngày, thức giằc
Tôi lại nghe tiếng nhạc trên đài
Tiến quân ca . . . và dõng dạc một hai
Tiếng ai vậy, ngắn dài vang sóng dội

Đường phổ bỗng rào rào chân bước vội


Người người đi như nước xối lên hè
Những con chim lười còn ngù dưới hàng rưe
Vừa tỉnh dậy, rật lên trời, ríu r ỉ t . . .
Xe điện chạy leng keng vui như đàn con nít
Xum xuê chợ Bưới, tíu tít Đống xuân
Bắp cải su hào giòn ngọt Nhật tân
Hoa tím hoa dơn Ngọc hà duyên dáng

Chào anh công nhấn làm ra ánh sáng


Tan ca đêm, Yên phụ ra về
Dáng anh đi lồng lộng trên bờ đê
Xuân đến đỏ, gió sông Hồng rười r ư ợ i . . .

★★
Đời vui thế. Bồi vì sao bạn hỡi !
Chưa giàu chi, ba sào đằt, mấy lò than
Năm hai mùa, chua mặn. Gian nan
Hai tay trắng với giang sơn một nửa.
Giữa đống tro tàn, tay ta nhóm lứa
Bão dập mưa chan, gan sẳt dạ vàng.
Bạt núi đổi, ta moi đất làm gang
Ngăn thác dữ, ta bắt sông làm điện.

Ta phải thắng bới vì ta quvết chiến


Bởi ta yêu tha thiết đời ta
Yêu mũi tên đồng xưa trong lòng đầt cổ loa
Như yêu ngọn tầm vông đâm vào hông giặc Mỹ.

Có ai bảo ta dại khờ không nhỉ


Khi ta không biết sợ quý trên đời ?
Ta sinh ra là để làm người
Không sợ chết, bởi vì ta dám sổng.

Đưcmg thiên lý, càng đi càng rộng


Ngoảnh lại nhìn, phút bỗng đã mười xuân
Sáng nay xuân lại tới, đẹp mười lần
Như em vậy, hỡi em quàng khăn đỏ . . .
23-1-1964

T ừ CU BA

Anh viết cho em, tự đảo này


Cu ba, hòn đảo Lửa, đảo Say
Ở đây say thật, say trời đất
Sóng biển say cùng rượu mật, say . . .

Nửa vòng trái đất, rẽ tẩng mây


Anh đến Cu ba một sáng ngày
Nắng rực trời tơ và biền ngọc
Đảo tươi một dải, lụa đào bay.

165
Em ạ ! Cu ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương
Cam ngon, xoài ngọt vàng nông trại
Ong lạc đường hoa, rộn bốn phương
Anh mải mê nhìn, anh mải nghe
Mía reo theo gió những thân kè
Tóc xanh xõa bóng, hàng chân ưẳng
Có phải tiên nga dự hội hè ? . . .

★★
Mừng bạn ngày vui, chén rượu đầy
Kết buồn, chưa hết nhỏ' chua cay
Em ơi, mía ngọt từng khi mặn
Máu trộn bùn vun gốc mía này.
Ngày xưa . . . bạn hỡi, mới dăm năm
Roi vọt trên lưng, thịt tím bầm
Như mía . . . Ngày xưa bao trận cháy
Đã bùng, như mía, lửa hờn căm I
Đêm đã qua rồi. Những buổi mai
Anh đi quanh phố, dọc đường dài
Biển xanh trước mặt, bao la biền
Gió lộng triều vui dội pháo đàií1)
Lớn vỏm ngoài khơi, những bóng ma
Hai con tàu Mỹ ngó dòm ta(2)
Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy !
Chẳng thấy Cu ba đứng đấy à ?

★★
Cho lũ bay rình, giương mẳt trông :
Cu ba đây, chói ngọn cờ hồng
Cu ba đạp sóng trùng dương, tiến
Oai hùng như chiến hạm Rạng đông !12

(1) Pháo đài Mô-rô trên bờ biển La Ha-van.


(2) Hai chiên hạm Mỹ «ó c pho * và « Con Gấu» thường xuyên đậu trước mặt
thủ đô.

166
Mặc ai sợ, mặc ai run
Ta đi, đèo núi, bưởc không chùn,
Nghĩa quân, một chièc thuyền xưa ấyíí)
Há chẳng tung hoành, dậy nước non ?

Chào cô em gái, nữ dân quân


Súng vác ngang vai, đẹp tuyệt trần
Lóng lánh mắt đen nhìn biền biếc
Trưa hè đứng gác, giữ ngày xuân !

Trông em mà tưồ*ng ồ* quê nhà


Cô gái Hòn gai canh biền xa
Nhớ chị miền Nam lùng đuồi giặc
Giữa lau Đổng tháp, mía Tuy hòa.

★★
Ở đây vói bạn, mỗi ngày qua
Anh nhỏ1vô cùng đất nước ta !
Mai mốt, èm oi, ròi xứ bạn
Anh về, e lại nhử Cu b a , . .
8-1964

HÃY NHỚ LẤY LỜI TÔI

Có những phút làm .nên lịch sử


Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lý sinh ra.

Nguyễn Văn Trỗi !


Anh đã chết rồi
Anh còn sống mãi
Chết như sổng, anh hùng, vĩ đại.

(1) Ngày 2-12-1956, chiềc tàu Gram-ma đưa đổng chi Phi-đen Ca-xtơ-rô cùng
81 chiền sĩ về Cu ba, tiền hành vũ trang khỏi nghĩa.

167
Hỡi người Anh, đã khép chặt đôi môi
Tiếng Anh hô : Hãy nhớ lấy lời tôi ỉ
Đang vang dội. Và ánh đôi mắt sáng
Cùa Anh đã chói ngòi trên báo Đảng.

★★
Nghìn năm sau sẽ nhớ lại hôm qua
Một sảng mùa thu, giữa khám Chí hòa
Anh đi giữa hai tên gác ngục
Và sau chúng, một người linh mục.

Anh bước lên, nhức nhói chân đau,


Dáng hiên ngang vẫn ngầng cao đầu
Quần áo trắng một màu thanh khiết
Thân gầy yếu mạnh hơn cái chết.

Bầy giết thuê và lũ viết thuê


Hai hàng đen, súng cắm lưỡi lê.
Anh bước tới, mắt nhìn, bình thản
Như chính anh là người xử án.

Cỏ trong vườn mát dưới chân anh


Đời vẫn tươi màu lá rau xanh
Đây miếng đất của Anh đòi giải phóng
Đây máu thịt của Anh đòi cuộc sống.

Anh thét to : « Ta có tội gì đây ? »


Chúng trói anh vào cọc, mấy vòng dây
Mười họng súng. Một băng đen bịt mắt.
Anh thét lớn : « Chính Mỹ kia là giặc !»

Và tay anh giật phắt mảnh băng đen


Anh muốn thiêu, bằng mẳt, lũ đê hèn
Với cái chèt, anh muốn nhìn giáp mặt
Như ngọn lửa không bao giờ dập t ẳ t !

Chúng run lên, xông trói chặt anh hơn


Đôi mắt anh đã khô cháy căm hờn :
Phải chiến đấu như một người cộng sản
Trái tim lớn không sợ gì súng đạn !
Lệnh : Hàng đầu quỳ xuồng I Một giây thôi.
Anh thét lên : Hãy nhớ lấy lòi tôi :
Đả đảo đế quốc Mỹ ỉ
Đả đảo Nguyễn Khánh !

Hồ Chí Minh muôn năm !


Hồ Chí Minh muôn năm !
Hố Chí Minh muôn năm !
Phút giây thiêng, anh gọi Bác ba lần !

Súng đã nổ. Mười viên đạn Mỹ.


Anh gục xuống. Không, anh thẳng dậy
Anh hãy còn hô : Việt nam muôn năm í
Máu tim anh nhuộm đò đất anh nằm.

Mắt đã nhắm, không một lời rên rỉ.


Anh chết vậy, như thiên thần yên nghỉ.
Chẳng cần đâu, cây thánh giá sắt tây
Cùa tay người linh mục ném bên thây !

★★
Anh đã chết, Anh Trỗi oi, có biết
Máu kêu máu, ồ* trên đòi, tha thiết !
Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh
Bẳt một tên giặc Mỹ giữa đô thành.

Anh đã chết. Anh chẳng còn thấy nữa


Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa
Như trái tim Anh, ôi lửa nào bằng !
Phút cuối cùng, chói lọi khối sao băng. . .

Hãy nhớ lấy lời tôi !


Nguyễn Văn Trỗi
Lời Anh dặn, chúng tôi xin nhỏ* :
Hãy sống chết quang vinh
Trước kẻ thù không sợ
Vì TỔ quốc hy sinh
Như đời Anh, người thự.
23-10-1964

169
TIẾNG HÁT SANG XUẮN

Lá bàng đang đỏ ngọn cây


Sếu giang mang lạnh đang bay ngang tròi
Mùa đông còn hết em oi
Mà con én đã gọi người sang xuân ỉ

Phải chăng vui đã đến tuần


Nên con én bièc liệng gần liệng xa
Ển bay mặt sóng Hồng hà
Én bay vào lại bay ra gọi đàn*..

Hẳn là sương giá chưa tan


Nên con én mỏi kết đoàn đưa xuân
Hỡi người, muôn nỗi gian truân
Mười năm cũ sẳp hóa thân một ngày ?

★★
Mô* tờ lịch mới hôm nay
Biết là xuân đến cầm tay lên đường
Rộn ràng thay, cành quê hương
Nửa công trường, nửa chiền trưòng xôn xao. .

Xuân ơi xuân chọn hưỏng nào


Vui đây mỉển Bẳc hay vào miền Nam ?
Ngoài này nẳng đồ cành cam
Chẳc trong ấy nẳng xanh lam ngọn dừa.

Dẫu rằng khi gỉó khi mưa


Tiềt xuân đang đến, cũng vừa ấm chung
Dẫu chưa một mái trùng phùng
Phút giao thừa gọỉ vui chung, lại gần. . .

Hỡi người anh Giải phóng quân


Hai mươi năm chẳng dừng chân trên đường
vẫn đôi dép lội chiền trường
vẫn vành mũ lá coi thường hiềm nguy.
170
Tuốt gươm không chịu sống quỳ,
Tuồi xanh chằng tiềc, sá chi bạc đầu ỉ
Lóp cha trưó-c, lớp con sau
Đẵ thành đổng chí chung câu quân hành . . ,

Anh đi, xuôi ngược tung hoành


Bước dài như gió, lay thành chuyền non
Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương ĩ

Hôm nay đâu đỏ, tiền phương


Xuân vui chọt đến giữa đưcmg hành quân
Hẹn gì, năm mới, cùng xuân ?
Đường xa có lẽ đang gần. ♦. hỡi Anh ?

★★
Tiếng ai cười vậy trong lành ?
A ! Con chim hót rung cành dâu t ơ . . .
Phải rồi xuân mải tìm thơ
Hết Nam lại Bắc, bây giờ thấy đây!

Cùng em xỉn hãy cầm tay


Quanh Hồ Gươm lại Hồ Tây. . . xuất hành
Hỏi xuân có biêt hơn anh
Đất tròi ta đẵ thêm xanh mấy lần ?

VI sao ngày một thanh tân ?


Vi sao người lại mến thân hơn nhiều ?
Vì sao cuộc sống ta yêu
Mỗi giây mỗi phút, sớm chiểu thiết tha ?

Vi sao mỗi hạt mưa sa


Mỗi tỉa năng rọi cũng là tình chung ?
Xuân vui ca múa mọi vừng
Bẳc Nam đâu cũng anh hùng, vì sao ?

★★
Ngần ngơ nghe tiếng ai chào
Chị hàng hoa rẽ lối vào Đống xuân. . ♦
6-1-1965

171
TIỄN ĐƯA
Tặng bạn thơ Th.

Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường


Nặng tình đổng chí lại đổng hương !
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường !
Dâu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương.
Đi đi, non nước chờ anh đó !
Tiền tuyến cần thêm ? Có hậu phương. . .
9-1964

CHIẾC ÁO XANH

Em, lại nhuộm cho anh


Chiếc áo màu lá xanh
Vì em ơi chiến tranh
Không chịu màu áo trắng.

Anh lại đi mưa nắng


Súng trên vai lên đường
Với màu xanh chiến thắng
Của miền Nam yêu thương

Giữa bom rơi đạn nổ


Những ngày đêm chiến trường
Anh sẽ quên gian khổ
Với màu xanh quê hương

Áo em nhuộm cho anh


Dù rách lành vẫn ầm
vẫn tươi mãi màu xanh
Cùa tình yêu đằm thẳm . . .
21-10-1965

172
BÀI CA LẢI XE ĐÊM

Khi mặt trời xuống núi


Anh em ơi lên đường
Ta băng qua cát bụi
Ta xông ra chiến trường !
Xe ta quý ta yêu
Oi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiểu
Cùng ta đi đánh Mỹ !
No chưa con ngựa chiến ?
Ta mặc lá cho mày
Mau mau lên tiền tuyến
Chạy cho khồe cho hay I
Kéo cho nhanh pháo này
Chớ cho đầy đạn đến !
Bộ đội ta đêm ngày
Đọi bàn tay tiếp viện !
Mang thêm dầu thêm sẳt
Mang thêm thuốc thêm phân
Cho núi ta đánh giặc
Cho đồng ta nuôi quân !
Đừng quên giấy quên kim
Cho các em các chị
Và cho những trái tim
Những thư tình chung thủy . . .
Ôi chiếc xe vận tải
Ta cầm lái đi đây
Nặng biết bao ơn ngãi
Quý hơn bao vàng đầy!
Xe ơi cùng ta bay
Dù mưa bom bão đạn
Ta lấy đêm làm ngày
Ta cùng cây làm bạn.
173
Xe đi trong đêm tối
Dù đường lạ đường quen
Xe đi không lạc lối
Có mắt ta làm đèn.

Ta qua sông qua suối


Ta qua núi qua đèo
Lòng ta vui như hội
Như cờ bay gió reo

ơ i này anh xung phong


ơ i này o đu kích
Có nghe thấy gì không ?
Chuyện chi mà rúc rích l

Cảm ơn các đổng chí


Cho tôi mau sang phà
Hôm nay mừng thẳng Mỹ
Xin hát tặng bài ca . ..
31-10-1965

N H Ữ N G NGỌN Đ ÈN

Không gì thương bằng đôi mẳt đen


Của người yêu nhìn ta đăm đắm
Không gì thân bằng những ngọn đèn
Trên đường đêm canh trời thăm thẳm

Một túp lều rơm giữa cánh đổng


Mái chòi xơ xác gác ven sông
Đôi cành tre tạm che mưa gió
Những ngọn đèn treo, đỏ ấm lòng

Đã mấy đêm rồi, xuân lại đông


Ngọn đèn như mắt của ai trông
Ngọn đèn như trái tim thương nưửc
Soi bước ta đi, rực lửa h ồ n g

174
Ôi biêt bao tình, bạn nhớ không ?
Ngọn đèn đống chí giữa cơn dông
Tối không rõ mặt người em ấy
Chì thấy trong đêm một bóng hồng —
22-10-1965

MẸ SUỐT

Lặng nghe mẹ kề ngày xưa


Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng bình

Mẹ rằng : Quê mẹ, Bảo ninh


Mênh mông sông biển, lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiểu, nước xuống triều lên
Cực thân từ thuớ mới nên chín mười
Lớn đi 6* bốn cửa người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng, cùng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình !
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương minh xót x a .

Bây chừ sông nước về ta


Đi khoi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây chừ biển rộng tròi cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân !
Ông nhà theo bạn «xuất quân»
Tui nay cũng được vô chân «sẵn sàng»
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua !
Kể chi tuồi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng !

175
Ngẳng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biền tung, trắng b ờ . . .
Gan chi gan rứa, mẹ nờ ?
Mẹ rằng : Cứu nước, mình chờ chi ai ?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mưoi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hẳn bẳn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò . . .
Ghẻ tai mẹ, hồi tò mò :
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo ?
Mẹ cười : Nói cứnsr, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông !
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn đò :
« Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình ! »
Vui sao, câu chuyện ơn tình
Nắng trưa con cát Quảng bình cũng say, . .
4-11-1965

Ê-MI-LI, CON. . .«>


Kính tặng anh No-man Mo-ri-xơn

Ê-mi-li, con đi cùng cha


Sau khôn lớn, con thuộc đường, khỏi lạc . . ♦
— Đi đâu cha ?
— Ra bờ sông Pô-tô-mác
— Xem gì cha ?
— Không, con oi, chỉ có Lầu ngù giác.1

(1) Em bé Ê-m i-li, 18 tháng, là con gái út của No-man M o-ri-xơn. Yêu con tha
thièt, ngày 2-11-1965, anh M o-ri-xon đã bê Ê-mi-li từ nhà đèn Lầu năm góc (hay «lầu
Ngũ giác » — T rụ sỏ’ của Bộ quồc phòng Mỹ) và tại đấy, sau khi đặt Ê-mi-li xuống đất,
rổi nhìn con lẳn cuối cùng, người cha anh dũng đó đã châm lừa tự thiêu dề phản đổi
cuộc chiên tranh xầm lư ợ c của bọn cầm quyển M ỹ ỏ' Việt nam.

176
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hòi cha nhiều con nhé !
Cha bế con đi, tối con về với m ẹ . . .

Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh h ồ n
Còn, mất
Hãy cháy lên, cháy lên sự thật !

Giôn-xơn
Tội ác bay chổng chất
Cả nhân loại căm hờn
Con quỷ Vàng trên mặt đầt.
Mày không thể mượn nước sơn
Của Thiên chúa, và màu vàng của P h ật!

Mắc Na-ma-ra
Mày trổn đâu ? Giữa bãi tha ma
Của tòa nhà năm góc
Mỗi góc một châu.
Mày vẫn chui đầu
Trong lửa nóng
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.

Hãy nhìn đây !


Nhìn ta phút này !
Ôi không chỉ là ta với con gái nhò trong tay
Ta là Hôm nay
Và con ta, Ê-mi-li ơi, con là Mãi mãi !

Ta đứng đây,
Với trái tim vĩ đại
Của trăm triệu con người
N ư ớ c M ỹ.
Đ ể đốt sáng đến chân trời
Một ngọn đèn
Công lý.

177
Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quý
Nhân đanh ai ?
Bay mang những B.52
Những na pan, hơi độc
Từ tòa Bạch ốc
Từ đào Guy-am
Đến Việt nam
Đề ám sát hòa bình và tự do dân tộc
Đề đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chì biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biẽt đi trường
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc họa !

Nhân danh ai ?
Bay chôn tuồi thanh xuân của chúng ta trong những
quan tài
Ôi những người con trai khỏe đẹp
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Cho con người hạnh phúc hôm nay í

Nhân danh ai ?
Bay đưa ta đến những rừng dày
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Những làng phổ đã trồ’ nên những pháo đài ân hiện
Những ngày đêm đất chuyển trời rung .. ♦
Ôi Việt nam, xứ sò* lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí !

Hãy chết đi, chết đi


Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ 1
Và xin nghe, nước Mỹ ta oi !
Tiếng thương đau, tiếng căm giận đòi đời
Của một người con. Cùa một con người thế kỳ.
Ê-mi-li con ôi !
Trời sắp tối rồi. . .
Cha không bế con về được nữa !
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
Cho cha nhé.

Và con sẽ nổi giùm với mẹ :


Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn 1

Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn mất ?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất !
Ta đồt thân ta
Cho ngọn lửa chói lòa
Sự thật.
7-11-1965

XUÂN SỚM

Xuân đến năm nay, sớm lạ thường


Trời đang rét ngọt, sáng nhiều sương
Ong kêu ong dậy đường hoa vải
Rực lúa chiêm trăng, bướm bướm vàng.

(Ti con cò ưẳng bay ngang


Có nom thấy lúa thẳng hàng xanh xanh ?
Xuống đây mà ngẳm cùng anh
Ngón tay các chị cấy nhanh như đàn.

Nghé con, mày dửng cho ngoan


Chớ xô hàng chuối hàng xoan mới trổng
Kênh mương vừa nắn thẳng dòng
Chớ leo bờ thửa bờ vùng mới xây.

179
Quít nhà ai chín đỏ cây
Hỡi em đi học, hây hây má tròn
Trường em mấy tổ trong thôn
Ríu ra ríu rít chim non đầu mùa . . .

★★
Như nghìn năm đẹp nét xuân xưa
Bỗng tỏa gương trong, sạch bụi mờ
Xuân mỏi, đơn sơ, đằm thẳm vậy
Căng đầy sức dậy, dáng non tơ . . .
Đi giữa đồng xuân, dạ ngần ngơ
Quê hương ta hỡi ! Có ai ngờ
Mỗi dòng kênh đó, bờ tre đó
Máu đã rơi nhiều, đỏ ước mơ í
Mà vẫn chưa yên. vẫn những ngày
Đạn bom còn giội, nát đường cày
Còn toan xóa sạch màu xanh lúa
Toan xé trời xanh của én bay !
Giặc M ỹ ! Cứ đem mày đến đây !
Chúng ta, pháo đã sẵn trong tay
Lúa ta vẫn tốt, cây ra lộc
Xuân vẫn về cho ong bướm say. . ♦

★★
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng, chẳng ngỡ ngàng
Ai biết vì sao ? Lúc đất trời
Chuyền mùa, rét dữ, gió sương rơi
Ây ngày xuân đến . . . nên hoa lá
Cứ nồ*, như không đợi nắng mời.
Ta giữ cho ai ? Mảnh đất này
Việt nam ! Hai tiếng gọi hôm nay
Mênh mông đôi cánh bay muôn dặm
Qua mấy trùng dương, vượt tuyết dày.
Nghe nói nhiều noi còn lạnh lẳm
Mùa xuân chậm đến, giá lâu tan
Uớc gì mang ít hoa xuân sớm
Gửi bạn gần xa, bỏ*t nỗi hàn . . .

Xuân ỉy miền Nam có nóng không ?


Tết nay dưa hấu chín đầy đống
Đoàn xe kia chạy đâu nhanh thế ?
Lá ngụy trang reo, cuốn bụi hồng. . .
12-1-1966

TẮM ẲNH

o du kích nhỏ giương cao súng


Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế ! To gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu !
1-1967

KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU

Nửa đêm qua huyện Nghi xuân


Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng K iều.

Hỡi lòng tê tái thương yêu


Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu bièt gửi mình noi nao ?
Ngần ngơ trông ngọn cờ đào
Đành như thân gái sóng xao Tiền đường !
Nỗi niềm xưa, nghĩ mà thương :
Dẫu lìa n g ỏ ỷ , còn vư trng ttr lồ n g . ..
Nhân tình, nhắm mắt, chưa xong
Biết ai hậu thế, khóc cùng Tố Như ?(!)
Mai sau, dù cỏ bao g iò ’. ..
Câu thơ thuở trước, đâu ngờ hôm nay !

Tiếng đàn xưa đứt ngang đây


Hai trăm năm lại càng say lòng người
Trải bao gió dập sóng dổi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
Đau đ ớ n th a y p hận đàn bà
Hỡi oi, thân ấy biềt là mấy thân !

Ngâm xem qua kiếp phong trần


Đời vui nay đã nửa phần vui đây
Song còn bao nỗi chua cay
Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy sỏ* Khanh
Cũng loài hò báo, ruổi xanh
Cũng phường gian ác hôi tanh hại người

Tiếng thơ ai động đất trời


Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhó' Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người I

Sông Lam nước chảy bên đổi


Bỗng nghe trống giục ba hổi gọi quân . . .
1-11-19651

(1) Lấy ý hai câu th ơ của Nguyễn Du :

t B ầ t tri tam bách dư niên hậu


Thiên hạ hà nhẩn khấp Tò N h ư »
( B a trăm năm nữa ta đâu biềt
Thiên hạ ai người khóc Tố N h ư ? )

182
CHÀO XUÂN 19Ố7

/ Đất nước ta ơi
Xin bẳn hai mươi phát đại bác vang trời
Chào xuân 1967 !
Xuân củ a chúng ta
Nam Bắc hai miền chiền công lừng lẫy I
Báo cho anh em bè bạn gần xa
Tin vui của chiền trường chồng Mỹ !

Xuân hãy xem ! Cuộc diễu binh hùng v!


31 triệu nhân dân
Tầt cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ.
Hiện đại, thô sơ
Cùa ngày xưa và của bây giờ
Với cách mạng đểu là vũ khí

Tên lửa, tên tre


Lưỡi lê, lưỡi mác *
Và thuyền và xe
Chân đi, vai vác
Qua núi qua khe
Mạnh hơn thác, trùng trùng vô tận !

Hãy xem ! Đồng ruộng cũng chỉnh tề thế trận


Lúa đứng thẳng hàng, quyết tâm năm tấn
Chào cô dân quân vai súng tay cày
Chân lội bùn, mơ hạ máy bay !
Chào các cụ bạch đầu quân trồng cây chống Mỹ
Chào các mẹ già run tay vá may cho chiến sĩ
Chào các em, những đồng chí của tương lai
Mang mũ rơm đi học đường dài. . .
Truyện thần kỳ, dân tộc ta là vậy !

Mặt tròi đỏ dậy


Có vui không ?
Nhìn nam bắc tây đông
Hỏi cả hai mươi thế kỷ :
Ở đâu ? Mỗi ngọn núi đòng sông
Cũng hiển hách chiến công
Lừng danh dũng sĩ.
Ớ đâu ? Mỗi mũi chông, một ngọn tầm vông
Cũng hiên ngang như trường thành, chiến lũy.

Và ỏ1 đâu ? Trên trái đất này


Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đẳng cay
Sống chết từng giây, mưa bom bão đạn
Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn.

Việt nam, ôi T ố quốc thương yêu !


Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sỏm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng . . .

Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời


Gì quý hơn giá trị con người ?
Ta hiểu vì sao ta chièn đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu.

Mác— Lê-nin, vĩnh viễn mặt trời


Giữa mây đục, càng sáng ngòi chân lý.
Cuộc đời ta, từ Cách mạng tháng Mười
Đã tươi lại với nửa vòng thế kỳ.

Nếu được làm hạt giống đề mùa sau


Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tồi, tim ta làm ngọn lửa !

Cảm ơn Đảng đẵ cho ta dòng sữa


Đốn nghìn năm chan chứa ân tình
Lằy nhân nghĩa thẳng hung tàn, bạo chúa
Kiếp tỳ nô vùng dậy chém nghê kình !

Thiêng liêng thay, tiếng gọi củ a Bác Hồ :


Vì độc lập tự do, toàn dân ta quyết thắng !
T ự hào thay, khi Nguyễn Viết Xuân hô :
Ngẩng đầu lên, nhằm thằng quân thù mà bắn !

184
Ôi sáng xuân nay, như lưỡi gươm trần sáng quắc
Rạo rực lòng ta, trống trận Quang Trung
T ố quốc giục cả hai miền Nam Bắc
Hãy xung phong I Hỡi mùa xuân 1967 anh hùng !
3-2-1967

BÀI CA XUÂN 68

Anh chị em oi !
Hãy giưong súng lên cao, chào Xuân 68
Xuân Việt nam
Xuân của lòng dũng cảm.

Ai đến kia, rộn rã cùng Xuân ?


Hoan hô anh Giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp n h ấ t!

Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất


Sống hiên ngang, bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỳ hai mươi
Một dây ná, một cây chông, cũng tiến công giặc Mỹ.

Không tự ngắm minh, anh chằng hay đâu, hỡi chàng


dũng sĩ ỉ
Cả năm châu, chân lý đang nhìn theo
Bóng Anh đ i . . . và vành mũ tai bèo
Của Anh đó ỉ
Ôi cái mũ vải mềm đễ thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc ỉá trên cành
Sáng trên đầu như một mảnh tròi xanh
Mà xông xáo, mà tung hoành, ngang dọc
Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cẳ lẩu Năm góc

Ta muốn hỏi Trường Sơn


Có đỉnh nào cao hơn
Chiếc mũ kia của chù nghĩa anh hùng cách mạng ?
Cảm ơn Đẳng cỏa chúng ta, Đảng làm ra ánh sáng
Người chưa đưa ta lên được sao Kim
Nhưng đã cho ta một linh hốn và một trái tim
Biết lẽ phải, biết yêu thương, căm giận
Biết đi tới và làm nên thẳng trận ỉ

Hôm nay sao vui thể ? Sáng xuân nay


Ta đi đây, lòng ta như bay
Vói mỗi làn mây, vỏi từng cơn gió
Gió miền Bắc đang thổi vào Nam đó !
Gió mây oi, không đợi nẳng xuân về
Hãy bay đi mà che những đoàn xe
Và nhưng đoàn quân tuôn ra tiền tuyến.

★★
T ố quốc ta I Hai mươi ba năm đau khổ gian nan,
bển gan kháng chiến
T iến lên ĩ
Toàn th ẳ n g &t về ta / í 1)
Hỡi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lẳng nghe . . . Phút giao thừa đang chuyền
Bác Hồ gọi. Ầy là mùa xuân đ ến. . .

Hoan hô Xuân 68 anh hùng ỉ


Hãy gầm lẫn như sấm sét đùng đùng
Tất cả pháo !
và xông lên, đũng sỉ í
Như khí phách Trần, Lê. Như oai vũ Quang Trung.
Khắp thành thị nông thôn
Đánh tan đầu Mỹ, ngụy !

Vì độc lập, T ự do, núi sông hùng vĩ


Vì thiêng liêng giá trị Con Người
Vì muôn đòi hoa lá xanh tươi
Ta quyết thẳng. Giành mùa xuân đẹp nhất.
23-1-1968

(1) Thơ Hồ Chủ tịch mừng Xuân 68.

186
CHUYỆN EM . . .

Em tên là Nguyễn Văn Hòaí1)


Mẹ em thì gọi em là cu Theo
Cha đi tập kết. Nhà nghèo
Sớm khuya tay mẹ chống chèo nuôi con
Chị thì hái cùi trên non
Em thì mưa nẳng bãi cồn chăn trâu
Đêm nằm hồi mẹ : Cha đâu ?
Mẹ rằng i Mau lỏn, năm sau cha v ể . . .
Đợi hoài đợi mãi, lâu ghê !
Làng trên xóm dưỏi, bốn bề ác ôn
Mỹ xây lũy, ngụy đóng đồn
Sáng vây xét hồi, tối dồn khảo tra.
Mười năm biền biệt tin cha
Một đêm các chu đâu mà thiệt đông
Về làng, súng đạn đẩy hông
Chú mô chú nấy, mặt trông rất hiển,
Kề từ hôm đó, làng Yên(12>
Bỗng vui như có ông tiên đến nhà.
Ruộng vườn chia lại trái hoa
Xóm thôn lập hội, ưẻ già vần công
Mùa chiêm lúa chín vàng đống
Bát cơm « giải phóng» no lòng từ nay
Mẹ em rạng mặt tưoi mày
Em như mọc cánh chim bay tung tr ờ i. . ♦

★★
Nẳn nì xin mẹ : mẹ oi
Lên xanh(3) chị đã đi rổi, còn con?
Mẹ ôm em, mẹ cười giòn :
Mi đồ con nít, trứng khôn hơn vịt à ?
Đi mô cho ngái(4) cho xa

(1) Em Nguyễn Văn Hòa, 15 tuổi, quê ở Thừa thiên, là dũng sl diệt Mỹ, dũng sĩ
quyèt thẳng.
(2) Làng Yên ỉà bỉ danh làng em Hòa.
(3) Lên xanh ; lên chiến khu, theo lối nói của đông bào.
(4) Ngái : xa (tièng địa phương Trị — Thiên).

187
Ở nhà vói mẹ đặng mà nuôi quân !
Mình nghèo, không tạ thì cân
Mít thơm'1'ỉ bán chợ, góp phần mua lương,
Mẹ con, một bữa, về đường
Gạo ngon một gánh em sưo’ng(2) nặng đầy
Ngụy đâu xông lại cả bầy
Bẳt em, nó hỏi : gạo này cho ai ?
Nó đá đít, nó tạt tai
Đau em, em chịu, chẳng khai một lời.
Thương anh, anh giải phóng ơi I
Càng thương gạo đổ gạo rơi xuống bùn . .

★★
Chạy về một mạch đầu thôn
Thưa anh xã đội : Cho em luôn theo cùng ..
Anh rằng : Cứu nước, việc chung
Tuổi thơ cũng phải anh hùng, nghe em !
Việc quân chạy suốt ngày đêm
Chỉ mê đánh Mỹ, chẳng thèm chút chi.
Chúng em một đội thiếu nhi
Đứa thì canh gác, đứa thì giao liên
Gió mưa chân lội khắp miền
Khi về Tiên nộn, khi lên Nguyệt biểu
Giặc kia bom đạn bao nhiêu
Chúng tao gan dạ lại nhiều hơn bay !
Chiều chiểu trông ngọn Tam thai
Thấy quân Mỹ đóng như gai đâm lòng
Phải chi ra trận xung phong
Măng non em cũng sắt đồng chứ sao !

★★
Tuổi mười bổn những ước ao
Buổi đầu cầm súng biết bao là mừng. . .
Mẹ ơi, súng đẹp quá chừng ỉ
Con đi đánh giặc, mẹ đừng lo chi.12

(1) Thơm : còn gọi là dứa.

(2) Sương: gánh (tiếng địa phương T rị — Thiên).

183
Mẹ cười : Thiệt giống cha mi
Chẳng ăn chi cả, cứ đi đánh hoài !
Sớm hôm, cù sẳn củ khoai
Khi đi trinh sát, khi gài mìn chông
Khi ra xung trận giữa đồng
Khi lăn dưới lửa, thoát vòng giặc vây
Súng này càng bẳn càng hay
Một tay em chấp mười tay quân thù.
Thẳng Mỹ vừa ác vừa ngu
Nó như con cọp mắt mù đó thôi
Thằng ngụy vừa dại vừa tồi
Nó như con rắn theo đuôi ăn tàn.

Một hôm sương sớm chưa tan


Em đi phục kích, đón đoàn chiến xa
Xe đẩu, lính nhép, cho qua
Xe sau quan tướng ngồi ba bốn thằng.
Tức thì, min điện giật phăng
“^ T ư ớ n g quan lăn chết nhăn răng một hàng

Xe kia quay lại bàng hoàng


Chết thêm hai đứa, vội vàng tháo im.
Đánh rồi, lên ngọn đồi sim
Trông mây bay múa, nghe chim hót mừng . . .
Bỗng đâu từ dưới chân rừng
Mười xe Mỹ đến, đùng đùng dương oai
Nào xem, ai thắng được ai ?
Mỹ mười xe thép, em hai chân đổng.
Năm giò' vây đuổi uổng công
Băng đổi vượt dốc, ra sông em ngồi
Đợi thằng giặc Mỹ đến noi
Bẳn ngay một phát, đi đời sướng ghê !
Kinh hồn, rút cả mười xe
Hai chân em lại đi về tung tăng.

189
Súng em càng đảnh càng hăng
Chỉ mong mau giòi, mau bằng các anh.
Xa rồi, lại nhớ trên xanh
Măng tre môn vót(!) lều tranh mái kè(12>
Tháng ngày ngọn suối bờ khe
Mà vui như hội, bốn bề yêu thương
Tay em một khẩu súng trường
Mà như có cả quê hương đánh cùng.
Ôi quê ta rất anh hùng !
Nưởc non đâu cũng trùng trùng tiến quân
Ẩm ẩm biển ỉửa nhân dân
Đẹp như Huế dậy đầu xuân đò cờ 1


★★

Chuyện em vừa đó, anh nờ


Bấy lâu trong ấy, bây giờ ra đây
Nhớ cha, chưa biết mặt mày
Bác Hồ thương cháu, gọi ngay đến Người.
Bác nghe cháu kề, Bác cười
Bác khen, cháu nhó' từng lời Bác khuyên.
Vui chăng, hỡi mẹ làng Yên !
Thẳng cu Theo được về bên Bác H ố . . .
\\T 12-1968

XUÂN 69

Tưng bừng năm 68 chuyền nhanh


Như một chuyển tốc hành chớ đầy hoa chiến thắng.
Hoa Việt nam. Hoa bốn mùa mưa nắng.

(1) Môn vót : một loại khoai ngứa trên rừng.

(2) Kẻ : một loại cây cọ.

190 & :
Kỳ điệu thay ! Noi cháy lửa na-pan
Trụi lá cây rừng, hạt lúa thành than
Lại là đất xanh tươi cuộc sống
Và xanh nhất màu xanh hy vọng.
Nơi những hố bom thét lớn căm hờn
Vẫn những miệng cười và ca hát yêu thương
Noi cái chết bắt cúi đầu hồ nhục
Chính là xứ của con người tự do, không khuất phục
Vươn lên cao và tự biết ĩ vô cùng !

★★
Đẹp biết bao, cuộc chiến đấu anh hùng
Khi dân tệc nhịp bước cùng thòi đại
Khi quá khứ, tương lai soi mình trong hiện tại
/'"Khi mỗi ngày ta sống, mệt ngày xuân
l’ " Và mỗi người là một Giải phóng quân
: Ta tiến công. Với sức mạnh thánh thần
! Của những Phan Hành Sơn đánh tung núi Ngũ hành, diệt Mỹ !
1 Ôi ta biết cảm ơn ai đã sáng tạo cái tên n g ư ờ i: dũng sĩ
Vang tự hào giữa thế kỳ hai mươi
_ Thước vàng đo mọi giá trị trên đòi.
Miền Nam ! Miền Nam ! Sáng ngời, chỏi lọi
Trong lòng ta, như mặt trời, không nói.

★★

Miền Bắc mĩm cười


Đã im tiếng bom roi.
Nhà máy rộn ràng. Khói trắng
Cầu xây mới. Những đường cong lại thẳng
Và những đoàn xe lại nối đuôi dài
Những hố bom vừa lấp đã xanh khoai
Nhà dựng tạm bên miệng hầm, đò lửa.
Súng vẫn thức. Vui mới giành một nửa
Nên bâng khuâng sương biếc nhớ người đ i . . .
Miền Nam oi, tiền tuyền ước mơ gì
Mà đất nước xôn xao lời Bác g ọ i!

★★

191
Gió rét đổi mùa* Nẳng dọi
Hành quân x a . . . mớ lối xuân sang
Hỡi mùa xuân lộng lẫy mai vàng
Hãy sớm nớ, trang hoàng dải đất
Đỏ thẳm máu hy sinh và những chiến công đẹp nhất
Ta lớn rồi. Không đợi đến ngày mai
T ừ hôm qua, mỗi chặng đường dài
Ta đã thẳng. Địch đã lui, từng bước
Hãy tiến công, tiến công, xông lên phía trước !
Nổi dậy phố phường, nồi dậy nông thôn I
Giành lại quê hương, giành lại những linh hồn
Cho T ố quốc, cho mỗi con người toàn thẳng !
15-1-1969

BẢC ơ ĩ l

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa


Đời tuôn nước mắt, trời tuôn m ư a . . ♦
Chiểu nay con chạy về thăm Bác
Ư ớt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa !
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác, đứng nhìn lên
Chuông ơi, chuông nhỏ còn reo nữa ?
Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn.
Bác đã đi rồi sao, Bác ơi !
Mùa thu đang đẹp nẳng xanh trời
Miền Nam đang thẳng, mơ ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười.
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài !
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay. . .

★★

192
Ôi ! Phải chi lòng được thảnh thoi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời.
Bác ơi, tim Bác mênh mông thè
Ôm cả non sông, mọi kiềp người.

Bác chẳng buổn đâu, Bác chỉ đau


Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau. . .

Bác sống như trời đất của ta


Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà


Miền Nam mong Bác, nỗi mong Cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lẳng mỗi tin mừng, tiếng súng xa . . .

Bác vui như ánh buổi bình minh


Vui mỗi mẩm non, trái chín cành
Vui tiếng ca chung hòa bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình.

Bác đề tình thương cho chúng con


Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, h ồ n muôn trượng
Hơn tượng đổng phơi những lối mòn.

★★
Ôi Bác Hồ cti, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu !
Ra đi, Bác dặn : còn non nư ử c. . .
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều

Bác đã lên đường, theo tổ tiên


Mác — Lê-nin, thế giỏi Người Hiển
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiền lên !

193
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường sơn.
6-9-1969

THEO CHÂN BÁC


Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
l O "

-,Ví Tháng năm ơi, có thể nào quên


Hàng bóng cờ tang thắt dải đen
Rù giữa lòng đau. Ta nhớ mãi
v '/■>" Cuộc đời như ngọn lửa đầu tiên.

Tôi viết bài thơ mừng thọ Bác


Năm nay vừa tuổi tám mươi tròn
Chắc như thường lệ, Người đi vẳng
Để mọi lời ca tặng nước non.

Tôi viết bài thơ cho các con


Mai sau được thấy Bác như còn
Phơ phơ tóc bạc, chòm râu mát
Đôi dép mòn đi, in dấu son.

Xin nhớ từ đây, nhớ lại ngày


Bác Hồ từ giã cõi Hôm nay
Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng
Vào cuộc trường sinh, nhẹ cánh bay. . .

Lạ thay, sức mạnh của tâm hồn


Mắt vẫn tươi như suối tận nguổn
Tay nhịp cho đòi cao tiếng hát
Trời thu xanh ngát sáng Tuyên ngôn.

194
Như thế, Người đ i . . . Phút cuối cùng
Nhẹ nhàng, thanh tịnh, rất ung dung
Lời Di chúc gửi, êm bên gối
Quên nỗi mình đau, đề nhớ chung.
Bác ơi !
Thôi đập rồi chăng ? Một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim 1
Muốn òa nức nờ bên em nhò
Nước mẳt ta đành nuốt, lặng im.
Cứ nghĩ : Hồn thơm đang tái sinh
Ngôi sao ấy lặn, hóa bình minh
Cơn mưa vừa tạnh. Ba đình nắng
Bác đứng trên kia, vẫy gọi mình.
Súng hãy gầm lên, nén xót đau
Hãy lau ráo lệ, ngấng cao đầu !
Chỉ xin nhớ để lời đêm trước :
Đốt pháo hoa mừng, đến lễ sau.
Bác đ i . . . Di chúc giục lòng ta
Cho cả muôn đời một khúc ca
Lẽ sổng, niềm tin, mong ước lớn
Và tình thương, ơn nghĩa bao la. x

★★
Tôi trớ về quê Bác, làng Sen
Ôi hoa sen đẹp của bùn đen !
Làng quen như thể quê chung vậy
Mấy dãy ao chua, mảnh đất phèn.
Thăm lại vườn xưa, mái cò tranh
Thương hàng râm bụt, luống rau xanh
Ba gian nhà trổng, nồm đưa võng
Một chiếc giường tre, chiếu mồng manh.
Ôi sáng hè vui, Bác trớ về
vẫn không quên lối cũ, tình quê
Bạn xưa, còn nhớ khi câu cá
Nhớ quả cà ngon, nhớ gốc chè. . ♦
Nhớ những năm nao. . . Máu Cửa rào
Thân yêu hai tiếng gọi «đồng bào»
Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ
Đêm tối, ười mây, chẳng ánh sao.

Đã tắt lâu rồi, lửa nghĩa quân


Phan Đình Phùng đó, Tống Duy Tân
Nguyễn Trung Trực lại Hoàng Hoa Thám
Đầu dám thay đầu, chân nối chân !

Muôn dặm đường xa, biềt đến đâu ?


Phan Chu Trinh lạc lối ười Âu
Phan Bội Châu, câu tho’ dậy sóng
Bạn cùng ai, đất khách dãi dầu ?

Cha đã đi đày, đau nỗi riêng


Còn nghe tiếng gót nặng dây xiềng. . .
Mẹ nằm dưói đất, hay chăng hỡi
Xin sáng lòng con ngọn lửa thiêng ỉ

Từ đó, Người đ i . . . những bước đầu


Lênh đênh bốn biền, một con tàu
Cuộc đời sóng gió. Trong than bụi
Tay đốt lò, lau chào, thái rau.

Mồ* mắt trông quanh, màu sắc mỏi


Những bò* bến lạ, nước nông sâu
Á, Âu đâu cũng lòng trong đục
Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu.

Muôn nỗi đời như ảnh ưắng đen


Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn
Một hòn gạch nóng nung tâm huyết
Mầu bánh mì con nuôi chí bển.

Bao nẻo người đi, bước trước sau


Một câu hỏi lờn : Hướng về đâu ?
Năm châu thăm thẳm, tròi im tiếng
Sách thánh hiền lâu đã nhạt màu.
Găng-đi, quay lại chiếc xa xưa
Dệt tấm lòng nhân đựng gió mưa !
Nghiệp lớn, Tôn Văn vừa dựng đó
Trăm năm tay lái vững vàng chưa ?

Ôi nhân loại ! Địa cầu cháy bỏng


Lò sát sinh ngập máu xương roi
Lũ đế quốc như bầy quỉ sống
Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười.

Bỗng sấm nổ. Rạng đông chớp giật


Hoan hồ Cách mạng tháng Mười Nga !
Tù sắt ngai vàng quăng xuống đất
Công nông ta làm chù đòi ta.

( Xóm thợ Pa-ri nghèo cuối ngõ


' Tưng bừng gác trọ đón bình minh
í Mác— Lê-nin đến . . .Từng trang đò
' Chân lý đây rồi, lẽ tử sinh !

Đứng dậy ! Ôi Người cùng khổ ơi í


Tiếng chuông ta đánh, giục liên hồi
Hãy bay đi, hãy bay qua sóng
Về nước non xa, thức tỉnh đ ò i . . .

Tháng Giêng, Mạc tư khoa tuyểt trắng


Một người đi, quên rét buốt xương
T ừ xa đến. . . Lòng đau trĩu nặng
Giữa dòng người im lặng trên đường.

Anh tìm ai ? Lê-nin vĩ đại


Tinh hoa trái đất, chất kim cương
Con người đẹp nhất trong nhân loại
Trí tuệ, tình yêu của bốn phương.

Lê-nin ơi, Người Thầy, Người Cha


Niềm tin trong sáng mãi lòng ta
Đêm nay nằm đó, mà thanh thản
Vầng trán mênh mông tồa chói lòa.
Tưởng nghe tiếng Người vang giục bước
Hãy trớ về châu Á trẻ trung
Hỡi người trai Việt nam yêu nước
Thổi bùng lên ngọn lửa anh hùng !
Về phưcmg Đông, ta về phương Đông
Cùng phương Tây, giương ngọn cờ hồng
Đi ta đi, anh em đổng chí
Chặt xiềng gông, chặt hết xiềng gông !
Chào Trung quòc trào sôi sức sống
Chào Quảng châu công xã chính quyển
Đất tươi tốt. Đây mùa gieo giổng
Hỡi Thanh niên cách mạng, vùng lên í
Hồn Nước gọi. Tiếng bom Sa điện
Trái tim Hồng Thái nổ vang trời
Máu thơm tưới mầm non Xuân đền
Vui lại rồi, Tố quốc ta ơi !
Bác về kia 1 Đảng đã ra đòi !
Trải mấy phong trần tuồi bốn mươi
T Tay Bác cầm tay đồng chí trẻ
Tiến lên ! Thời đại giục chân người.

Ôi sức trẻ ! Xưa trai Phù đồng


Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưõi lưng ngựa sẳt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân !
Như thế, buổi xuất quân hùng vĩ
Chúng ta đi, quyết chí, tự hào.
Đ ư ờ n g K ách m ệnh(!) sáng ngời chân lý
Đảng cầm cương lịch sử lên cao.
Hãy nghe khúc nhạc đầu hùng tráng
Bản trường ca chiến đấu Việt nam
Trống xô-viết rung trời Cách mạng
Cờ búa liềm đỏ đất Hồng Lam !

(1) « Đường Kách mệnh» : tên một tác phẩm của Hô Chủ tịch.

198
Khủng bố trắng. Máu đầm mặt đất
Chật Côn lôn, Lao báo, Sơn la.
Muôn chiến sĩ, một lòng bất khuất
Chỉ thương Người sương tuyết bôn ba.

Nguyễn Ái Quồc. Ôi tên tha thiết


Của đời ta. Người ỏ’ phương nào ?
Gió ơi gió, ơi chim có biết
Một người tù cất cánh bay cao ?

Ta lại dấn chân vào trận mới


Sóng người dâng ngập lối, biểu tình
Rầm rộ cuộc diễu binh vĩ đại
Vì tự do, cơm áo, hòa bình.

Và những ngày qua, những tháng qua


Thư về từng lá, ấm lòng ta
Đường dài nẻo ngắn, lòi khuyên dặn
Trăm nỗi buồn vui, việc nước n h à. ..

Chiến tranh nổ. Gần xa hùm sói


cẳn cổ nhau. Pháp bại, Nhật vào.
Thân một cổ hai tròng buộc trói
Phải vùng lên, này súng, này dao ỉ

Bẳc sơn gọi, Nam kỳ nổi dậy


Sổng một ngày hơn mấy mươi năm
Lửa căm giận sôi dòng máu chảy
Sức mỗi người bỗng hóa thành trăm !

Chiểu mùa thu ấ y . . . Đển Diên an


Có một Hồng quân, tay nóng ran
Đấy chiếc xe bò lên với bạn
Rồi đ i . . . Lần bước xuống phương Nam .1

1 Ôi sáng xuân nay, Xuân 41


ị Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
1Đác về . . . Im lặng. Con chim hót
' Thánh thót bờ lau, vui ngẩn n g ơ . . .
• Bác đã về đây, T ố quốc ơi !
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đèn bây giờ mới tới nơi 1

Ai đã đến, ai chưa đến đó


Có hòn núi Mác, suối Lê-nin
Hãy về thăm quê ta Pắc bó
Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh.

Hồi đòng khe ấy, hòi tre lau


Những thảng ngày xưa ♦ .. Bác ỏ* đâu ?
Núi vẫn nghiêng đầu nghe vách đá
Hát cùng cây lá gió ngàn sâu, . ♦

Hát rẳng :
Sáng ra bờ 8Uốif t ố i vào hang
Cháo hẹ rau m ăng vẫn sẵn sàng
Bàn đ ả chông chênh , dịch sử Đ ảng
Cuộc đ ờ i cách m ạng th ậ t là sangil) ĩ

Hang lạnh nhớ tay Người đồt củi


Bập bùng lửa cháy suốt đêm thâu
Ai hay ngọn lửa trong hang núi
Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau !

Ngày hội lớn. Trung ương quanh Bác


Lán tre vừa lợp, ấm tình thương
Lịch sử hôm nay, đầu ngọn thác
Gọi toàn dân cứu Nước, lên đường.

. Việt Minh, hai tiếng dậy biên khu


Ị Truyền khắp dân gian, đuổi giặc thù
Ỷ* \ Cây đá mừng reo theo mỗi bước
J Sớm hôm xóm núi bóng Già Thu . . .

★★1

(1) Thơ Hô Chủ tịch.

200
Lam sơn đây một vùng Núi đỏí1)
Du kích quân rộn rã thao trường
Cao— Bẳc— Lạng khơi dòng thác đồ
Chảy về xuôi, mò* lối đại dương.

Ị Lại thương nỗi : đọa đày thân Bác


ị Mười bốn trăng tê tái gông cùm
ì Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
' Mà thơ bay. . . cánh hạc ung dung !

Xta-lin-grát. Đất tròi vang động


Ển thu sang. Mừng Bác lại về !
Hoan hô Đội Tuyên truyền giải phóng
Buổi ra quân, gươm nóng lòi thề !

Già nào
T rẻ nào
Đàn ôn g nào
Đàn bà nào ^
K ẻ cỏ súng dùng sủng
K ẻ có dao dùng dao.
T hăy T ă y, cứ chém phứ a
T h â y N hật , cứ chặt nhào ĩ

À o ào ào,., ào ào ào... (2)


Đường tiến công, sông núi xôn xao
Bác đã về xuôi. Chào Đại hội
Tiến quân ca sôi nòi Tân trào !

Tổng khỏi nghĩa ! Lệnh truyền đêm trước


Sáng quân ra giải phóng Thái nguyên
■1 Hà nội, Huế, Sài gòn, cả nưửc
Đứng lên ta giành hết chính quyển !

(1) Lam san ỉ một khu du kích ở tỉnh Cao bằng.


(2) Thơ Hồ Chủ tịch.

201
Việt nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiềng mới quang vinh !

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín


Thù đô hoa, vàng nẳng Ba đĩnh
Muôn triệu tim ch ờ. . . chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình
Hồ Chí Minh ! Hồ Chí Minh !

Người đứng trên đài, lặng phút giây


Trông đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán. . . Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây 1

Người đọc Tuyên ngôn . . . Rối chọt hỏi :


«Đ òng bào nghe tô i nổi rổ không?))
Ôi câu hỏi, hơn một lòi kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng !

Cả muôn triệu một lời đáp : « Có !»


Như Trường sơn say gió biển Đông
Vâng, Bác nói, chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông.

Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa


Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt nam dân chù cộng hòa !

Ta đứng đây, lẫm liệt đường hoàng


Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay giương nò
Chém mãng xà vương, giết đại bàng.

Chúng đến đó. Cả bầy hùm sói


Pháp theo Anh, một giồng thực dân
Máu đã chảy. Miền Nam đã gọi
Những chuyên tàu hồi hả ra quân . . .
Ghê thay lũ ô binh thổ phỉ
Kéo vào ăn, miền Bắc xác xơ
Nguy vận nước mong manh đầu chỉ
Sức toàn dân quyết giữ cơ đồ í
!
Bác Hồ thức. Năm canh không ngù
Nghe phong ba gào thét đá ghềnh
Vững tay lái. Ôi người thủy thù
Đã từng quen bốn biển lênh đênh !

Người trông gió bồ buồm, chọn lúc


Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh
Lòng nhẫn nhục quyết không khuất phục
Yêu hòa bình, đâu sợ chiến chinh !

Giặc đã đánh. Thì ta quyết đánh !


Thà hy sinh tất cả, không nao.
Lời Bác gọi, nửa đêm vang lệnh :
« Hãy xông lên, chiến sĩ đổng bào !»

Cả nước đáp mệt lời : Quyết thẳng !


Phố phường giăng chiến lũy, vươn cao
Xóm thôn đựng pháo đài, đứng thẳng
Tre thành chông, người hóa anh hào !

Trải chín năm trường, đi kháng chiến


Gót chân trơn càng luyện tinh thần.
Con suối nhỏ cũng mang hồn biển
Mỗi đời riêng lớn giữa lòng dân.

Ta có Bác dẫn đưò'ng lên trước


Bác cùng ta, mỗi bưửc gian lao
Ị/^ -L Vui sao buổi hành quân nắng lửa
Bỗng gặp Người, lưng ngựa đèo cao . . .

Thương sao, sáng lên đường ra trận


Người đến thăm ta, vượt lũ nguồn
Nhớ sao giữa chiền trường lửa đạn
Người đứng trông ta đánh diệt đồn !

203
C h ốn g g ậ y lên non xem tr ậ n đ ịa
V ạn tr ù n g n úi đ ỡ vạn tr ù n g m ã y
Q uân ta kh ỉ m ạn h n u ổt N g ư u Đ ầu
T h ề d iệ t x âm lă n g lũ só i c à y ỉ ^

Ôi những chiểu mưa đầm lá cọ


Bác vào, tươi mỗi lán lều con. . .
Bữa cơm muối, măng non bí đỏ
Tháng ngày vui có Bác mà ngon !

Nơi Bác ở : sàn mây vách gió


Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà
Đêm trăng một ngọn đèn khêu nhò
Tiếng suổi trong như tiếng hát xa

Tiếng hát xa đưa .. . Muôn tiẽng hát


Điện biên 1 Trời đất dậy tin mừng
Bác Hố khẽ vuốt chòm râu mát
Gió sớm đưa hương ngát cả rừng . . ♦

Điện biên ! Lừng lẫy Việt nam ta


Vang tiếng kèn vui gọi mọi nhà
Mời bạn gần xa ra tuyến lửa
Mở đường giải phóng Á — Phi — La !

★★
Chưa vẹn tròn vui, đã sáng tươi
Đường lên hạnh phức đỏ chân trời.
Bốn nghìn năm cũ, bao mơ ước
Đã được hôm nay, rạng mặt người !

Chung sức lại, ơi anh ơi chị


Ruộng đồng ta, nhà máy ta đây.
Chỉ hai tiếng thân yêu : đồng chí
Đã thương rồi, ấm những bàn tay.

(1) T hơ H ồ Chù tịch.

204
Đơn giản vậy, cơm ăn áo mặc
Của ta nay, nặng biết bao tình.
Cả không khí, trời xanh miền Bắc
Cũng trong như lòng Bác thương mình

Muôn dặm ta đi, mỏi bước đầu


Nhớ lời Bác dạy, dễ quên đâu ỉ
Nước non còn nỗi đau chia cẳt
Nam Bắc hai miền, ta có nhau

Giặc Mỹ ngông cuồng đã đến đây


Hẳn thường đem súng dọa Đông Tây
Lương tâm quen thói vàng mua bán
Có chúng ta đây, diệt chúng mày !

Máu đọng chưa khô, máu lại đẩy


Hỡi miền Nam trăm đẳng nghìn cay
Hầm lăm năm chẳng rời tay súng
Đi trước về sau, đã dạn dày !

Hỡi miền Bắc đó, nặng đôi vai


Gánh cả non sông, vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai !

Ôi í đất anh hùng dễ mấy mươi


Chìm trong khói lửa, vẫn xanh tươi,
Mưa bom, bão đạn, lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm, miệng vẫn cười

Thòi đại lớn cho ta đôi cánh


Không gì hơn Độc lập Tự do !
Bốn mươi thế kỳ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.

Ta hiểu. Miền Nam thương nhớ Bác


Nóng lòng mong đợi Bác vào thăm.
Ta hiểu. Đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trăn trờ, nhỏ* miền Nam !
Ai nói giùm ta hết tấm lòng
Bác Hồ thương nhớ mỗi dòng sông
Mỗi hòn núi ớ miền Nam đó
Như thịt da ta rồ máu hồng !

Bản đồ bên vách treo, không nói


In mãi bàn tay Bác chỉ đường
Tấm lịch ngày ngày nghe Bác hổi :
Hôm nay, đâu thẳng ỏ* tiền phương ?

(7i anh Giải phóng chân không mỏi


Mỗi bước hành quân, mỗi chiến công
Có thấy ấm lòng nghe Bác gọi
Sáng đường, đôi mắt Bác hằng trông !

Các anh, các chị ớ trong ra


Những đứa con yêu trớ lại nhà
Có phải mỗi lần ta gặp Bác
Bác vui như trẻ lại cùng ta ?

Ôi ! Nụ cười vui của Bác Hồ


« M iền N am đảnh g iỏ i, M ỹ thua to
Bác ơi ! Con biết con chưa giỏi
Quét sạch đưcrag đi, để Bác vô !
*
★★
Còn những ai chưa được một lần
Trong đời, gặp Bác ? Hãy nhanh chân
Tiến lên phía trước ! Trên cao ấy
Bác vẫn đưa tay đón lại gần . . .

Bác vẫn đi kia .. . giữa cánh đồng


Thăm từng ruộng lúa, hỏi từng bông
Ghẻ từng hợp tác, qua thôn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong ♦ ..

Bác vẫn về kia. . . Những sớm trưa


Hòi lò than, xưcrag máy, giàn tơ
Hòi anh hỏi chị công nhân ấy
Vàng ngọc thi đua được mấy giờ ?

206
(Ti anh bộ đội trên mâm pháo
Mắt lượn trời cao, dõi bóng mây
Có thấy, bốn mùa, quên nắng bão
Bên ta, Bác vẫn thức đêm ngày ?

Bièt chăng, hỡi mẹ rất anh hùng


Con mấy lần đi lập chiến công
Hỡi chị hằng trông ngày thắng trận
Bác khuyên thương nhớ vững bền lòng.

Và các em, có hiểu vì sao


Lòng Bác mênh mông vẫn dạt dào
Yêu nụ mầm non, yêu tuổi trẻ ?
Biền thường yêu vậy sóng xôn xao . . . s

Vì sao ? Trái đất nặng ân tình


Nhắc mãi tên Người : Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân nghĩa, đức hy sinh.

Đâu chẳng vang lời Bác thiết tha ?


Đời vui tiếng Bác ấm muôn nhà.
Bác đ i . . . Đâu cũng nghe chân bước
Như gió xuân về, đất nờ hoa. . .

Nếu có hỏm nào ta vẳng Bác


Chắc là Người bận chuyến đi xa . . .
Ôi đàn em nhỏ quên ca hát
Hãy lớn ngoan như Bác có nhà !

★★
Anh dắt em vào cõi Bác xưa
Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng sôi tăm cá
Có bười cam thơm, mát bóng dừa.

Có rào râm bụt đỏ hoa quê


Như cổng nhà xưa Bác trớ về
Có bốn mùa rau tươi tốt lá
Như những ngày cháo bẹ măng tre . . .
Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
. •. ị Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
ị'.y* > Giường mây chiếu cói, đơn chăn gối
\ i Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn.
Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
Còn đôi dép cũ, mòn quai gót
Bác vẫn thường đi giữa thế gian . . .
Bạt mọc dầm chân đứng đợi aK1)
Quanh hồ thấp thoáng bóng hôm mai
Ngọn đèn kia thức bên ai đó
Mà dạ hương còn phảng phất bay !
0 vẫn còn đây, của các em
Chổng thư mới mở, Bác đang xem
Chắc Người thương lẳm lòng con trẻ
Nên để bâng khuâng gió động rèm . . .
Con cá rô ơi, chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn.
Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái
Bác vẫn chăm tay tưới ướt bồn.
, y ! Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
', ) ì Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa
^ ; Chỉ biết quên mình, cho hềt thảy
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.
Như đỉnh non cao tự giấu mình
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh
Bác mong con cháu mau khôn lớn
Nối gót ông cha, bước kịp mình.
Ta vào thăm Bác, gặp Lê-nin
Trán rộng yêu thương, dõi mẳt nhìn
Người đến cùng ta, ngồi với Bác
Như hình với bóng, một anh linh.

(1) Bụt mọc : một loại cây bên hố, có rễ dài mọc sát mặt nư ớc giống những
tư ợ ng Phật.

208
Bác ơi !
Xin để Người yên giấc mộng say
Còn trời đất đó, nước non đây.
Còn ba mươi triệu con Nam Bắc
Quyết thắng, bển gan, tay nắm tay.
Còn triệu anh em đồng chí đó
Bốn mươi năm Đảng, óc tim này.
Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay I
Ngày mai, thống nhất lại non sông
Mẹ được gần con, vợ gặp chống
Ôi đến ngày ta vui sướng nhất
Thỏa lòng Bác lại trờ về trông !
Đời sẽ tươi hơn, xây dựng mới
Đ àng hoàng to đ ẹp , sáng trời Đông
Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới, như lòng Bác ước mong.
Đem ngày gần lại, đổi năm xa
Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà
Bốn biển anh em hòa hợp lại
Trăm đường một hướng, nở muôn hoa.

★★

Bác ơi ỉ
Tết đến, Giao thừa đó
vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tướng nghìn tay Bác vỗ sang x u ân...
1-1970

LỀU CỎ LÊ-NIN

Sáng mùa đông. Giữa đổng tuyết trắng


Tuyết mênh mông. Trắng xóa đất trời
Chúng tôi đi, tìm dấu chân Người.

209
Đây là đâu ? Mà như thòi hoang dã
Rét bắc cực thổi từng con qua mặt hồ băng giá
Rừng thông lay những cánh trắng bên đường
Bồi hồi sao, mỗi bước hành hương í

Chân đứng lại.


Trái tim tê tái
Ngẩn ngơ nhìn
Lều cỏ
Lê-nin.
Túp lều con
Tuyết phù
Im lìm.
Túp lều con
Như chiếc tổ
Chon von
Cùa con chim phượng hoàng
Trên đại ngàn hùng vĩơ)

★★
Sự thật vổn không ưa trang trí
Đòi thanh cao quen dáng đơn sơ
Lịch sử thường đỉ những lối không ngờ
Một lều cồ làm mũi tên chi hưởng.

Có ai biết, ngày xưa kia, cái làng nghèo vất vưò*ng /-


Khu rừng hoang, hồ vắng, nắng tàn
Không đủ nuôi đời dấn cắt cỏ Phẩn, lan ỉ
Người đã đến
Vói công nhân
Âm thầm gieo hạt Sống ỉ
Mái tóc giả che vầng trán rộng
Như bóng mây giấu ánh mặt tròi
Liếp rơm khô không ẳm lưng Người
Miếng bánh nhồ, vài con cá muối
Thè cũng đủ.

(1) Lời của Sta-lỉn: « Lê-nin là con chùn phượng hoàng của đạỉ ngàn».

210
Mấy cành liễu rũ
Một « phòng xanh »(!)
Làm đại bẳn doanh
Vla-đi-mia I-lích Lê-nin
Đôi mắt rực niềm tin
Tựa gồc thông già
Ngồi viết bản trường ca hùng tráng
Nhà mxớc và Cách mạng.

★★
Người ò* đây
Nghe gió thổi rì rào
Và ngoài xa, sổng vỗ ào ào
Biền động.
Pê-tơ-rô-grát, mùa hè bức nóng
Tất cả đòi giải phóng.
Vùng lên !
«Toàn bộ chính quyển
Về tay Xô viết ỉ »
Đại hội Đảng nghe tiếng Người
Quyết liệt :
Hãy chuẩn bị tiến công !
Một phút chần chừ là chết.
Trời sắp rạng đông.
Lê-nin bước đi, sôi nổi, giữa rừng thông
Cồ đồng ngập lối
Mà như cùng muôn triệu công nông
Xông vào Cung điện Mùa Đông
Đầu súng lá cờ đỏ chói.
Và túp lều
Rất đỗi thân yêu
Cũng rung lên, kiêu hãnh
Thách tất cả
Những ngôi vua, tòa thánh
Những chiến lũy, pháo đài.
Vì có Ngưòi
Đang sửa soạn Ngày mai.

★★1
(1) « Phồng xanh » ĩ Lê-nin gọi như thè noi làm việc trong rừng.

211
Chú đồng chí
Con ai thế nhi ?
Tuổi mười hai đuổi bướm bắt chim.
— Em ò’ đây, bên Bác Lê-nin
Người làm việc, cần em canh gác.
— Cha em đâu ?
— Cha làm súng và đi liên lạcí1)
— Và mẹ em ?
— Mẹ cùng anh, nướng bánh, đưa đường
Thuyền qua về, hôm sớm, trong sương . . .
Vui lắm nhé. Ở đây rất thích
Em yêu nhất trên đời : I-lích
Người với em đi cất vó chiều chiểu
Và đêm đêm, Bác cháu ngù chung lều
Em cứ thương — Người trớ mình thao thức
Kéo chăn mỏng đắp cho em ấm ngực
Rồi lặng yên, nghe dậy nước triều xa
Người nghĩ suy
Đến khi rừng bừng sáng tiếng chim ca . . .


★★

Thoảng trong gió mùi thơm cồ dại


Câu chuyện cũ. Hôm nay sổng lại
Giữa lòng ta, tưoi đẹp vô cùng
Kô-li-a, chú bé anh hùng(12)
Lều con hỡi, nhớ chăng người bạn nhò ?
Chúng tôi đến thăm làng Anh đó
Những ngôi nhà gỗ sơn xanh
Rèm hoa cửa sổ.
Chẳng còn Anh.

(1) Cả gia đình đổng chí Ê-mê-li-a-nốp, công nhân xưởng vũ khí, đã bảo vệ
Lê-nin trong những ngày Người ỏ” Ra-dơ-líp.

(2) Kô-li-a ỉà con trai của đông chí Ê-mê-li-a-nốp, v ề sau hy sinh trên chiền
trường.

212
Nắng sáng long lanh
Gương hổ Ra-dơ-líp
Mặt đá hoa cương
Viện bảo tàng nhộn nhịp
Bốn phương mừng trăm tuổi Lê-nin
Gặp nhau đây, mà tưởng ở quê mình(1)
Túp lều cỏ thành trái tim nhân loại.

Hang Pẳc bó cũng nơi này, có phải ?

Ra về, lòng mãi bâng khuâng


Rừng thông tuyết phủ, trắng ngần lều con. . .
4-1970

TUỎI 25

Hôm nay, chung một ngày sinh


Ta mừng nhau, ta tự chúc mình
Đất nước huy hoàng 25 tuồi trẻ.
Hoa huệ trắng nờ trong vườn, lặng lẽ
Nẳng thu say bưởi chín vàng cành
Chưa bao giờ đẹp thế, sẳc trời xanh
Và sắc đỏ của lá cờ ra trận.
Ôi hạnh phúc ! Ta yêu ta vô tận
Những mẹ đưa con ba bận lên đường
Chỉ dặn dò : đây đó, một quê hương
Thế cũng đù cho con chiển thẳng.
Những người vợ biết tình sâu nghĩa nặng
Anh đi đi ! Em gắng nuôi nhà
Biết cầm cày và cầm súng cho ta
Gieo giống mới làm nên mùa gặt lớn.

(1) Hôm chúng tôi đến thăm Ra-dơ-líp, gặp nhiều bạn quốc tế đèn thăm lều cỏ
Lê-nin (chú thích của T.H.).

213
Các em nữa, bữa ăn khoai sẳn độn
Áo phong phanh, mưa nắng biết che nhau
Sáng đi trường, chiểu lại theo trâu
Em cũng hiểu thế nào là đánh Mỹ.
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống, chẳng cúi đầu ỉ chết, vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hom cường bạo.
« Đường mòn Hồ Chí Minh » là con đường sáng tạo
Trường scm cao hay địa đạo âm thầm
Cũng là linh hồn ta, từ bốn nghìn năm
Tự xây đắp đề ngang tầm thế kỳ.
Vàng bạc uy quyển không làm ra chân lý
Óc nghĩ suy không thể mượn vay
Bạch đẳng xưa, Cửu long nay
Tẳm gội lòng ta, chẳng bao giò cạn.
Ta tin ò* sức mình, vô hạn
Như ta tin ớ tuổi 25
Cùa chúng ta, là tuồi trăng rằm
Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái.
Ta tin ồ* loài người thúc nhanh thòi đại
Những sông Thương bên đục bên trong
Chảy về xuôi, càng đẹp xanh dòng
Lịch sử vẫn một sồng Hồng vĩ đại.
Thưa Bác
Một năm Bác đi xa
Nhìn lại :
Đất nước có buồn
Nhưng mỗi chúng con
Mang hồn Bác
Vâng lời Bác dạy
Càng lớn khôn.
Nhà vẳng cha thường vậy :
Càng đùm bọc, thương nhau
Anh trước em sau
Lo toan, gánh vác.
Con đường của Bác
Con đường Đông dương
Trăm nẻo chiến trường
Tiến công giặc Mỹ.

214
Miền Nam, Miền — Nam— dũng — sĩ
Biền dậy sóng thẩn.
Miền Bắc chuyển mùa, phoi phới lúa xuân
Bông đầy, hạt mẩy
ô i ! Nếu được như năm xưa ấy
Bác trờ về
Thăm cảnh thăm quê !

Chứng con tin : Bác vẫn đi về


Nghìn năm xin trọn lòi thề nước non !
2-9-1970

BÀI CA XUÂN 71
Gớt-tơ nói : Phải hành động.
Lê-nin ỉ Nên biềt ước mơ.

71 đến, nghiêm trang. Như người lính


Có lệnh là đi. T ư thế sẵn sàng.
Gương mặt sáng nụ cười bình tĩnh
Màu áo xanh tưoi khỏe, nhẹ nhàng.

Trung ưcmg họp. Giữa ngày rét giá


Con én về bên cửa sè, nhìn sang :
Bộ T ư lệnh ỉ những lớp tóc hoa râm,
những mái đầu trắng xóa
vẫn có Bác, ung dung, trông xuống, dịu dàng.

Kế hoạch đã vạch xong,


Tiền tuyền, ra sức tiến công
Hậu phương, hèt lòng chi viện.
Ních-xơn 1
Mày có thể đốt cháy Trường sơn
Không thể ngăn đường, lấp biền.
Ta đấ đi, là đến.

215
Đất nước vào xuân gọi những cánh đồng
Gỉổng mới rộn ràng năm tấn
Dáng thẳng những chàng trai hăng lập chiến công
Biếc mắt bèo dâu, đẹp như những cô gái xã viên
tiễn người ra trận*
Đáng yêu sao, những mảnh đất bạc màu
Những quầ đồi hoang xói lồ*
Nghe Đảng khuyên, bỗng thấy mình giàu
Hết tím hoa mua, sẽ trắng mùa hoa sờ*
Dâu hẹn vàng tơ, chè mơ thêm lứa
Lạc lên xanh bát ngát chân trời
Đền cỏ dại cũng ngọt thành cồ sữa
Sắn khoai khô cũng đem mật cho đòi*
Anh họa sĩ làng Hồ, lại đây anh mà vẽ
Đàn bò mộng Cu ba đủng đỉnh đi, ngắm núi Ba vì
Những chú lợn lai lớn cao hơn ỷ mẹ
.Và những mái gà Hung làm bạn với gà ri.

★★
Cái mới đèn. Buổi đầu sinh nò*
Mỗi ngày vui một quả trứng hồng.
Sức trẻ dậy, mặt người rạng rỡ
Nước non này xanh cả mùa đông.
Giặc Mỹ phá, thì ta xây lại.
Lấp hố bom mà dựng lò cao
Nhà máy tựa hang sâu, vững chãi
Ta tựa lòng ta, rất đỗi tự hào.
Cuộc sổng lổ*n có đôi mắt Đảng
Mỗi bước đi gần, nâng ước mơ xa
Hòn than nhò cũng bừng lên ánh sáng
Một Thác bà reo, gọi điện sông Đà.
Ta sẽ khai những mồ dầu, mỏ sẳt
Đóng những con tàu đi khắp đại dương
Nhưng phải luyện những con người đẹp nhất
Biết căm thù và biết yêu thương.

★★

216
16 năm rồi. Nửa ta máu ứa
Biết mấy mẹ già chống cửa trông con
Các em ta đã theo cha mấy lứa
Hà nội đau, tim & Huế, Sài gòn !

Miền Nam oi, miền Nam quê hương


Xuân này, Bác không làm thơ nữa.
Nóng bổng Lời kêu gọi của Trung ương
Cả nước hành quân, ra tuyến lửa.

Ta sẽ đánh, đánh những đòn sét đánh


Lũ điểu hâu phải rã cánh tan đầu.
Tố quốc giục. Không sợ dài lâu, ta quyềt mau lớn mạnh
Mờ con đường Hồ Chí Minh sáng đến mai sau . . .

Chắc Bác sẽ vui lòng


Như mỗi khi ghi một thành công
Người khen : « Thế là tố t».
Hãy xứng đáng, hỡi năm 71 !
1-1971

217
V—MỘT s ó BÀI THƠ
SAU «RA TRẬN»
CÂY HỒNG

Nhà anh có một cây hồng


Quả son nhún nhẩy đèn lồng cành tơ
Cây hồng như thực như mơ
Khách qua đường những ngẩn ngơ . . . ghẻ nhìn.
Ai tri ầm, hãy đèn tìm
Quả hồng như thể trái tim giữa đòi
Cây hồng đất nước, em oi
Càng sương giá lạnh, càng ngời sẳc xuân !
12-1971

THĂM TRẠI BA v ỉ

Đầu năm thăm trại Ba vì


Ph6*n phơ bò giống, xanh rì cỏ non
Bò to như chú voi con
Lạ lùng quê mới, mắt tròn ngó quanh
Hồ Suối hai, nước trong xanh
Tản viên, núi đẹp như tranh giữa tròi.

218
Bâng khuâng bổn biền tình đòi
Càng thương muôn dặm đất người Cu b a . . .
1-1-1972

XIN GỬI MIỀN NAM

Tôi lại làm thơ, như mỗi lần


Nghe ầm tròi, lất phất mưa xuân
Con chim chích nhở mùa táo chín
Rúc rích về ăn trái ngoài sân

Con chim reo . . . con chim reo, rộn rã


Những niềm vui vừa lạ vừa thân
Đất nước cả hai miền giục giã
Một mùa hoa trái mới tới g ần . . .

Lúa bỗng nhớ minh xuân, hớn hờ


Trải xanh đổng màu mỡ phù sa
Con sông Hồng lại về xuôi, êm ả
Thắng lũ rổi, ta thêm vững tin ta.

Vui biết bao, bài ca năm tấn


Âm rừng hoang ánh lửa công trường
Tuổi xuân hát bài ca ra trận
Mỗi chàng trai, một Lê Mã Lương.

Những cô gái thương Lê Hồng Gấm


Tải đạn về giải phóng quê hương
T ố quốc ơi 1 Nguồn vui vô tận
Hồ Chí Minh, đẹp nhất con đường !

Ôi ! Cái vui đồng chí, đổng bào


Giữa ngày xuân, tiền tuyến xôn xao. . .
Phải bao máu thấm trong lòng đất
Mỏi ánh hống lên sắc tự hào !
Tình bạn, thêm nồng qua lửa đạn
Đưcmg xa, càng vững chí anh hùng.
Tự do, không phải hàng mua bán
Sẽ đến ngày mai, trận cuối cùng !

Xin gửi miền Nam, khúc hát xuân


Đứa con xa mơ được về gần
Như trong vườn táo, con chim chích
Ríu rít mừng theo lịch tiến quân. . .
31-1-1972

VIỆT NAM —MÁU VÀ HOA

Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ


Hôm nay. Vui đến, ngỡ trong mơ
Một trời êm ả, xanh không tưởng
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ

Đây cuộc hồi sinh, buổi hóa thân


Mùa đông thế kỷ chuyền sang xuân
Ôi Việt nam ỉ Từ trong biền máu
Người vươn lên, như một thiên thần I

Thế này chăng ? Thuở xưa hoang dã


Chàng Sơn tinh thắng giặc Thủy tinh
Càng dâng nước, càng cao ngọn núi
Chân Trường sơn đạp sóng Thái bình.

★★
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phầm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.

220
Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho T ố quốc, và cho Tất cả
Lá cờ này là máu là da
Cùa ta, của con người, vô giá.

Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu


Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nưởc mẳt rơi, làm nhòa mặt quân thù^1)
Em phải bẳn, trúng đầu giặc Mỹ.

Tình thương lớn, mạnh hơn lửa thép


Trận địa đây xây giữa lòng người
Dầu mưa nắng, trái đất tròn vẫn đẹp
Đời yêu ta, ta phải thẳng chò Đời.

★★
Cút sạch đi, bầy sói hôi tanh !
Đã đến buổi cuối cùng phán quyết :
Trả về ta, đất rộng trời xanh
Cho bay, những hố bom làm huyệt.

Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi


Dưới gươm thiêng hùng khí Thù đô
Cả bốn biển hoan hô Hà nội
Pháo đài bay rụng đò mặt hồ.

Ngọc hà em ! Lộng lẫy hoa tươi


Xin thơm khắp miền Nam, miền Bắc
Chắc Bác Hồ vui, xin kính dâng Người
Và tặng cả anh em cùng ta đánh giặc.

(1) Bom Mỹ đã giết hại mẹ và cha của chị Phạm Thị Viễn, thợ nguội 22 tuổi, một
tay súng tự vệ Hà nội tài giòi, đã cùng đồng đội bẳn roi một chiếc F. 111 đêm 22-12-1972.
Chị n ó i: «Đau thương và căm thù giặc Mỹ lẳm ! Nhưng em không thể đề nước mắt
làm nhòa mất mặt kẻ thù ».

221
Không nỗi đau nào riêng của aií1)
Cùa chung nhân loại, chiến công này*
Việt nam oi, máu và hoa ấy
Có đù mai sau, thẳm những ngày ?

Chưa đễ lành đâu, những vết thương


Nửa mình còn nhức, hõi quê hương !
Song mùa vui đã mang xuân tới
Đã tắt hôm nay lửa chiền trường.

Rừng núi đã xanh màu giải phóng


Hãy trào lên, ơi sóng Cửu long
Quét phăng những rác bùn ứ đọng
Những thép gai ngăn mặt, cẳt lòng.

Ta lại về ta, những đứa con


Máu hòa trong máu, đò như son.
Sài gòn ơi, Huế ơ i ! Xin đợi
Tái hợp, huy hoàng, cả Nước non ỉ
28-1-1973

(1) M ư ợ n tên m ột bộ phim của nhà th ơ X i-m ô-nổp (Liên xô) tố cáo tội ác của
giặc M ỹ ở Việt nam.

222
PHỤ LỤC

MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ THƠ TÓ HỮU

i. N H À VÂ N ĐẶNG TH A I M A I:

♦. ♦vỏí TỔ Hữu, thơ là vữ khí chiến đấu cách mạng. Đó chính là


đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.
Tố Hữu là nhà thơ chi viết đề phục vụ cách mạng từ trước
đến sau. Vinh dự củ a thi sĩ là đã ghi được một thành công chắc
chắn cho vãn học của nước nhà, cho văn học cách mạng, văn học
xây dựng theo nguyên tắc c ủ a Đ ảng. . .
Vời Tố Hữu, nghệ thuật không hề mâu thuẫn vỏi đời sống í
con người làm thơ với con người hành động chỉ là một. Sống
là hành động, thơ cũng hành động. Thơ với Tố Hữu là hình thức
tươi đẹp của hoạt động cách mạng, c ủ a đời sống.
. . . Thơ Tố Hữu là «bó hoa lử a » lộng lẫy, nồng nàn, kết
tinh trên cơ sò* của một hiện thực vĩ đại cuộc sồng cách mạng dân
tộc, dân chủ trong mười năm, dưổi ánh sáng của Đảng, của tư
tường Mác — Lê-nin. Trên lập trường tư tường đó, nhà thơ chièn
sĩ đã gạt bò mọi ý nghĩ, tình cảm cá nhân chù nghĩa về vui, buồn,
sướng, khổ, sổng, thác ra ngoài tầm tính toán c ủ a hàng ngày để
đem tất cả mà hiến dâng cho Đảng. Tình yêu củ a con người đối
với con người, đồi với tự nhiên, với sự sỗng, tình yêu T ố quốc,
yêu quê hương, yêu cái đẹp, yêu lý tưồ*ng với T ố Hữu đã được
giải quyết theo một tinh thần mới. Cũng chính vì Tố Hữu đẵ dứt
khoát trên lập trường tư tướng, nên câu thơ của T ố Hữu đã thích
hợp ngay với khấu vị củ a quần chứng cách mạng. Tố Hữu không
hề bị vướng víu bòi hình thức chù nghĩa. Khi đời sổng tư tưòng,

223
tình cảm củ a thi sĩ đã hòa họp thành một khối với nhân dân thì
từ ngữ, hình tư ợ n g , âm điệu cũng tự nhiên thành củ a chung c ủ a
nhân dân.
ỉ Thơ T ố Hữu đã ghi một thành công vẻ vang trong văn học
I hiện đại Việt nam. Ẳy là vì ngay từ giờ đầu nhà thơ đã được tôi
luyện trong đấu tranh cách mạng theo đường lối c ủ a Đảng. Anh
không hề có ý đem thơ ca để biểu hiện cái tư thế hoặc tâm tình
riêng củ a mình. Anh đã tìm tòi trong ngọn nguổn văn học truyền
thống của nước nhà, đã thu hút một phần những yèu t ố lành mạnh
trong văn học thế giới đề nói lên cái tinh thần nhân đạo tích cực
cùng với cái ý chí bất khuất củ a nhân dân Việt nam. Qua những
ngày thảm đạm nhất trong lịch sử, thi sĩ đã báo trước cho mọi
người một «tin lành» : cơn dông đang nhóm lên ở chân trời lịch
sử rổi đây sẽ quét sạch cái không khí oi ả củ a thế giói cũ, và thè
giới tương lai, thế giới c ủ a nhân dân lao động, sẽ thấy thẳng lợi
của chính nghĩa, sẽ thấy một «ngày mai huy hoàng». Lòng tin của
Tố Hữu dưới ánh sáng củ a học thuyết Mác — Lê-nin không hề có
ý vị ảo tướng. Ây chính là vì trên cơ sớ nhận thức rất biện chứng
về xu thế củ a xã hội, Tố Hữu đã thực hiện được sự thống nhất
giữa tình cảm với lý tính, giữa nghệ thuật với hành động, giữa hình
thức với nội dung . . .
♦ .. Đời sống xứ Huề vẫn nổi tièng là chứa chan thi vị. Núi
Ngự, sông Hương là một khung cảnh rất «nên th ơ ». Con người
xứ Huế vẫn nổi tiếng là con người tình tứ dồi dào. «Đánh thơ»
cũng như ca lý sầu não mà các nhà vièt địa chí ngày trước vẫn
gọi là «vong quốc chi ca ». Xứ Huế cũng đã sản sinh những thi
sĩ hoàng phái với những lời thơ cầu kỳ theo lối Tùng Thiện, Tuy
Lý. Nhưng trong truyền thống thơ ca xứ Huế, còn có một ngọn
nguồn lành mạnh hơn. Nó là những lời mộc mạc trong những tập
kể truyện theo lối Tha mạ Đội, hay Mã Long, Mã Phụng, có một
lúc bỗng được lưu hành rất nhiều cr miền Trung và miền Nam
nưổ-c ta. Nó là những câu hò mái đẩy chứa chan ý nhị :
«Đò từ Đông ba, đò qua Đập đá
Đò về Vĩ dạ, thẳng ngã ba Sình
Là đà bóng ngã trăng chênh,
Giọng hò xa vọng nhắn tình mr&c non. . . »
« Tình nước n o n . . . » Người xứ Huế vẫn nhiều quyến luyến
với tình nước non. Sau những ngày sầu thảm c ủ a lịch sử nước

224
nhà, một bài ca như bài K in h th à n h th ấ t th ủ cũng như Ngày dỗ
ám hòn mãi đến sau này vẫn được ủ ấp kín đáo trong lòng của
nhân dân. T ừ cuối thế kỷ trước, khi nhìn thấy cả một triều đình
bất lực trong công cuộc chống giặc, cứu nước, người dân cằt tièng
hồi chua chát, mỉa mai :
«Lập trường ra văn với võ thi tài
Ý làm sao cừa Thuận an Tây lầy,
ưần Bình đài cờ treo?»
Nói rằng con người xứ Huế đã được «m ớ m » thơ từ trong
sữa mẹ, từ trong không khí c ủ a núi Ngự, sông Hương, hồi còn
lên một lên hai, có lẽ cũng chẳng phải quá lời. Đối vói T ố Hữu,
cái hay ỏ* đây là đã hấp thụ được những yếu tố lành mạnh trong
truyền thống dân ca của xứ s ở . . .
(« Mầy ỷ nghĩ» — T ừ ấy, 1959)

2, NH À VĂN H O ÀI TH AN H :

. . . Hai mưoi lăm, hai mươi sáu năm trước, người thanh niên
ấy bước vào đời, và :
«Băn khoăn đì kiềm tễ yêu đừi.»
Đẳng đã đưa lại cho anh cái lẽ lớn ấy, và từ đó, anh đã đi
theo con đường của Đảng, không ngừng không nghỉ, phấn đấu dưới
ngọn cờ c ủ a Đảng.
Thơ anh là tiếng hát của anh trong chiến đấu. Con đường cách
mạng ngày một mờ rộng, ngày một vươn cao. Nhưng tiếng hát củ a
cách mạng ỏ* người này người khác không phải không có những khi
đuổi sức, thậm chí có thể tắt đi không sao nối lại được. Thơ Tố
H ữ u . . . tiếng hát củ a anh cũng như con người anh vẫn tiến kịp
theo vói đà tiến rất nhanh c ủ a cách mạng. T ử áy, tập thơ đầu
của anh bổng bột, sôi nổi, nhưng ý thơ và lời thơ trong nhiều bài
chưa phầi đã chín lắm. V iệt bắc già dặn hơn nhiều, nhưng chưa
có được cái tầm nhìn cũa Gió lộng. Có thể nói chính nhà thơ đã
tự mình tóm tắt Giỏ lộng trong mấy câu :
«Chào 61ỉ Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mẳt nhìn bồn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông t&ỉ mai sau
Trông Bẳc trông Nam, trông cà địa cầu.»

225
Tố Hữu lúc này đẵ đứng vững trên vị trí rất cao c ủ a nước
Việt nam dân chù cộng hòa sau ngày chiến thẳng (đế quốc Pháp —
Người biên soạn) và trên đỉnh rất cao của một thè giới quan cộng
sản, từng trải qua nhiều thử thách khác nhau trong những hoàn cảnh
khác nhau. Gió lộng vẫn kế tục V iệt bắc và T ừ ầy. Cũng vẫn
một ánh sáng ấy, ánh sáng của lý tường cộng sản trong thơ. Nhưng
lúc này trong trẻo hơn, ít xao động hơn. Rõ ràng là một bước tiến
xa về tư tưémg và nghệ thuật, nhất là so với T ừ ầ v . . .
. . . Gió lộng đề cập đến nhiều vấn đề với những khía cạnh
mà nhiều người cầm bút thường hay né bút tránh đi cho tiện. Ngòi
bút Tố Hữu đã không né tránh. Có thể nói Giỏ lộng vẫn tiếp
tục cái gan dạ c ủ a T ừ áy trong một hoàn cảnh mới. Cũng như
người thanh niên cộng sản ngày xưa, người cán bộ lãnh đạo ngày
nay vẫn nhìn thằng vào những vấn đề lớn, những vấn đề nóng hổi
của thời đại. Nhưng không phải táo bạo để mà táo bạo. Táo bạo
vì nắm chắc chân lý và phải táo bạo đề nói lên chân lý.
Cũng cái táo bạo ấy trong tình cảm c ủ a nhà thơ. Có thể, so
với T ừ áy, thì có kém phần bống bột, nhưng không hề kém phần
mãnh liệt. Cái khó là táo bạo mãnh liệt mà lại đúng. Theo tôi, Tố
Hữu cũng có một hai khi đi hơi quá, nhưng nói chung là đúng mức.
Trong triết học, người ta hay nói đèn khái niệm về độ. Vô luận một
cái gì, vượt qua cái độ của nó, sẽ biến chất đi. Trong nghệ thuật,
lại càng phải chú ý đèn cái ranh giỏi ấy giữa hay và dớ, đẹp và
xấu. Bước đến chỗ ranh giới ấy là có cái nguy rơi xuống hố. Nhưng
chỗ ranh giới ấy lại là chỗ c ủ a những đỉnh cao. Vậy thì làm thế
nào ? Lùi lại ba bưỏ*c, đứng vào những chỗ đứng tầm thường cho
chắc chắn được bình yên vô sự ? Không, Tố Hữu, cũng như các
nhà nghệ thuật lớn xưa nay, đã chọn những đỉnh cao và anh đã
có đù sức để đứng vững chân trên miệng hố.
Trồ* lại bài thơ tặng chị Lý : Không phải dễ mà mò* đầu bài
thơ bằng những câu hỏi :
«Em là ai? Cô gái hay nàng tiên, . . . »
Không thực sự hiểu cái vĩ đại của chị Lý, không dám ca ngợi
hết lời, hết mức cái vĩ đại ấy, sẽ không đù sức để viết một câu
như thế nó rất dễ bièn thành lần thần. Và giữa lúc tư tường phong

226
kiến còn tổn tại rất nhiều trong xã hội Việt nam, cũng sẽ không
đù sức nói lên cái câu :
«Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngẳt.»
đề dổn vào đấy tất cả lòng kính phục, yêu thương và căm thù c ủ a
mình trước tấm thân bị tàn phá của người con gái Việt nam.
Chỗ khác, nhà thơ gọi Hỉ Nhi, gọi người con gái Ba lan bằng
«e m » mà người đọc chỉ thấy có tình bạn bè, tình đổng chí. Rồi
nói với Hi Nhi mà nói :
«Em đẹp, em thơm nhw quả tảo đẩu cành.»
cũng chì thấy có trân trọng, có mến yêu. Vì đẹp thơm đây là nói
cuộc đời Hỉ Nhi mà cũng là nói cuộc đời c ủ a mỗi chúng ta sau
ngày giải phóng. Nếu có lấy một tí lẫn lộn ồ’ chỗ này thì khồng
bao giờ dám dùng chữ như thế.
Một thí dụ khác. Trong bài Mẹ T ơ m , khi tôi đọc đến câu :
« Sồng trong cát, chềt vùi trong cảu»
tôi tưcmg chừng như nghe lại câu nới ghê người củ a Kinh thánh
đạo Gia-tô : « Thân cát bụi lại trồ1 về cát b ụ i», một câu nói đã nặng
đè lên đời sống củ a hàng triệu triệu người trong hàng nghìn năm
và cũng đã nặng đè lên đòi sống của tôi trong những năm dài thê
thảm. Tôi có cảm giác như lại sắp roi vào vực thẳm những tư
tướng chán chường tuyệt vọng. Tôi không ngờ tiếp theo đó lại
là câu ỉ
«Những trải tim như ngọc sáng ngờL»
Bàn tay rất khỏe của nhà thơ đã giữ tôi cùng đứng lại vói
anh trên miệng vực. Thiếu nhiệt tình, thiếu lạc quan cách mạng,
không thể đứng vững như thế này ở nơi biên giói giữa thiên đường
và địa ngục.
Tứ thơ táo bạo, tình cảm trong thơ mãnh liệt mà bước đi
của bài thơ lại lắm bất ngờ. Bài thơ của Tố Hữu thường đầy bất
ngờ và rất phong phú. Bất ngờ và phong phú như cuộc sổng. Cuộc
sống là chuyện không thể đoán trước được từng chi tiết, mặc dù
vẫn có thể đoán trước được phương hướng tất nhiên. Nhiều bài
thơ Tố Hữu cũng vậy. Tiêu biểu nhất về phương diện này là Bài
ca mùa xuân 1961.

227
V

Từ «cành táo đầu h è » dưới ánh nẳng xuân chuyền sang «hỡi
em yêu» với một mầu chuyện tâm tình rồi lại cảnh xuân trên đồng
lúa chiêm bát ngát, bỗng đột nhiên nhổ* Nguyễn Du, Nguyễn Trãi,
rồi lại đột nhiên một cửa hàng bách hóa. Trước khi một tứ thơ,
một lòi thơ đến, người đọc không thể nào ngờ là nỏ đến, nhưng
nó đã đến rồi thì lại hiển nhiên là nó phải đền. Ví dụ từ nhớ lại
Nguyễn Du, Nguyễn Trãi chuyển sang :
«Ôi tiềng cha cha ông thuở trước
Xin hát cùng non nước hôm nay.»
thì vẫn tự nhiên và bước đi c ủ a bài thơ đầy bất ngờ và ngẫu
nhiên, nhưng hoàn toàn không tản mạn và vẫn đi theo một hướng
duy nhất : cuộc sống chúng ta vừa giành được như một hòn ngọc
quí, ta phải biết trân trọng, biết nâng niu, bièt giữ gìn lấy nó đề
cho nó ngày một thêm sáng, thêm trong. . .
(«Phê bình và tiều luận», tập 2)

3. NHÀ TH Ơ CHẺ L A N VIỀN:

. . . Nói đến Tố Hữu — về thơ, phải nói vai trò mỏr đầu và hiện
vẫn là dẫn đầu c ủ a anh trong nền thơ hiện thực xẵ hội chủ nghĩa
của chúng ta. Sự thành công của anh trước Cách mạng đã xúc tiến
sự hình thành của thơ hiện thực xã hội chù nghĩa sau Cách mạng.
Khi chúng ta đang tìm đường, nhận đường thì đã thấy một ví dụ
sống trên đường là tác phẳm T ố Hữu đấy rồi.
Cũng lại không thể không nói đển lòng trung thành c ủ a Tố
Hữu đối với lý tường cộng sản, với tổ chức Đảng và đường lối
văn học của Đầng. Không có Đảng thì không có thơ anh. Tâm hồn
anh, máu thịt anh, nội dung các tác phẩm của anh, cách anh nhìn
và bút pháp của anh nữa có thể nói tất cả đểu là củ a Đảng đã cho
anh. Anh là một nhà thơ cộng sản.
. . . Bài thơ sau khác bài thơ trước, tập thơ này khác tập thơ
ị kia, nhưng muôn nghìn nhịp đập cũng chỉ là c ủ a một con tim, Ị
Sáng tác 16 năm qua củ a Tố Hữu chỉ là sự phát triền nhân lên
của một lý tư&ng ấy, xoay quanh một cái lõi ấy. Tả tình hay tả
cảnh, kề chuyện mình hay kề chuyện người, viết về các vấn đề lớn
hay về một sự việc nhò đối vói anh là đề nói cho được cái lý tường
cộng sản ấy thôi.

228
Nhờ thế, những câu thơ anh liền một bài; những bài thơ anh
liển một tập, những quyển sách anh liền một đời. Giữa bài thơ anh
ít có chữ nhưng cắt làm hai đoạn. Trong đời thơ anh, anh không
phải hối tiếc về giai đoạn nọ hay giai đoạn kia. . .
(«L ời giới thiệu» T h ơ Tố H ữ u , 1963)

4. NH À L Ỷ LU ẬN PHÊ B ÌN H X U Â N TR Ư Ờ N G :

. . . Bộ đội, cán bộ, nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhử thơ
Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê
hương, yêu đất nưỏ*c. . . khêu gọi trong lòng chúng ta sức tin tường
ò* chúng ta, ở những con người lao động đã chiến đấu, sản xuất và
đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thẩn lạc quan cách mạng cùa
chúng ta, của nhân dân ta, vì thơ T ố Hữu đã hun đúc thêm chỉ
căm thù, nâng cao chí khỉ chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo
vệ quê hương, đất n ư ớ c . . .
(* Mầy vấn đề văn nghệ», 1961)

5. NH À V Ả N N G U YỀN Đ ÌN H TH I:

. ♦. Chiến thắng Việt bắc của bộ đội và nhân dân ta đã làm


cho Tố Hữu tạo nên được một chiến thẳng Việt bắc trong thơ.
Anh viết liền một hơi những bài Bà m ẹ Việt bắc, L ư ợ m , Bao
g iờ h ết giặc (tức Bả bủ), rồi đến Bầm ơ i, Voi, G iữa th àn h
phố trụ i, P h ả đưòrng. Tôi cùng đi với anh theo các đổng chí pháo
binh, ban ngày hành quân, đêm tói, anh trung đội trường chúng
tôi cho chúng tôi một ống dầu dọc, và Tố Hữu đã vièt bài hành
khúc Voi 0*1 (tức bài Voi) đề sáng hôm sau có thơ hát cho nhẹ vai
gánh đại bác. Anh nói chuyện với bà cụ chủ nhà chúng tôi ở, và
anh ngồi bên bếp viết «Bà bù không ngù bà lo bời b ờ i». Những
con người thực, những sự việc thực củ a đòi sống hàng ngày lúc
đó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm h ồ n anh, làm nẩy sinh
những bài thơ như măng mọc sau mưa xuân, như những đóa hoa
đồng tươi thắm.
. . . Tố Hữu không biểu hiện những con người quần chúng một
cách cứng nhắc, giả tạo. Mỗi nhân vật c ủ a anh đều khá rõ nét,
không lẫn lộn với nhau, những trường hợp anh đưa ra khác nhau,

229
và những tình cảm của nhân vật thơ anh cũng nhiều vẻ. Nhà thơ
nhìn vào cuộc sồng thực và cố trung thành vói quần chúng thực
chung quanh anh, chứ không suy luận ra những nhân vật, tình cảm
cho đúng với một kiểu «hiện thực xã hội chù nghĩa» nào tướng
tượng ra trong óc. Một điểm chứng tổ tính chất hiện thực ấy của
thơ T ố Hữu là những con người anh mô tả đểu rất rõ bản sắc
dân tộc. Anh bộ đội hiền lành «tì tay trên mũi súng» ấy là anh
bộ đội Việt nam của nấm 1947, còn quen tì tay trên cán cuốc, khi
ngồi nghỉ ngoài đồng. Bà mẹ ấy, em bẻ ấy, chị nông dân đi phá
đường ấy, là bà mẹ, em bé, là chị nông dân Việt nam. Khung cảnh
đất nước, ánh sáng bầu trời, bóng tre, màu lúa, hay tiếng mưa trong
núi, rổi tấm áo nâu hay vạt áo chàm, nét mặt con người, giọng cười,
câu nói, cho đến lồi nhìn, nghe, lồi ví von, tất cả những cái ấy quyện
vào nhau tạo cho những bài thơ Tố Hữu một «không khí» dân
tộc không thể nào đem tách ra thành từng điềm «một, hai, b a »
được. Tính ch?.t dân tộc làm cho những nhân vật «sống» một cách
cụ thể, in sâu vào lòng người. Và ngược trở lại, chính nhờ đi vào
đời sống quần chúng, mà Tố Hữu đã hiều được đất nước và biết
yêu dân tộc một cách sâu sắc hơn trước.
Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người
của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm
nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bển
gan bền chí, rất dễ vui ngay trong kháng chiến gian khổ. Tình yêu
ấy của Tố Hữu dịu dàng, đầm ấm, chan chứa kính mến và đượm
cả xót thương, có đôi khi đến bùi ngùi. Mồi khi đọc lại những câu
bà ru cháu trong bài Cá n iró c, tôi không thể ngăn được mình như
nghe thấy tiếng võng đưa kẽo kẹt, đầu một «xóm tre xanh» nào :
«Cháu ơi cháu lởn với bà
Bồ mày đi đánh giặc xa chưa về
Cháu ngoan cháu ngả đi nhe
Mẹ mày đi chợ bán chè bán rau
Bố đi đánh giặc còn lâu
Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tồi ngày.»
Khi Tố Hữu tẳ «Bà bù nằm ổ chuối khô» nhớ con suốt đến
sáng, bài thơ ngắn gọn, những câu thơ gân guốc và như những
tảng đất của một luổng cày, những cành đất nước phác ra vừa đù,
đời sống đất nước, người của đất nước rõ mổn một.

230
«Bà bả nằm ổ chuồi khô
Bà bả không ngủ bà lo bời bời
Đêm nay thảng chạp mồng mười
Vài mươi bữa nữa tềt rồi hềt năm. . . »
Và lòng người mẹ thương con ấy cũng là lòng thương không
cùng c ủ a bà mẹ Việt nam :
«Nhà còn ổ chuối lừa rơm
Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì
Năm xưa cơm cả ngon chi
Năm nay cơm giẻ nhà thì vẳng con
Bà bả gan ruột bổn chồn
Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồL»
Diễn tả sự sống dân tộc, cũng nhờ đi vào quần chúng, cố gắng
nói tiếng nói của quần chúng, Tố Hữu đã tìm được tiếng nói Việt
nam trong sáng của ca dao. Đi vào quẩn chúng, tìm cách diễn đạt
dân tộc, câu thơ của T ố Hữu trồ1 nên liền mạch, chữ sau theo chữ
trước, câu trước nối với câu sau, tự nhiên như chân tay nổi với
thân thể, như những bước đi của mệt người sống. Và tiếng nói Việt
nam luôn luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu. Có những
câu thơ trong suốt, mới nhìn không thấy gì lạ cũng như khi ta
nhìn vào một dòng suối. Nhưng đọc rồi nhớ mãi, cái ngọt củ a nước
suồi ấy uống không chán.
«Nhà em phơi lúa chưa khô
Ngô chừa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá âưò-ng quan. . . »
hay là :
«Chủ bẻ loẳt choẳt
Cải xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sảo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đương vàng.»
( Mảy vần đề văn học ■>, 1955)

231
ố. NH À TH Ơ X U Â N DIỆU:

. . . T ừ ấy và V iệt bắc, hai tập thơ gồm hai mươi năm thơ
của Tố Hữu, mỗi tập một vè, đã đóng góp vào thơ Việt nam hiện
đại một cống hiến hàng đầu, đại diện ưu tủ cho luồng thơ ca cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. T ừ ẩy là cái tình đầu của
luồng thơ cách mạng ấy, nó ham mê, hăng say, nó là một thanh niên.
Việt bắc chín hơn, đi dần vào cái trong sáng, cái hàm súc cổ điền.
T ừ áy là thác, mới, mớ đường cho Việt bắc là con đường chững
rộng. . . Ta yêu thích, quí trọng cả hai.
♦ .. Con đường ngót hai mươi năm nay T ố Hữu đã đi là một
con đường vinh quang, nhà thỉ sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng
làm thơ, nhà thơ là con đẻ của cách mạng và kềt tỉnh cuộc cách
mạng. Cả cuộc đòi c ủ a T ố Hữu đến nay là một thùy tinh trong
sáng, từ tuổi thiếu niên đi học đã hoàỉ bão phản phong, phản đế,
tuổi thanh niên là bao nhiêu năm tù đày, vượt ngục, tuổi tráng niên
mải miết dựng xây, thực hành, lãnh đạo, cái say mê vui thú cửa
T ố Hữu là làm cách mạng, cái hơi thỏ' tự nhiên củ a tâm h ồ n Tố
Hữu là chiến đấu hy sinh ; thơ Tố Hữu hay, vì cuộc đòi và tâm
hồn của T ố Hữu đẹp, cuộc đòi Tố Hữu là một bài thơ cách mạng rồi.
Thơ T ố Hữu từ cuộc đòi cách mạng củ a thi sĩ và từ phong
trào cách mạng của nhân dân mà phát ra, trờ lại góp sức đẩy cho
cách mạng lớn mạnh, cách mạng càng ngày càng thẳng lọi, càng
to lớn, đống thời cũng đưa bài thơ của Tố Hữu nồ* dần đến chỗ
tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương quan mật thiết giữa hành động
và văn chương , mà Tố Hữu là một điển hình rất đẹp.
. . . Đọc thơ Tố Hữu, người ta cảm thấy dấu hiệu riêng như nét
mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được
với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng
bạc thấm lấy các câu thơ, nhiều khi thành một cái «thi tại ngôn
ngoại» c ủ a thơ Tố Hữu. Cái nển nhạc đó, theo ý tôi, là lòng
thương mến . , .
(« Phê bình giới thiệu th<y», 1960)

232
MỘT SỚ ĐỀ TẬP LÀM VẪN

1» Trong những bài thơ của Tố Hữu in trong sách này, em thích
những bài thơ nào nhất ? Vì sao ?
2. Em hãy bình giảng một trong hai bài thơ sau đây của Tố Hữu :
« T ừ ấy » hoặc « Tiếng r u ». (Tự lựa chọn).
3. Hãy phân tích nội dung và nghệ thuật trong bài thơ «Tấm
ảnh» c ủ a Tố Hữu.
4. Em hãy phân tích hình ảnh người phụ nữ Việt nam trong thơ
Tố Hữu.
5. Em hãy so sánh hình ảnh người bộ đội trong thời kỳ kháng
chiến chổng Pháp (qua tập thơ «Việt bắc») và người giầi phóng
quân trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước (qua tập thơ « Ra trận »).
6. « Tôi muốn viềt những đòng thơ tươi xanh
vẫn nóng viết những dòng thơ lừa chảy.»
(Có thể nào yên.)
Dựa vào ý c ủ a hai câu thơ trên, em hãy phân tích tình cảm
của Tố Hữu đối với miền Nam «muôn quí ngàn yêu».
7. « Gió lộng » cũng là tiếng thét căm thù đối vói bọn Mỹ — Diệm
ò* miền Nam Việt nam. Qua các bài thơ viết về miền Nam
trích trong tập « Gió lộng», em hãy chứng minh nhận định đó.
8. Một đặc điểm của thơ Tố Hữu là rất giàu nhạc điệu. Qua việc
phân tích một số câu thơ của Tố Hữu, em hãy chứng minh rằng
nhà thơ đẵ sử dụng yếu t ố nhạc ưong thơ đề diễn đạt nộỉ.
dung rất tàỉ tình.
9. Trong bài «Mấy ý nghĩ» in ở đầu tập thơ « T ừ ấy » của Tố
Hữu, nhà văn Đặng Thai Mai có nhận định : «Với Tố Hữu,
thơ là vũ khỉ đầu tranh cách mạng».
Em hãy chứng minh nhận định trên.
10. Nhận định về tập thơ « V iệt bẵc », nhà văn Hoài Thanh có v iế t:
« Cả tập V iệt bắc xây dựng trên một tình yêu lớn : tình yêu
nưửc ; giá trị và tác dụng c ủ a tập thơ là ở đ ó ».
Em hẵy chứng minh nhận định trên.

233
11. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết trong lòi giỏi thiệu cuốn T h ơ
Tố H ữ u : « Tả tình hay tả cầnh, kề chuyện mình hay kể chuyện
người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ, đối vói
anh (tức là nhà thơ T ố Hữu) là để nói cho được cái lý tường
cộng sản ầy thôi».
Em hãy chứng minh nhận định trên.
12. Là bài ca đánh Mỹ, «Ra trận» của T ố Hữu đồng thời cũng
là bài ca thẳng Mỹ. Đằng tập thơ «Ra trận», nhất là những
bài thơ từ 1965 đến nay, hãy chứng minh nhận định tổng quát
trên đây.
13. Nói về thơ Tỗ Hữu, nhà thơ Xuân Diệu viết : « Thơ Tố Hữu
. . . từ phong trào cách mạng của nhân dân mà phát ra, trỏ*
lại góp sức đầy cho cách mạng lớn mạnh ; cách mạng càng ngày
càng thắng lợi to lổ-n, càng đưa bài thơ của Tố Hữu nồ* dần đền
chỗ tròn đầy, lộng lẫy».
Em hãy chứng minh nhận xét đổ.
14. Qua các bài t h ơ : «HỒ Chi M inh», «Sảng Thảng N ăm »,
«Bảc ơi», nhất là «Theo chán B ả c», hãy phân tích hình ảnh
của Bác Hồ trong thơ Tố Hữu.
15. Trong bài thơ Việt nam — Mảu và Hoa, T ố Hữu v iế t:
« . . . Chưa đễ lành đâu, những vềt thượng
Nừa mình còn nhức, hỡi quê hương!
Song mùa vui đã mang xuân tới
Đã tẳt hôm nay lừa chiên trương».
Qua các câu thơ trên đây, hãy phân tích cảm xúc và suy
nghĩ của Tố Hữu đồi với miền Nam và cả nưỏ,c ta sau ngày
Hiệp nghị Pa-ri được ký kẽt, đồng thời liên hệ đên nhiệm vụ
của chúng ta trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và đấu
tranh giữ vững hòa bình.

234
MỤC LỤC

Trang Trang
L ời nói đẩu 7 23. Quyêt hy sinh 48
24. Bà má Hậu giang 49
Gi&i thiệu chung về Tô H ữu và
25. Ba tỉèng 51
thơ’ T ố H ữu 9
26. Tiếng chuông nhà thờ 52
27. Một tiếng rao đêm 53
28. Dậy mà đi ỉ 55
I — TỪ ẤY
29. Tiếng hát đi đày 55
Giới' thiệu tác phẩm 19 30. Đềm giao thừa 57
31. Đi 57
1. Hai đứa bé 25
32. Xuân đền 58
2. Vú em 26
33 HS Chí Minh 59
3. Đi đi em 26
34. Huề tháng Tám 61
4. Dửng đung - 28
35. Giết giặc 62
5. Hỏi cụ Ngáo 29
6. Tiêng hát sông Hưong 36. Xuân nhân loại 63
29
7. Hãy đứng đậy 30
8. Liên hiệp lại 31 II — V IỆT B Ẳ C
9. Như những con tàu 32
10. Từ ấy 32 Giới thiệu tác phàm 65
11. Tiếng sáo Ly Quê 33 37. Tình khoai sắn 71
12. Những người không chèt 34 38. Trường tôi 72
13. Ý xuân 35 39. Cá nước 73
14. Tâm tư trong tù 36 40. Phá đường 75
15. Con chim của tôi 37 41. Bà mẹ Việt bắc 76
16. Khỉ con tu hú 38 42. Lên Tây bắc 80
17. Nhớ đông 39 43. Bà bù 82
18. Giờ’ quyết định 40 44. Bẩm oi 82
19. Dậy lên thanh niên 41 45. Lượm 84
20. Châu Ro 42 46. Em bé Triều tiên 85
21. Trăng trối 44 47. Voi 87
22. Con cá, chột nưa 45 48. Đ ọi anh về 88

235
Trang Trang
49. Cho đòi tự đo 90 74. Miền Nam 160
50. Bài ca tháng Mười 90 75. Trên đường thiên lý 162
51. Sáng thảng Năm 91 76. Từ Cu-ba 165
52. Hoan hô chiền sĩ Điện biền 94 77. Hãy nhớ lấy lời tồi 167
53. Ta đi tói 97 78. Tiếng hát sang xuân 170
54. Việt bẳc 99 79. Tiễn đưa 172
55. Lại về 104 80. Chièc áo xanh 172
81. Bài ca lái xe đêm 173
82. Những ngọn đèn 174
III — GIỎ LỘNG
83. Mẹ Suốt 175
Giới thiệu tác phẩm Ỉ06 84. Ê-mi-ly, co n . . . 176
56. X ư a. . . nay 85. Xuân sớm 179 ^
115
57. 86. Tấm ảnh 181
Trên miền Bẳc mùa xuân 116
87. Kinh gừi cụ Nguyễn Du 181
58. Quê mẹ 117
59. Ba bài thơ trăng 120 88. Chào xuân 1967 183
60. Với Lê-nin 121 89. Bài ca xuân 68 185
61. Phạm Hồng Thái 124 90. Chuyện em . . . 187
62. 91. Xuân 69 190
Mùa thu mói 124
63. 92. Bác oi ỉ 192
Người con gái Việt nam 126
93. Theo chân Bác 194
64. Thù muôn đời muôn kiềp
không tan 94. Lều cò Lê-nin 209
127
95. Tuổi 25 213
65. Em ơ i. . . Ba lan . . . 129
96. Bài ca xuân 71 215
66. Ba mươi năm đời ta có Đảng 132
67. Tiêng chổi tre 139
68. Tiêng ru 140 y — M Ộ T S Ố BÀI T H Ơ
69. Cánh chim không mỏi 141 S A U «R A TR Ậ N »
70. Bài ca mùa xuân 1961 142
71. Mẹ Tơm 146 97. Cầy hông 218
98. Thăm trại Ba vi 218
99. Xin gửi miến Nam 219
IV — RA TRẬN 100. Việt nam— Máu và hoa 220
Giớiỉ thiệu tác phẩm 150 Phạlạc ĩ
72. Có thể nào yên ? 156 Một số nhận định về thơ Tố Hữu 223
73. Lá thư Bèn tre 158 Một sổ đề Tập làm văn 233

236
r

You might also like