Professional Documents
Culture Documents
Thơ
TỐ HỮU
Trong chương trình văn học ở bậc phổ thông theo hệ thống 12 năm của ta, học
sinh học khá nhiều về thơ Tố Hữu, qua các bài tập đọc, học thuộc lòng, giảng văn, văn
học sử Việt nam v.v . . . , vì thơ Tố Hữu có một vị trí quan trọng trong nền thơ ca cách
mạng, cũng như trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca.
Thơ Tố Hữu, cho đến nay, đã xuất bản được bốn tập chính : 1) T ừ ấy (1937 —
1946) ; 2) V iệt b ắc (1946 — 1954) ; 3) Gió lộ n g (1955— 1961) ; 4) Ra
trận (1962 — 1971) và sau tập « Ra tr ậ n », tác giả còn tiếp tục sáng tác.
Nhằm giúp cho học sinh, nhất là học sinh cấp 2 và cấp 3 có tài liệu đọc thêm về
thơ Tố Hữu, chúng tôi xuất bản tuyển tập « Thơ Tố Hữu » (giới thiệu và chọn lọc)
này, để qua đây học sinh hiểu thêm về Tố Hữu, hiểu thêm về xu hướng của thơ ca
cách mạng Việt nam hiện đại, mà Tố Hữu là người tiêu biểu nhất.
Trong nội dung tuyển tập, ngoài phần chọn lọc những bài thơ hay, tiêu biểu, có
phần « g iớ i tliiệu ch u n g » đề người đọc có thể nhìn tồng quát về quá trình phát triển
của thơ Tố Hữu và các phần g iớ i thiệu riên g về từ n g tập thơ của Tố Hữu,
để học sinh nắm được những đặc điểm cơ bản của từng tập thơ đó.
Về các bài thơ chọn lọc, do muốn để cho học sinh sau khi đọc mỗi bài thơ, tự tìm
hiểu, cảm thụ cái hay, cái đẹp của nó, cho nên chúng tôi không có gợi ý gì thêm.
Mong rằng tập « Thơ Tố Hữu » này, cũng như những tác phẩm chọn lọc khác,
sẽ đóng góp một phần vào việc nâng cao chất lượng học tập văn học trước mắt và lâu
dài của học sinh miền Nam chúng ta.
9
báo chí công khai, trong nhà tù thực dân nhất là sau Cách mạng
tháng T á m . . . , người ta thấy Tố Hữu là một nhà thơ «trữ tình
cách mạng» của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt nam,
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác — Lê-nin.
Từ ấy đến nay, Tố Hữu là người chiến sĩ đã chiến đấu quên
mình cho cách mạng Việt nam. Hiện nay, nhà thơ là bí thư trung
ương Đảng Lao động Việt nam.
Nhìn chung, khi người chiến sĩ trong Tố Hữu cất bước lên
đường đấu tranh cho lý tưởng cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc cũng là khi con người nhà thơ trong Tố Hữu cất tiếng
thơ để phục vụ cách mạng. T ừ ấy, con người chiến sĩ và con
người thi sĩ trong Tố Hữu, tuy hai mà một, thống nhất biện chứng
với nhau. Con người chiến sĩ đã chắp cánh cho con người thi sĩ,
và con người thi sĩ đã làm cho con người chiến sĩ có thêm một
vũ khí đấu tranh trên con đường hoạt động cách mạng của mình.
Trước Cách mạng tháng Tám, người chiến sĩ yêu nước và người
chiến sĩ cách mạng Tố Hữu, trên con đường đấu tranh giành độc
lập, tự do cho xứ sở, có Từ ấy, để cổ vũ chính mình, khích lệ đồng
chí, và tuyên truyền giác ngộ quần chúng.
Trong kháng chiến chống Pháp, người cán bộ kháng chiến Tố
Hữu có thêm Việt bắc để tâm tình và động viên quần chúng tham
gia đánh giặc, giữ nước.
Kiến thiết chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống
nhứt nước nhà, người cán bộ cách mạng Tố Hữu có thêm Gió
lộng để cùng quần chúng cất tiếng reo ca trước cuộc sống mới xã
hội chủ nghĩa và cất tiếng thét căm thù, tiếng gọi đấu tranh chống
lại bọn cướp nước và bán nước ở miền Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tố Hữu có thêm Ra
trận để cùng nhân dân quần chúng hát khúc ca chiến đấu và
chiến thắng . . .
Con đường cách mạng của nhân dân, của dân tộc chúng ta hiện
nay, cũng là con đường thơ của Tố Hữu. Vinh dự cho Tố Hữu
là trên con đường cách mạng đó, nhà thơ đã cắm được những nhành
hoa tươi đẹp, tạo nên những cái mốc nhất định cho bước đường
thơ ca của mình. Nhà thơ trong Tố Hữu đã lớn lên theo bước
trưởng thành của người chiến sĩ và bước trưởng thành của cuộc
10
sống cách mạng. Lý tưởng, tâm hồn, cuộc sống cách mạng, cùng
những tình cảm lớn của dân tộc, của thời đại, với muôn màu vẻ
cao đẹp của nó, là cơ sở của tất cả những gì đẹp đẽ, cao quí trong
thơ Tố Hữu.
T ự hào về Tố Hữu, về thơ Tố Hữu, chúng ta càng tự hào
về cách mạng Việt nam, về nhân dân Việt nam, dân tộc Việt nam. . .
★
★★
Phải nói rằng : trong văn học Việt nam hiện đại, từ những
năm 30 trở lại đây, nói đến thơ ca cách mạng sau khi nói đến thơ
Bác Hồ — vì thơ Bác có một vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử
thơ ca nước nhà — người ta nói đến thơ Tố Hữu. Tố Hữu là
con chim đầu đàn trong làng thơ Việt nam hiện nay. Và thơ Tố
Hữu là lá cờ đầu của thơ ca Việt nam, từ sau Cách mạng tháng
Tám. Thực tiễn sáng tác của Tố Hữu đã giải quyết hàng loạt vấn
đề mà thơ ca dân tộc ta đã và đang đặt ra. Chẳng hạn như các
vấn đề : quan hệ giữa thơ ca và cuộc sống, giữa phục vụ kịp thời
và giá trị lâu dài, giữa phổ cập và nâng cao, giữa tính dân tộc và
tính hiện đại của thơ; vấn đề xác lập phong cách và tìm sự đổi
mới cho phong cách; v.v. . . cả vấn đề dịch thơ n ữ a . . . Trên thực
tế sáng tác, tất cả các vấn đề đó đều được nhà thơ giải quyết ổn
thỏa. Do đâu và nhờ đâu mà thơ Tổ Hữu có sự thành công ấy ?
Tất nhiên có vấn đề tài năng. Nhưng trước hết vẫn là vấn đề lý
tư ởng. Lý tư ởng cách mạng, làm thơ để phục vụ cách mạng, đó
là bí quyết thành công của Tố Hữu trong thơ ca. T ừ buổi đầu,
nhà thơ đã đứng vững trên lập trường cách mạng để mà sáng tác,
mà phục vụ. Từ buổi đầu, nội dung lý tưỏng cách mạng đã được
nhà thơ quan niệm rất cụ thể : giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân lao động, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng một
xã hội công bằng, không còn áp bức, bóc lộ t.. . trên đất nước Việt
nam thân yêu. Từ năm 1930 đến nay, cuộc sống của dân tộc Việt
nam ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không ngừng đi lên,
không ngừng tiến lên trên con đường đó. Kết tinh từ cuộc sống anh
hùng của nhân dân, của đất nước, trên 35 năm nay, thơ Tố Hữu
.
là bài ca về sự chiến thắng của lý tưởng cách mạng tiên tiến trên
đất nước Việt nam anh hùng
Thơ Tổ Hữu là bức tranh trung thành về hình ảnh những
con người mới và cuộc sống mới của dân tộc, của thời đại mang
11
ánh sáng của lý tưởng cách mạng trong từng chặng đường lịch sử.
Trong vừng hào quang của lý tưởng đó, những sự kiện lịch sử vĩ
đại của đất nước, những con người anh hùng của thời đại đã đi
vào thơ Tố Hữu với vẻ đẹp vốn có của mình.
Trong thực tế cuộc sống cách mạng, chúng ta có một Điện biên
phủ, một Việt bắc, một miền N am . . . và trong thơ ca Việt nam,
chúng ta cũng có một Điện biên phủ «trên đất nước như huân
chương trên ngực», một Việt bắc «bốn phương lồng lộng thủ đô
gió ngàn», một miền Nam «ngọn đèn mặt biển», «đất anh hùng
của thế kỷ hai mươi» . . .
Trong thực tế cuộc sống cách mạng, chúng ta có một chị Lý,
một anh Trỗi, một mẹ Suốt. . . Nhưng trong thơ ca Việt nam chúng
ta có một «người con gái Việt nam », một «con người như chân
lý sinh r a » một bà mẹ «một tay lái chiếc đò ngang» và mái tóc
«gió lay như sóng biển tung trắng bờ » . . .
Thơ Tố Hữu sáng ngời lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Và
có nhiều lý do để nói : thơ Tố Hữu là hài ca của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt nam, là thiên anh hùng ca của thời đại.
Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp, sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước đã phát huy
đến cao độ truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Kết tinh từ
cuộc sống anh hùng đó, thơ Tố Hữu là bài ca của chủ nghĩa yêu
nước Việt nam trong thời đại mới. T ư tưởng, tình cảm yêu nước
trong thơ Tố Hữu, do đó, chiếm những đỉnh cao mà thơ ca thời
trước không thể có được.
Hình ảnh đất nước, bóng dừa, sông lạch, cánh cò, con ong,
hạt mưa, ánh nắng, ánh mây chiều, màu xanh lúa. . . đi vào thơ Tố
Hữu thiết tha muôn quí ngàn yêu và cũng hết sức hùng vĩ. Cả
những tên của từng địa phương đất nước mà ta mới đặt sau cách
mạng, như khu Bốn, khu N ăm . . . cũng reo lên như nhạc, ánh lên
như ngọc.
Hình ảnh nhân dân đất nước : những em bé, những bà mẹ
chiến sĩ, những chị phụ nữ, những anh du kích, anh bộ đội, anh
giải phóng quân. . . đều được nhà thơ ghi lại với bao nhiêu niềm
mến thương trân trọng.
12
/
Quá khứ dân tộc, tương lai đất nước cũng được Tố Hữu nói
đến với tấm lòng hiểu biết sâu sắc và với niềm tin sắt đá. Trong
thơ Tố Hữu, có Nguyễn Du « lệ chảy quanh thân Kiều», có
« tiếng gươm khua» của Nguyễn Trãi, có «gió ngày mai thổi lại»,
có «hồn thời đại bay cao», có hình ảnh của Bác Hồ « Người đi
trước nghìn sương muôn tuyết» «cánh chim không mỏi sớm
chiều vẫn bay », hình ảnh những liệt sĩ cách mạng « những hồn Trần
Phú vô danh, sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn», hình ảnh
những người anh hùng «chết như sống anh hùng vĩ đại» . . . và
đất nước hôm nay, nhất là trong những ngày chống Mỹ, rực rỡ
như mặt trời phương Đông :
«Hãy nhìn hướng phương Đông mà tiến
Hỡi những con tàu trên các đại dương.»
Sự nghiệp của nhân dân anh hùng lừng lẫy bốn biển năm châu :
«Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương.»
Bám rất chắc vào đời sống hiện thực, phản ánh những vấn đề
nóng hổi của cuộc sống, ghi nhận những hình ảnh mới của con
người, cùng những tình cảm lớn của dân tộc, của thời đại trong
từng chặng đường lịch sử, thơ Tố Hữu vì thế vừa có tính chất
thời sự lại vừa có giá trị lâu dài. Không có bài thơ nào mang
tính thời sự hơn những bài thơ : Hoan hô chiến sĩ Điện biên,
N gườ i con gái Việt nam , H ãy n h ớ lầy lờ i t ô i . . . , nhưng
chính những bài thơ đó, cho đến nay, vẫn rất xúc động lòng người,
dù những vấn đề thời sự mà các bài thơ đó đề cập đến có khi
không còn là vấn đề nóng hổi nữa.
Bám rất chắc vào cuộc sống cách mạng, kết tinh từ cuộc sống
cách mạng luôn luôn đổi mới, thơ Tố Hữu vì thế vừa có vẻ đẹp
cổ điển, lại vừa mang vẻ đẹp mới lạ.
Đọc Tố Hữu, trong từng tập thơ cũng như trong từng bài
thơ, nhiều khi ta gặp những hình ảnh, những tứ thơ bất ngờ, thú
vị mà lại rất đúng, rất quen. «Bài thơ của Tố Hữu thường đầy
bất ngờ và rất phong phú. Bất ngờ và phong phú như cuộc sống.»
(Hoài Thanh), v ẻ đẹp, vẻ thơ của Tố Hữu, trước hết và trên căn
bản, là vẻ đẹp của con người và cuộc sống dân tộc ngày một đi
lên theo con đường cách mạng. Thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc
mà cũng rất hiện đại, bởi vì một chị dân công Bắc giang, một bà
13
mẹ Suốt, một chị Lý, một anh T rỗ i. . . là những con người của
thòi đại mới, nhưng trong tâm h ồ n của mình, họ mang biết bao
nhiêu vè đẹp phong phú của truyền thống dân tộc đã được cách
mạng xây đắp, bồi dưỡng và phát huy. Họ là hình ảnh những người
p h ụ nữ, những người thanh niên của từng thời kỳ lịch sử nhất
định, nhưng đều là hình ảnh của những người Việt nam chân chính
biết yêu nước, yêu cách mạng. Nhìn vào họ, người ta tìm thấy từng
bước trưởng thành của những người phụ nữ, những người thanh
niên của thế hệ Hồ Chí Minh.
Tố Hữu không ngừng tìm tòi những hình thức mới của thơ
ca để biểu đạt cuộc sống mới, con người mới và những tư tưởng,
tình cảm mới, nhưng bao giờ nhà thơ cũng tìm tòi, sáng tạo trên
vốn thơ ca truyền thống của dân tộc. Chỉ riêng về thể thơ mà nói,
người ta có thể lấy nhiều ví dụ v ề nhiều thể thơ dân tộc được
Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo và nâng lên ở mức độ cao
hơn. Tiếp tục Nguyễn Du và các nhà thơ khác, T ố Hữu đã làm
cho thể thơ lục bát uyển chuyền, nhuần nhụy hơn trong bài thơ
Việt b ắc; Tố Hữu đã đặt dấu nối giữa diễn ca và thơ ở Ba
m ươi năm đ ờ i ta có Đảng, đã đưa thể vè kể chuyện lên tầm
những bài thơ hay ở Con cá, chột nư a . . . Người ta cũng có thể
tìm thấy việc T ố Hữu thổi hồn thơ dân tộc vào những bài thơ theo
một thể rất mới, vào những vần thơ mà cách đặt câu, ghép tiếng
rất khác với thơ truyền thống. Các bài thơ : T iếng chổi tre, Vớ i
Lê-nin và một số câu, số đoạn trong Em ơ i . . . Ba l a n . . . là
những ví dụ cụ thể. Cũng còn tìm thấy đây đó trong thơ Tố Hữu
bóng dáng một câu Kiều, một câu ca dao, một lời thơ của Phan
Bội Châu. . . , thậm chí một tứ thơ của văn học tiến bộ thế giới,
mà vẫn rất Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu rất đại chúng, rất gần gũi với lời nói thường
ngày của nhân dân, mà vẫn rất diêu luyện, nhuần nhụy ; cái hay,
cái đẹp của thơ Tố Hữu là cái hay, cái đẹp mà quần chúng nhân
dân đều có thể hiểu được. Tố Hữu không bao giờ cầu kỳ, trái lại
luôn luôn chân tình và thân tình. Nhân vật trữ tình quen thuộc
của thơ T ố Hữu là những con người bình thường mà rất anh hùng :
những em bé, những người phụ nữ, những người chiến s ĩ . . . ;
cảm nghĩ của họ là cảm nghĩ của quần chúng tiên tiến. Do đó, đọc
thơ Tố Hữu, quần chúng nhân dân nhận được mình và nâng được
mình lên.
14
Xung quanh vấn đề đặc điểm về phong cách và bút pháp củ a
Tố Hữu, có khá nhiều ý kiến nhận định. Có người cho rằng thơ
Tố Hữu rất giàu nhạc điệu : nhạc, đó là một yếu tố góp phần làm
nên phong cách của nhà thơ ; Tố Hữu không những cảm nghĩ qua
âm nhạc, mà còn bằng âm nhạc ; yếu tố nhạc trong thơ đã góp
phần chở hồn thơ dân tộc trong thơ Tố Hữu (Chế Lan Viên). Có
người đã nhận xét rằng : từ trước đến sau, thơ T ố Hữu được viết
ra chỉ để phục vụ cách mạng, nhưng thơ Tố Hữu lại ấm áp như
tình mẹ, ngọt ngào như tình yêu. . . (Xuân Trường). Một số người
khác cũng đã đi sâu tìm hiểu cách xây dựng hình ảnh củ a nhà
thơ : có ý kiến cho rằng tác giả thiên về xây dựng hình ảnh động
hơn là hình ảnh tĩnh , v. v. . .
Và để lý giải vấn đề đặc điểm phong cách và bút pháp Tố Hữu,
người ta đã tìm đến quê hương xứ Huế, hoàn cảnh gia đình, thơ
văn truyền thống, cuộc sống cách mạng của dân tộc và của nhà thơ,
cũng như ảnh hưởng của văn học Pháp và cả của phong trào « Thơ
m ới» trong phần hình thức thể thơ, ngôn ngữ thơ v.v.. . Nhưng
thực tế là, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
về phong cách thơ Tố Hữu một cách toàn diện và sâu sắc. Rõ ràng
là để tìm hiểu và lý giải một phong cách như phong cách Tố Hữu,
cần phải có một công trình củ a nhiều người và lâu dài.
Có điều chắc chắn rằng có một phong cách thơ Tố Hữu. Và
phong cách đó không đóng đinh một chỗ mà ngày một đổi mới, và
sự đổi mới đó ngày một trở thành đặc sắc riêng của T ố Hữu. Đó là
một phong cách rất đa dạng mà vẫn nhất quán và không ngừng đi
lên. « Rất T ố Hữu mà không đơn điệu» (Hoài Thanh). Khi đọc một
câu thơ của Tố Hữu, dù không được giới thiệu tác giả, người
ta vẫn nhận biết tác giả c ủ a nó. Cũng như khi đọc một câu thơ
nào đó, biết chắc tác giả củ a nó không phải là T ố Hữu, người ta
vẫn cứ nói : giống thơ Tố Hữu quá. Bài thơ trước củ a nhà thơ
quen thân chúng ta khác với bài thơ sau, tập thơ trước khác với
tập thơ sau, nhưng đó vẫn là thơ Tố Hữu.
★
Nói chung, thơ Tố Hữu thể hiện một sự hài hòa tuyệt đẹp của
những hương sắc tình cảm của con ngươi Việt nam trong tình cảm đối
với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước.
15
« Vì sao ngày một thanh tân ?
Vì sao người một mến thân hơn nhiều ?
Vì sao cuộc sống ta yêu
Mỗi giây mỗi phút sớm chiều thiết tha ?
Vì sao mỗi hạt mưa sa,
Mỗi tia nắng rọi cũng là tình chung ? ... »
Vì sao ? Vì có cách mạng, có lãnh tụ, có đất nước. Vì :
«Bốn nghìn năm, ta lại là ta.»
« Nói nghệ thuật là nói qui luật của tình cảm» (Lê Duẩn). Thơ
T ố Hữu biểu hiện thành công một hiện tượng có tính qui luật của
đời sống tình cảm Việt nam : Từ trên 40 năm nay, tình cảm đối
với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước, như sợi chỉ hồng xuyên
qua mọi mặt c ủ a cuộc sống tình cảm người dân Việt nam, tạo nên
một sự hài hòa tuyệt đẹp trong đời sổng tình cảm c ủ a dân tộc.
Điều đó giải thích thơ Tố Hữu chỉ nói và hát vì cách mạng thôi,
nhưng lại có cái ấm áp của tình mẹ, cái ngọt ngào củ a tình yêu,
cái mát lành củ a tình quê, cái tím ngát của tình bạn, cái thắm thiết
của tình đồng ch í. . . Điều đó làm nên cái đầm ấm, tươi mát, ngọt
lành, thân thương c ủ a lời thơ Tố Hữu.
Hãy lấy bài thơ V iệt b ắ c làm ví dụ. Chúng ta nghe thấy cái
mình — ta muôn thuả ngọt ngào một ý vị mới thấm đượm trong
bài thơ :
«Mình về, mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha, mặn nồng.
Mình về, mình có nhớ không ?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn» . . .
Mình — ta, ta — mình có cây, có núi, có sông, có nguồn, có mười
lăm năm ấy. M ình—ta, ta— mình có « hắt hiu lau xám, đậm đà lòng
son», có «sớm khuya bếp lửa người thương đi v ề », nhưng cũng
có « đèn pha bật sáng như ngày mai lên». Mình— ta, ta — mình keo sơn,
gắn bó giữa người cán bộ miền xuôi với người dân miền núi, giữa
nhân dân miền núi với nhân dân miền xuôi, giữa người dân kháng
chiến với cán bộ và anh bộ đội kháng chiến, giữa những người
dân kháng chiến với nhau. Mình— ta, ta— mình là tình cảm thắm thiết
giữa nhân dân với Chính phủ kháng chiến, với Bác Hồ, vói Đảng
Lao động Việt nam . . . Mình— ta . . . ta— mình . . . bao nhiêu là mối tình
kháng chiến thức dậy trong lòng ta. Tình dân, tình nước, tình nhà,
16
tình đồng đội, đồng chí quyện chặt lấy nhau như mình — ta, ta — mình.
Cái đẹp của bài thơ Việt bắc là ở sự hài hòa kỳ diệu mọi hương
sắc tình cảm dân tộc của cả một thời.
Sự hài hòa kỳ diệu mọi hương sắc tình cảm trong tình cảm
đối với cách mạng, với lãnh tụ, với đất nước biểu hiện ở rất nhiều
bài thơ, quyện chặt vào từng câu, từng vần, từng hình ảnh, làm
cho thơ Tố Hữu có một sức rung động kỳ lạ. Những câu thơ :
« Trên đường ta về lại Thủ đô
Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ.»
hay : «Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông trời đất đổi thay đã nhiều.»
và : «Én bay mặt sóng H ồng hà
Én bay vào lại bay ra gọi đàn.»
còn nhiều và rất nhiều câu thơ khác nữa, do đó mà rung động lòng
ta. Đến cả những vần thơ chỉ ghi lại cảm xúc gần như rất riêng
tư và cũng gần như chỉ là một thoáng thôi, khi đi trên đất nước
bạn, như các chuyện :
« Em đẹp, em thơm như quả táo đầu cành,
Phơi phới đời em cao vút như đương xanh.»
hay : «Bâng khuâng nghe năm tháng
Đẹp như người con gái nước Nga.»
hoặc : «Em ơ i . . . Ba lan . . . mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.»
cũng tìm sự rung động người đọc ở tình cảm đối với cuộc sống
mới mà Cách mạng đã đem lại. Biểu hiện thành công một hiện
tượng tình cảm có tính chất qui luật trong đời sống tình cảm dân
tộc, thơ Tố Hữu đã tự khẳng định giá trị hiện thực lớn lao tự chắp
cho mình những cánh thơ khỏe khoắn và lộng lẫy màu sắc, có thể
hay tới những đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm của thời đại, của dân
tộc và đến với trái tim của hàng triệu quần chúng nhân dân.
Đặt nền móng vững chắc, làm lá cờ đầu cho thơ ca hiện thực
xã hội chù nghĩa ở Việt nam, thơ ca cách mạng của Tố Hữu là thơ
hiện thực mà cũng giàu y ếu t ố lãng mạn. Trong thơ Tố Hữu,
những yếu tố lãng mạn cách mạng ngày càng kết hợp chặt chẽ với
hiện thực cách mạng. Trên cơ sở hiện thực cách mạng ngày càng
17
đổi mới, đôi cánh lãng mạn c ủ a thơ Tố Hữu ngày một bay cao
để đáp ứng với những sự nghiệp lớn lao của đất nước, c ủ a nhân
dân : nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập, tự do, hòa bình, thống
nhất của T ổ quốc, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp
chống giặc giữ nước hết sức vĩ đại, hết sức anh hùng của nhân
dân. Hiện thực cách mạng và lãng mạn cách mạng, chất trữ tình
và chất anh hùng ca, h ồ n thơ dân tộc và hơi thơ thời đại nhuần
nhuyễn, hài hòa trong nhiều bài thơ đã đem lại cho thơ Tố Hữu,
cho thơ dân tộc ta nhiều bài thơ đẹp : Tiếng hát sông Hương,
Việt bắc, Ta đi tớ i, N gư ời con g ái Việt nam, Bài ca mùa
xuân 61, Theo chân Bác. ..
Là lá cờ đầu của thơ ca dân tộc ở một thời đại có những
biến chuyển cách mạng lớn lao, thơ Tố Hữu thường thiên v ề những
đề tài «lớ n », tổng họp, có thiên hướng lịch sử, như : Ta đi
tới, Ba m ươ i năm đờ i ta có Đảng, Theo chân Bác . . . Tuy
vậy, nhà thơ vẫn có nhiều bài thơ viết về những đề tài « nhỏ » như :
Tiếng chổi tre, Tấm ảnh . , . Nhưng ở những bài thơ viết về đề
tài «nhỏ » ấy thường vẫn bao hàm những ý nghĩa «lớ n ». Cũng như
trong khi thể hiện đề tài «lớn », xây dựng hình tượng «lớn », Tố
Hữu vẫn thể hiện và xây dựng trên cơ sở những chi tiết, những
sự kiện «nhỏ» song có ý nghĩa khái quát. Thơ T ố Hữu, vì thế,
vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. (Chế Lan Viên.)
Tóm lại, có những thành công trong thơ Tố Hữu là nhờ có
sự nghiệp cách mạng củ a nhân dân ta, có truyền thống thơ ca của
dân tộc. Vì, ở thời đại Hồ Chí Minh ngời sáng hiện nay, mọi biểu
hiện tươi đẹp của đời sống đều là nhờ công lao của Cách mạng, của nhân
dân. Chính máu thịt của thơ Tố Hữu là do Cách mạng, do nhân dân, do dân
tộc đã mang lại cho nhà thơ và chính thời đại mới đã thổi vào hồn thơ Tố
Hữu một tiếng tiêu mới. Nhưng, chỉ qua một tâm hồn nhạy cảm, luôn được
lý tưởng cách mạng soi đường, cộng với một quá trình lao động nghệ thuật
cần cù, nghiêm túc, tiếng tiêu đó mới ngân xa, vang dội vào tâm khảm của
chúng ta.
Chúng ta tự hào có Tố Hữu, có thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu —một hiện tượng đẹp của thơ ca dân tộc Việt nam.
18
4
I—TỪ ẤY
Tham gia cách mạng ở Huế vào năm 1936, Tố Hữu bắt đầu
làm thơ cách mạng. Và những bài thơ đầu tiên củ a Tố Hữu xuất
hiện trước công chúng từ năm 1937. Đến tháng 9 năm 1939, bị
thực dân Pháp bắt ở Huế và giam ở nhà lao Thừa thiên rồi bị
đày đi Lao bảo, Ban mê thuột, Qui nhơn, Công tum, Đắc lây. . .
và từ tháng 3 năm 1942, vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách
mạng, cho đến sau ngày khởi nghĩa tháng Tám 1945, Tố Hữu vẫn
tiếp tục sáng tác. Năm 1946, tập thơ đầu c ủ a nhà thơ được xuất
bản với nhan đề « Thơ Tố Hữu» do Hội văn hóa cứu quốc Việt
nam in. Rồi năm 1959, những «bài thơ đ ầu » đó được Tố Hữu sửa
chữa, bổ sung và in lại, lấy tên là «Từ ấy ».
Tập thơ Từ ấy gồm ba «tập » nhỏ :
1. Máu lửa (sáng tác trong 19 tháng: 10-1937 — 4-1939).
2. Xiềng xích (sáng tác trong 3 năm bị tù : 1939 — 1942).
3. Giải phóng (sáng tác từ 1942 đến 1946).
Tiêu đề c ủ a các tập thơ nhỏ đó nói lên nội dung của từng
«tậ p ». Từ ấy phản ánh một giai đoạn hoạt động cách mạng và
sáng tác của Tố Hữu, trước và sau Cách mạng tháng Tám (cho
đến năm 1946).
Nói chung, Từ ấy là tiếng hát cảa người thanh niên yêu nước
Việt nam giác ngộ lý tưởng Mác — Lê-nin trong ngày hội lớn c ủ a
cách mạng.
« Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lý chói qua tim.»
19
1'
20
niềm hạnh phúc mà lv tưỏ-ng đưa lại. Niềm vui của người chiến
sĩ yêu nước Việt nam khi gặp lý tưởng Mác — Lê-nin ớ T ừ ẩy,
tuy biểu hiện có khác — vì đây là một tâm hồn thanh niên bồng
bột, rạo rực và củ a lớp người đi sau — nhưng vẫn gợi nhớ niềm
vui của Bác Hồ khi đọc luận cương Lê-nin :
«Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khỏi,
sáng tồ, tin tướng biết bao í Tôi vui sướng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo : «Hỡi đổng bào bị đọa đầy đau khổ !
Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng
của chúng ta 1»
(HỐ CHÍ MINH « Con đường đẫn tôi đèn
chủ nghía Lê-nin »)
21
tường ớ tương lai tươi đẹp c ủ a đất nước, c ủ a xã hội củ a người
cách mạng Việt nam đêm trưỏ'c c ủ a Cách mạng tháng Tám.
«Các anh chị hước lên đài gươm máy,
Đầu sẳp rơi mà môi vẫn cười tươi.»
T ừ áy là tiếng chim báo bão, trong đó có tiếng nói căm
giận đối với xã hội thực dân nửa phong kiến và bè lũ thống trị,
có tiếng phê bình đối với quần chúng chưa giác ngộ, có tiếng còi
giục giã lên đường đấu tranh, nhưng trên cản hàn vẫn là tiếng
hát tin yêu. Tố Hữu là nhà thơ của lòng tin yêu : tin yêu quần
chúng, đổng chí, bè bạn, tin yêu tiền đồ xã hội mới, tương lai đất
nước . . .
T ừ áy là tiềng hát chiến đầu sôi nỗi. Đó là bài ca về chù
nghĩa yêu nước và chù nghĩa anh hùng cách mạng cất cao lên trong
luồng gió mới c ủ a thời đại, trong giai đoạn cách mạng Việt nam
tiấp thu chù nghĩa Mác — Lê-nin và vận dụng vào hoàn cảnh
thực tiễn c ủ a đất nước làm cách mạng phản đế và phản phong.
Trên một ý nghĩa nào đó, T ừ ầv là cuốn sách giáo khoa c ủ a chù
nghĩa Mác — Lê-nin bằng nghệ thuật thơ ca, đã góp phần vào phong
trào vận động văn hóa mác-xít của Đảng Cộng sản Đông dương hổi
bấy giờ. Cuốn sách giáo khoa mác-xít viết bằng thơ — T ừ ầv đã
dạy cho người ta những kiến thức mới về cuộc đời và hạnh phúc
ồ1 đời :
«Đời đấu tranh là một bản hùng ca.»
về lẽ sống chết:
« Không! khôngỉ khôngỉ Anh không chết.
Trong tôi
Ý đời anh đã nấy lộc đâm chồi. .. »
về đức hy sinh và tinh thần xả thân vì nghĩa lớn :
«sồng đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà.»
về hành vi đạo đức và tinh thần danh dự mới :
«Danh dự của riêng thân
Là cảa chung đồng chỉ.»
Với T ừ ăy, nhà thơ thanh niên cách mạng yêu nước Tố Hữu
đẵ trở thành nhà thơ chân chính của thanh niên Việt nam trước
22
Cách mạng tháng Tám, đồng thời của cả những thế hệ thanh niên
Việt nam trong thòi đại cách mạng hiện nay.
Là người thanh niên yêu nước, giác ngộ lý tường Mác — Lê-
nin và nguyện dâng cuộc sống và thơ ca c ủ a mình cho lý tường
đó, người chiến sĩ cách mạng trè tuồi Tố Hữu yêu thương đất nước
rất mực :
« Nước non muôn quí ngàn yêu . . . *
yêu thương nhân dân và đất nước vô hạn :
«Hui những con khôn cảa giông nòi
Những chàng trai qui, gái vêu ơ i!»
Tình yêu đất nước đó cũng chính là tình yêu những cánh đổng quê :
«Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơ iỉ»
Đó cũng là tình yêu thương những em bé « mổ côi», những
chị «vú em », những «lão đầy t ớ », những «lưng cong xuống luống
cày» . . .
Tình yêu thương đó đã dấy lên <juyết tâm giành độc lận, tự
đo cho Tố quồc :
« Nao nao lòng lại mơ theo cờ hồng.»
Trên cơ sò* củ a tình yêu nhân dân lao động kết hợp với tình
yêu nước chân chính, chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp trong T ừ áy
thật là sâu sắc. Một «tiếng rao đêm », một «con chim nhồ» chết
trong lồng, một «tiếng hát sông Hương» . . . vang dội trong thơ Tố
Hữu như là tiếng nổi thiết tha về hạnh phúc, về quyển sống con
người củ a những người dân mất nước, mất tự do, độc lập và do
đó mất cả những gì quí nhất trên đời.
Rõ ràng là thơ ca Việt nam trước Tố Hữu đã có không ít
những bài thơ sáng ngòi giá trị nhẳn đạo chù nghĩa. Nhưng cái
tinh thẩn nhân đạo trong thơ ca trước năm 1930 nói chung không
có được cái chiều rộng và cái tầm cao của chù nghĩa nhân đạo củ a
thơ ca cách mạng hiện đại nói chung và thơ Tố Hữu nói riêng.
Ờ Tố Hữu, nhờ có chù nghĩa Mác — Lê-nin và tinh thần quốc tể
vô sản cao cả soi sáng, nên tình yêu thương c ủ a tác giả đã mò’
rộng cả những người Thượng, người lính gác tù, người đàn bà
Nhật bản dưới ách phát x ít . . .
23
Do có lý tường cách mạng nắm được bước đường tương lai
của xã hội. Tố Hữu đã khẳng định một sự trong sạch vô cùng củ a
người con gái sông Hương về cả thể xác và tâm h ồ n , khi xã hội
đồi mới :
« Ngày mai, cô sẽ từ trong đền ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài,
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.
Ngày mai, gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân.
Ngày mai, trong giá trắng ngần
Cô thôi sống kiếp đày thân giang hổ.»
TỐ Hữu hiểu biết những khổ đau c ủ a quần chúng bị tước
mất quyền tự đo, cơm áo ; nhưng, không dừng lại & đấy, trong
nhiều bài thơ của minh, tác giả còn nuôi cho họ một «mầm uất
hận», một «tròi hy vọng» . . . và kêu gọi họ khắc phục những thái
độ không đúng đề vùng lên đấu tranh với kẻ thù :
«Quyết chiền đầu ỉ Nào ta liên hiệp lại,
Hỡi tù nhân khốn nạn của bần cùngh
Nhìn chung, ồ* T ừ ấy,' cũng như ồ* nhiều thơ văn cách mạng
cùng thòi kỳ, tinh thần nhân đạo chủ nghĩa đã mang một sẳc thái
mới, một tính chất mới, đó là tư tường nhân đạo cộng sản chủ
nghĩa mà cơ sở của nó là lòng tin & bản chất cách mạng cửa
quần chúng, ở sự tẩt thẳng của một chế độ xã hội tươi đẹp, một
tương lai sáng sủa cửa con người.
Thêm vào đó, những tình cảm mới khác của thòi đại như tình
cảm đối vói đồng chí mà Tố Hữu gọi là bạn đời, tình quốc tế
vô sản, tinh của nhân dân đổi vói lãnh tụ trong T ừ ấy cũng được
TỐ Hữu thề hiện vói một vẻ tươi mới và say nồng, « rất đậm hương
và rộn tiểng chim».
Vì vậy, tuy về mặt nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca nói chung, T ừ
ãy chưa thật cô đúc điêu luyện bằng các tập thơ sau của Tố H ữu—
vì đây là tập thơ đầu tay củ a một nhà thơ trẻ — nhưng T ừ ấy vẫn
là một tập thơ «gối đẩu giường» c ủ a nhiều thanh niên, học sinh
cách mạng ; nhiều anh chị em thanh niên, ngay cả ỏ' những vùng
bị địch kiềm soát, o ép, đã vồ vập đọc và chép ở sồ tay củ a mình
nhiều bài thơ trong T ừ áy để học thuộc và hành động theo gương
của nhà thơ thanh niên yêu nước và cách mạng Tố Hữu.
24
HAI ĐỨA BÉ
Tôi không muốn mời anh đi xa lạ
Tìm đau thương trong xã hội điêu tàn.
Kể làm sao cho hết cảnh lầm than
Lúc trái ngược đẵ tràn đầy tất cả ỉ
Này đây anh, một bức tranh gần gũi í
Nó thô sơ ? Cỏ lẽ. Nhưng trung thành.
Nó tẩm thường ? Nhưng chính bồi h ồ n anh
Chê chán kẻ bị đòi vui hất hủi.
Hai đứa bé cùng chung nhà, một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim non
Bụi đòi dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới.
Ố lạ c h ử a ! đứa xinh tròn, mủm mỉm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi t í m !
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày : «Nhạt lắm ! em không ă n ! *
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho cù sắn !
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa ngà, đây lính thổi kèn tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chư ờiK1)
vẫn chưa hết những cảnh đời đau khồ
Nhưng kể làm chi nữa, bạn lòng ơi í
Hai đứa kia như sống dưỏi hai trời
Chi khác bỏi không cùng chung một tồ.
Đứa vui sướng là đứa con nhà chù
Và đứa buồn, con mụ ở làm thuê.
Huế, tháng 10-1937
25
v ú EM
Đ I ĐI EM
26
Em len lét, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cẳp chiếc nón le te
vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nể
Hàng giây tiếng rùa nguyền trên miệng chù !
I 27
DỬNG DƯNG
28
HÓI CỤ NGÁO í1*
(1) Tên một đao phủ của triều đình Huè, đã từng chém những nhà ái quốc, về
già làm nghề thịt chó.
29
— Răngt1) không, cô gái trên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tỏi ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân
Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đày thân giang hồ
Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay
Cô ơi, tháng rộng ngày dài
Mổ* lòng ra đón ngày mai huy hoàng.
(1) Răng : sao (tiếng địa phưong Quàng nam, Thừa thiên. . .).
(2) Ma-rát (1743 — 1793) : một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Cách
mạng tư sản Pháp, tham gia ú y ban cứu quốc trong thời kỳ Công ước quốc dân.
30
Hãy đứng dậy ! ta có quyền vui sống !
Cứ tan xương, cứ chảy tủy, cứ rơi đầu !
Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu
Cho ta bước đến cõi đời cao rộng.
Huề, tháng 4-1938
31
NHƯ NHỮNG CON TÀU
T ừ ẤY
32
Tôi buộc lòng tôi vói mọi người
Đề tình trang trải vói trăm noi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời,
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù b ơ . . .
7-1938
(1) Tên một thièu niên anh dũng trong cuộc trường chỉnh của Hông quân Trung
hoa. Trên đường hành quân, em thường thổi sáo cho Hồng quân nghe (Theo thiên
phóng sự lớn «Nước Trung hoa đỏ trên đường» của nhà văn tiền bộ Mỹ Smidley).
33
Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân
Sáo kêu rẻo rắt xa gần
Sáo kêu giục giã bước chân quân Hồng
Ly Quê trên súng thần công
Nghe con chim hót trong lồng tim xanh. . .
1938
34
Ý đòi anh đã nầy lộc đâm chồi
Trong cân não của một loài cơ cực
Anh đương sống với bao nhiêu sinh lực
Của thân cây đương buổi nhựa lên cành !
Kim nam châm đã hướng dần đời anh
Tôi sẵn có trong tay từ thuở ấy
Đường đi đó, nhổ sào lên, tôi lái
Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyển
Nào cẩn chi biền rộng dẫu bình yên
Hay ghê gớm nồi cồn cao sóng dữ
Tôi cứ lái cho tới ngày mệt lử
Một chiểu kia, dù lại cũng như anh
Trò* về đây trong mạn ván tan tành
Giữa lúc những thuyền kia lưót tới*
Mùa tha 1938
Ỷ XUÂN
35
\
TÂM T U TRONG T ù
36
Ôi ! Bao nhiêu ảo tường của hồn ngây
Tôi phút bỗng như quên đời thê thảm
Ở ngoài kia. . . biết bao thân tù hãm
Đọa đầy trong những hố thẳm không cùng!
Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ một con chim non bé nhò
Vứt trong lồng con giữa một lổng to
Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
vẫn đứng thằng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ !
KHI CON TU H ủ
38
NHỚ ĐỒNG
Tặng Vịnh
39
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiểm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chằng rời
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơK1)
Say đống hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát tròi ♦. ♦
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơ i !
Tháng 7-1939
40
Không thể nữa, không bao giờ được nữa !
Đoàn ghe ta chỉ sống ở trăm tay
Bão cồ xé cho đoàn ta tan rã
Thì mau lên, riết chặt mối ngàn dây !
CHÂU RO
42
Của anh bạn, trong khi sầu não đó
Kể bên tai, bằng một giọng rừng non :
« . . . Mấy năm rồi, xa cái vợ cái con
Tôi nhớ lẳm ! nhớ cái nhà cái cửa
Nhớ cái rẫy nhiều khoai, nhiều bắp lúa
Nhớ con bò to, nhớ mấy con heo
Không biết còn hay Ông(!) bắt chết queo
Đề con đỏi với vợ nghèo trong núi ?»
Rồi bỗng lặng trầm ngâm anh rã rượi
Há hốc mồm như đề gió rừng xa
Cùa quê hương đem lại chút hơi nhà. . .
(2) Đan cải bạng : một lối nói của đổng bào Thượng để chì sự uất ức trong lòng.
43
TRĂNG TRỐI
44
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
Nẻo đường xa, đã mạnh dấn chân vào
Đã từng lăn trong máu dưới gươm trào
Thân đã nặng bới bao gông xiềng xích !
Tôi sẽ chết, tuy chưa về tới đích
Nhưng cần chi, đã có bạn chung đời
Tung hoành trên mặt đất bốn phương trời
Trường giao chiến không một giờ phút lặng !
\ Rồi chiến thẳng sẽ về ta, chiến thẳng
' Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta 1
Trường đấu tranh là một bản hùng ca
Ta sẽ chết trong điệu đàn tranh đấu.
Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu
Cùa một người bạn nhỏ, trước khi đi
Đây là lời trăng trối đề chia ly
Hãy đón nó, bạn đòi ơi, đón nó !
Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ
Sổng đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà 1
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng.
Lao bảo, thảng 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)
45
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ !
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì :
« Ăn đi thôi, ăn đi !
Chết làm chi cho khổ !»
Nghe hẳn thầm quyến rũ
Tôi đò mặt bừng tai :
«Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết !»
46
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự !
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lẳc đầu
Đành không ai biết đâu
vẫn không làm thế được !
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mẳt thần : chù nghĩa.
Đã đứng trong đoàn thể
Bênh vực lợi quyển chung
Sổng chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mì
Như tròng mắt, con ngươi
Đến cạn máu tàn hoi
Không xa ròi kỳ luật !
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội !
Bụng nghe, chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thò’ than chi
Và tôi cười đắc thẳng.
Lao bảo, 11-1940
(Trong những ngày tuyệt thực)
47
QUYẾT HY SINH
Kinh tặng các đồng chi hy sinh
trong cuộc khởi nghía Nam kỳ 1940
48
BÀ MÁ HẬU GIANG
50
Khai mau, tao chém mất đầu !» '
Má già lầy bầy như tàu chuối khô
Má ngẵ xuồng bên lò bềp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngó trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
« Các con oi, ở trong rừng u minh ^
Má có chềt, một mình má chèt
Cho các con trừ hết quân Tây ! »
Thẳng kia bỗng đậm gót giày
Đạp lên đầu má : « Mẹ mày, nói không ?»
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
« Các con oi ! Má quyết không khai nào !»
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn : « Tụi bay đồ chó ỉ
Cướp nước tao, cẳt cổ dân tao ỉ
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng 1
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm !
Thân tao chết, dạ chẳng s ờ n !»
Thương ôi I lời má lưỡi gươm cắt rồi I
Một dòng máu đò lên tròi
Má oi, con đã nghe lòi má kêu !
Nước non mụôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiểu Hậu giang.
Đầu năm 1941
BA TIẾNG
51
Máy bảo : «Đổ mồ hôi
Hay dầu sôi nước mắt
Rã rời tay cũng mặc
Mi phải suốt đời mi
Làm nữa, phải làm đi
Không một giây ngừng nghỉ».
52
Tiếng đổng ngân nga
Khoan thai bao la
Bình yên ủy mị
Dịu dàng mang ý
Muôn lời ngọt thương . . . !
53
Không phải giọng của một hầu đứng tuổi
Cao thánh thót hay rồ khan giổ bụi
Đây âm thanh của một cồ non tơ
Mà giây ngân còn vương vấn dại khò*
Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ,
Tiếng rao nhò của một em gái bẻ
Không vang lâu, chi vừa đù rao mời
Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi
Nên cái bánh nửa chừng ra cái bén
Thôi cũng được, tiếng em vừa ngon đến
Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồ i. . .
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xồi
Tiếng em bước trên đường đêm nhồ nhỏ
Nhưng cũng đù cho lòng anh lắng rỗ,
Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng
Như cây dương liễu nhò tóc chưa viển
Manh áo mỏng che em không kín ngực
Đầu không nón, bụi sương thầm chấm ướt
Đuôi tóc chuôi chừng bảy tám năm thôi !
Ầy chân em leo lên bước đường đòi
Ngày tháng đó trong mùng vài chục bánh.
Gia tài đó, mấy đồng xu mỏng mảnh,
Biết bao giờ mà sướng được em ơ i !
Có ai thương một con bé giữa tròi
Mà thương nữa, cũng đôi người lơ đễnh
Kêu em lại, mua cho vài chiếc bánh
Trả vài xu và thoa má, ngọt ngào
« Ổ cái con bẻ nó mới ngoan sao
Chừng ấy tuồi đã làm ăn bán dạo ỉ
54
DẬY MÀ ĐI!
Dậy mà đ i ! Dậy mà đi ! •
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi ?
Ai chiến thẳng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần ?
Huống đường đi còn lẳm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu ỉ
Thì đứng dậy, xoa tay, và tự bảo :
Chí còn đây sức lực hãy còn đây ?
Lòng không nghèo tin tường ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước.
Thua ván này, ta đem bày ván khác
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kỉnh nghiệm ở bao lẩn thất b ạ i :
Một lần ngã là một lẩn bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người.
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo oi !
5-1941
55
Nhưng nhà đã rải lơ thơ
Người đi mấy bóng vẩn vơ trên đường
Đống xanh gợn nhớ quê hương
Bơ vơ tiếng hát bên nương nắng chiểu
Xa rồi bóng dáng yêu thương cũ
Nhàn nhạt ngàn xa buồn cô liêu . ..
Đường lên xứ lạ Công tum
Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao.
Thông reo bờ suối rì rào,
Chim chiều chiu chít, ai nào kêu ai ?
Muốn gầm một tiếng tan u uất
Hận bỗng tuôn theo gió thổi dài
Đường lên Đắc sút, Đẳc pao
Đèo leo ngọn thác, cầu treo mặt ghềnh
Đìu hiu mấy ải đồn canh
Lòng đau lại nhớ các anh những ngày. ..
Chao ôi, xưa cũng chốn này đây
Thân bạn vùi xương dưới gốc mây
Roi vụt rát tay bầy lính rợ
Máu dầm khoái mắt lũ đồn Tây 1
Mỗi hòn đá đó, bao hòn huyết
Một khúc cầu đây, mấy khúc thây !
Hỡi những anh đầu qua trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đày 1
Đường lên đỉnh núi Đắc lay
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
Gà đâu gáy động im lìm
Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây
Đồn xa héo hẳt cờ bay
Hiu hiu phất lại buồn vây vây lòng
Có ai hiểu nỗi hờn ghê gớm
Trên mắt người trông với núi sương
Núi hỡi I từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm đường ?
Thảng giêng 1942
56
ĐÊM GIAO THỪA
ĐI
Tặng bạn trề
XUÂN ĐẾN
58
Cùng những ai chán ngán cuộc đời này
Ta hớn hồ’ riết bàn tay huynh đệ
Không gì mạnh bằng đoàn quân nô lệ
Mà hờn căm đã bổc lửa ran đầu.
Cả loài người đau khổ đã kêu nhau
Vùng đứng dậy, nghiền chặt răng chiến đấu ỉ
— Hỡi người bạn 1 Vui lên đi 1 Ât dậu
Sẽ là năm khới nghĩa, năm thành công 1
Trời hôm nay dầu xám ngắt màu đông
Ai cản được màu xuân xanh tưoi sáng
Ai cản được những đoàn chim quyết thẳnịg
sẳp về đây tắm nắng xuân hồng ?
Xuân Ầ t dậu
(1945)
HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết chièn hy sinh
Cho Việt nam độc lập
Cho thế giới hòa bình !
Người đã sống năm mưoi năm vũ bão
Vì nhân loại
Người quyết dâng xưong máu
VI giang sơn
Người quyết dứt gia đình !
HỒ Chí Minh
Người đã quyết
Mặc phong ba giá tuyết
Mặc gưom súng xiểng gông
Làm tên quân cảm tử đi tiên phong
Đánh trăm trận, thể trăm phen quyết thắng !
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đẳng
Hồn vẫn tưoi vui, thơm ngát tĩnh đòi
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi
Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến
Cờ đã phất, phải giương cao quyềt tiến !
Người xông lên
Và cả đoàn quân, thừa huyết khí thanh niên
Rập bước tiến bên người Cha anh dũng
Tiếng Người thét
Mau lên gươm lắp súng !
Và cả đoàn quân
Đã bao nhiêu năm tháng trải phong trần
Mẳt sáng quắc tay xanh lòe mã tấu
Vụt ào lên quyết hy sinh chiến đấu
Diệt cường quyển í
Ôi sức mạnh vô biên !
Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc
Trăm thế ký trong tên Người : Ái Quốc
Bạn muôn đời của thế giới đau thương !
Chúng tôi đây
Lớp con cháu trên đường
Gươm tuốt vỏ, súng cầm tay, xốc tới
Ngọn cờ đò sao vàng bay phấp phới
Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca
Hồ Chí Minh
Người trẻ mãi không già.
26-8-1945
60
HUẾ THÁNG TÁM*')
(1) Bài này làm trong thời kỳ Bảo Đại còn được Chính phù dân chù cộng hòa
cho giữ chức cố vấn, sau khi hắn thoái vị trước áp lực của cách mạng.
61
Người phải lui, cho dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa !
Hãy mớ mẳt : quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mớ mắt trông : trời đất bốn phương chào.
Một dân tộc đã ào ào đứng dậy !
GIẾT GIẶC
62
Mau mau lên đứng dậy !
Gươm gươm đâu, tuốt ra
Súng súng đâu, vác chạy
Cứu cứu đồng bào ta !
63
Không phải mùa xuân mấy thuổ* sang
Lá xanh không mát dạ khô vàng
Hoa thơm không át mùi xương máu
Nắng chỉ lây buồn trên áo tang
(1) U-ran : tên một dãy núi lớn trên đất nước Nga.
64
II—VIỆT BẮC
Việt bắc là tập thơ thứ hai của T ố Hữu gồm những bài thơ
sáng tác từ năm 1946 đến năm 1954, thời kỳ dân tộc ta làm cuộc
kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp xâm lược.
Xét chung nội dung tập thơ, phải nhận định rằng : V iệt b ắ c
là bản hợp xướng của nhân dân Việt nam kháng chiến chổng Pháp.
Ờ đây, nhà thơ đã làm nổi bật vai trò củ a nhân dân trong chiến
tranh cách mạng và xác định văn nghệ phải phản ảah cho được cái
vai trò đó ; vì ngay ở «lời đề » đầu tập thơ, tác giả đã v iế t:
«Nhân dân là bề
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên. ..»
Nếu T ừ ẩy là tiếng nói của một tâm hồn tự ca hát, thì Việt
b ắ c lại là bản hợp xướng của nhân dân kháng chiến. Sự bièn chuyền
về để tài và phương pháp biểu hiện đánh dấu một bước chuyền biến
quan trọng trong thơ Tố Hữu. Không phải là trusớc Việt b ắ c , thơ
Tố Hữu không có những nhân vật trữ tình là quần chúng cách mạng,
nhưng trên căn bản, nhân vật trữ tình trung tâm củ a T ử áy vẫn
là cái tôi trữ tình của nhà thơ. Điểu đó hoàn toàn đúng đắn và
hoàn toàn cần thiết trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, vì
lúc bấy giờ, việc nhà thơ trình bày tâm tình của bản thân mình —
một thanh niên yêu nước giác ngộ lý tường cách mạng và hy sinh,
phấn đấu cho lý tưởng đó — sẽ có tác dụng vô cùng to lớn đối vỏi
quần chúng cách mạng, đưa họ đến với chủ nghĩa Mác — Lê-nin,
vói sự nghiệp giành độc lập, tự do cho đất nước ; và bằng nghệ
65
thuật thơ ca, nhà thơ cho quẩn chúng hiểu biết thế nào là sồng như
những người cách mạng. . . Thế nhưng, khi cách mạng đã thành công
và nhân dân ta tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt mà
cách mạng đang đặt ra, cụ thể là tiến hành công cuộc kháng chiến
chống Pháp, thì nhân vật trung tâm của thơ ca cách mạng nói chung
và thơ Tố Hữu nói riêng phải là quần chúng cách mạng, và kháng
chiến là hoàn cảnh thúc đẩy thơ ca dân tộc bẳt rễ sâu hơn vào đời
sống hiện thực của nhân dân.
vỏi tư cách là một cán bộ kháng chiến, T ố Hữu có điều kiện
thuận lợi đì sâu vào đòi sổng quần chúng và vẽ lại đưọ’c nhiều bức
tranh sinh động về những con người Việt nam đang làm một cuộc
chiến tranh nhân dân vĩ đại chống xâm lược. Đó là hình ảnh những
em bé liên lạc, những bà mẹ chiến sĩ, những chị dân công, những
anh bộ độ i. . . và đặc biệt là hình ảnh của Bác Hồ — một hình ảnh
tập trung, kết tinh củ a nhân dân Việt nam kháng chiến :
«Ngirời ỉà Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm đòng máu nhồ.»
Điểu đáng chú ý là khi ghi lại những hình ảnh nhẫn dân anh
hùng, TỐ Hữu bao giờ cũng đi sâu vào bản chất củ a hiện thực để
miêu tẩ và phản ảnh cuộc sống, cho nên hĩnh ảnh của quần chúng
cách mạng trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng chân thật, cụ th ể , sinh
động và bao giờ cũng có ý nghĩa khái quát rộng lớn. Một anh bộ
đội cùng nhà thơ «Lên Tây bắc» đánh giặc, một hình ảnh rất
cụ thể :
« Tay dao tay súng, gạo đầy bao
Chân cứng đạp rừng gai, đá sẳc.»
Nhưng trong hình ảnh rất cụ thể ấy lại chứa đựng một cái gì
rất rộng lởn : Đó là bần chất anh hùng của quân đội ta, là tinh thần
chịu đựng mọi hy sinh và vượt lên trên mọi khó khăn, gian khố
để chiến thắng quân thù, đã kết lại thành một hình tượng thơ ca
độc đáo, cao rộng :
«Rất đẹp hình anh lúc nằng chiều,
Bóng dài lên đinh dồc cheo leo.
Núi khàng đè nổi vai vurơn tới,
Lá ngụy trang reo với giô đèo.»
Lượm, một em bé làm liên lạc gặp chú ở « Hàng Bè » — Huế —
chào chú bằng hai tiếng «đồng chí» và nói thẳng «0- đốn Mang cá
66
thích hơn ỏ’ nhà», đã hy sinh trong chuyển đi công tác chuyền thư
«thượng khẩn», rầt cụ thể ; nhưng cái tươi trẻ hồn nhiên của tuổi
nhỏ anh hùng trong kháng chiến chống Pháp cũng hiện lên thật rõ
nét trong hình ảnh của em :
«Chú bẻ ỉoẳt choẳt,
Cải xẳc xinh xinhỷ
Cải chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.
Ca-lô đội lệch,
Mồm huýt sáo vang,
Như con chim chỉch
Nhầy trên đường vàng.»
Một chị phụ nữ Bẳc giang có « con bề con bồng», một «bà bủ »
Phú thọ «nằm ồ chuối khô», một bà mẹ Việt bắc «con mé có ba,
trai hai gái m ột», một bà bầm «mưa phùn ướt áo tứ thân» c ủ a
vùng đồng bằng Bẳc b ộ . . . đểu rất cụ thể, nhưng đổng thời đều
có cái cao đẹp củ a tâm hồn người phụ nữ Việt nam. Đó là ý chí
phấn đấu đảm đang việc nhà, việc nước, là tinh thần chịu đựng, hy
sinh anh dũng — cái anh dũng thầm lặng — là lòng yêu thương chồng
con mênh mông và thăm thẳm . . . Bà bù nghĩ về con :
«Nó đi đánh giặc đêm nay,
Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn.
Nhà còn ổ chuồi lừa rơm,
Nó đi đảnh giặc đêm hôm sưởi gì?
Năm xưa, cơm cả ngon chi,
Năm nay, cơm gié nhà thì vẳng con.»
Lòng yêu thương con và đức hy sinh của người phụ nữ Việt
nam lớn đẹp biềt bao I Yêu thương con, nhưng bà mẹ Việt nam
càng yêu thương sự nghiệp mà con mình đang xả thân để phấn đấu
cho đất nước. Bà mẹ Việt bắc nói với con :
« . . . Mày đi,
Mày lo cho khỏe,
Đừng nghĩ lo gì,
Ở nhà có mẻ.»
Có nhiều hình ảnh bà mẹ, cũng có nhiều hình ảnh anh bộ đội
trong V iệt bắc và mỗi người một vẻ độc đáo riêng, không lẫn lộn
67
được, nhưng ở trong mỗi hình ảnh đó đều có những nét chung
tiêu biểu cho nhiều người. Vì vậy mà nhân vật trữ tình c ủ a thơ
Tố Hữu trong V iệt bắc đã đề lại trong trí ta những hình ảnh rất
đậm nét và ta có cảm giác như đã từng gặp họ nhiều lẩn trong
cuộc sống.
Thành công của T ố Hữu trong khi khắc họa hình ảnh nhân dân
ta rất anh hùng, chính là vì nhà thơ bao giờ cũng chú ý đến cá tính
dân tộc biều hiện trong những hoàn cảnh cụ thể c ủ a cuộc kháng
chiến chống Pháp. Do đó, trong V iệt bắc, tâm hồn nhân dân kháng
chiến bao giờ cũng mới, cũng đẹp mà lại rất Việt nam. Người ta
có thể thấy ở đây những «cánh đồng quê tháng mười, thơm nức
mùa gặt hái» c ủ a Việt nam, những «xóm tre xanh» Việt nam cổ
«bà ru cháu nằm khoanh lòng già». Người ta cũng có thể tìm thấy
những chi tiết về cuộc sống của con người Việt nam năm 1947 quen
cày cuốc, «tỳ tay trên mũi súng», bà mẹ Việt nam « nằm ồ chuối
khô», «mặc áo tứ th ân », một vị Chù tịch nước «áo nâu túi vải,
đẹp tươi lạ thưò'ng». Nhưng vè đẹp, vẻ thơ của những bài thơ Tố
Hữu viết về nhân dân kháng chiến, trước hết vẫn là vẻ đẹp c ủ a
những tình cầm c ủ a người Việt nam trong kháng chiến. Đó là vẻ
đẹp của tình yêu thiên nhiên đất nước, tình yêu gia đình, tình đồng
chí, đồng đội, tình quân dân, tình dân đối với lãnh tụ, với cách
mạng — những biểu hiện cụ thể củ a tình yêu nước. Đó là lòng tin
ỏ1 cuộc kháng chiển nhất định thẳng lọi — biểu hiện cụ thể của tinh
thần lạc quan cách mạng.
Tình yêu nước đúng là một tình cảm lớn được tập trung phản
ảnh trong Việt bẵc. Những màu sắc kháng chiến của tình cảm yêu
nước ò* Việt nam trong kháng chiến lại là «tinh kháng chiền» ; sau
này, trong bài thơ Lá th ư Bến tre, Tố Hữu đẵ có lần nhắc lại :
« vẫn đậm như xưa tình kháng chiền,»
Tinh yêu nước biều hiện trong vẻ riêng của «tình kháng chiến »,
nên rất đậm đà và sâu nặng.
- Tinh yêu thiên nhiên đất nước có thêm một tình yêu thiên
nhiên cùng nhân dân đánh giặc :
«Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thà.»
Và những tên riêng c ủ a đất nước, trong thơ Tố Hữu, như
những nổt nhạc của bài ca chiền thẳng :
68
«Tỉn vui chiền thẳng trăm miền,
Hòa hình, Tây bắc, Điện biên vui về.
Vui từ Đổng tháp, An khê,
Vui lên Việt bắc, đềo De, núi Hồng.»
Cỏ lòng yêu chiến khu kháng chiến thấm thìa, V iệt bắc đã đề
lại cho tho1 ca dân tộc những vần thơ đẹp miêu tả phong cảnh đất
nước đạt mức « cổ điển » :
«Rừng xanh hoa chuối đồ tươi,
Đèo cao nằng ánh dao gài thẳt lưng.
Ngày xuân, mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan áo chuốt từng sợi dang.
Ve kêu rừng phách đồ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.»
* Tình yêu giữa những người dân trên một đất nước cùng làm
nhiệm vụ đánh giặc giữ nước thật là nồng đượm. Nhà thơ đối với
anh bộ đội :
«Một thoáng lặng nhìn nhau
Đã âm thầm thương mến.»
Anh con trai đối với mẹ :
«Con đi đánh giặc mười năm
Không bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.»
Bà mẹ đổi với con trai :
«Nó đi đánh giặc đêm nay
Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn.»
Người vợ đồi vói chổng :
«Nhà em con bế, con bổng,
Em cũng theo chồng đi phá dường quan. »
Nhân dân đổi với Chính phù kháng chiến :
«Nẳng trưa rực rỡ sao vàng,
Trung ương, Chỉnh phù luận bàn việc công.»
Đối với Đảng Lao động Việt nam và Bác Hồ :
«Không gì vinh bằng chiền đầu dưới cờ
Đàng chói lọi Hồ Chỉ Minh vĩ đại.»
69
Tất cả đểu là tình yêu nước đậm màu sắc kháng chiến. Nói chung,
đọc V iệt bắc, chúng ta càng thấm thìa mối tình gẳn bó keo son
giữa những người dân trên đất nước đang chiến đấu gian khổ và
anh dũng giành độc lập, tự do.
Tinh thần lạc quan cách mạng, một biểu hiện đẹp đẽ c ủ a đời
sồng tình cảm dân tộc trong thời đại mới, được biều hiện trong
Việt bắc, là lòng tin & cuộc kháng chiến gian khổ nhất định
thắng lợi.
T ừ những năm đẩu tiên c ủ a cuộc kháng chiến, Tố Hữu
đã viết :
« Từ trong đồ nát hôm nay
Ngày mai đã đền từng giây, từng giờ.»
Kháng chiến càng gian khồ, tinh thần lạc quan càng thấm, càng
đượm :
«Gian nan, ầời vẫn ca vang núi đèo.»
Kháng chiến càng đi tới thẳng lợi, tinh thần lạc quan càng tỏa
sáng rực sỡ :
«Đền pha bật sáng như ngày mai lên.»
Và khi kháng chiến thành công, hình ảnh đất nưó-c trong bức
tranh tương lai mới đẹp làm sao !
«Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng.
Than Phấn mễ, thiếc Cao bằng,
Phò phường như nấm như măng giữa trời. »
Tinh thần lạc quan cách mạng ớ Việt bắc còn được thể hiện
trong những bức tranh sinh hoạt của quần chúng. Tiếng cười khoái
trá của nhà thơ và anh bộ đội & «lưng đèo N he» hay tiếng hát,
hò của anh chị dân công ỏ* «dốc Pha đin, đèo Lũng lô » nghe thật
hồn nhiên, khổe khoắn :
«Dôc Pha đin, chị gánh, anh thồ
Đèo Lãng lô, anh hò, chị hát.»
Nhờ phần ảnh chân thực đời sống hiện thực, Tố Hữu đã ghi
lại trong những biểu hiện cụ thể của đời sổng tâm hồn nhân dân
những tình cảm lớn của thòi đại : lòng yêu nước và tinh thần lạc
quan cách mạng.
70
Việt bắc ghi một thành công cho thơ ca kháng chiến và một
bước tiến cho thơ ca cách mạng Việt nam phấn đấu theo ngọn cờ
của chủ nghĩa hiện thực xã hội chù nghĩa.
Việt bắc là bức tranh sinh động, chân thực của cuộc sống
kháng chiến, con người kháng chiến và những tình cảm c ủ a thòi
đại biểu hiện cụ thể trong cuộc kháng chiến trường kỳ và vĩ đại
của dân tộc Việt nam chống bọn xâm lược Pháp.
Việt bắc là kết quả của đường lối văn nghệ cách mạng sáng
suốt : văn nghệ phấn đấu theo con đường dân tộc hóa, quần chúng
hóa và khoa học hóa.
Nếu T ừ ãy đã góp phần làm sáng t ố quan điểm văn nghệ là
vũ khí đấu tranh cách mạng thì Việt bẵc tự thân nó đã góp phần
giải quyết các vấn đề : văn nghệ phục vụ kháng chiến, phục vụ công
nông binh, mối quan hệ giữa người công dân và người nghệ sĩ, giữa
tuyên truyền cách mạng và nghệ thuật cách mạng.
Việt bắc là một tập thơ tương đối mỏng, nhưng đã chứa đựng
khá nhiều bài thơ hay, có sức trường tổn của Tố Hữu : P h ả đ ư ờ n g ,
Bầm ơ i, L ư ợ m , Sảng th ản g Năm , H oan h ô chỉển sĩ Đ iện
biên, T a đ i tó i, V iệt b ắ c . . . Cả một số bài thơ dịch, nhất là bài
Đ ợ i an h vè, cũng được nhiều người ghi nhớ.
(ỉ) Sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ta «chống giặc đ ối».
Khắp nơi sôi nổi phong trào tăng gia sản xuất, khoai sẳn (mi) mọc xanh thành Huè.
(2) Dinh : kinh đô.
71
Rổi từ hôm đó, bọc hoàng cung
Lớp lớp khoai xanh mượt vạn vồng
Lòng đất kiêu kiêu nghe nặng cù.
Khách dừng, âu yếm, ngẩn ngơ trông. . .
Khoai mãn mùa đi, đền sẳn về
Say màu hương mới, dậy hồn quê
Rướn thân lên trải ngàn tay rộng
Như những chàng trai đón bốn bể.
Những buổi mai hường, nắng mới tinh
Bên đường sương mát, lá rung rinh
Ta đi trong gió thơm khoai sắn
Lòng nhẹ, vui vui, bát ngát tình . . .
1946
TRƯỜNG TÔI
Tặng các chiền sĩ Bình dân học vụ
72
Này em, này chị, này anh,
Chen vai mà học, rách lành sao đâu !
I tờ mớm chữ cho nhau . ♦.
1946
CÁ N ư ớ c
73
Anh kể chuyện tôi nghe
Trận chợ Đồn, chợ Rã
Ta đánh giặc chạy re
Hai đứa cười ha hả.
1947
PHÁ ĐƯỜNG
Hì hà hì hục
Lục cục lào cào
Anh cuốc em cuốc
Đá lò* đất nhào !
Nào anh bên trai
Nào em bên nữ
Ta thi nhau thử
Ai nào hơn ai í
75
Anh tài thì em cũng tài
Đường đài ta xè, sức dai ngại gì.
Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi
Hố ngang hố đọc chữ i chữ tờ,
Thằng Tây mà cứ vẩn vơ
Có hố này chờ chôn sồng mày đây.
Ớ anh ớ chị nhanh tay
Khanh tay ta cuốc, chôn thây quân thù !
Đêm nay gió rét trăng lu
Rộn nghe tiẽng cuốc chiến khu phá đường. . .
1948
BÀ MẸ VIỆT BẮC
76
Tôi sợ khiếp quá
Lạnh chân lạnh tay
Đứng trơ như đá
Hồn bay vía bay !
Nó khảo nó tra
Bố con nhừ tử
Rồi tha ông già
Còn con nó giữ
77
Nỏ lành như đất
Tội nghiệp con tôi
Tây nó giết mất
Con oi, con oi !
Phên nan gió lọt lạnh lùng
Ngọn lửa bập bùng, mé khóc rưng rưng
Nghẹn ngào chuyện cũ nửa chừng ..»
T ừ đó ò’ nhà
Gieo neo túng quá
Hai ông bà già
Vợ thằng con cả.
Rồi ông Kẻ mất
Nhà lại còn hai
Mẹ con quần quật
Kiếm ăn qua ngày.
Bữa đói bữa no
Chạy quanh chẳng đù
Ngày đôi bát ngô
Lên rừng đào cù . . .
Tường rồi chết tất
Biết đâu có ngày
Trời còn có mẳt
Cụ Hồ về ngay.
Cụ Hồ ra lệnh
Đuổi Nhật đuổi Tây
Cụ Hồ cho đánh
Lấy hết châu này.
Thẳng châu con chó
Cúp đuôi chạy đài
Mả bố nhà nó
Nịnh Tây hết thời.
Ôi trời, sướng quá
Dân kéo về châu
Rầm rập hề hả
Mổ bò mổ trâu*
78
Cờ treo đò chói
Trên nóc trên cây
Pỉ ỉè(lì inh ổi
Suốt đêm suốt ngày.
Cụ Hồ mò* nước
Chia thóc cho dân
Tôi cũng lĩnh được
Tôi cũng có phần !
Bộ nó rõ oai
Vai thì đeo súng
Ngực chéo hai quai
Áo thì thẳt bụng.
Đầu nó đội mũ
Có cái sao vàng
Trước nó lam lũ
Bây giờ thấy sang !
Tôi ôm lấy nó
Tôi kề trước sau
Nỗi nhà mất bổ
Nỗi anh chết tù . . ♦
Mẳt nố đổ nọc
Nó cầm tay t ô i :
«Mé ơi đừng khóc
Nước độc lập r ố i !»
79
Tôi bảo con tôi :
« Mày đi tao nhớ
Tuổi đã lớn rồi
Liệu mà cưới vợ ».
Ờ chơi ít bữa
Nó hát cả ngày
Dọn nhà sửa cửa
Xới vườn luôn tay.
Từ ấy đến nay
Ngày đêm tôi khấn
Tôi mong có ngày
Nó về, thẳng trận . . . »
30
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo . . .
81
BÀ BỦ<D
BẦM ƠI<12>
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhỏ* thẩm . . .
82
Bầm ơi có rét không bầm ?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu !
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe !
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con, bầm yên tâm nhẻ
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đổng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đống bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm !
Bao bà cụ từ tâm mhư mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con !
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con...
1948
83
LƯỢM
Ca lô đội lệch
Mốm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng . . .
Ra thế
Lượm oi !
84
Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề «Thượng khần»
Sợ chi hiểm nghèo ?
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng . . .
1949
EM BÉ TRIỀU TIÊN
Em bé Triểu tiên ơi
Mẹ củ a em đâu rồi ?
85
11111đâu mẹ của em
Có ai đâu mà hỏi ?
Giặc bốn bể, lửa khói. . .
Mẹ của em đấy ư ?
Cái thân trẳng ỉẳc lư
Đầu dây treo lùng lẳng.
Cha c ủ a em đấy ư ?
Cái đầu lâu rũ tóc
Máu chảy dài thân cọc
86
V O I«>
Voi là voi oi
Voi yêu voi quý
Voi nằm voi nghi
Voi nghi voi choi.
Voi là voi oi
Voi ta đầu thép
Voi cong chân đẹp
Voi nghểnh voi cười !
Voi là voi oi
Voi con voi mẹ
Voi nặng voi nhẹ
Nào đi, trưa rồi í
Voi là voi oi
Voi đi đánh nhé
Voi gầm voi ré
Voi xé toi bời !
Ta bế ta bồng
Voi lên ta vác
Vai ta vai sắt
Chân ta chân đồng !
Ta đi qua rừng
Lau tre san sát
Voi nghe ta hát
Núi dội vang lừng !
Ta đi lên đèo
Ta leo lên dốc
Voi oi khó nhọc
Khó nhọc cũng ưèo !
87
Con đường gieo neo
Là đường Vệ quốc
Tha hồ đèo dốc
Ta hò ta reo !
Voi là voi oi
Đường đi dằng dặc
Chông gai cũng mặc
Ta vui ta cười !
Hoan hô voi ta
Hoan hô vệ pháo
Yêu voi còi áo
Lau cho voi nhà.
ĐỢI ANH VÈ
Dịch th<y Xi-mô-nốp
Em ơi đợi anh về
Đợi anh hoài, em nhé.
Mưa có roi dầm dề
Ngày có dài lê thê
Em oi em, cứ đợi ỉ
88
Dù tuyết roi gió nổi
Dù nắng cháy, em oi
Bạn cũ có quên rồi
Đọi anh về, em nhé !
Em oi em, cứ đ ợ i!
Dù ai nhớ thương ai
Chẳng mong có ngày mai. . .
Dù mẹ già con đại
Hết mong anh trỏ* lại
Dù bạn viếng hồn anh
Yên nghi nấm mồ xanh
Nâng chén tinh dổc cạn
Thì em oi, mặc bạn
Đợi anh hoài, em nghe
Tin rằng anh sắp về I
89
CHO ĐỜI T ự DO
Dịch dân ca Nam tư
90
Những mắt buồn sẳp nhẳm
Bừng dậy, thấy tương lai
Những bàn tay lại nắm
Cờ đỏ qua đêm dài. . .
Những đầu lên máy chém
Nhìn đao phủ, hiên ngang :
« Muôn năm, Đảng cộng sản ỉ
Chào Xô viết Liên bang !»
c n người Anh dũng cảm
Lũy thép sáng ngòi ngòi
Đây Việt nam Tháng Tám
Em Liên xô Tháng Mười ỉ
Hoan hô Xta-lin
Đòi đòi cây đại thọ
Rợp bống mát hòa bình
Đứng đầu sóng ngọn gió !
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng mặt biền
Bão táp chằng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến !
1950
91
Bàn tay con nẳm tay Cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biền rộng ruộng đồng nước non .
HỒ Chí Minh
Người ồ* khắp nơi n ơ i . . .
93
HOAN HÔ CHIẾN s ĩ ĐIỆN BIÊN
fp/ ịtOiA
' Tin về nửa đêm
ị Hỏa tốc hồa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuổc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đò đèn đồ l ử a . . .
94
<ỉ
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Đăng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mồ* đường cho xe ta lên chiến
trường tiếp viện.
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lcm mưa to
Dốc Pha đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuồi xanh.
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống !
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng ĩ
Sẽ xanh tươi đổng ruộng Việt nam
Mường thanh, Hồng cúm, Him lam
I^Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng k ^
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện biên !
Quân giặc điên *
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng tròi ?
Tròi không của chúng bay
Đạn ta rào lưới s ắ t !
Đất không của chúng bay
Đai tháp ta thắt ch ặt!
Cùa ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta ỉ
Chúng bay chỉ một đường ra :
Một là tử địa, hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm !
(1) Bi-đôn (Bidauỉt) : ngoại trường Pháp. Smit (Smith) ĩ thứ trướng ngoại
giao Mỹ.
96
TA ĐI T Ớ I
97
Mẹ oi, lau nước mẳt
Làng ta giặc chạy rồi ỉ
Tre làng ta lại mọc
Chuối vườn ta xanh chối
Trâu ta ra bãi ra đồi
Đồng ta lại hát hơn mười năm x ư a . . .
Các em oi, đã học chưa ?
Các anh dựng cho em trường mới nữa.
Chúng nó chằng còn mong giội lửa
Trưcmg của em đứng giữa đối quang
Tiếng các em thánh thót quanh làng.
Ai đi Nam bộ
Tiền giang, Hậu giang
Ai vô thành phố
Hố Chí Minh
Rực rỡ tên vàng.
Ai về thăm bưng biền Đồng tháp
Việt bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp
Nơi chôn rau cẳt rồn của ta !
Ai đi Nam — Ngãi, Bình — Phú, Khánh hòa
Ai vô Phan rang, Phan thiết
Ai lên Tây nguyên, Công tum, Đắc lẳc
Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung
Ai về với quê hương ta tha thiểt
Sông Hương, Bến hải, Cửa tùng . . .
VIỆT BẮC
99
— Mình đi, có nhử những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi đề rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Ai về ai có nhớ không ?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
101
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phỏ luận bàn việc công
Điểu quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mồ1 đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu . . .
102
— Đường về, đây đó gần thôi !
Hôm nay rỏi bản về noi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại vể.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bổn bể lưới giăng
Than Phấn mễ, thiếc Cao bằng
Phổ phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đò tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái bình ngược Hà giang
Cày bừa Đông xuất, mía đường tinh Thanh.
Ai về mua vại Hương canh
Ai lên mình gửi cho anh vói nàng
Chiếu Nga sơn, gạch Bát tràng
Vải tơ Nam định, lụa hàng Hà đông.
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khòe, cuộc đòi càng vui I
LẠI VỀ
Hà nội ơi Hà nội !
Cay đẳng tám năm ròng
Quê ta thành đất giặc
Ôi ngàn năm Thăng long !
Hà nội ơi Hà nội !
Đến bao giờ bao giờ
Hết đêm dài đen tối
Ngày mai đò rực cờ ?
104
Hà nội ta không ngủ
Nước Hồ gươm vẫn trong
Đêm đêm nhìn ảnh Cụ
Mẳt Người nhìn ấm lòng.
Hà nội ta không khuất
Hòa lò thêm Nhà tiền
Những đứa con vào chật
Hà nội oi vùng lên !
Giành lại bao năm tháng
Giành lại mỗi người con
Từng ngọn đèn tươi sáng
Từng giọt nước lành ngon !
Hà nội ơi Hà nội !
Bao giờ
Giữa Thủ đô
Cụ Hồ về
Bộ đội
Tiến vào năm cửa ô.
★
★★
v ề đến đây rồi, Hà nội ơi !
Người đi kháng chiến tám năm trời
Hôm nay về lại đây Hà nội
Ràn rụa vui lên ướt mắt cười !
Đường quen phố cũ đây rồi
Thủ đô tươi dậy mặt người như hoa
Vườn hồng ngớt gió mưa qua
Cờ hoa đỏ nắng, mái nhà vàng sao . . .
Tay vui sóng vỗ rạt rào
Người về kẻ đợi, mừng nào mừng hơn ?
Biết bao vui sướng tùi hờn
Trông nhau mà tưởng như còn trong mơ !
Hồ gươm xanh thẳm quanh bờ
Thiên thu hồn Nước mong chờ bấy nay
Bây giờ đây lại là đây
Quốc kỳ đỉnh Tháp, sao bay mặt h ồ . . .
10-1954
105
III—GIÓ LỘNG
Gió lộng là một tập thơ của Tố Hữu gồm những bài thơ sáng
tác từ năm 1954 đến năm 1961, thời kỳ miền Bẳc nước ta hàn gắn
vết thương chiến tranli, náo nức xây dựng chù nghĩa xã hội, sau
khi hòa bình được lập lại (1954), và cả nưỏc tiếp tục làm cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ ỏ* miền Nam ta.
1. Gỉó lộng — bài ca vui kiến thiết chủ nghĩa xã hội
trên một nửa o ư ỏ c Việt nam.
«ơió lộng đưỉrng khai rộng đất trài.»
Sau 1954, trong khi miền Nam ta còn bị đẫm máu dưới chế độ
Mỹ — Diệm thì & miền Bẳc nước ta, trong không khí hòa bình yên
ổn, nhân dân ta náo nức bẳt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cuộc sống mới xã hội chù nghĩa vói những công cuộc khôi phục
và phát triền kinh tè, hàn gắn vết thương chiến tranh, hợp tác hóa
nông nghiệp, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát
triển kinh tè, văn hóa miền núi, nông thôn . . . đi vào thơ Tò Hữu
với muôn vẻ diệu kỳ.
Đây là nông thôn Việt nam mỏi đi lên con đường hợp tác hóa :
«Dân có ruộng dập dìu hợp tác,
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê.
Chiêm mùa, cờ đồ ven đê,
Sám trưa, tìềng trống đi về trong thôn»
« Tiếng trổng đi về . . . » trong cuộc sống và trong thơ ca nghe
thật rộn rã ! Xa rồi những tiếng trống gợi lên sầu não chia ly củ a
những ngày xưa :
106
« Trồng Tràng thành lang lay bóng nguyệt*
hoặc « Thùng thùng tròng đánh ngã liên . ..»
Đây là quang cảnh tấp nập xây dựng công nghiệp ĩ
«Xuân ơi xuân, em mới đền dăm năm
Mà cuộc sòng đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay giữa công trường đồ bụi
Những đoàn xe vận tải nồi nhau đi.»
Đây là cửa hàng bách hóa thay thè cho hình ảnh cô hàng xén
đi về trên chợ Huyện và trong thơ văn c ủ a một thòi :
«Đời vui đó hôm nay mờ cừa
Như dãy hàng bách hóa của ta»
Và đây là cảnh mà mấy năm trước trong Việt bắc mới là viễn
cảnh :
«Nghe hơi thồ1 của đổng quê mập mạp
Bãi phù sa xanh mượt ngô nọn
Những đàn trâu Việt bắc béo tròn
Đảng đỉnh về xuôi, quê hương mới lạ.»
■Nhưng kỳ diệu nhất vẫn là mổi quan hệ mới giữa người và
người được xác lập và cùng cố ĩ
«Có gì đẹp trên đời hơn thế,
Người yêu người sòng dề yêu nhau.*
Đứng trên đỉnh cao của cuộc sống mới/ hình ảnh con người
mới xuất hiện trong thơ ca Tố Hữu thật lớn đẹp :
«Chào 61, đỉnh cao muôn trượng.
Ta đứng đây; mẳt nhìn bồn hướng,
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau,
Trông Bẳc, trông Nam, trông cả địa cầu.*
Và thật hào hùng :
«Đầng cho ta trải tùn giàu
Thẳng lưng mà bước, ngừng dầu mà bay.*
Con người mới Việt nam trong Giỏ lộ n g là con người sổng
trong quan hệ mới và có trái tim thuộc về Cách mạng, làm chủ
cuộc sống, cai quản thiên nhiên, nắm chìa khỏa của đất nước rừng
vàng bề bạc :
107
«Hồi núi non cao đâu sẳt đâu vàng,
Hồi biền khơi xa đâu luồng cá chạy,»
Cổ Cách mạng dẫn dắt, soi đường, con người mới Việt nam nẳm
được bước đường phát triển tất yếu c ủ a lịch sử, nghe được sức
chuyền mình vĩ đại c ủ a nhân dân, cái rạo rực của mạch sống
T ố quốc :
«Đã nghe nước chầy lên nonỷ
Đã nghe đất chuyến thành con sông dài,
Đã nghe gió ngày mai thồi lạiỷ
Đã nghe hồn thời đại bay cao,»
Trong khi biều hiện hình ảnh con người mới trong thơ ca, Giỏ
lộng đã có những bức tranh tạo hình rất đẹp :
« Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cảnh tay như hai cánh bay lên
Ngực .dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bàn không sợ các loài sên,»
hoặc ĩ
« Chị lao công
Như sẳt
Như đồng
Chị lao công
Đêm đông quét rác,»
Cuộc sống mới và con người mới trên đất nước Việt nam cũng
như trên đất nước xã hội chủ nghĩa anh em đã đưa lại cho Giỏ
lộ n g những vần thơ vui tươi, đầm ấm, phơi phới lạ thường I
Cái vui củ a Giỏ lộng có khi thấm đượm trong những sự việc
cụ thể :
<rCành táo đầu hề rung rinh quầ ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh,»
Có khi rộn rã, tưng bừng :
« ừa cầ dậy vui tràn đẩy chói lọi
Những trái tim, những ánh mẳt, bàn tay.»
108
cỏ khi bát ngát, mênh mông :
«Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh
Biến vui dâng sóng trắng đầu ghểnh.
Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
Đ ư ờ n g lên hạnh phúc rộng thênh thênh ỉ »
Cái tươi c ủ a Gió lộng cũng nhiều màu sẳc. Khi như là vổn
có tự bao giờ :
« Nẻt vàng lịch sừ vừa tươi lại
Trong cuộc hổi sinh tạnh gió mưa.»
Khi lại roi rói như sự sống tươi nguyên :
«Màu áo mới nâu non nẳng chói
Mái trường tươi roi rỏi ngói son.»
Khi lại rực rõ* khoe sẳc :
«Rực rỡ những làng vàng tươi mái rạ
Gạch mới nung, đá trắng chất bên đường.»
Cái ấm củ a Giỏ lộng cũng rất nhiều nồng độ. Khi thi là cái
ấm của nẳng ban trưa trải rộ n g :
« Ta đi dưới Tìẳng trưa
Mùa xuân ầm áp.»
Có khi cũng là cái nắng ban trưa, nhưng chụm lại vừa đù
đề sưỏi ấm người và cảnh :
«Em đi cùng anh lên thành xưa
Vác-sa-va nẳng ầm ban trưa.»
Cái phơi phới của Gió lộng cũng thật nhiều vẻ. Khi bay nhảy
từ mặt đất vươn lên :
«Hiền hiện Lê-nin phơi phới diệu kỳ
Nhịp sồng lớn trên dáng đi bay nhảy.»
Khi bay lượn trên cao :
« Trên bãi Thái bình dương sổng gió
Phấp phới bay cờ đỏ sao vàng.»
Khi thì vút thẳng lên :
«Em đẹp, em thơm như quả táo đầu cành
Phơi phới đời em cao vát như dương xanh. >
109
Nguồn thơ củ a cuộc sổng mới xã hội chủ nghĩa trên đất nước
ta và đất nước anh em đã làm nên nhiều vẻ đẹp, vè thơ của nhiều
câu thơ trong Giỏ lộng.
Ở* Gió lộng, cuộc sống xã hội chù nghĩa, ấy là cuộc sổng «mùa
xuân», cuộc sống «thiên đường» cuộc sống «bình minh dậy», cuộc
sồng «gió lộng đường khơi», cuộc sống bay trên « đôi cánh tự d o »,
trên «đôi hài vạn dặm» . . . Trong thực tế lịch sử Việt nam, chử
nghĩa xã hội gằn liền với độc lập, tự do, nên con người Việt nam
cảm nghĩ rất sâu sẳc về những quyển tự do mà chù nghĩa xã hội
đã mang lại :
* Ỏ thích thật, bài tha miền Bẳc
Rất tự do, nên tưai nhạc, tưai vần.»
Trên đất nước mình đã vậy, khi đi trên đất nước anh em,
nhà thơ vẫn thấy vẻ đẹp củ a cuộc sống và con người xã hội chù
nghĩa là vẻ đẹp c ủ a cuộc sống và con người có tự do. Trên đất
nước Liên xô :
«Khẳp những nẻo đường náo nức tôi đi
Hiển hiện Lê-nin phai phái diệu kỳ
Nhịp sồng ìán trên đảng đi bay nhầy
Những ánh mẳt của thiên tài thừc dậy
Rầt tự do, nên rất tự hào
Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao.»
Trên đất nước Trung hoa :
«Ôi hai chữ tự do: đôi hài vạn dặm
Tôi đã trông, tôi đã thầy nai đây
Hai mưai năm nhảy vọt một ngày
Sáu trăm triệu bàn tay: một núi.»
Cũng do bắt nguồn từ hoàn cảnh thực tế : đất nước Việt nam
xây dựng chù nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
nên cái vui tươi, đầm ấm, phoi phới của Giỏ lộng, vì thế mà thấm
thìa, sâu xa :
« Ta còn nghèo, phồ chật, nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tềt.»
Cuộc sống mới xã hội chù nghĩa đã đưa lại cho thơ Tố Hữu
ở thời kỳ Giỏ lộng cảm hứng anh hùng trong lao động xây dựng
sáng tạo. Đôi cánh lãng mạn cách mạng của thơ Tố Hữu vốn đã
110
bay cao trong T ử ấy, Việt bắc, nay trên cơ sỏ1 hiện thực mới
của đất nước, lại càng bay cao hơn, Bay cao hơn nhưng vẫn cắm
rễ sâu vào đời sống hiện thực :
«Ồ đâu phải, qua đêm dài lạnh cóng
Mặt trời lên là hềt bóng mà sương
Ôi đâu phải, qua đoạn đường lửa bồng
Cuộc đời ta bỗng chốc hóa thiên đường.»
Yếu tố lãng mạn cách mạng trong Giỏ lộng kết hợp vói hiện
thực cách mạng trong từng dòng thơ :
«Ngày mỗi ngày từng chiềc lá tre xanh
Đã mọc lên quanh những làng kháng chiên.
Ngày mỗi ngày từng miếng đất cồ tranh
Đã lật lên dưới lưỡi cày mới luyện.»
Cơ sờ của sự kết hợp ấy chính là hiện thực lởn lao : chồ
nghĩa xẵ hội đang thực hiện những ước mơ ngàn đòi củ a nhân
đân và gọi dậy những ước mơ cao cả. Hiện thực xã hội chù nghĩa
chính là hiện thực của ước mơ, là ước mơ mang chất đốt c ủ a
hiện thực :
« Vui cứ đền ngày mỗi ngày nhò nhỏ
Như từng cây cà đỏ mọc trên dời,
Vui cứ đền tự lúc nào chẳng rõ
Như suối ngầm trong đất chảy trăm nơi.»
Tình cảm yêu nước là tình cảm lớn mà Giỏ lộng nhằm phản
ảnh, nhưng trong Giỏ lộng, tình cảm đỏ lại biểu hiện tập trung
ở lòng yêu chế độ xã hội chù nghĩa, yêu cuộc sống và con người
xã hội chù nghĩa.
Biểu hiện thành cồng tư tường làm chủ, Giỏ lộng của Tố Hữu,
cũng như nhiều bài thơ của các tác giả khác viết cùng thời kỳ,
đã mang lại cho thơ ca Việt nam viết v ề chù nghĩa yêu nước một
nội dung mới : tinh thần làm chù tập thể «tập làm chù, tập làm
người xây dựng», đoàn kết, cần kiệm xây dựng đất nước :
«Đời vui dỏ, tiềng ca đoàn kềt
Ta nằm tay nhau xây lại đời ta . . .
. . . Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sẳt, cân ngô
Ta nâng niu gom góp, dựng cơ đồ.»
111
Biểu hiện thành công của con người mới Việt nam xã hội chủ
nghĩa kểt tinh ỏ* Bác Hố, Gió lộng đã ghi lại được hình ảnh vị
lãnh tụ củ a cách mạng Việt nam trong điểu kiện lịch sử mới :
«Bác về, tóc có bạc thêm
Năm canh bồn biền có đêm nghĩ nhiều?
Hỡi Người, tim những thương yêu
Cánh chìm không mồi, sớm chiểu vẫn bay.»
2. Giỏ lộ n g —tiếng th ét cầm th ù , tiến g th ét đáu tra n h đối
với bọn cư ớ p n ư ớ c và bản n ư ớ c ở m ièn Nam Việt nam .
Nhưng hiện thực đất nước ta trong thời kỳ 1954 — 1961 không
phải chl có miền Bẳc xây dựng chù nghĩa xã hội mà còn có miền
Nam — nửa nước Việt nam thân yêu — đang kiên cường bất khuất
đấu tranh chống Mỹ — ngụy tàn ác.
Hiện thực miền Nam Việt nam mà Giỗ lông phản ảnh phần
lớn là hiện thực của những năm trước ngày đống khỏi. Bọn Mỹ —
Diệm trong khoảng thời gian này đã gây ra không biết bao nhiêu
là tội ác đổi với nhân dân ta, nhất là đối với cán bộ kháng chiến
cũ. Với luật 10-59, bọn chúng kéo lê máy chém đi khắp miền Nam,
dựng nên những trại tập trung gièt người kiều Phú lợi và tiến hành
những cuộc thảm sát vô cùng tàn khốc, như : Hướng điển, Vĩnh
trinh, Chợ Được, Duy xuyên . . . , những tên đất mà mấy nghìn năm
sau lịch sử sẽ còn ghi lại vỏi những dòng máu đồ.
Trong Gió lộng, cuộc sồng mà bè lũ Mỹ — Diệm dựng nên
ồ1 miền Nam là <(cõi chết», là « com ác mộng », là «một nhà tù lỏm»,
là cuộc sống mà «thịt roi máu chảy đêm d ài», có «nghìn hồn oan
bay khắp nhân gian », «hồn kêu trên mái muôn n h à» . . .
Đứng trên đỉnh cao củ a cuộc sổng mới xã hội chù nghĩa, nhà
thơ giáng xuống đầu bọn Mỹ và tay sai một mối căm thù mang
sức mạnh của bão tố :
«Bão ngày mai là gió nồi hôm nay
Trời chớp giật tất đền ngày sét đánh.»
Điểu mà nhà thơ tiên đoán, trong những năm 60 và đầu 70,
đã trờ thành sự thật.
Nhưng hiện thực miền Nam trong giai đoạn 1954— 1961 mà Gió
lộng phân ảnh chù yếu không phải là bộ mặt của bọn Mỹ — Diệm
112
và cuộc sống ngột ngạt, đen tối mà chúng đã dựng nên với những
tội ác man rợ. Hiện thực miền Nam— mặt chù yếu mà Tố Hữu
phản ảnh qua Gió lộng — chính là hình ảnh những con người và
cuộc sổng của nhân dân cách mạng, trong máu lửa vẫn kiên trì đấu
tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chù ồ* miền Nam,
tièn tới hòa bình thống nhất T ố quốc.
Trong Giỏ lộng, hình ảnh nhân dân cách mạng miền Nam là
những con người có «trái tim vĩ đại, còn một giọt máu tươi còn
đập m ãi» đấu tranh kiên cường cho «lẽ phải», cho sự nghiệp giải
phóng quê hương, thống nhất T ố quốc và giải phóng loài người.
Lẽ sống của họ là độc lập, tự do và thống nhất nước nhà :
«Dù phải chềt mà còn trời', còn đất
Mà Tố quốc ta hòa bình, thống nhất.*
Trong ánh hào quang c ủ a lý tường độc lập, dân chù và c ủ a
chù nghĩa anh hùng cách mạng, họ xuất hiện trên trang thơ Tố
Hữu vói những vẻ đẹp hết sức rạng rỡ :
«Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuồi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây, là suối?
Đôi mắt em nhìn hay chớp lừa đêm đông ?
Thịt da em hay là sắt, là đồng?»
Và cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do củ a nhân dân cách mạng
miền Nam đã được phản ảnh vào thơ Tố Hữu với một sức sổng
không có gì dập tắt nổi :
<?Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng dựng thành âồng.»
Và đến năm 1961 thì cuộc sống đó đã rằt náo động ĩ
«Mấy hôm nay như đứa nhở nhà,
Tôi vẩn vơ hoài, rạo rực vào ra,
Nghe tièng mõ và nghe tiềng súng
Miền Nam dậy hò reo náo động.»
Trong mấy câu thơ đó có cuộc sống của nhân dân cách mạng
miền Nam và cũng có tâm tình củ a tác giả. Tình cảm Bắc — Nam
cũng là một biểu hiện tươi đẹp c ủ a tình yêu nước củ a nhân dân
ta mà Tố Hữu đã tập trung phản ảnh trong Giỏ lộng. Đất nước
bị chia cắt, miền Bắc sống trong cảnh tươi vui của cuộc sống mới,
113
miền Nam «những tiếng giày đinh» vẫn «đạp núi đ ồ i» trên đất
Quê m ẹ; tình cảnh đó đã đưa lại cho thơ Tố Hữu ỏ* những bài
vièt về miền Nam trong Gió lộng một nỗi ray rứt, canh cánh
không nguôi:
«Tỗi viềt cho ai bài thơ 61
Đêm đã khuya rồi, gió về tẽ buòt
Hà nội rì rầm tàu thối ngoài ga
Một chuyền tàu chuyền bánh đi xa
Tiếng xinh xịch chạy đọc đường Nam bộ.»
Ray rứt, canh cánh, nhưng mà lòng tin c ủ a tác giả vẫn.
một màu son tươi thẳm. Đây là hình ảnh chị Lý trên đường quê
hương ngày miền Nam được giải phóng :
«Em sẽ đứng trên đôi chần tuổi trẻ
Đôi gót đồ lại trờ về quê mẹ
Em sẽ đi trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa rực rỡ sao vàng.»
Hình ảnh người con gái Việt nam có «đôi chân tuồi tr ẻ » và
« đôi gót đò » đó đẹp, hay cảnh đất nước miền Nam ngày giải phóng
đẹp ? Lòng tin c ủ a tác giả thật chói sáng.
Biểu hiện thành công tình Bắc — Nam ruột thịt và lòng tin sẳt
đá vào sự nghiệp cách mạng trong cầ nước, Gió lông đã góp phần
với những tác phầm thơ ca c ủ a các tác giả khác viết cùng thời
sự biểu hiện thành công một màu sắc đặc biệt củ a tình cảm yêu
nước Việt nam trong giai đoạn lịch sử mới.
★
★★
Giỏ lông chính là bàỉ ca vui kiến thỉềt chủ nghĩa xã hội, chào
mừng cuộc sổng mởi và con người mới. « Gió lộng chứa đựng một
niềm vui lớn, một niềm vui tràn đầy, trong trẻo, phoi phới không
thể cưỡng được mà lại là một niềm vui có suy nghĩ, tỉnh táo và
sáng suốt.» (Hoài Thanh).
Gió lộng cũng chính là tiềng hát chiến đấu, tiếng thét căm
thù đối vói bọn Mỹ — ngụy, tiếng thét đấu tranh đòi độc lập, tự
đo, dân chù ồ' miển Nam, tiếng hát lạc quan, tin tưởng và cháy
bòng nhớ thương:
«Như lừa cháy trong lòng ta gió ỉộng.»
114
Xét về nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca, từ T ừ áy, qua Việt bắc
đến Giỏ lộng, lời thơ c ủ a Tố Hữu càng ngày càng trồ* nên đẹp
đẽ, điêu luyện, uyển chuyền, nhuần nhụy, đậm đà màu sắc, hương
vị dân tộc, đồng thời mối mẻ, hiện đ ại. . . Gió lộng cũng đề lại
nhiều bài thơ hay, có sức trường tồn c ủ a Tố Hữu : Quê m ẹ,
N gư ờ i con g ái V iệt n am , Em ơ i . . . Ba l a n . . . , T iếng ru ,
Cảnh chim không m ỏi, Bài ca m ủ a x u ân 61, Mẹ T ơ m ...
★
XƯA . . . NAY
(1) Ngày 25-12-1954, trong Hội đông Chính phù Việt nam dân chủ cộng hòa, Hồ
Chủ tịch có n ổ i: « Trước kia ta mới có rừng núi, có đêm ; ngày nay ta có thêm sông,
thêm bỉền, thêm cả ban ngày. Đất nước ta bao la, anh em ta đông đủc. . . »
115
TRÊN MIỀN BẲC MÙA XUÃN
Đ i đi ra trư ờ n g đấu
Quật địa chù cư ờ n g hào !
R uộng đất, ta làm chủ
Chấp ch ớ i đỏ cờ cao.
Đ i đi ra chống hạn
T hay trời, ta làm m ưa
V ui sao tiếng n ư ớ c lên đồng cạn
V u i sao tiếng hát trên đồng bừ a !
★
★★
T ồi đi d ư ớ i nắng trưa
M ùa xuân ấm áp
N gh e h ơ i th ớ c ủ a đổng quê mập mạp
Bãi phù sa xanh m ư ợ t ngô non
N h ữ n g đàn trâu V iệt bắc béo tròn
Đ ù n g đỉnh về xuôi quê h ư ơ n g m ới lạ.
R ự c rỡ nh ữ n g làng vàng tư ơ i mái rạ
G ạch m ớ i nung, đá trắng chất bên đ ư ờ n g
K hói lò bay quanh nh ữ n g phố p h ư ờ n g
Sắt sáng chói nh ữ n g bề dầu x ư ở n g máy
Và trư ờ n g học đã m ọc lên từ n g dãy . . .
116
S ư ớ n g vui thay, m iền Bẳc của ta í
Cuộc sống tư n g b ừ n g đổi sắc thay da.
T a nghe rõ : m ỗi giờ m ỗi phút
Cả đất n ư ớ c ta tiến lên vùn vụt
N h ư cỗ xe trăm mã lự c khổng lồ
M à bàn tay thần diệu của Bác H ồ
Cầm chắc lái, bay trên đ ư ờ n g vạn dặm
Đ ư ờ n g gai góc đang nồ 1 đầy hoa thẳm . . .
★
★★
5-2-1956
QUÊ MẸ
G ởi Huề yêu
H uế ơ i, quê m ẹ của ta ơ i !
N h ớ tự ngày xưa, tuồi chín m ư ờ i
M ây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
M ư a nguồn gió biền, nẳng xa k h ơ i. . .
117
Ôi n h ữ n g đêm xưa, tối m ịt m ùng
Con nằm bên m ẹ, ấm tròn lư n g
N goài hiên nghe tiếng giày đi rỏn í1)
M ẹ bấm con im : chúng nó lùng(*23*>
118
Tháng Tám vùng lên Huế của ta
Quảng — Phong ơi, Hương thùy, Hương trà
Phú vang, Phú lộc đò lên Huế
Đò ngập dòng sông rộn tiếng ca.
★
★★
T ừ ấy, xa quê mẹ đến rày
Lẳng nghe từng buổi, nhớ từng ngày
Giặc về giặc chiếm đau xương máu
Đau cả lòng sông, đau cò cây 1
Cẳn răng gian khố tám năm trời
Huế của ta không một bước lùi
Huế của ta đây cầm vững súng
Chúng bay không thể có ngày vuií1)
Chúng bay không thể có ngày mai
Chết dưới chân bay vạn bẫy gài
Chết xuống đầu bay từng hồc núi
Hải vân thăm thẳm huyệt đêm ngày !
Làng ta giặc đốt mấy lần qua
Mà đất Phù lai vẫn tốt cà
Mà quít Hương cần ta vẫn ngọt
Nhớ anh du kích trấn Dương hòat2>
Chí ta như núi Thiên thai ấy
Đò rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương giang ấy
Xanh biếc lòng sông những bóng thông . . .
*
**
Lửa chiến tranh nay đã tẳt rồi
Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi
Mẹ ơi dưới đất còn chua xót
Những tiếng giày đinh đạp núi đổi !
(1) Đoạn đường từ Huê ra Quảng trị, quân Pháp gọi là <• Con đường không vui *
(Route sans joie).
(2) Dương hòa : chièn khu cúa Thừa thiên.
119
Ôi H u ế ngàn năm , H u ế c ủ a ta
Đ ư ờ n g vào sẽ nối lại đ ư ờ n g ra
N h ư con của m ẹ về quê m ẹ
H uề lại về đây giữa « Cộng h ò a ».
6-2-ỉ 955
BA BẦI T H Ơ TRĂNG
I
Trăng qua rào song
T răng nghiêng mặt cư ờ i
L âng lâng m ây hồng
T răng lên khơi vơi
N g ư ờ i tù đ ứ n g lặng
N gh e buồn tê da
Rào song sẳt nặng
Tàn canh tiếng gà . . .
1940
Lao Thừa thiên
II
Trăng đi qua núi qua rừng
H ỏi anh T .S (!) : « Có ư n g nhắn gì ? »
— Qua rừng qua núi trăng đi
N hẳn dùm vớ i bạn : « Có khi m ình về ».
Đắc lây, 19421
(1) T .s. : Travaiỉlenr spéciaỉ : tên gọi những người tù ớ trại tập trung của thự c
đân Pháp trong những năm 1940 — 1945.
120
III
1959
VỚI LÊ-NIN
N h à L ê-n in , ớ G oóc-ky.
K hi tôi đến
L ê-n in n h ư vừ a đi
— N g ư ờ i rất bận :
N gày ngày
V ô tận
N g ư ờ i n g ư ờ i nối b ư ớ c trư ớc K rem -lin
M on g gặp L ê-n in
T rong m ột phút giây im lặng.
L ê-n in đi vắng
N h ư n g trong v ư ờ n sên đầy nẳng
Chiếc ghế sơn xanh còn ấm h ơ i N g ư ờ i
Ba m ư ơ i bốn năm xư a
N gồi d ư ớ i mặt trời
V iết nh ữ n g dòng
Á nh sáng.
121
Cách mạng tháng Mười
Đảng Cộng sản Liên xô từ đổ
Với Lê-nin, làm lại loài người
Với Lê-nin, làm thè kỷ hai mươi
Trong đêm tối, mớ chân trời hừng hực.
Mẹ ơi, đẻ con ra trong khổ cực
Mẹ chưa hay từ đó có Liên xô
Có Lê-nin hằng che chớ con thơ
Người nhắm mắt khi con vừa bốn tuổi.
Người đã sống đến giây phút cuối :
Chiếc gậy cầm tay còn gác cạnh bàn
Bậc thang nhà còn ấm những lan can
Và tấm lịch đứng lại ngày 2K1)
vẫn tươi sáng một con người : Sê-kốp K12)
Ôi Lê-nin
Có thể nào tin
Thòi đại ta đã mất
Một con Người đẹp nhất ?
Vĩnh viễn Lê-nin sống giữa loài người
Vầng trán mênh mông đôi mắt yêu đòi
Như trái đất vui mùa xuân mới dậy.
★
★★
Tôi đã đi
Giữa mùa hè chín mầy
Xi-bê-ri hay Tbi-li-xi
Đâu đâu tôi cũng thấy
Lê-nin
Mỗi công trường xưởng máy
Lê-nin, ấy là lò thép chảy
Thành những óc tim, lửa cháy bừng bừng
Trên thảo nguyên, đồng nội, núi rừng
Lê-nin, ấy là nguồn điện lực
Với Xô viết, làm thiên đường sáng rực !
122
Khắp những nẻo đường náo nức tôi đi
Hiền hiện Lê-nin phoi phới diệu kỳ
Nhịp sồng lớn trên dáng đi bay nhảy
Những ánh mẳt của thiên tài thức dậy ..
Rất tự do, nên rất tự hào
Mỗi con người nhấp nhánh một ngôi sao !
★
★★
Lê-nin đó
Muôn triệu lần nảy nò1
Giữa Loài ta
Muôn triệu lần rạng rỡ
Như mặt trời chói giữa biển bao la
Và mỗi lần sóng gió nổi quanh ta
Lê-nin đó
Ngòi ngời chân lý.
★
★★
Đám tang ai
Đi trong tuyết giá
Mạc tư khoa trắng lạnh
Muôn nghìn kim
Đau buốt trái tim í
Tôi vẫn thấy Lê-nin
Bình thường khòe mạnh
Giữa mùa đông nước Nga
Cùng công nhân đi vác gỗ xây nhà.
Và chiều nay trước phút vội đi xa
Người còn nghe
thánh thót
Krúp-skai-a
Đọc trong sách
« Tình yêu cuộc sống »(1).
7-1958
(1) Lê-nin mất lặng lễ trong khi Krúp-skai-a, vợ của Người, đọc cho Người nghe
tiểu thuyết «Tình yêu cuộc sổng I> của Jắc Lòn-đôn.
(2) Năm 1924, liệt sĩ Phạm Hồng Thái đùng bom mưu giết Méc-lanh, viên toàn
quyến Đông dương, lúc y ghé qua Sa điện ở Quẳng châu, Trung quốc. Việc không thành,
Phạm Hồng Thái nhảy xuống Châu giang tự vẫn.
124
Vui cứ đến, ngày mỗi ngày, nhồ nhồ
Như từng cây cờ đỏ mọc trên đời
Vui cứ đến, tự bao giờ chẳng rõ
Như suối ngầm trong đất chảy trăm noi .
126
Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
Đôi gót đò lại trò* về quê mẹ
Em sẽ đi, trên đường ầy thênh thang
Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng !
127
Õi, chết thế, không thể nào chết được
Không thể chết, những người dân yêu nưởc
Những con người không chịu ô danh
Những người con không muốn chiến tranh
Những người cha không muốn nhơ quốc thể
Những người mẹ không muổn con nô lệ !
(1) Bạch ồc : tên tòa nhà của tổng thổng Mỹ còn gọi ỉà «Nhà trẳng».
128
Đồng bào oi, anh chị em oi !
Chúng tôi không thể thét nữa rồi !
Lửa đã đốt những thây đen thuốc độc
Súng đã bắn những đầu xanh gan góc
Chết vẫn leo lên những mái nhà giam
Kêu cả loài người : Cứu lấy miền Nam !
EM Ơ I . . . BA LAN . . .
129
Có phải Sô-panh tình chứa chan
Nâng đàn ca cô gái Ba lanơ)
Có phải A-đam hồn vĩ đại
Bay trên đầu thế kỳ nhân gian. . .(123>
(1) Cô gái Ba lan : bản nhạc nổi tièng của Sô-panh, nhạc sĩ thiên tài của Ba lan.
(2) Ý một câu thơ của A-đam Mích-ki-ê-vích, nhà thơ lớn của Ba lan :
« Tôi vươn lên, bay Un, trên đầu thời đại, trên loài n gư ời. . . »
(3) Nhạc sĩ Sô-panh mầt ở Pháp. Trái tim của ông được đưa về Ba lan, đặt trong
một nhà thờ. Khi quân phát xít Đ ức đánh đền, nhân dân đem cầt giấu trải tỉm ấy, đợi
đến ngày Ba lan được giàỉ phóng mớỉ đem trái tỉm vế lại nhà thờ.
(4) Ổ t-sơ-ven-xim (tiếng Đ ức gọi là Au-sơ-vích) là một trong những trại tập trung
ghê tớm nhất của phát xít Đức, đã giết bốn triệu người cả trẻ em và phụ nữ của hai
mươi tám nước.
130
Anh đẵ đến quê em Cra-cốpO)
Như quê anh, lộng lẫy cung đển
Hồng quân cứu Va-ven xinh đẹp
Như Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên.
Anh đã đến quê em Ban-tích
Sóng ngời xanh, ngọc bích biền khơi
Đã xóa sạch những ngày Đăng-dích(2)
Màu Ba lan trong trắng đò tươi.
Khắp quê em, mùa xuân đến rồi
— Dù đêm qua chút tuyết còn rơi —
Hỡi người chị bên đường quét tuyết
Xuân đến rồi, nắng đò trên môi.
Nắng trên cao cần trục xây nhà
Nắng lưng tàu phấp phới đi xa
Nắng đò ngực anh, người thủy thà
Đẹp như lò Nô-va Hu-ta(J)
Khắp quê em, mùa xuân mang tên
Những người con đẹp của trăm miền
Hôm nay gọi nhau về Đại hội(4)
Mô* thêm đường, đi lên đi lên
Mùa xuân đó, quê em ấm áp
Chân người đi, vào cuộc đòi chung
Ngựa đang kéo đồng lên hợp tác
- Đường ta đi tấp nập vô cùng J
Em oi, Ba lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng đàn xuân ấy
Ca ngàn năm : Ba lan Ba la n __
4-19591234
(1) Cra-cồp : kinh đô xưa của Ba lan, có cung Va-vcn rất đẹp đã được Hông quân
Liên xô cứu thoát khồi sự phá hoại của phát xít Đức.
(2) Thành phồ hài cảng Gơ-đanh của Ba lan được gọi là « hòn ngọc của biền Ban-
tích » trước kia bị người Đ ức khống chế và đặt tên là Đâng-dích.
(3) Nô-va Hu-ta ỉ nhà máy gang thép lớn mang tên Lê-nin, do Liên xô giúp cho
Ba ỉan.
(4) Đại hội lần thứ 3 Đảng Công nhân thống nhất Ba lan (10-3-1959).
131
BA MƯƠI NĂM ĐỜI TA CÓ ĐẢNG
Anh chị em ơi !
Ba mươi năm đời ta có Đảng
Hôm nay ôn lại quãng đường dài . . .
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Mùa xuân đó, con chim én mới
Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh
Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nớ hoa.
★
132
Lần đêm bước đến khi hừng sáng
Mặt trời kia ! Cờ Đảng giương cao í
Đảng ta, con của phong trào
Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm*
Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ
Không quê hương, sương gió tơi bời
Đảng ta sinh ớ trên đời
Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay*
133
Chồng phát xít cường quyền hiếu chiến
Khẳp năm châu, trận tuyến Bình dân
Trùng trùng cách mạng ra quân
Phất cao cờ đỏ, công nhân dân đầu
Còi máy gọi bến tàu hầm mỏ
Hòn gai kêu Đất đỏ đấu tranh
Áo nâu liển với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên
Đòi cơm áo, đòi quyển dân chù
Đường càng đi đội ngũ càng đông
Suối ngàn đã chảy thành sông
Đố ai tát cạn được dòng nước xuôi !
★
★★
Ôi hai tiếng đồng bào, T ố quốc
Đ ế n hôm nay m ớ i thuộc về ta
Trăm năm m ất n ư ớ c m ất nhà
H ôm nay m ỏ i cất lờ i ca íiền g cư ờ i
T a đã đ ứ n g nên n g ư ờ i độc lập
Cao bằng n g ư ờ i, nào thấp thua ai ?
T ay ta, tay búa, tay cày
T ay g ư ơ m , tay bút d ự n g xây n ư ớ c m ình.
Đ ờ i đang b uổi bình m inh h ử n g đỏ
'tà y lại vào cắn cổ, cắn chân
C hém cha cái lũ th ự c dân
Đ ã leo đằng cẳng lại lân đằng đầu !
M ột b ư ớ c nhịn, b ư ớ c sau cố nhịn
G iặc càng hung, còn nín đ ư ợ c sao ?
★
★★
Hỡi quồc dân ỉ Hỡi đồng bào ĩ
Cổ gươm, có sủng, có dao hãy dùng
Quyết kháng chiền đến cùng cứu nước ỉ
Toàn dân trông phía trước tiền lên I
Nửa đêm vang tiếng lệnh truyền
Phố giăng chiến lũy, đường xuyên chièn hào
Hồn Nước dựng thành cao muôn trượng
Tay Đảng rèn lực lượng muôn dân
Chín năm kháng chiến thánh thần
Gậy tầm vông đánh tan quân bạo tàn !
Một dân tộc hai bàn tay trắng
Đồng tâm là chiến thẳng thành công
Dân ta gan dạ anh hùng :
Trẻ làm đuốc sống, già xông lửa đồn
Chân toạc máu, chân dồn đuổi giặc
Tay chém thù, tay sắc như gươm !
Cù khoai, cù sẳn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can !
136
Đường hạnh phúc gian nan lắm khúc
Đời đấu tranh không lúc dừng chân
Đã rằng vì Nước vì Dân
Nước Dân còn khồ thì thân sướng gì ?
Đường giải phóng mới đi một nửa
Nửa Mình còn trong lửa nước sôi
Một thân không thể chia đôi
Lửa gươm không thể cẳt rời núi sông
Gươm nào chém được dòng Bèn hải ?
Lửa nào thiêu được dải Trường sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu !
Miền Nam đi trước về sau
Bước đường cách mạng dài lâu đã từng
Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng
Gió càng lay càng dựng Thành Đồng
Trăm sông về một biển Đông
Bẳc Nam lại sẽ về trong một nhà !
★
★★
Đường thống nhất chân ta bước gấp
Miền Bắc ta xây đắp nhanh tay
Năm năm mới bấy nhiêu ngày
Mà trông tròi đất đồi thay đã nhiểu . . .
Dân có ruộng, dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng, ấm áp làng quê
Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê
Sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn
Màu áo mới nâu non nắng chói
Mái trường tươi roi rói ngói son
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe đất chuyền thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao . . ♦
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu cho người
Đời hết kẻ sống lười ăn bám
Đời của ai dũng cảm hy sinh
Những người lao động quang vinh
Chúng ta là chủ của mình từ đây. . *
Nghìn năm giấc mộng đêm ngày
Ba mươi năm Đảng, hôm nay có mình.
★
★★
Ba mươi tuổi Đảng sinh, phấn đấu
Đã bao lần đổ máu con yêu ỉ
Đường đi mấy núi mấy đèo
Núi bao nhiêu ngọn, bấy nhiêu anh hùng !
Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng
Tầm lòng son chói sáng nghìn thu
Mặt trời có lúc mây mù
Trái tim kia vẫn đồ bầu máu tươi !
Người đang sống nhớ người đã khuất
Nhớ những anh chị mất trên đường
Tù lao, máy chém, chiến trường
Dẫu tan nát thịt, còn vương vấn hồn :
Chết nằm xuống, còn hôn cờ Đảng
Chết còn trao súng đạn, quên đau
Chết còn trút áo cho nhau
Miếng cơm dành đề người sau ấm lòng !
Hỡi những trái tim không thể chết
Chúng tôi đi theo vết các anh
Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biền cả, cây xanh núi ngàn . . .
Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ
Ta nhớ người đau khổ nuôi ta :
<Tn người như mẹ như cha :
Lòng dân yêu Đảng như là yêu con !
Nghèo rau cháo, từng lon gạo bữa
Dành cho ta chút sữa cầm hơi
Dù khi tẳt lửa tối trời
Vững lòng quyết sống, không rời Đẳng ta
Dù khi giặc khảo giặc tra
cẳn răng thà chết, không xa Đảng mình !
Ta nhớ nghĩa nhớ tình bốn biển
Anh em ta yêu mến gần xa
Máu Hồng quân, máu Trung hoa
Cũng là máu đổ cho ta đất này.
Một ngày nhớ bao ngày xưa ấy
Ba mưoi năm, biết mấy buồn vui l
Đẳng cay nay mới ngọt bùi
Đường đi muôn dặm đã ngời mai sau . . .
Ngọn cờ đỏ trên đầu phấp phới
Bác Hồ đưa ta tới trời xa
Ba mươi năm bước đường qua
Đời ta có Bác xông pha dẫn đường
Người đi trước, nghìn sương muôn tuyềt
Dắt dìu dân, nước Việt nam ta
Bạc phơ mái tóc người Cha
Ba mươi năm Đảng nớ hoa tặng Người.
Những đêm hè
Khi ve ve
Đã ngù
Tôi lẳng nghe
Trên đường Trần Phú
Tiếng chồi tre
Xao xác hàng me
Tiếng chối tre
Đêm hè
Quét rác . . .
139
Sáng mai ra
Gánh hàng hoa
Xuồng chợ
Hoa Ngọc hà
Trên đường rực nớ
Hương bay xa
Thơm ngát
Đường ta
Nhớ nghe hoa
Người quét rác
Đêm qua.
Nhớ em nghe
Tiếng chổi tre
Chị quét
Những đêm hè
Đêm đông gió rét
Tiếng chổi tre
Sớm tối
Đi vể
Giữ sạch lể
Đẹp lối
Em nghe !
6-1960
TIẾNG RU
140
Núi cao bồi có đất bồi
Núi chê đất thấp núi ngồi ớ đâu ?
Muôn dòng sông đổ biển sâu
Biền chê sông nhỏ, biển đâu nước còn ?
(1) Chiều 6-12-1960 HS Chủ tịch cùng các đại biểu của Đ ảng Lao động Việt nam
từ L iên xô trờ về n ư ớ c với bản tuyên bố lịch sử của Hội nghị các Đảng Cộng sần và
Công nhân ở Mạc tư khoa.
(2) 36 triệu đảng viên cộng sàn của 87 Đảng anh em trên thè giới.
141
Sông Hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mỏi, đồng quê gặt mùa
Hoa ơi, con gái của cha
Cha nâng con nhé, làm hoa mừng Người.
Bác về, vui đó, con ơi !
Bác hôn các cháu, Bác cười với dân
Ngày vui, vui những hai lần :
Bác về, mang cả mùa xuân lại nhà.
12-1960
142
Ô tiếng hót vui say con chim chiền chiện
Trên đổng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân oi xuân, vui tới mông mênh
Biền vui dâng sóng trắng đầu ghểnh
Thơ đã hát, mát trong lời chúc :
Đ ư ờ n g lên hạnh p h ú c r ộ n g th ên h th ê nh(l)
Tam đảo, Ba vì vui nủi xuân xanh . . .
T r ả i qu a m ộ t cu ộc hề d â u '12)
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiềp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thẫn Kiểu !
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêq diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xẻ lòng . . ♦
(1) Câu thơ của H ô Chủ tịch trong bài th ơ chúc m ừng năm m ới 1961.
(2) Câu thơ của Nguyễn D u (Tố N hư) :
Trải qua một cuộc bể đâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
143
Đòi vui đó, hôm nay mở cửa
Như dãy hàng Bách hóa của ta
Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa
Và đến đó, sẳm ít quà lễ cưới :
Lụa Nam định đẹp tươi mát rượi
Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh I
Ta còn nghèo, phồ chật nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết.
144
Nào đi tói ! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiềng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước !
Đi ta đi ỉ Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng ?
Hỏi biền khơi xa, đâu luồng cá chạy ?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều ?
Hỡi những người trai, nhữ'ng cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả !
Xuân đã đến rồi. Hồi hả tương lai
Khói những nhà máy m ới ban m ai. . . -V-
★
★★
Tôi viết cho ai bài tho1 61 ?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buồt
Hà nội rì rầm . . . Còi thổi ngoài ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xinh xịch chạy dọc đường Nam bộ . . .
Ôi đâu phải con tàu ! Trái tim ta đó.
Tiềng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi I
Ta biết em rất khỏe, tim oi
Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng
Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng ?
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động 1
Ba con tôi đã ngù lâu rồi
Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi
Miền Bắc thiên đường của các con tôi !
★
145
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi ! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhò
Treo trước mắt của loài người ta đó :
Hòa bình
Độc lập
Ầm no
Cho
Con người
Sung sưcmg
Tự do !
24-1-1961
MẸ TƠM<>>
(1) Sau 19 năm đi xa, tôi lại về Hanh cù, Hanh cát — làng ven biển Hậu lộc, Thanh
hóa — nơi ngày xưa có bà mẹ Tơm rất nghèo đã nuôi giấu chúng tôi, mấy anh em trốn
tù về hoật động. Mẹ Tơm có hai người con trai đều là đằng viên cộng sẳn ngày ngày
đi cúp tóc để nuôi nhà và nuôi đống chí; về sau cả hai anh đều bị giặc bắt và tra tấn, nhưng
đều một mực không khai cơ quan và cán bộ Đảng. (Chú thích của T.H.)
(2) Hòn Nẹ, Hồn M ê : hai hòn đảo ven bờ biển Thanh hóa.
146
Tôi lại về đây, hỡi các anh
Hỡi rừng sa mộc, khóm dừa xanh
Hỡi đổi cát trắng rung rinh nắng
Hỡi những vườn dưa đồ ngọt ỉành !
(1) Nhiều : tên con gái đông chí Hậu. Lúc chúng tôi ờ, em mới 1 tuồi. Ở nông thôn
Thanh hóa thường gọi con gái là hĩm (chú thích của T.H.)
147
— Ông mất năm nao, ngày độc lập
Buồm cao đỏ sóng bóng cờ sao
Bà « v ề» năm đói, làng treo lưới
Biển động : Hòn Mê, giặc bẳn vào. .
★
★★
Bâng khuâng chuyện cũ : một chiều thu
Mười chín năm xưa, mấy bạn tù
Vượt ngục, băng rừng, tìm mối Đảng
Duyên may, dây nối, đất Hanh cù,
148
Ôi bóng người xưa, đã khuất rổi
Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi.
Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời !
149
IV—RA TRẬN
Năm 1960, Mặt trận đân tộc giải phóng miền Nam Việt nam ra đòi*
Phong trào đồng khởi dâng lên. Cách mạng miền Nam liên tiếp thu những
thẳng lợi vô cùng to lớn.
Năm 1964, Mỹ thua đau ò* rniển Nam nưởc ta, leo thang ra miền
Bẳc xã hội chù nghĩa. Theo lệnh c ủ a Bác Hô, cầ nước sục sôi
chống Mỹ cứu nước. Việt nam trỏ’ thành tuyến đầu củ a cuộc đấu
tranh chống Mỹ của nhân dân toàn thế giới.
Chính trong không khí đấu tranh cách mạng sôi sục đó củ a
toàn dân tộc, những bài thơ trong tập R a trậ n của Tố Hữu được
sáng tác (từ năm 1962 đền năm 1971).
Nhìn chung, Ra trậ n là tiếng hát chiến đấu và chiến thẳng
trong những ngày cả nước ta chống Mỹ cứu nước.
Ở Ra trậ n , trong những năm « cả nước có chiến tranh» chống
Mỹ này, thơ Tố Hữu đã kịp thời ghi nhận được hình ảnh nhân dân
ta rất anh hùng ớ cả hai miền Nam — Bẳc.
Đây là hình ẳnh anh Giải phóng quân :
<?Anh đi xuôi ngược tung hoành,
Bước dài như gió lay thành chuyến non.
Mải chèo một chiếc xuồng con ¥
Mà sông nước dậy sông cồn đại dương.»
Đây là hình ảnh cô đu kích :
«0 du kích nhỗ dương cao súng,
Thằng Mỹ lom khom hước cúi ẩầu. »
150
Đây là hình ảnh một bà mẹ chống Mỹ :
«Một tay lái chiếc đò ngang
Bẽn sông Nhật lệ quân sang đêm ngày.»
và đây, hình ảnh những em bẻ :
« Chào các em những đồng chí tương lai
Mang mã ro'm đi học đường dàù»
Rõ ràng những hình ảnh của nhân dân Việt nam anh hùng đang
chống Mỹ trên đây có cái gì khác, so vởi hình ảnh nhân dẫn anh
hùng chổng Pháp trong Việt bắc trước đây. Đó là cái độ lớn của
những con người biểu hiện sự lớn mạnh hơn c ủ a sức ta, thế ta.
Cỏ tiền tuyến lớn miền Nam được tôi luyện trong mười năm
máu lửa đấu tranh, có hậu phương lớn miền Bắc sau mười năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đánh Mỹ với khí thế của cả
một dân tộc bưởc vào những ngày xuân chiến đấu và chiền thắng
rạo rực, náo động:
« Ôi sáng xuân nay như lưỡi gươm trần sáng quẳc
Rạo rực lòng ta trống trận Quang Trung.»
Cuộc sống chống Mỹ, cứu nước củ a nhân dân ta được phản
ánh trong thơ T ố Hữu là cuộc sồng của cả một đất nước đang
hành quân ra trận :
«Xuân hãy xem cuộc diễu hình hừng vĩ
31 triệu nhân dân
Tầt cả hành quân
Tầt cả thành chiền sĩ»
« Tất cả thành chiến s ĩ», cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại đã
động viên lực lượng toàn dân «cỏa ngày xưa và của bây giờ» để
giải phóng miền Nam, bảo vệ và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã
hội ỏ1 miền Bẳc, là thiên anh hùng ca lớn mà cũng là một bài
ca trữ tình lớn.
«Đường vào Khu Bồn, và Thanh,
» Không đi thì nhớ không đành phầi đi.»
Chuyến đi vào Khu Bốn cũ (Bẳc Trung bộ) năm 1965 đã đưa
lại cho nhà thơ một chùm hoa thơ tươi thắm. Tố Hữu vièt một
loạt bài thơ về con người và cuộc sống anh hùng củ a nhân dân
«vùng tuyến lử a» : Đ ư ở n g vào, Chiếc ảo xanh, Bài ca lải xe
151
đêm , Ngọn đèn, Mẹ Suốt — những bài ca trữ tình đằm thắm,
phơi phới lạc quan và rạo rực khí thế anh hùng ca :
«Đường vui không đợi mùa trăng,
Ta đi lầm ánh sao băng giữa đời.
Người đi không thầy mặt người,
Vẫn nghe ríu rít tiềng cưĩri tuồi xuân.»
Nhân dân ta đánh Mỹ vì nghĩa cả và vì tình lớn, nên con người
và cuộc sống chống Mỹ cứu nước trong thơ Tố Hữu lớn đẹp vô
cùng, lạc quan và đáng yêu vô cùng. Câu chuyện của bà Mẹ Suốt
là câu chuyện c ủ a một bà mẹ anh hùng mà cũng là câu chuyện
« ơn tình » rất «say » lòng người. Chiếc xe đêm là « con ngựa chiến »,
có pháo, có đạn, mà cũng có chì, có kim, có «thư tinh chung thủy*
«nặng biết bao ơn ngãi». « Ta vì ta ba chục triệu ngưcd, cũng vì
ba nghìn triệu trên đ ờ i», nên dù cuộc sống chiến đấu c ủ a chúng
ta có nhiều gian khổ, hy sinh, «sống chềt từng giây mưa bom bão
đạn», con người củ a chúng ta vẫn «ngọt ngào qua muôn nỗi đẳng
cay», vẫn vui, vẫn đẹp và trong trẻo lạ thường :
<rGương mặt người ai cũng sáng long lanh
Những đôi mẳt trong lành vui ầm lạ.»
Chưa bao giờ Tố Hữu viết nhiều thơ xuân và trong thơ xuân
lại có nhiều câu sảng khoái như thế :
«Như nghìn năm đẹp nét xuân xưa
Bỗng tỏa gương trong sạch bụi mờ
Xuân mới đơn sơ, đần thẳm vậy
Căng đầy sức dậy dáng non tơ.»
bay : <?Xuân vui ca múa mọi vừng
Bẳc Nam đâu cũng anh hùng vì sao ĩ
Ngần ngơ nghe tiếng ai chào
Chị hàng hoa rẽ lối vào Đổng xuân.»
«Ngẩn n g ơ » ! Đấy là cái «ngẩn ngơ » củ a người thi sĩ trước
cảnh xuân tưoi của đất nước anh hùng.
Tình cảm yêu nước, lòng yêu chế độ xẵ hội chù nghĩa, tình
câm Bẳc — Nam, tinh thần lạc quan cách mạng vẫn là tinh cảm quán
xuyến trong Ra trậ n . Thế nhưng, theo bước những chiến thắng
của cách mạng, những tình cảm đó đã có một nội dung mỏi, và
rõ ràng là, trong Ra trậ n , những bài thơ sau so với những bài thơ
152
trưửc cũng có những nét mới trong sự biểu hiện tình cầm. Trong
các bài thơ Cỏ th ể nào yên, Lả thtr Bến tre, Miền Nam
(1962 — 1963), ta thấy có những câu thơ, trong đó T ố Hữu diễn
tả rất đạt cuộc sống cách mạng sôi nồi, hào hùng củ a nhân dân
ta ; tuy vậy, cái ray rứt, nóng bồng vẫn canh cánh :
«Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc
Mây chiều xa bay giục cánh chim
Đêm khuya một tiêng bầu, tièng trúc
Một câu hò cũng động trong tim.»
Không biết có phải vì những tiếng cùng vần : «lúc, giục, tr ú c »
và hình ảnh «mây chiểu xa bay giục cánh chim» hay vì bản thân
những «tiếng bầu, tiếng trúc, tièng h ò » của miền Nam yêu thương
mà mấy câu thơ trên đọc lên nghe nhức nhối.
Đến những bài thơ xuân trong «những năm cả nước có chiến
tranh » lần này (1965 — 1971), khi nhân dân cách mạng của hai miền
liên tiếp thu những thẳng lợi quan trọng thì nỗi ray rứt, nhức
nhối đó hầu như không còn nữa, mà thay vào đó là niềm vui mừng
óng ả ỉ
«Ngoài này nằng đỗ cành cam
Chắc trong ầy nắng xanh lam ngọn dừa.»
hay ĩ «Kỳ diệu thay! Nơi chảy lừa na-pan
Trại lá cây rừng, hạt lúa thành than
Lại là đất xanh tươi cuộc sống.
Và xanh nhất màu xanh hy vọng,»
Cảm hứng anh hùng cất cánh trên hiện thực cách mạng miền
Nam — một hiện thực cách mạng có ý nghĩa quốc tể trọng đại —
lại có hiện thực của chủ nghĩa xã hội ớ miền Bẳc làm điềm tựa,
lòng tự hào về miền Nam và đằt nước anh hùng trong Ra trậ n
càng về sau càng cao đẹp :
« Ta giữ cho ai mảnh đất này
Việt nam., hai tiềng gọi hôm nay
Mênh mông đôi cánh bay muôn dặm
Qua mầy tràng dương vượt tuyềt dày.»
Trong thơ Tố Hữu trước đây, chưa bao giờ đất nước Việt nam
lại hiện lên với hình ảnh «mênh mông đôi cánh» rực rỡ như
thè cả.
153
Sự phản ánh những cung bậc tình cảm Bấc— Nam và lòng tự
hào dân tộc ăn nhịp với bước đường tiến lên củ a sự nghiệp cách
mạng hai miẻn đất nước khẳng định giá trị phản ánh hiện thực
kịp thòi và sâu sắc của thơ Tố Hữu. Tự hào về đất nước, về nhân
dân anh hùng, lòng yêu nước trong Ra trận của Tố Hữu có một
chiểu sâu rất !ạ :
« Việt nam, ôi Tố quốc thương yêu
Trong khổ đau Người đẹp hơn nhiều
Như người mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con suốt đò'i im lặng.»
« Trong khồ đau Người đẹp hơn nhiều» ; đất nước trong chiến
đấu hiện lẽn trên trang thơ Tố Hữu sao mà tươi thẳm í T ừ cái
nẳng đỏ cành cam» đến cái «nắng xanh lam ngọn d ừ a», từ cái
«óng xanh lúa chan hòa mặt đất, xanh ngắt trời quê ấy miền N am »
đến «đồng lúa làng tre nắng vàng rắc phấn, sương lung linh nắng
gấm mây tơ», bức tranh đất nước màu sắc thật rộn rã. Nhưng
cái đẹp hơn hết c ủ a đất nước trong những ngày chổng Mỹ vẫn
không phải là những «đổng xanh bốn mùa hoa lá », những « dòng
sông cửa thơ ca nhạc họa», mà là những « em thơ cũng hóa những
anh hùng», những «ong dại cũng luyện thành chiến s ĩ», những «hoa
trái cũng bièn thành vũ k h í» là « chiếc mũ tai bèo» — những chiếc
mũ c ủ a chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là anh Giải phóng quân
mà «cả năm chầu chân lý đang nhìn theo bóng anh đ i», là nhân
dân anh hùng và rất giàu tình cảm, «lòng nóng bòng căm thù vẫn
mát tươi tình bạn».
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam kết tinh vói lý tướng
xã hội chù nghĩa trên đất nước anh hùng có truyền thống chống
xâm lăng trong những ngày cả nước chống Mỹ đã đưa lại cho thơ
ca viết về T ố quốc Việt nam c ủ a Tố Hữu những vần thơ sang
sảng, hào khí :
« ồ i TỔ quồc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hàng cảa thế kỷ hai mươi
Hãy kiêu hãnh trên tuyền đầu chống Mỹ
Có miền Nam anh dũng tuyệt vòi
Miền Nam trong lừa đạn sáng ngời ĩ »
Trong không khí hào hùng c ủ a dân tộc đang sôi sục, phấn
khòi đánh Mỹ và thẳng Mỹ đó, ngày 3-9-1969 là ngày đau thương
154
nhất củ a toàn thể nhân dân Việt nam, cổng như nhân loại tiến bộ
trên thế giới. Bác Hồ vĩ đại và kính yêu qua đời. Cùng với toàn
dân, Tố Hữu đã đau đớn khóc thương :
«Suồt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa ...»
Thương tiếc không nguôi, vì đã không còn nữa Người dắt dìu
và yêu thương cả dân tộc, nhưng đối với người cách mạng, không
có cách nào khác là phải biến đau thương thành sức mạnh, cho
nên toàn dân ta quyết thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, quyết
tiếp tục «Theo chân Bác»ĩ
«Nhớ lời đi chúc, theo chân Bác.»
Bài thơ lớn T heo chân Bác c ủ a Tố Hữu không những toát
lên lòng kính yêu đối với vị lãnh tụ vĩ đệi c ủ a dân tộc, mà còn
khắc sâu hình ảnh và cuộc đời c ủ a một chiến sĩ cách mạng lỗi
lạc trong một giai đoạn lịch sử vẻ vang củ a nhân dân Việt nam.
Phải T heo chân Bác, phải tiếp tục làm cách mạng, tiếp tực
đánh Mỹ và thẳng Mỹ, tiếp tục R a trận .
« Thời đại lớn cho ta đôi cánh
K h ô n g g ì hơ n Độc lập , T ự d o !
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.»
★
Nhìn chung mà nói, kết tinh trên một hiện thực vĩ đại là sự
nghiệp chồng Mỹ, cứu nước c ủ a cả hai miền Nam — Bắc nước ta,
Ra trận đã ghi một thành cổng củ a thơ Tố Hữu trong việc biểu
đạt những tư tướng, tình cảm lớn mà cuộc song anh hùng c ủ a
dân tộc cho phép.
«Nếu được làm hạt giống đề mùa sau
Nếu lịch sừ chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lỉnh đi đẩu
Trong đêm tối, tỉm ta làm ngọn lừa.»
Thật tự hào và cũng thật lạc quan : T ự hào và lạc quan, nên
nhiệm vụ lớn lao mà «mọi gánh nặng hầu như nhẹ nhàng bòi vì
lòng ta đang vô cùng phấn khỏi» (Phạm Văn Đổng).
155
Ra trận là tiếng hát chiến đấu và chiến thẳng của một dân
tộc đã đánh thẳng đế quốc xâm lược Mỹ, tên hung nô của thế kỳ 20,
kẻ thù hung bạo và quỉ quyệt nhất của loài người.
Xét về mặt văn phong c ủ a Tố Hữu, qua Giổ lộng đến Ra
trận , phong cách thơ ca của nhà thơ cách mạng đầu đàn củ a thơ
ca cách mạng Việt nam hiện đại đã có một sự chuyền biến
khá rõ rệt : trong khi vẫn thấm đượm những tình cảm tinh tế, thơ
Tố Hữu đã chứa đựng thêm nhiều suy tve&ng sâu sẳc, thâm trầm,
đáp ứng được những yêu cầu nghệ thuật mỏi c ủ a thời đại
hiện nay.
★
156
<•Hôm nay, sảng mát trong, trời lặng
Hai mươi tám mảy bay lên thẳng
Của lục quân, lính thảy Mỹ, đì càn
Cách Sài gòn 35 dặm phía Nam . . . í^1)
157
Ôi đất mẹ hiển tử, yêu quý
Có noi đâu, trên trái đất này
Như miền Nam, đắng cay, chung thủy
Như miền Nam, gan góc, đạn dày !
Đầu T ố quốc, chính đây tiền tuyến
Mũi Cà mau nhọn hoắt mũi chông
Xưa, xung kích, tầm vông kháng chiền
Nay, hiên ngang, một dải Thành Đồng l
Miền Nam đó, ngọn đèn mặt biển
Giữa đêm đông, đồ lửa đưa đường
— Hãy nhằm hướng phương Đông mà tiến
Hỡi những tàu trên các đại dương ỉ
16-6-1962
LẢ T H Ư BẾN TRE
Anh,
Phải chi em đến đưọ’c cùng anh
Chỉ một ngày thôi, kể ngọn ngành !
Thư viết đôi trang, lòng cuộn cuộn
Như dòng sông cuốn lá tre xanh . . .
Anh ạ, từ hôm Tết tới nay
Giặc đi ruồng bồ suốt đêm ngày
Thới lai, Thới thuận, liền hai trận
Ba bồn nghìn quân, bẩy máy bay.
Biết không anh ? Giồng keo, Giồng trôm
Thảm lắm anh à. Lũ ác ôn
Giết cả trăm người, trong một sáng
Máu tươi lênh láng đồ đường thôn.
Có những ông già, nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sần nhà
Có chị gần sinh, không chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra.
158
Anh biết không ? Long mỹ, Hiệp hưng
Nó giết thanh niên, ác quá chừng.
Hăm sáu đầu trai bêu cọc sẳt
Ba hôm mắt vẫn mớ trừng trừng í
Có em nhò nghịch, ra xem giặc
Nó bắt vồ vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười. . . em nhỏ hét :
« Má ơi, nóng quá, cứu con mau 1»
★
★★
159
Oi nói làm sao được hớ anh
Buồn vui muôn nỗi của quê mình !
Phải chi em gởi cho anh được
Những ảnh hình ghi những tấm tình . . .
MIỀN NAM
160
Vì sao chẳng ngày vui trọn vẹn
Như bâng khuâng việc hẹn chưa làm ?
Vì sao miếng cơm ăn bỗng nghẹn ?
— Một nửa còn cay đẳng : Miền Nam !
(1) Tên gọi những máy bay lên thẳng của Mỹ.
Tất cả nói một lời : Giải phóng !
Cứu miền Nam ! Cứu miền Nam !
Ôi cửa Phật, cũng dầu sôi lửa bỏng
Dẫu thiêu minh làm đuốc, vẫn cam !
162
Ta đứng vậy, ngần ngơ mà ngắm mãi
Quê hương ta. Nghe phấp phới trong ỉòng
Đôi cánh cò trắng vẫy mênh mông
Ôi T ố quốc I Đơn sơ mà lộng lẫy I
★
★★
Này các chị, các anh đi trên đường, có thẩy
Nư&c non mình, đâu cũng đẹp như tranh
Gương mặt người, aỉ cũng sáng, long lanh
Những đôi mẳt trong lành vui ấm lạ !
163
Vì sao nhỉ, anh em oi, có lúc
Ta vần vơ mơ tưồ*ng trên đường
Mà bỗng quên đang giữa chiến trường
Rất dữ dội, chưa ngừng trận đánh.
T ừ CU BA
165
Em ạ ! Cu ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương
Cam ngon, xoài ngọt vàng nông trại
Ong lạc đường hoa, rộn bốn phương
Anh mải mê nhìn, anh mải nghe
Mía reo theo gió những thân kè
Tóc xanh xõa bóng, hàng chân ưẳng
Có phải tiên nga dự hội hè ? . . .
★
★★
Mừng bạn ngày vui, chén rượu đầy
Kết buồn, chưa hết nhỏ' chua cay
Em ơi, mía ngọt từng khi mặn
Máu trộn bùn vun gốc mía này.
Ngày xưa . . . bạn hỡi, mới dăm năm
Roi vọt trên lưng, thịt tím bầm
Như mía . . . Ngày xưa bao trận cháy
Đã bùng, như mía, lửa hờn căm I
Đêm đã qua rồi. Những buổi mai
Anh đi quanh phố, dọc đường dài
Biển xanh trước mặt, bao la biền
Gió lộng triều vui dội pháo đàií1)
Lớn vỏm ngoài khơi, những bóng ma
Hai con tàu Mỹ ngó dòm ta(2)
Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy !
Chẳng thấy Cu ba đứng đấy à ?
★
★★
Cho lũ bay rình, giương mẳt trông :
Cu ba đây, chói ngọn cờ hồng
Cu ba đạp sóng trùng dương, tiến
Oai hùng như chiến hạm Rạng đông !12
166
Mặc ai sợ, mặc ai run
Ta đi, đèo núi, bưởc không chùn,
Nghĩa quân, một chièc thuyền xưa ấyíí)
Há chẳng tung hoành, dậy nước non ?
(1) Ngày 2-12-1956, chiềc tàu Gram-ma đưa đổng chi Phi-đen Ca-xtơ-rô cùng
81 chiền sĩ về Cu ba, tiền hành vũ trang khỏi nghĩa.
167
Hỡi người Anh, đã khép chặt đôi môi
Tiếng Anh hô : Hãy nhớ lấy lời tôi ỉ
Đang vang dội. Và ánh đôi mắt sáng
Cùa Anh đã chói ngòi trên báo Đảng.
★
★★
Nghìn năm sau sẽ nhớ lại hôm qua
Một sảng mùa thu, giữa khám Chí hòa
Anh đi giữa hai tên gác ngục
Và sau chúng, một người linh mục.
169
TIẾNG HÁT SANG XUẮN
171
TIỄN ĐƯA
Tặng bạn thơ Th.
CHIẾC ÁO XANH
172
BÀI CA LẢI XE ĐÊM
N H Ữ N G NGỌN Đ ÈN
174
Ôi biêt bao tình, bạn nhớ không ?
Ngọn đèn đống chí giữa cơn dông
Tối không rõ mặt người em ấy
Chì thấy trong đêm một bóng hồng —
22-10-1965
MẸ SUỐT
175
Ngẳng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biền tung, trắng b ờ . . .
Gan chi gan rứa, mẹ nờ ?
Mẹ rằng : Cứu nước, mình chờ chi ai ?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mưoi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hẳn bẳn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò . . .
Ghẻ tai mẹ, hồi tò mò :
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo ?
Mẹ cười : Nói cứnsr, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông !
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn đò :
« Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình ! »
Vui sao, câu chuyện ơn tình
Nắng trưa con cát Quảng bình cũng say, . .
4-11-1965
(1) Em bé Ê-m i-li, 18 tháng, là con gái út của No-man M o-ri-xơn. Yêu con tha
thièt, ngày 2-11-1965, anh M o-ri-xon đã bê Ê-mi-li từ nhà đèn Lầu năm góc (hay «lầu
Ngũ giác » — T rụ sỏ’ của Bộ quồc phòng Mỹ) và tại đấy, sau khi đặt Ê-mi-li xuống đất,
rổi nhìn con lẳn cuối cùng, người cha anh dũng đó đã châm lừa tự thiêu dề phản đổi
cuộc chiên tranh xầm lư ợ c của bọn cầm quyển M ỹ ỏ' Việt nam.
176
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hòi cha nhiều con nhé !
Cha bế con đi, tối con về với m ẹ . . .
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh h ồ n
Còn, mất
Hãy cháy lên, cháy lên sự thật !
Giôn-xơn
Tội ác bay chổng chất
Cả nhân loại căm hờn
Con quỷ Vàng trên mặt đầt.
Mày không thể mượn nước sơn
Của Thiên chúa, và màu vàng của P h ật!
Mắc Na-ma-ra
Mày trổn đâu ? Giữa bãi tha ma
Của tòa nhà năm góc
Mỗi góc một châu.
Mày vẫn chui đầu
Trong lửa nóng
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.
Ta đứng đây,
Với trái tim vĩ đại
Của trăm triệu con người
N ư ớ c M ỹ.
Đ ể đốt sáng đến chân trời
Một ngọn đèn
Công lý.
177
Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quý
Nhân đanh ai ?
Bay mang những B.52
Những na pan, hơi độc
Từ tòa Bạch ốc
Từ đào Guy-am
Đến Việt nam
Đề ám sát hòa bình và tự do dân tộc
Đề đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chì biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biẽt đi trường
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc họa !
Nhân danh ai ?
Bay chôn tuồi thanh xuân của chúng ta trong những
quan tài
Ôi những người con trai khỏe đẹp
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Cho con người hạnh phúc hôm nay í
Nhân danh ai ?
Bay đưa ta đến những rừng dày
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Những làng phổ đã trồ’ nên những pháo đài ân hiện
Những ngày đêm đất chuyển trời rung .. ♦
Ôi Việt nam, xứ sò* lạ lùng
Đến em thơ cũng hóa những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí !
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn mất ?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất !
Ta đồt thân ta
Cho ngọn lửa chói lòa
Sự thật.
7-11-1965
XUÂN SỚM
179
Quít nhà ai chín đỏ cây
Hỡi em đi học, hây hây má tròn
Trường em mấy tổ trong thôn
Ríu ra ríu rít chim non đầu mùa . . .
★
★★
Như nghìn năm đẹp nét xuân xưa
Bỗng tỏa gương trong, sạch bụi mờ
Xuân mỏi, đơn sơ, đằm thẳm vậy
Căng đầy sức dậy, dáng non tơ . . .
Đi giữa đồng xuân, dạ ngần ngơ
Quê hương ta hỡi ! Có ai ngờ
Mỗi dòng kênh đó, bờ tre đó
Máu đã rơi nhiều, đỏ ước mơ í
Mà vẫn chưa yên. vẫn những ngày
Đạn bom còn giội, nát đường cày
Còn toan xóa sạch màu xanh lúa
Toan xé trời xanh của én bay !
Giặc M ỹ ! Cứ đem mày đến đây !
Chúng ta, pháo đã sẵn trong tay
Lúa ta vẫn tốt, cây ra lộc
Xuân vẫn về cho ong bướm say. . ♦
★
★★
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
Hát câu quan họ chuyến đò ngang
Nhẹ nhàng tay cấy bên sông ấy
Súng khoác trên lưng, chẳng ngỡ ngàng
Ai biết vì sao ? Lúc đất trời
Chuyền mùa, rét dữ, gió sương rơi
Ây ngày xuân đến . . . nên hoa lá
Cứ nồ*, như không đợi nắng mời.
Ta giữ cho ai ? Mảnh đất này
Việt nam ! Hai tiếng gọi hôm nay
Mênh mông đôi cánh bay muôn dặm
Qua mấy trùng dương, vượt tuyết dày.
Nghe nói nhiều noi còn lạnh lẳm
Mùa xuân chậm đến, giá lâu tan
Uớc gì mang ít hoa xuân sớm
Gửi bạn gần xa, bỏ*t nỗi hàn . . .
TẮM ẲNH
182
CHÀO XUÂN 19Ố7
/ Đất nước ta ơi
Xin bẳn hai mươi phát đại bác vang trời
Chào xuân 1967 !
Xuân củ a chúng ta
Nam Bắc hai miền chiền công lừng lẫy I
Báo cho anh em bè bạn gần xa
Tin vui của chiền trường chồng Mỹ !
184
Ôi sáng xuân nay, như lưỡi gươm trần sáng quắc
Rạo rực lòng ta, trống trận Quang Trung
T ố quốc giục cả hai miền Nam Bắc
Hãy xung phong I Hỡi mùa xuân 1967 anh hùng !
3-2-1967
BÀI CA XUÂN 68
Anh chị em oi !
Hãy giưong súng lên cao, chào Xuân 68
Xuân Việt nam
Xuân của lòng dũng cảm.
186
CHUYỆN EM . . .
(1) Em Nguyễn Văn Hòa, 15 tuổi, quê ở Thừa thiên, là dũng sl diệt Mỹ, dũng sĩ
quyèt thẳng.
(2) Làng Yên ỉà bỉ danh làng em Hòa.
(3) Lên xanh ; lên chiến khu, theo lối nói của đông bào.
(4) Ngái : xa (tièng địa phương Trị — Thiên).
187
Ở nhà vói mẹ đặng mà nuôi quân !
Mình nghèo, không tạ thì cân
Mít thơm'1'ỉ bán chợ, góp phần mua lương,
Mẹ con, một bữa, về đường
Gạo ngon một gánh em sưo’ng(2) nặng đầy
Ngụy đâu xông lại cả bầy
Bẳt em, nó hỏi : gạo này cho ai ?
Nó đá đít, nó tạt tai
Đau em, em chịu, chẳng khai một lời.
Thương anh, anh giải phóng ơi I
Càng thương gạo đổ gạo rơi xuống bùn . .
★
★★
Chạy về một mạch đầu thôn
Thưa anh xã đội : Cho em luôn theo cùng ..
Anh rằng : Cứu nước, việc chung
Tuổi thơ cũng phải anh hùng, nghe em !
Việc quân chạy suốt ngày đêm
Chỉ mê đánh Mỹ, chẳng thèm chút chi.
Chúng em một đội thiếu nhi
Đứa thì canh gác, đứa thì giao liên
Gió mưa chân lội khắp miền
Khi về Tiên nộn, khi lên Nguyệt biểu
Giặc kia bom đạn bao nhiêu
Chúng tao gan dạ lại nhiều hơn bay !
Chiều chiểu trông ngọn Tam thai
Thấy quân Mỹ đóng như gai đâm lòng
Phải chi ra trận xung phong
Măng non em cũng sắt đồng chứ sao !
★
★★
Tuổi mười bổn những ước ao
Buổi đầu cầm súng biết bao là mừng. . .
Mẹ ơi, súng đẹp quá chừng ỉ
Con đi đánh giặc, mẹ đừng lo chi.12
183
Mẹ cười : Thiệt giống cha mi
Chẳng ăn chi cả, cứ đi đánh hoài !
Sớm hôm, cù sẳn củ khoai
Khi đi trinh sát, khi gài mìn chông
Khi ra xung trận giữa đồng
Khi lăn dưới lửa, thoát vòng giặc vây
Súng này càng bẳn càng hay
Một tay em chấp mười tay quân thù.
Thẳng Mỹ vừa ác vừa ngu
Nó như con cọp mắt mù đó thôi
Thằng ngụy vừa dại vừa tồi
Nó như con rắn theo đuôi ăn tàn.
★
189
Súng em càng đảnh càng hăng
Chỉ mong mau giòi, mau bằng các anh.
Xa rồi, lại nhớ trên xanh
Măng tre môn vót(!) lều tranh mái kè(12>
Tháng ngày ngọn suối bờ khe
Mà vui như hội, bốn bề yêu thương
Tay em một khẩu súng trường
Mà như có cả quê hương đánh cùng.
Ôi quê ta rất anh hùng !
Nưởc non đâu cũng trùng trùng tiến quân
Ẩm ẩm biển ỉửa nhân dân
Đẹp như Huế dậy đầu xuân đò cờ 1
★
★★
XUÂN 69
190 & :
Kỳ điệu thay ! Noi cháy lửa na-pan
Trụi lá cây rừng, hạt lúa thành than
Lại là đất xanh tươi cuộc sống
Và xanh nhất màu xanh hy vọng.
Nơi những hố bom thét lớn căm hờn
Vẫn những miệng cười và ca hát yêu thương
Noi cái chết bắt cúi đầu hồ nhục
Chính là xứ của con người tự do, không khuất phục
Vươn lên cao và tự biết ĩ vô cùng !
★
★★
Đẹp biết bao, cuộc chiến đấu anh hùng
Khi dân tệc nhịp bước cùng thòi đại
Khi quá khứ, tương lai soi mình trong hiện tại
/'"Khi mỗi ngày ta sống, mệt ngày xuân
l’ " Và mỗi người là một Giải phóng quân
: Ta tiến công. Với sức mạnh thánh thần
! Của những Phan Hành Sơn đánh tung núi Ngũ hành, diệt Mỹ !
1 Ôi ta biết cảm ơn ai đã sáng tạo cái tên n g ư ờ i: dũng sĩ
Vang tự hào giữa thế kỳ hai mươi
_ Thước vàng đo mọi giá trị trên đòi.
Miền Nam ! Miền Nam ! Sáng ngời, chỏi lọi
Trong lòng ta, như mặt trời, không nói.
★
★★
191
Gió rét đổi mùa* Nẳng dọi
Hành quân x a . . . mớ lối xuân sang
Hỡi mùa xuân lộng lẫy mai vàng
Hãy sớm nớ, trang hoàng dải đất
Đỏ thẳm máu hy sinh và những chiến công đẹp nhất
Ta lớn rồi. Không đợi đến ngày mai
T ừ hôm qua, mỗi chặng đường dài
Ta đã thẳng. Địch đã lui, từng bước
Hãy tiến công, tiến công, xông lên phía trước !
Nổi dậy phố phường, nồi dậy nông thôn I
Giành lại quê hương, giành lại những linh hồn
Cho T ố quốc, cho mỗi con người toàn thẳng !
15-1-1969
BẢC ơ ĩ l
192
Ôi ! Phải chi lòng được thảnh thoi
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời.
Bác ơi, tim Bác mênh mông thè
Ôm cả non sông, mọi kiềp người.
193
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường sơn.
6-9-1969
194
Như thế, Người đ i . . . Phút cuối cùng
Nhẹ nhàng, thanh tịnh, rất ung dung
Lời Di chúc gửi, êm bên gối
Quên nỗi mình đau, đề nhớ chung.
Bác ơi !
Thôi đập rồi chăng ? Một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim 1
Muốn òa nức nờ bên em nhò
Nước mẳt ta đành nuốt, lặng im.
Cứ nghĩ : Hồn thơm đang tái sinh
Ngôi sao ấy lặn, hóa bình minh
Cơn mưa vừa tạnh. Ba đình nắng
Bác đứng trên kia, vẫy gọi mình.
Súng hãy gầm lên, nén xót đau
Hãy lau ráo lệ, ngấng cao đầu !
Chỉ xin nhớ để lời đêm trước :
Đốt pháo hoa mừng, đến lễ sau.
Bác đ i . . . Di chúc giục lòng ta
Cho cả muôn đời một khúc ca
Lẽ sổng, niềm tin, mong ước lớn
Và tình thương, ơn nghĩa bao la. x
★
★★
Tôi trớ về quê Bác, làng Sen
Ôi hoa sen đẹp của bùn đen !
Làng quen như thể quê chung vậy
Mấy dãy ao chua, mảnh đất phèn.
Thăm lại vườn xưa, mái cò tranh
Thương hàng râm bụt, luống rau xanh
Ba gian nhà trổng, nồm đưa võng
Một chiếc giường tre, chiếu mồng manh.
Ôi sáng hè vui, Bác trớ về
vẫn không quên lối cũ, tình quê
Bạn xưa, còn nhớ khi câu cá
Nhớ quả cà ngon, nhớ gốc chè. . ♦
Nhớ những năm nao. . . Máu Cửa rào
Thân yêu hai tiếng gọi «đồng bào»
Phận nghèo, nước mất, dân nô lệ
Đêm tối, ười mây, chẳng ánh sao.
(1) « Đường Kách mệnh» : tên một tác phẩm của Hô Chủ tịch.
198
Khủng bố trắng. Máu đầm mặt đất
Chật Côn lôn, Lao báo, Sơn la.
Muôn chiến sĩ, một lòng bất khuất
Chỉ thương Người sương tuyết bôn ba.
Hát rẳng :
Sáng ra bờ 8Uốif t ố i vào hang
Cháo hẹ rau m ăng vẫn sẵn sàng
Bàn đ ả chông chênh , dịch sử Đ ảng
Cuộc đ ờ i cách m ạng th ậ t là sangil) ĩ
200
Lam sơn đây một vùng Núi đỏí1)
Du kích quân rộn rã thao trường
Cao— Bẳc— Lạng khơi dòng thác đồ
Chảy về xuôi, mò* lối đại dương.
Già nào
T rẻ nào
Đàn ôn g nào
Đàn bà nào ^
K ẻ cỏ súng dùng sủng
K ẻ có dao dùng dao.
T hăy T ă y, cứ chém phứ a
T h â y N hật , cứ chặt nhào ĩ
201
Việt nam, ta lại gọi tên mình
Hạnh phúc nào hơn được tái sinh
Mát dạ ông cha nghìn thuở trước
Cho đời, hai tiềng mới quang vinh !
203
C h ốn g g ậ y lên non xem tr ậ n đ ịa
V ạn tr ù n g n úi đ ỡ vạn tr ù n g m ã y
Q uân ta kh ỉ m ạn h n u ổt N g ư u Đ ầu
T h ề d iệ t x âm lă n g lũ só i c à y ỉ ^
204
Đơn giản vậy, cơm ăn áo mặc
Của ta nay, nặng biết bao tình.
Cả không khí, trời xanh miền Bắc
Cũng trong như lòng Bác thương mình
206
(Ti anh bộ đội trên mâm pháo
Mắt lượn trời cao, dõi bóng mây
Có thấy, bốn mùa, quên nắng bão
Bên ta, Bác vẫn thức đêm ngày ?
(1) Bụt mọc : một loại cây bên hố, có rễ dài mọc sát mặt nư ớc giống những
tư ợ ng Phật.
208
Bác ơi !
Xin để Người yên giấc mộng say
Còn trời đất đó, nước non đây.
Còn ba mươi triệu con Nam Bắc
Quyết thắng, bển gan, tay nắm tay.
Còn triệu anh em đồng chí đó
Bốn mươi năm Đảng, óc tim này.
Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay I
Ngày mai, thống nhất lại non sông
Mẹ được gần con, vợ gặp chống
Ôi đến ngày ta vui sướng nhất
Thỏa lòng Bác lại trờ về trông !
Đời sẽ tươi hơn, xây dựng mới
Đ àng hoàng to đ ẹp , sáng trời Đông
Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới, như lòng Bác ước mong.
Đem ngày gần lại, đổi năm xa
Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà
Bốn biển anh em hòa hợp lại
Trăm đường một hướng, nở muôn hoa.
★
★★
Bác ơi ỉ
Tết đến, Giao thừa đó
vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tướng nghìn tay Bác vỗ sang x u ân...
1-1970
LỀU CỎ LÊ-NIN
209
Đây là đâu ? Mà như thòi hoang dã
Rét bắc cực thổi từng con qua mặt hồ băng giá
Rừng thông lay những cánh trắng bên đường
Bồi hồi sao, mỗi bước hành hương í
(1) Lời của Sta-lỉn: « Lê-nin là con chùn phượng hoàng của đạỉ ngàn».
210
Mấy cành liễu rũ
Một « phòng xanh »(!)
Làm đại bẳn doanh
Vla-đi-mia I-lích Lê-nin
Đôi mắt rực niềm tin
Tựa gồc thông già
Ngồi viết bản trường ca hùng tráng
Nhà mxớc và Cách mạng.
★
★★
Người ò* đây
Nghe gió thổi rì rào
Và ngoài xa, sổng vỗ ào ào
Biền động.
Pê-tơ-rô-grát, mùa hè bức nóng
Tất cả đòi giải phóng.
Vùng lên !
«Toàn bộ chính quyển
Về tay Xô viết ỉ »
Đại hội Đảng nghe tiếng Người
Quyết liệt :
Hãy chuẩn bị tiến công !
Một phút chần chừ là chết.
Trời sắp rạng đông.
Lê-nin bước đi, sôi nổi, giữa rừng thông
Cồ đồng ngập lối
Mà như cùng muôn triệu công nông
Xông vào Cung điện Mùa Đông
Đầu súng lá cờ đỏ chói.
Và túp lều
Rất đỗi thân yêu
Cũng rung lên, kiêu hãnh
Thách tất cả
Những ngôi vua, tòa thánh
Những chiến lũy, pháo đài.
Vì có Ngưòi
Đang sửa soạn Ngày mai.
★
★★1
(1) « Phồng xanh » ĩ Lê-nin gọi như thè noi làm việc trong rừng.
211
Chú đồng chí
Con ai thế nhi ?
Tuổi mười hai đuổi bướm bắt chim.
— Em ò’ đây, bên Bác Lê-nin
Người làm việc, cần em canh gác.
— Cha em đâu ?
— Cha làm súng và đi liên lạcí1)
— Và mẹ em ?
— Mẹ cùng anh, nướng bánh, đưa đường
Thuyền qua về, hôm sớm, trong sương . . .
Vui lắm nhé. Ở đây rất thích
Em yêu nhất trên đời : I-lích
Người với em đi cất vó chiều chiểu
Và đêm đêm, Bác cháu ngù chung lều
Em cứ thương — Người trớ mình thao thức
Kéo chăn mỏng đắp cho em ấm ngực
Rồi lặng yên, nghe dậy nước triều xa
Người nghĩ suy
Đến khi rừng bừng sáng tiếng chim ca . . .
★
★★
(1) Cả gia đình đổng chí Ê-mê-li-a-nốp, công nhân xưởng vũ khí, đã bảo vệ
Lê-nin trong những ngày Người ỏ” Ra-dơ-líp.
(2) Kô-li-a ỉà con trai của đông chí Ê-mê-li-a-nốp, v ề sau hy sinh trên chiền
trường.
212
Nắng sáng long lanh
Gương hổ Ra-dơ-líp
Mặt đá hoa cương
Viện bảo tàng nhộn nhịp
Bốn phương mừng trăm tuổi Lê-nin
Gặp nhau đây, mà tưởng ở quê mình(1)
Túp lều cỏ thành trái tim nhân loại.
TUỎI 25
(1) Hôm chúng tôi đến thăm Ra-dơ-líp, gặp nhiều bạn quốc tế đèn thăm lều cỏ
Lê-nin (chú thích của T.H.).
213
Các em nữa, bữa ăn khoai sẳn độn
Áo phong phanh, mưa nắng biết che nhau
Sáng đi trường, chiểu lại theo trâu
Em cũng hiểu thế nào là đánh Mỹ.
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống, chẳng cúi đầu ỉ chết, vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hom cường bạo.
« Đường mòn Hồ Chí Minh » là con đường sáng tạo
Trường scm cao hay địa đạo âm thầm
Cũng là linh hồn ta, từ bốn nghìn năm
Tự xây đắp đề ngang tầm thế kỳ.
Vàng bạc uy quyển không làm ra chân lý
Óc nghĩ suy không thể mượn vay
Bạch đẳng xưa, Cửu long nay
Tẳm gội lòng ta, chẳng bao giò cạn.
Ta tin ò* sức mình, vô hạn
Như ta tin ớ tuổi 25
Cùa chúng ta, là tuồi trăng rằm
Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái.
Ta tin ồ* loài người thúc nhanh thòi đại
Những sông Thương bên đục bên trong
Chảy về xuôi, càng đẹp xanh dòng
Lịch sử vẫn một sồng Hồng vĩ đại.
Thưa Bác
Một năm Bác đi xa
Nhìn lại :
Đất nước có buồn
Nhưng mỗi chúng con
Mang hồn Bác
Vâng lời Bác dạy
Càng lớn khôn.
Nhà vẳng cha thường vậy :
Càng đùm bọc, thương nhau
Anh trước em sau
Lo toan, gánh vác.
Con đường của Bác
Con đường Đông dương
Trăm nẻo chiến trường
Tiến công giặc Mỹ.
214
Miền Nam, Miền — Nam— dũng — sĩ
Biền dậy sóng thẩn.
Miền Bắc chuyển mùa, phoi phới lúa xuân
Bông đầy, hạt mẩy
ô i ! Nếu được như năm xưa ấy
Bác trờ về
Thăm cảnh thăm quê !
BÀI CA XUÂN 71
Gớt-tơ nói : Phải hành động.
Lê-nin ỉ Nên biềt ước mơ.
215
Đất nước vào xuân gọi những cánh đồng
Gỉổng mới rộn ràng năm tấn
Dáng thẳng những chàng trai hăng lập chiến công
Biếc mắt bèo dâu, đẹp như những cô gái xã viên
tiễn người ra trận*
Đáng yêu sao, những mảnh đất bạc màu
Những quầ đồi hoang xói lồ*
Nghe Đảng khuyên, bỗng thấy mình giàu
Hết tím hoa mua, sẽ trắng mùa hoa sờ*
Dâu hẹn vàng tơ, chè mơ thêm lứa
Lạc lên xanh bát ngát chân trời
Đền cỏ dại cũng ngọt thành cồ sữa
Sắn khoai khô cũng đem mật cho đòi*
Anh họa sĩ làng Hồ, lại đây anh mà vẽ
Đàn bò mộng Cu ba đủng đỉnh đi, ngắm núi Ba vì
Những chú lợn lai lớn cao hơn ỷ mẹ
.Và những mái gà Hung làm bạn với gà ri.
★
★★
Cái mới đèn. Buổi đầu sinh nò*
Mỗi ngày vui một quả trứng hồng.
Sức trẻ dậy, mặt người rạng rỡ
Nước non này xanh cả mùa đông.
Giặc Mỹ phá, thì ta xây lại.
Lấp hố bom mà dựng lò cao
Nhà máy tựa hang sâu, vững chãi
Ta tựa lòng ta, rất đỗi tự hào.
Cuộc sổng lổ*n có đôi mắt Đảng
Mỗi bước đi gần, nâng ước mơ xa
Hòn than nhò cũng bừng lên ánh sáng
Một Thác bà reo, gọi điện sông Đà.
Ta sẽ khai những mồ dầu, mỏ sẳt
Đóng những con tàu đi khắp đại dương
Nhưng phải luyện những con người đẹp nhất
Biết căm thù và biết yêu thương.
★
★★
216
16 năm rồi. Nửa ta máu ứa
Biết mấy mẹ già chống cửa trông con
Các em ta đã theo cha mấy lứa
Hà nội đau, tim & Huế, Sài gòn !
217
V—MỘT s ó BÀI THƠ
SAU «RA TRẬN»
CÂY HỒNG
THĂM TRẠI BA v ỉ
218
Bâng khuâng bổn biền tình đòi
Càng thương muôn dặm đất người Cu b a . . .
1-1-1972
220
Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho T ố quốc, và cho Tất cả
Lá cờ này là máu là da
Cùa ta, của con người, vô giá.
(1) Bom Mỹ đã giết hại mẹ và cha của chị Phạm Thị Viễn, thợ nguội 22 tuổi, một
tay súng tự vệ Hà nội tài giòi, đã cùng đồng đội bẳn roi một chiếc F. 111 đêm 22-12-1972.
Chị n ó i: «Đau thương và căm thù giặc Mỹ lẳm ! Nhưng em không thể đề nước mắt
làm nhòa mất mặt kẻ thù ».
221
Không nỗi đau nào riêng của aií1)
Cùa chung nhân loại, chiến công này*
Việt nam oi, máu và hoa ấy
Có đù mai sau, thẳm những ngày ?
(1) M ư ợ n tên m ột bộ phim của nhà th ơ X i-m ô-nổp (Liên xô) tố cáo tội ác của
giặc M ỹ ở Việt nam.
222
PHỤ LỤC
i. N H À VÂ N ĐẶNG TH A I M A I:
223
tình cảm củ a thi sĩ đã hòa họp thành một khối với nhân dân thì
từ ngữ, hình tư ợ n g , âm điệu cũng tự nhiên thành củ a chung c ủ a
nhân dân.
ỉ Thơ T ố Hữu đã ghi một thành công vẻ vang trong văn học
I hiện đại Việt nam. Ẳy là vì ngay từ giờ đầu nhà thơ đã được tôi
luyện trong đấu tranh cách mạng theo đường lối c ủ a Đảng. Anh
không hề có ý đem thơ ca để biểu hiện cái tư thế hoặc tâm tình
riêng củ a mình. Anh đã tìm tòi trong ngọn nguổn văn học truyền
thống của nước nhà, đã thu hút một phần những yèu t ố lành mạnh
trong văn học thế giới đề nói lên cái tinh thần nhân đạo tích cực
cùng với cái ý chí bất khuất củ a nhân dân Việt nam. Qua những
ngày thảm đạm nhất trong lịch sử, thi sĩ đã báo trước cho mọi
người một «tin lành» : cơn dông đang nhóm lên ở chân trời lịch
sử rổi đây sẽ quét sạch cái không khí oi ả củ a thế giói cũ, và thè
giới tương lai, thế giới c ủ a nhân dân lao động, sẽ thấy thẳng lợi
của chính nghĩa, sẽ thấy một «ngày mai huy hoàng». Lòng tin của
Tố Hữu dưới ánh sáng củ a học thuyết Mác — Lê-nin không hề có
ý vị ảo tướng. Ây chính là vì trên cơ sớ nhận thức rất biện chứng
về xu thế củ a xã hội, Tố Hữu đã thực hiện được sự thống nhất
giữa tình cảm với lý tính, giữa nghệ thuật với hành động, giữa hình
thức với nội dung . . .
♦ .. Đời sống xứ Huề vẫn nổi tièng là chứa chan thi vị. Núi
Ngự, sông Hương là một khung cảnh rất «nên th ơ ». Con người
xứ Huế vẫn nổi tiếng là con người tình tứ dồi dào. «Đánh thơ»
cũng như ca lý sầu não mà các nhà vièt địa chí ngày trước vẫn
gọi là «vong quốc chi ca ». Xứ Huế cũng đã sản sinh những thi
sĩ hoàng phái với những lời thơ cầu kỳ theo lối Tùng Thiện, Tuy
Lý. Nhưng trong truyền thống thơ ca xứ Huế, còn có một ngọn
nguồn lành mạnh hơn. Nó là những lời mộc mạc trong những tập
kể truyện theo lối Tha mạ Đội, hay Mã Long, Mã Phụng, có một
lúc bỗng được lưu hành rất nhiều cr miền Trung và miền Nam
nưổ-c ta. Nó là những câu hò mái đẩy chứa chan ý nhị :
«Đò từ Đông ba, đò qua Đập đá
Đò về Vĩ dạ, thẳng ngã ba Sình
Là đà bóng ngã trăng chênh,
Giọng hò xa vọng nhắn tình mr&c non. . . »
« Tình nước n o n . . . » Người xứ Huế vẫn nhiều quyến luyến
với tình nước non. Sau những ngày sầu thảm c ủ a lịch sử nước
224
nhà, một bài ca như bài K in h th à n h th ấ t th ủ cũng như Ngày dỗ
ám hòn mãi đến sau này vẫn được ủ ấp kín đáo trong lòng của
nhân dân. T ừ cuối thế kỷ trước, khi nhìn thấy cả một triều đình
bất lực trong công cuộc chống giặc, cứu nước, người dân cằt tièng
hồi chua chát, mỉa mai :
«Lập trường ra văn với võ thi tài
Ý làm sao cừa Thuận an Tây lầy,
ưần Bình đài cờ treo?»
Nói rằng con người xứ Huế đã được «m ớ m » thơ từ trong
sữa mẹ, từ trong không khí c ủ a núi Ngự, sông Hương, hồi còn
lên một lên hai, có lẽ cũng chẳng phải quá lời. Đối vói T ố Hữu,
cái hay ỏ* đây là đã hấp thụ được những yếu tố lành mạnh trong
truyền thống dân ca của xứ s ở . . .
(« Mầy ỷ nghĩ» — T ừ ấy, 1959)
2, NH À VĂN H O ÀI TH AN H :
. . . Hai mưoi lăm, hai mươi sáu năm trước, người thanh niên
ấy bước vào đời, và :
«Băn khoăn đì kiềm tễ yêu đừi.»
Đẳng đã đưa lại cho anh cái lẽ lớn ấy, và từ đó, anh đã đi
theo con đường của Đảng, không ngừng không nghỉ, phấn đấu dưới
ngọn cờ c ủ a Đảng.
Thơ anh là tiếng hát của anh trong chiến đấu. Con đường cách
mạng ngày một mờ rộng, ngày một vươn cao. Nhưng tiếng hát củ a
cách mạng ỏ* người này người khác không phải không có những khi
đuổi sức, thậm chí có thể tắt đi không sao nối lại được. Thơ Tố
H ữ u . . . tiếng hát củ a anh cũng như con người anh vẫn tiến kịp
theo vói đà tiến rất nhanh c ủ a cách mạng. T ử áy, tập thơ đầu
của anh bổng bột, sôi nổi, nhưng ý thơ và lời thơ trong nhiều bài
chưa phầi đã chín lắm. V iệt bắc già dặn hơn nhiều, nhưng chưa
có được cái tầm nhìn cũa Gió lộng. Có thể nói chính nhà thơ đã
tự mình tóm tắt Giỏ lộng trong mấy câu :
«Chào 61ỉ Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mẳt nhìn bồn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông t&ỉ mai sau
Trông Bẳc trông Nam, trông cà địa cầu.»
225
Tố Hữu lúc này đẵ đứng vững trên vị trí rất cao c ủ a nước
Việt nam dân chù cộng hòa sau ngày chiến thẳng (đế quốc Pháp —
Người biên soạn) và trên đỉnh rất cao của một thè giới quan cộng
sản, từng trải qua nhiều thử thách khác nhau trong những hoàn cảnh
khác nhau. Gió lộng vẫn kế tục V iệt bắc và T ừ ầy. Cũng vẫn
một ánh sáng ấy, ánh sáng của lý tường cộng sản trong thơ. Nhưng
lúc này trong trẻo hơn, ít xao động hơn. Rõ ràng là một bước tiến
xa về tư tưémg và nghệ thuật, nhất là so với T ừ ầ v . . .
. . . Gió lộng đề cập đến nhiều vấn đề với những khía cạnh
mà nhiều người cầm bút thường hay né bút tránh đi cho tiện. Ngòi
bút Tố Hữu đã không né tránh. Có thể nói Giỏ lộng vẫn tiếp
tục cái gan dạ c ủ a T ừ áy trong một hoàn cảnh mới. Cũng như
người thanh niên cộng sản ngày xưa, người cán bộ lãnh đạo ngày
nay vẫn nhìn thằng vào những vấn đề lớn, những vấn đề nóng hổi
của thời đại. Nhưng không phải táo bạo để mà táo bạo. Táo bạo
vì nắm chắc chân lý và phải táo bạo đề nói lên chân lý.
Cũng cái táo bạo ấy trong tình cảm c ủ a nhà thơ. Có thể, so
với T ừ áy, thì có kém phần bống bột, nhưng không hề kém phần
mãnh liệt. Cái khó là táo bạo mãnh liệt mà lại đúng. Theo tôi, Tố
Hữu cũng có một hai khi đi hơi quá, nhưng nói chung là đúng mức.
Trong triết học, người ta hay nói đèn khái niệm về độ. Vô luận một
cái gì, vượt qua cái độ của nó, sẽ biến chất đi. Trong nghệ thuật,
lại càng phải chú ý đèn cái ranh giỏi ấy giữa hay và dớ, đẹp và
xấu. Bước đến chỗ ranh giới ấy là có cái nguy rơi xuống hố. Nhưng
chỗ ranh giới ấy lại là chỗ c ủ a những đỉnh cao. Vậy thì làm thế
nào ? Lùi lại ba bưỏ*c, đứng vào những chỗ đứng tầm thường cho
chắc chắn được bình yên vô sự ? Không, Tố Hữu, cũng như các
nhà nghệ thuật lớn xưa nay, đã chọn những đỉnh cao và anh đã
có đù sức để đứng vững chân trên miệng hố.
Trồ* lại bài thơ tặng chị Lý : Không phải dễ mà mò* đầu bài
thơ bằng những câu hỏi :
«Em là ai? Cô gái hay nàng tiên, . . . »
Không thực sự hiểu cái vĩ đại của chị Lý, không dám ca ngợi
hết lời, hết mức cái vĩ đại ấy, sẽ không đù sức để viết một câu
như thế nó rất dễ bièn thành lần thần. Và giữa lúc tư tường phong
226
kiến còn tổn tại rất nhiều trong xã hội Việt nam, cũng sẽ không
đù sức nói lên cái câu :
«Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngẳt.»
đề dổn vào đấy tất cả lòng kính phục, yêu thương và căm thù c ủ a
mình trước tấm thân bị tàn phá của người con gái Việt nam.
Chỗ khác, nhà thơ gọi Hỉ Nhi, gọi người con gái Ba lan bằng
«e m » mà người đọc chỉ thấy có tình bạn bè, tình đổng chí. Rồi
nói với Hi Nhi mà nói :
«Em đẹp, em thơm nhw quả tảo đẩu cành.»
cũng chì thấy có trân trọng, có mến yêu. Vì đẹp thơm đây là nói
cuộc đời Hỉ Nhi mà cũng là nói cuộc đời c ủ a mỗi chúng ta sau
ngày giải phóng. Nếu có lấy một tí lẫn lộn ồ’ chỗ này thì khồng
bao giờ dám dùng chữ như thế.
Một thí dụ khác. Trong bài Mẹ T ơ m , khi tôi đọc đến câu :
« Sồng trong cát, chềt vùi trong cảu»
tôi tưcmg chừng như nghe lại câu nới ghê người củ a Kinh thánh
đạo Gia-tô : « Thân cát bụi lại trồ1 về cát b ụ i», một câu nói đã nặng
đè lên đời sống củ a hàng triệu triệu người trong hàng nghìn năm
và cũng đã nặng đè lên đòi sống của tôi trong những năm dài thê
thảm. Tôi có cảm giác như lại sắp roi vào vực thẳm những tư
tướng chán chường tuyệt vọng. Tôi không ngờ tiếp theo đó lại
là câu ỉ
«Những trải tim như ngọc sáng ngờL»
Bàn tay rất khỏe của nhà thơ đã giữ tôi cùng đứng lại vói
anh trên miệng vực. Thiếu nhiệt tình, thiếu lạc quan cách mạng,
không thể đứng vững như thế này ở nơi biên giói giữa thiên đường
và địa ngục.
Tứ thơ táo bạo, tình cảm trong thơ mãnh liệt mà bước đi
của bài thơ lại lắm bất ngờ. Bài thơ của Tố Hữu thường đầy bất
ngờ và rất phong phú. Bất ngờ và phong phú như cuộc sổng. Cuộc
sống là chuyện không thể đoán trước được từng chi tiết, mặc dù
vẫn có thể đoán trước được phương hướng tất nhiên. Nhiều bài
thơ Tố Hữu cũng vậy. Tiêu biểu nhất về phương diện này là Bài
ca mùa xuân 1961.
227
V
Từ «cành táo đầu h è » dưới ánh nẳng xuân chuyền sang «hỡi
em yêu» với một mầu chuyện tâm tình rồi lại cảnh xuân trên đồng
lúa chiêm bát ngát, bỗng đột nhiên nhổ* Nguyễn Du, Nguyễn Trãi,
rồi lại đột nhiên một cửa hàng bách hóa. Trước khi một tứ thơ,
một lòi thơ đến, người đọc không thể nào ngờ là nỏ đến, nhưng
nó đã đến rồi thì lại hiển nhiên là nó phải đền. Ví dụ từ nhớ lại
Nguyễn Du, Nguyễn Trãi chuyển sang :
«Ôi tiềng cha cha ông thuở trước
Xin hát cùng non nước hôm nay.»
thì vẫn tự nhiên và bước đi c ủ a bài thơ đầy bất ngờ và ngẫu
nhiên, nhưng hoàn toàn không tản mạn và vẫn đi theo một hướng
duy nhất : cuộc sống chúng ta vừa giành được như một hòn ngọc
quí, ta phải biết trân trọng, biết nâng niu, bièt giữ gìn lấy nó đề
cho nó ngày một thêm sáng, thêm trong. . .
(«Phê bình và tiều luận», tập 2)
. . . Nói đến Tố Hữu — về thơ, phải nói vai trò mỏr đầu và hiện
vẫn là dẫn đầu c ủ a anh trong nền thơ hiện thực xẵ hội chủ nghĩa
của chúng ta. Sự thành công của anh trước Cách mạng đã xúc tiến
sự hình thành của thơ hiện thực xã hội chù nghĩa sau Cách mạng.
Khi chúng ta đang tìm đường, nhận đường thì đã thấy một ví dụ
sống trên đường là tác phẳm T ố Hữu đấy rồi.
Cũng lại không thể không nói đển lòng trung thành c ủ a Tố
Hữu đối với lý tường cộng sản, với tổ chức Đảng và đường lối
văn học của Đầng. Không có Đảng thì không có thơ anh. Tâm hồn
anh, máu thịt anh, nội dung các tác phẩm của anh, cách anh nhìn
và bút pháp của anh nữa có thể nói tất cả đểu là củ a Đảng đã cho
anh. Anh là một nhà thơ cộng sản.
. . . Bài thơ sau khác bài thơ trước, tập thơ này khác tập thơ
ị kia, nhưng muôn nghìn nhịp đập cũng chỉ là c ủ a một con tim, Ị
Sáng tác 16 năm qua củ a Tố Hữu chỉ là sự phát triền nhân lên
của một lý tư&ng ấy, xoay quanh một cái lõi ấy. Tả tình hay tả
cảnh, kề chuyện mình hay kề chuyện người, viết về các vấn đề lớn
hay về một sự việc nhò đối vói anh là đề nói cho được cái lý tường
cộng sản ấy thôi.
228
Nhờ thế, những câu thơ anh liền một bài; những bài thơ anh
liển một tập, những quyển sách anh liền một đời. Giữa bài thơ anh
ít có chữ nhưng cắt làm hai đoạn. Trong đời thơ anh, anh không
phải hối tiếc về giai đoạn nọ hay giai đoạn kia. . .
(«L ời giới thiệu» T h ơ Tố H ữ u , 1963)
4. NH À L Ỷ LU ẬN PHÊ B ÌN H X U Â N TR Ư Ờ N G :
. . . Bộ đội, cán bộ, nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhử thơ
Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê
hương, yêu đất nưỏ*c. . . khêu gọi trong lòng chúng ta sức tin tường
ò* chúng ta, ở những con người lao động đã chiến đấu, sản xuất và
đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thẩn lạc quan cách mạng cùa
chúng ta, của nhân dân ta, vì thơ T ố Hữu đã hun đúc thêm chỉ
căm thù, nâng cao chí khỉ chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo
vệ quê hương, đất n ư ớ c . . .
(* Mầy vấn đề văn nghệ», 1961)
5. NH À V Ả N N G U YỀN Đ ÌN H TH I:
229
và những tình cảm của nhân vật thơ anh cũng nhiều vẻ. Nhà thơ
nhìn vào cuộc sồng thực và cố trung thành vói quần chúng thực
chung quanh anh, chứ không suy luận ra những nhân vật, tình cảm
cho đúng với một kiểu «hiện thực xã hội chù nghĩa» nào tướng
tượng ra trong óc. Một điểm chứng tổ tính chất hiện thực ấy của
thơ T ố Hữu là những con người anh mô tả đểu rất rõ bản sắc
dân tộc. Anh bộ đội hiền lành «tì tay trên mũi súng» ấy là anh
bộ đội Việt nam của nấm 1947, còn quen tì tay trên cán cuốc, khi
ngồi nghỉ ngoài đồng. Bà mẹ ấy, em bẻ ấy, chị nông dân đi phá
đường ấy, là bà mẹ, em bé, là chị nông dân Việt nam. Khung cảnh
đất nước, ánh sáng bầu trời, bóng tre, màu lúa, hay tiếng mưa trong
núi, rổi tấm áo nâu hay vạt áo chàm, nét mặt con người, giọng cười,
câu nói, cho đến lồi nhìn, nghe, lồi ví von, tất cả những cái ấy quyện
vào nhau tạo cho những bài thơ Tố Hữu một «không khí» dân
tộc không thể nào đem tách ra thành từng điềm «một, hai, b a »
được. Tính ch?.t dân tộc làm cho những nhân vật «sống» một cách
cụ thể, in sâu vào lòng người. Và ngược trở lại, chính nhờ đi vào
đời sống quần chúng, mà Tố Hữu đã hiều được đất nước và biết
yêu dân tộc một cách sâu sắc hơn trước.
Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người
của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm
nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bển
gan bền chí, rất dễ vui ngay trong kháng chiến gian khổ. Tình yêu
ấy của Tố Hữu dịu dàng, đầm ấm, chan chứa kính mến và đượm
cả xót thương, có đôi khi đến bùi ngùi. Mồi khi đọc lại những câu
bà ru cháu trong bài Cá n iró c, tôi không thể ngăn được mình như
nghe thấy tiếng võng đưa kẽo kẹt, đầu một «xóm tre xanh» nào :
«Cháu ơi cháu lởn với bà
Bồ mày đi đánh giặc xa chưa về
Cháu ngoan cháu ngả đi nhe
Mẹ mày đi chợ bán chè bán rau
Bố đi đánh giặc còn lâu
Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tồi ngày.»
Khi Tố Hữu tẳ «Bà bù nằm ổ chuối khô» nhớ con suốt đến
sáng, bài thơ ngắn gọn, những câu thơ gân guốc và như những
tảng đất của một luổng cày, những cành đất nước phác ra vừa đù,
đời sống đất nước, người của đất nước rõ mổn một.
230
«Bà bả nằm ổ chuồi khô
Bà bả không ngủ bà lo bời bời
Đêm nay thảng chạp mồng mười
Vài mươi bữa nữa tềt rồi hềt năm. . . »
Và lòng người mẹ thương con ấy cũng là lòng thương không
cùng c ủ a bà mẹ Việt nam :
«Nhà còn ổ chuối lừa rơm
Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì
Năm xưa cơm cả ngon chi
Năm nay cơm giẻ nhà thì vẳng con
Bà bả gan ruột bổn chồn
Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồL»
Diễn tả sự sống dân tộc, cũng nhờ đi vào quần chúng, cố gắng
nói tiếng nói của quần chúng, Tố Hữu đã tìm được tiếng nói Việt
nam trong sáng của ca dao. Đi vào quẩn chúng, tìm cách diễn đạt
dân tộc, câu thơ của T ố Hữu trồ1 nên liền mạch, chữ sau theo chữ
trước, câu trước nối với câu sau, tự nhiên như chân tay nổi với
thân thể, như những bước đi của mệt người sống. Và tiếng nói Việt
nam luôn luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu. Có những
câu thơ trong suốt, mới nhìn không thấy gì lạ cũng như khi ta
nhìn vào một dòng suối. Nhưng đọc rồi nhớ mãi, cái ngọt củ a nước
suồi ấy uống không chán.
«Nhà em phơi lúa chưa khô
Ngô chừa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá âưò-ng quan. . . »
hay là :
«Chủ bẻ loẳt choẳt
Cải xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sảo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đương vàng.»
( Mảy vần đề văn học ■>, 1955)
231
ố. NH À TH Ơ X U Â N DIỆU:
. . . T ừ ấy và V iệt bắc, hai tập thơ gồm hai mươi năm thơ
của Tố Hữu, mỗi tập một vè, đã đóng góp vào thơ Việt nam hiện
đại một cống hiến hàng đầu, đại diện ưu tủ cho luồng thơ ca cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. T ừ ẩy là cái tình đầu của
luồng thơ cách mạng ấy, nó ham mê, hăng say, nó là một thanh niên.
Việt bắc chín hơn, đi dần vào cái trong sáng, cái hàm súc cổ điền.
T ừ áy là thác, mới, mớ đường cho Việt bắc là con đường chững
rộng. . . Ta yêu thích, quí trọng cả hai.
♦ .. Con đường ngót hai mươi năm nay T ố Hữu đã đi là một
con đường vinh quang, nhà thỉ sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng
làm thơ, nhà thơ là con đẻ của cách mạng và kềt tỉnh cuộc cách
mạng. Cả cuộc đòi c ủ a T ố Hữu đến nay là một thùy tinh trong
sáng, từ tuổi thiếu niên đi học đã hoàỉ bão phản phong, phản đế,
tuổi thanh niên là bao nhiêu năm tù đày, vượt ngục, tuổi tráng niên
mải miết dựng xây, thực hành, lãnh đạo, cái say mê vui thú cửa
T ố Hữu là làm cách mạng, cái hơi thỏ' tự nhiên củ a tâm h ồ n Tố
Hữu là chiến đấu hy sinh ; thơ Tố Hữu hay, vì cuộc đòi và tâm
hồn của T ố Hữu đẹp, cuộc đòi Tố Hữu là một bài thơ cách mạng rồi.
Thơ T ố Hữu từ cuộc đòi cách mạng củ a thi sĩ và từ phong
trào cách mạng của nhân dân mà phát ra, trờ lại góp sức đẩy cho
cách mạng lớn mạnh, cách mạng càng ngày càng thẳng lọi, càng
to lớn, đống thời cũng đưa bài thơ của Tố Hữu nồ* dần đến chỗ
tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương quan mật thiết giữa hành động
và văn chương , mà Tố Hữu là một điển hình rất đẹp.
. . . Đọc thơ Tố Hữu, người ta cảm thấy dấu hiệu riêng như nét
mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được
với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng
bạc thấm lấy các câu thơ, nhiều khi thành một cái «thi tại ngôn
ngoại» c ủ a thơ Tố Hữu. Cái nển nhạc đó, theo ý tôi, là lòng
thương mến . , .
(« Phê bình giới thiệu th<y», 1960)
232
MỘT SỚ ĐỀ TẬP LÀM VẪN
1» Trong những bài thơ của Tố Hữu in trong sách này, em thích
những bài thơ nào nhất ? Vì sao ?
2. Em hãy bình giảng một trong hai bài thơ sau đây của Tố Hữu :
« T ừ ấy » hoặc « Tiếng r u ». (Tự lựa chọn).
3. Hãy phân tích nội dung và nghệ thuật trong bài thơ «Tấm
ảnh» c ủ a Tố Hữu.
4. Em hãy phân tích hình ảnh người phụ nữ Việt nam trong thơ
Tố Hữu.
5. Em hãy so sánh hình ảnh người bộ đội trong thời kỳ kháng
chiến chổng Pháp (qua tập thơ «Việt bắc») và người giầi phóng
quân trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước (qua tập thơ « Ra trận »).
6. « Tôi muốn viềt những đòng thơ tươi xanh
vẫn nóng viết những dòng thơ lừa chảy.»
(Có thể nào yên.)
Dựa vào ý c ủ a hai câu thơ trên, em hãy phân tích tình cảm
của Tố Hữu đối với miền Nam «muôn quí ngàn yêu».
7. « Gió lộng » cũng là tiếng thét căm thù đối vói bọn Mỹ — Diệm
ò* miền Nam Việt nam. Qua các bài thơ viết về miền Nam
trích trong tập « Gió lộng», em hãy chứng minh nhận định đó.
8. Một đặc điểm của thơ Tố Hữu là rất giàu nhạc điệu. Qua việc
phân tích một số câu thơ của Tố Hữu, em hãy chứng minh rằng
nhà thơ đẵ sử dụng yếu t ố nhạc ưong thơ đề diễn đạt nộỉ.
dung rất tàỉ tình.
9. Trong bài «Mấy ý nghĩ» in ở đầu tập thơ « T ừ ấy » của Tố
Hữu, nhà văn Đặng Thai Mai có nhận định : «Với Tố Hữu,
thơ là vũ khỉ đầu tranh cách mạng».
Em hãy chứng minh nhận định trên.
10. Nhận định về tập thơ « V iệt bẵc », nhà văn Hoài Thanh có v iế t:
« Cả tập V iệt bắc xây dựng trên một tình yêu lớn : tình yêu
nưửc ; giá trị và tác dụng c ủ a tập thơ là ở đ ó ».
Em hẵy chứng minh nhận định trên.
233
11. Nhà thơ Chế Lan Viên có viết trong lòi giỏi thiệu cuốn T h ơ
Tố H ữ u : « Tả tình hay tả cầnh, kề chuyện mình hay kể chuyện
người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ, đối vói
anh (tức là nhà thơ T ố Hữu) là để nói cho được cái lý tường
cộng sản ầy thôi».
Em hãy chứng minh nhận định trên.
12. Là bài ca đánh Mỹ, «Ra trận» của T ố Hữu đồng thời cũng
là bài ca thẳng Mỹ. Đằng tập thơ «Ra trận», nhất là những
bài thơ từ 1965 đến nay, hãy chứng minh nhận định tổng quát
trên đây.
13. Nói về thơ Tỗ Hữu, nhà thơ Xuân Diệu viết : « Thơ Tố Hữu
. . . từ phong trào cách mạng của nhân dân mà phát ra, trỏ*
lại góp sức đầy cho cách mạng lớn mạnh ; cách mạng càng ngày
càng thắng lợi to lổ-n, càng đưa bài thơ của Tố Hữu nồ* dần đền
chỗ tròn đầy, lộng lẫy».
Em hãy chứng minh nhận xét đổ.
14. Qua các bài t h ơ : «HỒ Chi M inh», «Sảng Thảng N ăm »,
«Bảc ơi», nhất là «Theo chán B ả c», hãy phân tích hình ảnh
của Bác Hồ trong thơ Tố Hữu.
15. Trong bài thơ Việt nam — Mảu và Hoa, T ố Hữu v iế t:
« . . . Chưa đễ lành đâu, những vềt thượng
Nừa mình còn nhức, hỡi quê hương!
Song mùa vui đã mang xuân tới
Đã tẳt hôm nay lừa chiên trương».
Qua các câu thơ trên đây, hãy phân tích cảm xúc và suy
nghĩ của Tố Hữu đồi với miền Nam và cả nưỏ,c ta sau ngày
Hiệp nghị Pa-ri được ký kẽt, đồng thời liên hệ đên nhiệm vụ
của chúng ta trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và đấu
tranh giữ vững hòa bình.
234
MỤC LỤC
Trang Trang
L ời nói đẩu 7 23. Quyêt hy sinh 48
24. Bà má Hậu giang 49
Gi&i thiệu chung về Tô H ữu và
25. Ba tỉèng 51
thơ’ T ố H ữu 9
26. Tiếng chuông nhà thờ 52
27. Một tiếng rao đêm 53
28. Dậy mà đi ỉ 55
I — TỪ ẤY
29. Tiếng hát đi đày 55
Giới' thiệu tác phẩm 19 30. Đềm giao thừa 57
31. Đi 57
1. Hai đứa bé 25
32. Xuân đền 58
2. Vú em 26
33 HS Chí Minh 59
3. Đi đi em 26
34. Huề tháng Tám 61
4. Dửng đung - 28
35. Giết giặc 62
5. Hỏi cụ Ngáo 29
6. Tiêng hát sông Hưong 36. Xuân nhân loại 63
29
7. Hãy đứng đậy 30
8. Liên hiệp lại 31 II — V IỆT B Ẳ C
9. Như những con tàu 32
10. Từ ấy 32 Giới thiệu tác phàm 65
11. Tiếng sáo Ly Quê 33 37. Tình khoai sắn 71
12. Những người không chèt 34 38. Trường tôi 72
13. Ý xuân 35 39. Cá nước 73
14. Tâm tư trong tù 36 40. Phá đường 75
15. Con chim của tôi 37 41. Bà mẹ Việt bắc 76
16. Khỉ con tu hú 38 42. Lên Tây bắc 80
17. Nhớ đông 39 43. Bà bù 82
18. Giờ’ quyết định 40 44. Bẩm oi 82
19. Dậy lên thanh niên 41 45. Lượm 84
20. Châu Ro 42 46. Em bé Triều tiên 85
21. Trăng trối 44 47. Voi 87
22. Con cá, chột nưa 45 48. Đ ọi anh về 88
235
Trang Trang
49. Cho đòi tự đo 90 74. Miền Nam 160
50. Bài ca tháng Mười 90 75. Trên đường thiên lý 162
51. Sáng thảng Năm 91 76. Từ Cu-ba 165
52. Hoan hô chiền sĩ Điện biền 94 77. Hãy nhớ lấy lời tồi 167
53. Ta đi tói 97 78. Tiếng hát sang xuân 170
54. Việt bẳc 99 79. Tiễn đưa 172
55. Lại về 104 80. Chièc áo xanh 172
81. Bài ca lái xe đêm 173
82. Những ngọn đèn 174
III — GIỎ LỘNG
83. Mẹ Suốt 175
Giới thiệu tác phẩm Ỉ06 84. Ê-mi-ly, co n . . . 176
56. X ư a. . . nay 85. Xuân sớm 179 ^
115
57. 86. Tấm ảnh 181
Trên miền Bẳc mùa xuân 116
87. Kinh gừi cụ Nguyễn Du 181
58. Quê mẹ 117
59. Ba bài thơ trăng 120 88. Chào xuân 1967 183
60. Với Lê-nin 121 89. Bài ca xuân 68 185
61. Phạm Hồng Thái 124 90. Chuyện em . . . 187
62. 91. Xuân 69 190
Mùa thu mói 124
63. 92. Bác oi ỉ 192
Người con gái Việt nam 126
93. Theo chân Bác 194
64. Thù muôn đời muôn kiềp
không tan 94. Lều cò Lê-nin 209
127
95. Tuổi 25 213
65. Em ơ i. . . Ba lan . . . 129
96. Bài ca xuân 71 215
66. Ba mươi năm đời ta có Đảng 132
67. Tiêng chổi tre 139
68. Tiêng ru 140 y — M Ộ T S Ố BÀI T H Ơ
69. Cánh chim không mỏi 141 S A U «R A TR Ậ N »
70. Bài ca mùa xuân 1961 142
71. Mẹ Tơm 146 97. Cầy hông 218
98. Thăm trại Ba vi 218
99. Xin gửi miến Nam 219
IV — RA TRẬN 100. Việt nam— Máu và hoa 220
Giớiỉ thiệu tác phẩm 150 Phạlạc ĩ
72. Có thể nào yên ? 156 Một số nhận định về thơ Tố Hữu 223
73. Lá thư Bèn tre 158 Một sổ đề Tập làm văn 233
236
r
ị