You are on page 1of 26

TIỂU LUẬN

MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


ĐỀ TÀI : HỒ CHÍ MINH – NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT VIỆT NAM
I. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một trong những người đặt nền
móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho
Việt Nam. - Cuộc đời Hồ Chí Minh là một cuộc hành trình huyền thoại. Trong
chuyến hành trình 30 năm đi tìm đường cứu nước cho dân tộc mình (từ năm
1911 cho đến năm 1941), Người đã tới nhiều quốc gia khác nhau để trực tiếp
quan sát những chuyển biến tại các nước châu Phi, châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ
và Trung Đông - một việc mà không có lãnh tụ nào khác làm được trong thế kỷ
20. - Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng. Người đồng
thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả
tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Anh. Là một nhà lãnh đạo
nổi tiếng ở Đông Nam Á, Bác đã kết hợp chủ nghĩa Mac với chủ nghĩa dân tộc
Việt Nam. Và không chỉ thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một người hội tụ đủ
các giá trị văn hóa đất nước và làm tỏa sáng văn hóa Việt Nam. Nhân cách văn
hóa của Người không chỉ làm rạng rỡ non sông đất nước Việt Nam mà còn
khắc sâu trong trái tim bạn bè thế giới. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức của Người không chỉ là dịp để người Việt Nam lĩnh hội và phát
huy những giá trị văn hóa dân tộc, tìm về chuẩn mực đạo đức mà còn là cơ hội
để sửa mình, học làm người, làm cán bộ, học để phụng sự nhân dân, để xây
dựng đất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác hằng
mong ước.
Và trên đây là những lý do, những điều kiện thuyết phục để em làm đề
tài tiểu luận này. Nhằm tìm hiểu sâu hơn, nghiên cứu rõ hơn về con người Hồ
Chủ Tịch – đặc biệt tìm hiểu về văn hóa trong Người, một nhà văn hóa kiệt
xuất và lỗi lạc.

1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát và tìm hiểu về nhà văn hóa, từ đó đi sâu tìm hiểu về sự kết
hợp hài hòa giữa tinh hóa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại của
Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Lãnh tụ dân tộc – Hồ Chí Minh
- Nhân cách văn hóa của Người
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Những việc kỳ diệu mà Người đã làm để tạo nên một đất nước con
người Việt Nam tươi đẹp ngày hôm nay
- Bằng phương thức điều tra, thu thập thông tin và tổng hợp

2
II. NỘI DUNG

1. Khái quát về thân thế, sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh
1.1. Thân thế và thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi ra
đi tìm đường cứu nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc)
sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù,
xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc
đầy tình thương yêu của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn
Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua
đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực
học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906,
Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau
học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào
Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường
Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
1.2. Quá trình hoạt động cách mạng
1.2.1. Giai đoạn1911 – 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê
giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất
nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự
do cho dân, cho nước. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên
tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi,
châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động,
cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.

3
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng
6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu
sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp
ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các
quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp.
Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
1.2.2. Giai đoạn 1921 – 1930
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt
động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần
thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ
nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ...
Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố
Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt
động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách
mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II
Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều
sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V
Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng
sản.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung
Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên,
trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925), tờ báo cách
mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt

4
Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách mệnh, được
xuất bản vào năm 1927.
Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi
Đức (tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại
hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy
Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại
Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.3. Giai đoạn 1930 – 1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn
Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6/1931,
Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người
được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc
tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về
nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về
nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần
thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc
Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc,
chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ chức
lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt
Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang
Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát

5
xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của
Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù. Tháng
9/1943, Người được thả tự do.
Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944,
Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân,
tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang).
Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc
dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban
giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên
ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam).
1.2.4. Giai đoạn 1945 – 1954
Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân
dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong,
giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”;
tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp
dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/03/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ
thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính
phủ (từ tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

6
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ vang
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,
đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.5. Giai đoạn 1954 – 1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Quân
Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ, sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt
Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ
hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện
trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài
nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước
bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân
dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tháng 10 /1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa
II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ
tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II,
khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra
đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công
cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và
không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên

7
thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với
các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn
lao. Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi
của Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc
Việt Nam và tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội
trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh,
vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và
sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng
ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non
sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
2. Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam
Từ lâu, Hồ Chí Minh đã xứng đáng được tôn vinh là Danh nhân văn
hóa thế giới. Điều ấy có nghĩa là Người có phẩm cách cao đẹp vượt trội của
một nhà văn hóa lớn và có ảnh hưởng văn hóa lớn lao phạm vi toàn cầu,
có đóng góp xuất sắc cho văn hóa, văn minh nhân loại.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp về chí khí
cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân
tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn,
giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan
chứa yêu thương, vì nước, vì dân; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn
xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết,
cách nói, cách làm việc.
Là Lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta nhưng Chủ tịch Hồ Chí
không bao giờ coi mình đứng cao hơn nhân dân, không để ai sùng bái cá nhân
mình, chỉ tâm niệm suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân

8
dân, “như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Ở Người sự
vĩ đại và cao cả được thể hiện thông qua những điều hết sức đời thường và giản
dị. Đó không chỉ là biểu hiện của đạo đức, lối sống mà còn là phong cách quần
chúng, trọng dân và vì dân. Tất cả đã xây dựng nên một biểu tượng mang tầm
giá trị văn hóa.
Đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành trong cái nôi văn hóa
dân tộc và phát triển trong quá trình Người đi tìm đường cứu nước và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là lòng
yêu nước, thương dân, thương yêu con người, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Người đề cao lý tưởng cứu nước, cứu dân, “Tổ quốc trên hết”,
“Dân tộc trên hết”.
Và sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh chính là việc đã tìm con đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành
công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất
nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo đã đem lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc Việt
Nam. Không chỉ vậy, sự nghiệp này còn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa
thế giới, đã chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan
xiềng xích nô lệ, giành độc lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào
việc xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Sự
nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi
giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống
của con người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với
loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh,
xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa” .
2.1. Hồ Chí Minh, một nhân cách văn hóa cao siêu
Trước hết, cần tìm hiểu, phân tích thấu đáo về Cốt cách hay Nhân cách
văn hóa Danh nhân Hồ Chí Minh. Quá trình tự học tự rèn luyện một đời đã tạo

9
nên vĩ nhân Hồ Chí Minh, mà như một nhận xét của Vasiliev “Hiếm có chính
khách nào của thế kỷ 20 có thể sánh được với Hồ Chí Minh về trình độ học
vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và sự thông minh trong cuộc đời”
Phân tích ra, đây là một ca ngợi đặc sắc và hết sức hoàn chỉnh. Trước
hết, học vấn là hiểu biết về các khoa học khái quát (như khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội), tầm hiểu biết rộng hơn, bao trùm hầu hết cả tự nhiên, xã hội,
con người, những hiểu biết hiện thực, những tiên tri, vận dụng cả nhận thức lý
trí, cảm xúc tình cảm, trải nghiệm thực tiễn, tiếp thụ bằng cả thức cảm và linh
cảm, sự thông minh như một giá trị thiên bẩm được phát huy qua rèn luyện là
một vốn cực kỳ quý hiếm, cơ sở của sáng tạo. Theo nghiên cứu khoa học, khả
năng sáng tạo được bồi dưỡng phát huy do quá trình nhận giáo dục và tự giáo
dục. Qua hàng vạn, hàng triệu phát minh, sáng tạo cụ thể, ta tìm ra được một số
hữu hạn (khoảng vài chục) “lõi thông minh” khác nhau. Giống như trong Hóa
học, hàng vạn, hàng triệu hợp chất đều do một số đơn chất hữu hạn (trong bảng
tuần hoàn Mendelev) hóa hợp với nhau mà thành.
Vậy là Hồ Chí Minh hội đủ cả ba yếu tố cần và đủ đó để hợp thành một
giá trị mang tính tổng hòa là văn hóa.
2.1.1. Văn hóa Hồ Chí Minh - một hình thái đa phương diện
Người nắm được khoa học tự nhiên ở cốt lõi triết học: biện chứng pháp
tự nhiên – bộ phận của chủ nghĩa Mác. Còn về khoa học xã hội, Hồ Chí Minh
trước hết, thâu tóm uyên bác khoa lịch sử. Qua nghiên cứu khoa chính trị,
Người phát hiện “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất”. Bôn ba tìm đường cách mạng 30 năm ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã
tìm hiểu được địa lý và cả lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội của 40 quốc gia.
Người thực sự đóng vai trị của một nh x hội học thế giới. Một nhà báo đã nhận
xét: “Trên đường đi tìm hiểu thế giới, ở mỗi nơi tàu dừng lại, đối với anh Ba,
đều là một trường đại học, ở đó, anh đã trực tiếp thu lượm được những hiểu
biết…”. Hiểu biết nhập tâm thành trải nghiệm vô giá ở Đại học trường đời là

10
như vậy. Mặc dầu học qua Đại học Phương Đông nhưng vốn tri thức của
Người là cực kỳ uyên bác trên cả bậc đại học và bao quát rất nhiều lĩnh vực.
Nhiều học giả đã tôn vinh Người là nhà triết học vĩ đại bởi tầm triết lý
uyên thâm. Hơn nữa, Người xứng danh là bậc hiền triết với phong thái Á đông.
Tuyên ngôn “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tuyên ngôn chân lý
thời đại, cũng là học thuyết sáng giá Hồ Chí Minh. Không chỉ là khẩu hiệu đấu
tranh mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Người.
Tại Hội nghị Quốc tế “Việt Nam và thế giới” họp tại Hà Nội 5/1980, rất
nhiều tiếng nói bè bạn đã khẳng định tầm vóc, vị thế Hồ Chí Minh. Xoxen
Stepan, đại biểu Tiệp khắc vinh danh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy,
nhà chính trị về chiến lược vĩ đại”
Một đời hoạt động tận hiến vì độc lập tự do và hạnh phúc cho dân tộc và
nhân loại, Người đã đóng góp và để lại một di sản tinh thần vô giá là hệ tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Là nhà tư tưởng lớn, đồng thời Người cũng là nhà đạo đức lớn. Đạo đức
ấy là tinh hoa đạo lý truyền thống dân tộc kết hòa với đạo đức cách mạng cao
đẹp đã đưa Người “đứng vào hàng đầu danh sách các lãnh tụ lỗi lạc của thế
giới về đạo đức cách mạng” như lời Nguyên Đại sứ (Grênada) tại Cuba Risác
Đohaxop . Tư tưởng ấy đã trở thành bất diệt và trở nên sinh động nhờ tấm
gương và những chủ thuyết đạo đức của Người.
Trước mắt của lương tri nhân loại ngày nay, Hồ Chí Minh là một trong
những nhà cách mạng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, có đóng góp xuất sắc cho sự
nghiệp giải phóng con người, cho giá trị mới cao quý của con người.
Đóng góp ấy nhìn rộng ra, là cống hiến cho văn hóa, văn minh nhân loại.
Hồ Chí Minh là nhà văn hóa đa tài.
Ở ý nghĩa đóng góp cho hoạt động tinh thần, Người là nhà báo, nhà văn
tầm quốc tế với những trước tác về báo chí, văn chương nổi tiếng bằng tiếng
Pháp, tiếng Trung và được dịch ra rất nhiều ngoại ngữ.

11
Hồ Chí Minh am hiểu bao quát cả lĩnh vực nghệ thuật, có những hiểu
biết sâu sắc và những chỉ dẫn về văn hóa nghệ thuật.
Trên tất cả, Người mang tư cách Nghệ sĩ của cái Đẹp. Hơn thế nữa,
Người lập mặt trận chiến đấu Văn hóa Nghệ thuật vì cách mạng và trở thành
Tổng tư lệnh tối cao.
2.1.2. Cấu trúc văn hóa Hồ Chí Minh hoàn chỉnh tuyệt vời.
Đó là sự tích hợp văn hóa lịch sử.
Là một Nhân cách thời đại, Hồ Chí Minh chính là sự tích hợp văn hóa
cổ kim, Đông Tây.
Trên ý nghĩa ấy, văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hóa dân tộc và
tình hoa văn hóa nhân loại.
Trước hết, văn hóa Hồ Chí Minh kết tinh được những tinh túy nhất của
văn hóa Việt Nam, bắt nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc lâu đời hàng
nghìn năm. Trong đó, nổi bật nhất là chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái. Yêu
nước, thương dân, tự hào, tự tôn dân tộc là niềm thiêng liêng, cao cả nhất nằm
sâu trong thức nhận, tâm cảm của nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn Hồ Chí
Minh.
Nhìn rộng ra, Hồ Chí Minh còn chắt lọc được tinh hoa, những yếu tố tích
cực tốt đẹp nhất của văn hóa Phương Đông, nhất là Nho giáo, Phật giáo.
Điều quan trọng là Người chọn lọc qua tư duy cách mạng và biến hóa
vận dụng theo quan điểm cách mạng.
Như với Nho giáo, luận thuyết Trung, Hiếu đã được nêu thành Trung với
Nước, Hiếu với Dân. Hoặc như Ngũ thường nói theo Người thành năm đức tính
của người cách mạng: Trí, Tín, Dũng, Nhân, Liêm. Còn Tứ đức mới chính
là Cần, Kiệm, Liêm, Chính như quan điểm Hồ Chí Minh.
Một mặt, Người rất coi trọng và đề cao Khổng Tử về chủ thuyết tư
tưởng đạo đức và khuynh hướng đức trị. Mặt khác, Người lại phát hiện ở
Mạnh Tử nét tích cực hơn. Đó là sự đề cao lòng tự tin của con người và coi
trọng nội lực bản thân tức phát huy tính năng động chủ thể: “Bậc chí thánh chỉ

12
tin cậy ở sức mình…”. Đồng thời là khuynh hướng bổ sung pháp trị của việc
trị quốc.
Với Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng nhân văn, hướng
thiện, cứu khổ cứu nạn. Người đã kêu gọi: làm theo lòng từ bi của đức Phật
Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cõi khổ ải của nô lệ.
Hồ Chí Minh là người sớm biết tiếp thu văn hóa Phương Tây đặc biệt
là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, ba phương diện cơ bản: chủ nghĩa nhân
văn, tinh thân duy lý và văn hóa dân chủ. Trong văn hóa Phương Tây, chủ
nghĩa Mác – Lênin có vị trí quan trọng đặc biệt trên quá trình hình thành con
đường cứu nước chính xác nhất của lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh.
2.1.3. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hóa
Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hóa dân tộc và nhân loại để
biến thành một văn hóa mới mang tính chất và đặc điểm nổi bật là cách
mạng triệt để và nhân văn sâu sắc. Suốt đời học tập để không ngừng làm giàu
vốn văn hóa bản thân, Người đã đem lại tính chất hiện đại và cũng lài thời
đại cho văn hóa.
2.1.4. Phương pháp luận khoa học văn hóa Hồ Chí Minh hết sức chuẩn
xác.
Ta thấy những điểm đặc sắc của văn hóa nhân loại đã in dấu ấn sâu đậm
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua bộ óc như bộ lọc vĩ đại. Vì vậy, sự tinh
lọc, tổng hợp, tuyển chọn và biến hóa biện chứng là một phương pháp đặc biệt
của nhà thông thái, dẫn đến tiếp biến, đổi mới và sáng tạo cái mới về văn hóa.
Là nhà cách mạng tầm quốc tế, Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng trở
thành một khoa học có tính tổng hợp bao quát từ chính trị, kinh tế, xã hội, quân
sự…. Chính vì vậy, Người đã trở thành nhà khoa học cách mạng lớn và đã vận
dụng phương pháp khoa học hiệu quả trên nhiều phạm trù và lĩnh vực.
Người đã biết so sánh sâu sắc, kỹ lưỡng nên tìm ra được những khác
biệt, nhất là những cái giống nhau và tìm ra được sự gặp gỡ, giao thoa giữa các
nền văn hóa Đông và Tây, phát hiện và gìn giữ được những bản sắc văn hóa,

13
chấp nhận cái tiểu dị trong cái nền đại đồng và cái mẫu số chung. Thật kỳ lạ và
đặc sắc khi Người xếp lại gần nhau những vĩ nhân, những thiên tài lịch sử ở
nhiều chỗ đứng và xuất phát khác nhau: Khổng tử, Thích Ca Mầu Ni, Giêsu,
Lanh Côn, Tôn Dật Tiên. Một tưởng tượng hợp lý trên cái phi lý của lịch sử: sự
họp mặt và hơn thế “chung sống” kỳ thú “rất hoàn mỹ” của “những người bạn
thân thiết” ấy nếu còn sống tới hôm nay!
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh một đặc sắc này: đó là sự khảo sát cùng thể
nghiệm và từ đó đã trở thành trải nghiệm của nhà khoa học cách mạng Hồ Chí
Minh. Người nhận rõ tính chất ảo tưởng của quan điểm thế giới đại đồng
Khổng Tử, ngược lại thấy rõ tính chất thực tế của chủ nghĩa Tam dân Tôn Dật
Tiên vận dụng vào thế giới hiện đại và hoàn cảnh thực tiễn dân tộc, trong “điều
kiện nước ta” thời ấy.
Tổng hợp lại ta thấy rõ phong cách nhất là tư cách khoa học thực sự của
nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh.
2.2. Hồ Chí Minh – Nhà sáng tạo văn hóa lớn
Với óc thông minh xuất chúng, tầm trí tuệ trác việt Hồ Chí Minh trở
thành một chủ thể sáng tạo văn hóa, văn minh.
Mang phẩm cách văn hóa cao vời, Hồ Chí Minh không chỉ là Nhà văn
hóa lớn mà còn là Nhà sáng tạo văn hóa lớn.
Từ rất sớm, năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu một định nghĩa về văn hóa
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
hóa, nghệ thuật cũng như công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”
Có thể nêu một định nghĩa ngắn gọn, súc tích khác: văn hóa là tổng
thể sinh động những giá trị sáng tạo, hình thành nên hệ thống giá trị, phản ánh

14
trình độ phát triển của con người và xã hội loài người. Văn hóa đồng nghĩa với
tiến bộ xã hội, với văn minh ở một thời kỳ lịch sử nhất định.
Những định nghĩa vắn tắt trên xác định rõ mục đích của văn hóa: giúp
con người tồn tại và phát triển cũng như tính chất của văn hóa: phản ánh trình
độ phát triển. Từ đó, tìm ra phương thức tiến triển văn hóa là sáng tạo, phát
minh.
Theo quan niệm Hồ Chí Minh, ta thấy có hai lĩnh vực văn hóa: văn hóa
vật chất (biểu hiện qua vật chất) và văn hóa tinh thần (hay phi vật chất). Sáng
tạo, phát minh là ở trên hai lĩnh vực đó.
Với quan niệm trên, văn hóa bảo đảm tồn tại cho cá nhân, hoàn thiện và
phát triển nhân cách con người chân chính, tiến bộ cũng như bảo đảm phát
triển toàn diện bền vững và nhân văn cho xã hội.
Nhìn một cách tổng quát, sự nghiệp văn hóa lớn nhất đóng góp cho dân
tộc của Hồ Chí Minh là tìm ra được con đường cứu nước chính xác nhất, đã
lãnh đạo thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và sau đó, lãnh đạo
thắng lợi công cuộc dựng nước, giữ nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại
độc lập tự do, thống nhất cho đất nước và hạnh phúc cho nhân dân.
Đồng thời, Người cũng đóng góp cho văn hóa thế giới với sự nghiệp
cách mạng một đời bằng cách chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa – những
con người bị áp bức, bóc lột con đường đấu tranh, đứng lên đập tan gông cùm,
xiềng xích nô lệ, giành độc lập tự do, xóa bỏ chế độ thực dân mới. Hồ Chí
Minh – tượng trưng cho “đường lối chiến đấu hoàn hảo nhất của thời đại
chúng ta” chính là Người chiến sĩ của phong trào cách mạng thế giới. Và, trên
hết “Người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ”. Đó là hướng của văn
hóa, văn minh nhân loại.
Với tư cách một nhà văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã góp phần không
chỉ tạo ra một chế độ mới, một thời đại mới cho lịch sử dân tộc mà còn tạo ra
một nền văn hóa mới trong tiến trình phát triển của nhân dân và đất nước Việt
Nam.

15
Đề cương văn hóa được xây dựng từ 1943 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ sau Cách mạng, bắt tay vào xây dựng một nước Việt Nam mới, Hồ
Chí Minh đã nghĩ ngay đến kiến thiết văn hóa, một sự nghiệp vừa trước mắt
vừa lâu dài.
Đề xuất Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa có sáu vấn đề, nhưng thâu tóm lại là “cấp cứu” con người về vật
chất và tinh thần.
Phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất là việc cấp bách để cứu đói.
Sau đó là đề cập đến chiến dịch chống nạn mù chữ để chống nạn dốt. Tức là
nhóm ngọn lửa tri thức sơ đẳng đầu tiên cho trí óc. Vấn đề thứ 3 là dân chủ (tổ
chức tổng tuyển cử), vấn đề thứ 4,5 là cải tạo cụ thể là tẩy não loại bỏ dần thói
hư tật xấu, đặc biệt là “tuyệt đối cấm thuốc phiện” – một tệ nạn đầu độc dân
tộc cả thể xác lẫn tinh thần. Vấn đề thứ 6 – cuối cùng – là đoàn kết chống chia
rẽ Lương – Giáo. Vậy là cả 5/6 vấn đề đều thuộc về văn hóa, sau kinh tế
(chống đói). Quan điểm nhân văn vì con người thật sáng rõ: Hồ Chí Minh đã
thấy được cái gốc là con người – ở đây là văn hóa con người.
Một khẩu hiệu có ý nghĩa phương châm chiến lược là xây dựng đời sống
mới: đời sống gắn với người Việt Nam mới. Tiến hành kháng chiến chống
Pháp cũng có một khẩu hiệu lớn như mệnh lệnh sống và chiến đấu được vị
Tổng tư lệnh Hồ Chí Minh đề xướng Kháng chiến hoá văn hóa – Văn hóa hóa
kháng chiến. Đây là một phương châm cách mạng tuyệt vời về văn hóa. Một
mặt, con người và cả cộng đồng phải nhận thức rõ văn hóa, văn nghệ là một
mặt trận và mỗi công dân kháng chiến phải là một chiến sĩ trên mặt trận ấy. Ta
hiểu, đó là xác định vai trò cách mạng của văn hóa, nhiệm vụ chiến đấu của
văn hóa – từ đó là nhiệm vụ người dân.
Mặt khác, bên cạnh tư cách chiến sĩ, mỗi người còn phải tham gia kháng
chiến, tức chiến đấu với tư cách người làm văn hóa – người nghệ sĩ. Nói văn
hóa hóa kháng chiến là phải làm cho công cuộc chiến đấu trở nên văn hóa – tức
là phải có khoa học và nghệ thuật trong tiến hành sự nghiệp kháng chiến, đưa

16
văn hóa vào tất cả mọi hoạt động kháng chiến. Kháng chiến bằng sức mạnh
tinh thần là như vậy.
Từ đó suy ra: cách mạng hóa văn hóa mới đạt hiệu quả đích thực, tối đa,
văn hóa hóa cách mạng cũng vậy. Cách mạng nhằm đem lạiquyền sống, quyền
lợi cho con người, vì cuộc sống và con người có văn hóa tức cái đẹp đời người.
Khẩu hiệu – khẩu lệnh trên xuất phát từ quan điểm chiến lược mang tính cách
mạng và nhân văn sâu sắc.
Lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Hồ Chí Minh
được thực hiện trong hoạt động cách mạng một đời. Giải phóng về văn hóa là
giải phóng triệt để con người và phát triển con người, đó là ý nghĩa cực kỳ sâu
sắc của sự nghiệp vĩ đại Hồ Chí Minh – sự nghiệp lãnh đạo hai cuộc cách mạng
và ba cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Đưa văn hóa vào đời sống nói chung – mà khởi đầu là từ cách mạng và
kháng chiến- phải được quan niệm là một công trình lớn trong một quá trình
dài lâu.
Nội dung của văn hóa đời sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh gồm ba bộ
phận chủ yếu tóm lược như sau:
- Đạo đức mới chủ yếu là đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính
là nhân lõi.
- Lối sống mới: sống có lý tưởng, có đạo đức, sống văn minh, tiên
tiến, hòa hợp với cộng đồng (dân tộc và nhân loại)
- Nếp sống mới: kế tục thuần phong mỹ tục truyền thống, xây dựng
thói quen, phong tục tập quán mới.
Về quan điểm xây dựng văn hóa mới có những nhiệm vụ cụ thể được
Người chỉ dẫn trên nền tảng chung
1. Xây dựng tâm lý tinh thần độc lập, tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp đều vì phúc lợi xã hội
4. Xây dựng chính trị: dân quyền

17
5. Xây dựng kinh tế.
Nhìn chung lại là nhằm xây dưng văn hóa cá nhân tức vấn đề nhân cách
văn hóa (1,2), văn hóa cộng đồng tức phẩm cách, tư cách văn hóa của xã hội
(3, 4, 5)
Cũng theo tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh có thể quan niệm nhiều loại
hình trong nội hàm văn hóa: văn hóa chính trị, văn hóa ngoại giao, văn hóa
phong hóa, văn hóa hành chính… cũng như văn hóa lao động, văn hóa giao
thông… (về hoạt động đời sống), văn hóa gia đình, văn hóa học đường (về
phạm vi môi trường sinh sống, học tập…)
Có quan niệm như vậy mới biết cách đưa văn hóa vào đời sống một cách
thực sự, hiệu quả và bao trùm hơn là làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng khi
thể hiện nhân cách văn hóa.
Đó chính là vấn đề lớn thuộc một phạm trù khác, phạm trù ứng xử văn
hóa với những quan niệm, tư duy và phong cách… thích hợp như khoa học và
nghệ thuật vận dụng hành xử văn hóa “ở đời” và “làm người” theo tư tưởng
triết học và pháp quyền Hồ Chí Minh ..
2.3. Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa đáng kính
Khi cả đất nước và dân tộc còn bị nô lệ thì văn hóa cũng cùng chung số
phận nô lệ, tuyệt đại bộ phận nhân dân bị đày đọa trong vòng tăm tối, dốt nát.
Vì vậy có những nhà yêu nước chủ trương trước hết phải khai dân trí, phải
nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân sau đó mới tính đến chuyện giành độc
lập tự do cho đất nước và dân tộc. Lãnh đạo nhân dân đi theo con đường cách
mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã vạch ra một đường lối mới: Phải tiến hành cách
mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc để giành chính quyền, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó
giải phóng văn hóa. Quan điểm của Người là văn hóa không thể tách rời với
quốc gia dân tộc, văn hóa mang tâm hồn, diện mạo dân tộc. Người chỉ rõ
những mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam cần phải đạt được trong lĩnh
vực văn hoá là: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô

18
dịch của văn hoá đế quốc. Đồng thời phát triển những truyền thống tốt đẹp của
văn hoá dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hoá tiến bộ thế giới, để xây
dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng”. Ngày
28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Bộ Thông tin tuyên
truyền, thành viên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với quan điểm “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Người chủ trương một trong những công việc
phải thực hiện cấp tốc sau ngày nước nhà giành được độc lập là phát triển văn
hóa, xoá mù chữ, nâng cao dân trí, phát triển giáo dục. Ngày 8/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký 3 sắc lệnh quan trọng về giáo dục là sắc lệnh về việc
thành lập Nha Bình dân học vụ, sắc lệnh quy định mọi làng phải có lớp học
bình dân và sắc lệnh cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Thực hiện
lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những người chưa biết chữ”... Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh
bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà
bảo”, một phong trào diệt giặc dốt đã dâng cao trong cả nước. Nhờ đó, chỉ một
năm sau Cách mạng tháng Tám, đã có 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết.
Công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng được chính quyền mới quan tâm đẩy
mạnh. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 45 thành lập
một ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội nhằm đào tạo giáo viên văn học Việt
Nam cho xứng đáng một nước độc lập và theo kịp các nước tiên tiến trên thế
giới. Tính ưu việt của chế độ xã hội mới đã được khẳng định và phát huy.
Hướng con người tới tầm cao văn hóa của một đất nước độc lập và tiến
lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết tác phẩm Đời sống mới với ba nội dung: xây dựng đạo đức mới, xây dựng
lối sống mới và xây dựng nếp sống mới. Với tinh thần và quyết tâm “mỗi
người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh... mọi người đều cố gắng làm đúng
đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”, cuộc vận động đã trở thành
một phong trào quần chúng sôi nổi, rộng khắp ngay cả khi kẻ thù có dã tâm
cướp nước ta một lần nữa, toàn thể dân tộc phải bước vào cuộc kháng chiến

19
chống Pháp lâu dài và gian khổ, cuộc sống thời chiến muôn vàn khó khăn thiếu
thốn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác -
Lênin, càng phải coi trọng truyền thống tốt đẹp của cha ông. Nhưng giữ gìn,
phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc, không có nghĩa là tự bó mình
trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thiển cận mà phải ra sức nghiên cứu học tập
tinh hoa văn hoá của thế giới. Chính Người, với bản lĩnh của nhà văn hóa, nhà
ngoại giao kiệt xuất, bằng sự nghiệp hoạt động cách mạng, hoạt động văn hóa
của mình, đã là người Việt Nam đầu tiên bắc nhịp cầu hữu nghị giữa nhân dân
Việt Nam với các dân tộc trên thế giới. Năm 1958, theo lời mời cuả Thủ tướng
Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ. Trong bữa tiệc do Thủ tướng
Nêru chiêu đãi Bác có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Phong tục của
người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng 5 ngón tay để bốc thức
ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn. Nhưng
tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt
gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác
rất tinh ý và nói với Thủ tướng Neru rằng: “Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới
ngon, chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải
qua ông phiên dịch”. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười vang làm cho
không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật. (Câu chuyện thú vị này, tôi
đã được nghe qua lời thuyết minh của cô thuyết minh viên tại Bảo tàng
Mâhátma Gandi trong chuyến du học 3 tháng của tôi tại Ấn Độ).
Là chiến sĩ tiên phong của nền văn học - nghệ thuật, báo chí cách mạng,
đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cho công bằng, tình thương
và lẽ phải trên trái đất, sự đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa rất
phong phú và đa dạng, thấm đượm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của
Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tác giả của hơn 250 bài thơ, khoảng 2.000 bài
báo, nhiều truyện ngắn, văn chính luận, tiểu phẩm văn học, nhưng Người
khước từ mọi danh hiệu văn hóa - văn nghệ mà chỉ nhận là nhà cách mạng

20
chuyên nghiệp. Bởi động lực làm cho ngòi bút của Người ngày càng sắc bén và
linh hoạt chính là sự giác ngộ từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Trên con đường vạn dặm tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài
30 năm, ở một góc nhỏ của thủ đô Pari nước Pháp, Người đã học làm báo và
dùng những bài báo bằng tiếng Pháp đầu tiên của mình để tố cáo tội ác của chế
độ thực dân (Người cùng khổ). Chính việc làm báo và viết báo đã định hướng
cho Người sự hiểu biết từng bước, dần dần sâu sắc hơn về quan điểm và lập
trường chính trị.
Hồ Chí Minh đã là người sáng lập ra nhiều tờ báo cách mạng đầu tiên ở
Việt Nam, là người đặt nền móng cho nền giáo dục văn học, thơ ca cách mạng
của nước ta. Với đất nước, các tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật của Người
đã trở thành di sản thiêng liêng, minh chứng cho cuộc đời hoạt động phong
phú, sôi nổi cũng như tài năng của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Với những
thế hệ nhà báo, nhà văn Việt Nam, các tác phẩm của Người là một cẩm nang
quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam,
về phong cách làm báo Hồ Chí Minh - giản dị và sâu sắc, chân thực và ngắn
gọn, trong sáng và dễ hiểu mà hiệu quả sắc bén, phục vụ đắc lực cho nhu cầu
của nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của Tổ quốc. Những người làm công
tác văn hóa, văn học nghệ thuật còn luôn nhớ tới sự quan tâm toàn diện, sát sao
của Bác dành cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, nghệ thuật của
dân tộc: Từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành văn hoá trong sự
nghiệp cách mạng đến nguồn gốc, đối tượng phục vụ, phạm vi phản ánh của
văn hoá nghệ thuật; mối quan hệ giữa nghệ sĩ, tác phẩm và công chúng; sự
thống nhất giữa nội dung và hình thức của tác phẩm; mối quan hệ giữa tính
truyền thống và hiện đại, tính dân tộc và quốc tế, chính trị và văn học, tư tưởng
và nghệ thuật; từ mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, phổ cập và nâng cao
đến làm thế nào cho tác phẩm có tính hấp dẫn, có sức cuốn hút thông qua cách
viết, cách thể hiện... ; nghĩa vụ và trách nhiệm của những chiến sĩ trên mặt trận
văn hoá văn nghệ…

21
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách
có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ
thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc
khác trên thế giới. Nhờ cách tiếp thu sáng tạo những di sản này để mưu cầu
hạnh phúc cho dân tộc và loài người và với nhiều cống hiến khác trong giáo
dục nghệ thuật, giao lưu quốc tế và giữ gìn bản sắc dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được tổ chức UNESCO tôn vinh là một anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng con người Việt Nam, mà còn cho cuộc đấu tranh
của nhân loại tiến bộ vì lương tri và phẩm giá con người, vì hòa bình trên thế
giới và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Chính vì vậy mà không chỉ nhân dân
Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân thế giới cũng rất yêu
quý Người, dành cho Người những tình cảm trân trọng và những lời nói tốt đẹp
nhất.

22
III. KẾT LUẬN

Trải qua thời gian, thực tiễn lịch sử càng ngày chứng minh rằng, Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ kết tinh
những thành tựu của quá khứ, không chỉ thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm
hồn thời đại mà còn là những phẩm chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai,
đúng như nhận xét tài tình của nhà thơ Liên Xô Osip Emilyevich Mandelstam:
“Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu,
mà có lẽ là nền văn hóa tương lai… Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói
trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự
yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới” .
Giờ đây, trong lúc cả nước đang hướng về ngày kỷ niệm 75 năm Quốc
khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, tưởng nhớ về ngày Người
tạm biệt thế giới người hiền; các cán bộ, viên chức, người lao động Bảo tàng
Hồ Chí Minh, những người được giao trọng trách gìn giữ di sản thiêng liêng
mà vô cùng quý giá của Người để lại cho dân tộc Việt Nam, chúng tôi lại càng
thêm trân trọng và trân quý những đóng góp, cống hiến của Người và luôn tự
nhắc nhở mình luôn cố gắng, nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước giao phó để tiếp tục xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, ổn định
và phát triển như mong muốn lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vĩ nhân đã in đậm dấu ấn vào lịch sử dân tộc và
lịch sử nhân loại. Thời gian càng lùi xa chúng ta càng nhận rõ tính nhân văn và
sự vĩ đại của Người. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm
khảm của chúng ta, soi đường dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến mọi thắng
lợi.

23
Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh ( Học viện chính trị quốc gia
HCM)
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4
tr.161
3. Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, t.4 tr.4
4. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Ủy ban quốc gia
UNESCO của Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.21
5. Nhiều tác giả - Về cách mạng Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh-
Ủy ban Khoa học Xã hội – Hà Nội, 1990.( trang 99)
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2) – Chính trị Quốc gia, tập 2 – Hà Nội,
1995.( trang 267-268)
7. Nhiều tác giả-Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh (3) – Thanh
niên, 2007.(trang 76)
8. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện nghiên cứu
tôn giáo - Hồ Chí Minh với vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng – Khoa học Xã
hội, 1996.(trang 152).
9. rung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu
tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã hội,
H.1996, tr.152.

24
MỤC LỤC

I. MỞ ĐẦU-------------------------------------------------------------------------------1
1. Lí do chọn đề tài------------------------------------------------------------------1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu--------------------------------------------2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu---------------------------------------------2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu----------------------------------2
II. NỘI DUNG---------------------------------------------------------------------------2
1. Khái quát về thân thế, sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh--------2
1.1. Thân thế và thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi ra đi
tìm đường cứu nước---------------------------------------------------------------2
1.2. Quá trình hoạt động cách mạng---------------------------------------------3
1.2.1. Giai đoạn1911 – 1920---------------------------------------------------3
1.2.2. Giai đoạn 1921 – 1930--------------------------------------------------3
1.2.3. Giai đoạn 1930 – 1945--------------------------------------------------4
1.2.4. Giai đoạn 1945 – 1954--------------------------------------------------6
1.2.5. Giai đoạn 1954 – 1969--------------------------------------------------6
2. Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam---------------------8
2.1. Hồ Chí Minh, một nhân cách văn hóa cao siêu---------------------------9
2.1.1. Văn hóa Hồ Chí Minh - một hình thái đa phương diện-----------10
2.1.2. Cấu trúc văn hóa Hồ Chí Minh hoàn chỉnh tuyệt vời.------------11
2.1.3. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hóa----------------------12
2.1.4. Phương pháp luận khoa học văn hóa Hồ Chí Minh hết sức chuẩn
xác.------------------------------------------------------------------------------13
2.2. Hồ Chí Minh – Nhà sáng tạo văn hóa lớn-------------------------------14
2.3. Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa đáng kính----------------------------------18
III. KẾT LUẬN-------------------------------------------------------------------------23

25

You might also like