You are on page 1of 14

1.

QUÁ TRÌNH NGUYỄN ÁI QUỐC CHUẨN BỊ NHỮNG ĐIỀU KIỆN


THÀNH LẬP ĐẢNG:

1.1 Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc:

Trong lịch sử, các phong trào đấu tranh chống Pháp, dù theo khuynh hướng phong
kiến hay theo khuynh hướng dân chủ tư sản, cuối cùng đều đi đến bế tắc. Trước yêu
cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí tuệ và nhãn
quan chính trị sắc bén, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu
nước. Với tên gọi Văn Ba, Người đã qua nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước
tư bản phát triển như Mỹ, Pháp, Anh. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã
tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như Cách mạng Mỹ (1776),
Cách mạng Pháp (1789), Người khâm phục tinh thần đấu tranh của 2 cuộc cách mạng
nhưng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Nguyễn Ái
Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc
cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.

Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc
thắng trận họp Hội nghị Vécxay (năm 1919) để phân chia quyền lợi. Thay mặt những
người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc đưa đến
Hội nghị này bản yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Bản yêu sách đó không được Hội nghị Vécxay chú ý đến, nhưng được báo chí
tiến bộ Pháp công bố rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang dội. Đó là đòn tiến
công trực diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc vào bọn trùm đế quốc. Kết luận quan
trọng mà Nguyễn Ái Quốc rút ra là: “Những lời tuyên bố dân tộc tự quyết của bọn đế
quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị áp bức muốn được độc lập tự do thực sự, trước
hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình giải phóng cho mình.”
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp
ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc,
tự do cho đồng bào. Sau này Người viết: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
"Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta!"
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: từ
người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn
“Muốn cứu nước phải giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Đảng Xã Hội Pháp

Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự Hội nghị Quốc
tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng
Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản
Liên Xô và tạp chí “Thư tín quốc tế” của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham
gia Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế
Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ. Đây cũng là sự kiện mở ra cho cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn mới “giai đoạn gắn phong trào cách
mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo
con đường mà chính người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin”.
1.2 Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ đối với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc
nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ
nghĩa Mác- Lênin để truyền bá vào nước ta, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
và tổ chức cho việc thành lập chính Đảng cộng sản ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú,
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tố cáo tội ác thực dân đối với nhân dân các thuộc địa,
đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó
giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ
thuộc. Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc
địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sang lập
tờ báo LeParia ( Người cùng khổ). Người viết nhiều bài báo trên báo nhân đạo, Đời
sống công nhân, Tạp chí Cộng sản….Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng
Cộng sản Pháp thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu
về Đông Dương.Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản
lần đầu ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các
nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức nói chung và nhân dân Việt
nam nói riêng.

Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng
giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị
áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới;
giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở
“chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “ công nông là gốc của
cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công
nông”.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “ Cách mạng trước hết
phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Phong trào “ vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát
động từ ngày 29 - 9 -1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và
xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.
Về tổ chức: tháng 11 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Sau
khi tiếp xúc với Tâm tâm xã - một tổ chức yêu nước của thanh niên Việt Nam và nhận
thấy họ không hiểu gì về lý luận, lại càng không biết việc tổ chức, Nguyễn Ái Quốc
lựa chọn một số người tích cực và giác ngộ họ, lập ra Cộng sản đoàn (tháng 2 - 1925)
gồm Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn
Lĩnh, Lê Quảng Đạt và Lâm Đức Thụ.
Tháng 6 - 1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
với cơ quan tuyên truyền là tuần báo Thanh niên. Hội công bố Tuyên ngôn, nêu rõ
mục đích tổ chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết, tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu lấy mình.
Để đào tạo một đội ngũ cán bộ cách mạng, sau khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái
Quốc mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Phần lớn học viên là thanh
niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ học làm cách mạng, học cách hoạt
động bí mật. Một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế
Cộng sản, một số khác được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn “bí
mật về nước để"truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân". Từ năm
1925 - 1927, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyệnchính trị
cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm
kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa
hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp
công nhân; để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm
thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá Chủ nghĩa Mác -
Lênin vào Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh và giác
ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển theo
con đường cách mạng vô sản.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác
phẩm “Đường cách mệnh” . Tác phẩm đó đã đề cấp những vấn đề cơ bản của một
cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng
Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và ý nghĩa
lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Những nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được đề ra tại Hội nghị
hợp nhất của tổ chức Cộng sản trong nước (có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam). Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng
sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương
Cộng sản Đảng (06/1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10/1929) và một
số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước.
Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long, từ ngày
06/06/1929 - 07/02/1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
và nhất trí thông qua 07 tài liệu, văn kiện, trong đó có 04 văn bản:
- Chính cương vắn tắt của Đảng;
- Sách lược vắn tắt của Đảng;
- Chương trình tóm tắt của Đảng;
- Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi tạo dựa trên cơ sở
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản;
nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình
cách mạng thế giới và Đông Dương.
Dù là vắn tắt, tóm tắt song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được
sắp xếp theo một logic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.

Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược
vắn tắt của Đảng. Hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng của Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội -mộ t xã hội nửa thuộc
địa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân
với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết , đi đến xác định đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
định cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam” đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến”,”làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.Cương
lĩnh đã xác định :Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành
độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập
cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

- Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân
đội công nông.
- Về kinh tế: thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa
làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp; thi jhành luật ngày làm tám giờ.
- Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ thông
giáo dục theo công nông hóa.
- Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và
phong kiến; làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở
dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông, thanh niên,.. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp; đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng lập hiến v.v) thì đánh đổ.
- Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Cương lĩnh khẳng
định bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không được thỏa hiệp” không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi đường thỏa hiệp.
Xác định tinh thần đoàn kết của quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết ,ủng hộ của các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới ,nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng:” Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng.”Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của
giai cấp công nhân. Và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó ,thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ ,sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến
Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX , chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ
yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó ,đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, xác thực thái độ
các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
2.2 Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, cũng là
sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-
Lênin đối với các mạng Việt Nam. Sự kiện đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh
dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Việc thành lập
Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chứng
tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời
kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt
Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách
mạng Việt Nam giai đoạn đó.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân
Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu
thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách
mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân
tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời
đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt
Nam. Đồng thời, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa
cuộc cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào
sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội.
Như vậy thì ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quan trọng đối với lịch sử
cách mạng Việt Nam và đối với sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.

3 Liên hệ thực tiễn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công
tác phòng chống tham nhũng hiện nay

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân là điều
kiện tiên quyết phòng, chống tham nhũng, diễn biến hòa bình vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Công cuộc “Đổi mới” đất nước do Đảng ta lãnh đạo nhiều năm qua đã đạt những
thành tựu to lớn không thể phủ nhận, được nhân dân tin tưởng, bè bạn quốc tế thừa
nhận và đánh giá rất cao.

Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, công cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực đã đạt được những kết quả rất quan trọng; tạo sự chuyển
biến sâu sắc trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ
thống chính trị. Việc tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực sẽ góp phần quan trọng vào thành công của công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(1). Phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực đã góp phần giữ gìn giang sơn gấm vóc và thành quả cách mạng. Để đất nước
tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, Nhân dân luôn vững tâm tin theo Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, một trong những đòi hỏi cấp bách và xuyên suốt là
phải đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm cho Đảng và hệ thống chính
trị thật sự trong sạch, vững mạnh, có đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng với niềm
tin của Nhân dân.

Bên cạnh đó, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần bảo đảm sự
thịnh vượng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tham nhũng là hiện tượng tiêu cực xã hội,
là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là vấn nạn chung đã và đang đặt ra cho các
quốc gia đều phải quan tâm và tiến hành đấu tranh quyết liệt, hiệu quả. Yêu cầu “nội
sinh tự thân” đặt ra cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta phải có chiến lược phòng,
chống tham nhũng một cách quyết liệt, hiệu quả để giữ gìn và phát triển thịnh vượng.
Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc khẳng định quyết tâm chính trị và trách nhiệm
đạo đức của chế độ xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng con người mới hướng đến
chân, thiện, mỹ và xây dựng hệ giá trị quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba, khóa VII đã nhấn mạnh: “Tệ tham
nhũng, hối lộ, ăn chơi phung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài.
Những hiện tượng đó gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh danh của Đảng”(2). Đến
các kỳ Đại hội ĐBTQ khóa VIII, IX, X, XI, XII và nhiều Nghị quyết Hội nghị Trung
ương của Đảng đều khẳng định, tham nhũng có tác hại vô cùng to lớn, gây ra hậu quả
nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế
độ”(3). Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận cụ thể
hóa bằng các chính sách và pháp luật để thực thi đồng bộ công tác phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực ngày càng hiệu quả.

Sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: “Một trong những bài học
lớn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là phải giữ vững và đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng là nhiệm vụ then chốt”(4); chống tham nhũng là “một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoạn kết toàn dân tộc”(5). Ngày 23/9/2019,
Bộ Chính trị ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Để phù hợp với tình hình thực tế,
đảm bảo chặt chẽ, thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong việc phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực, ngày 11/7/2023, Bộ Chính trị ban hành Quy định số
114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong
công tác cán bộ. Quy định số 114-QĐ/TW ra đời rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay;
quy định cụ thể trách nhiệm của cấp ủy, của thành viên cấp ủy và người đứng đầu cấp
ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo.

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có ý nghĩa gắn kết đồng bộ với việc
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và ngược lại. Hiện nay, chủ trương xây dựng Đảng trên
năm phương diện cơ bản là chính trị; tư tưởng; đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng
Đảng về chính trị đòi hỏi tất cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phải thấm
nhuần sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đưa các nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong các cuộc họp, sinh hoạt chuyên đề
thường kỳ và coi đó là các tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên. Trong quá trình công
tác, chú trọng chấn chỉnh, uốn nắn từ suy nghĩ, nhận thức để phòng, chống từ sớm, từ
xa; xây dựng Đảng về tư tưởng góp phần cho mỗi cán bộ, đảng viên phải “trên dưới
đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”. Trước đây, phòng, chống tham nhũng, lãng phí
chủ yếu tập trung vào các hành vi như tham ô, đưa hối lộ, nhận hối lộ, chiếm đoạt,
làm thất thoát tài sản nhà nước; thì nay mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước, gắn
hành vi tham nhũng của cá nhân với tập thể lãnh đạo, quản lý và trách nhiệm của
người đứng đầu; gắn phòng, chống tham nhũng với tiêu cực.

Hiện nay, Việt Nam đang tham gia tích cực vào những vấn đề chung của cộng đồng
quốc tế, trong đó có phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa góp phần tăng cường sự tin
cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Vì vậy, Việt Nam luôn chú trọng đẩy
mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận hợp tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm với các nước; phối hợp chặt chẽ về việc hỗ trợ tư pháp
với các quốc gia, tổ chức quốc tế để xử lý các đối tượng phạm tội tham nhũng. Tính
đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia thành viên Liên hợp
quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước là “đối tác chiến lược” và 13
nước là “đối tác toàn diện”; Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140
quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng(6). Đối
ngoại Đảng được nâng lên tầm cao mới, Đảng ta đã phát triển quan hệ ở nhiều mức độ
khác nhau, với 247 chính đảng ở 111 quốc gia (trong đó 96 Đảng Cộng sản, 63 đảng
cầm quyền, 28 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính)(7). Trong những năm
qua, Việt Nam đã tích cực tham gia nhiều sáng kiến, diễn đàn quốc tế nhằm nghiên
cứu, trao đổi kinh nghiệm về phòng, chống tham nhũng; cam kết thực thi Công ước
của Liên hợp quốc về chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện và
pháp luật của Việt Nam.

Ghi chú

1), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.25, tr.193.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG-ST, H.2004, tr.188.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II,
Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.213.

(4) Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb
CTQG-ST, H.2023, tr.340, tr.184-185, tr.16.

(6) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQG-ST, H.2022, tr.184-185.
(7) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Sổ tay công tác bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình
mới, Nxb Lý luận chính trị, H.2022, tr.101.

You might also like