You are on page 1of 4

Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển qua các giai đoạn như thế

nào?

1. Từ 1890-1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng đúng đắn

Nguyễn Sinh Cung kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của văn hóa dân tộc và
bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Người đã chứng kiến cuộc sống bị đọa đày
trước chính sách thống trị, đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam.
Đồng thời, thấy rõ tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường của cha anh. Từ đó hình
thành hoài bão cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc.

2. Từ 1911-1920: Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm đi đến xác định phương hướng của
cách mạng Việt Nam.

Gần 10 năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc
cách mạng trên thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Quốc tế
III và được nghiên cứu Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin,
tham gia sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Đây là sự chuyển biến về chất trong tư tưởng
của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước chân chính trở thành người cộng sản và tìm thấy con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn.

3. Từ 1921-1930: Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt
Nam.

Nguyễn Ái Quốc đã tích cực học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia vào
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế; sáng lập ra các tổ chức cách mạng nước ngoài và
hoạt động lý luận sôi nổi nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa.
Đặc biệt, cuối năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập ra Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, mở nhiều lớp huấn luyện và đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Ngày 3-2-1930, Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn này, với
các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925); Đường cách mệnh (1927) và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người khởi thảo (1930) đã đánh dấu sự hình thành cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.

4. Từ 1930-1941: Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định cho cách
mạng Việt Nam.

Do bị chia phối và ảnh hưởng bởi quan điểm giáo điều “tả khuynh”, đồng thời không
nắm vững và hiểu rõ tình hình thực tế của các dân tộc thuộc địa, Quốc tế Cộng sản và
Đảng Cộng sản Đông Dương đã có những nhìn nhận sai lầm về đường lối của Hồ Chí
Minh. Đến tháng 10-1930, tại hội nghị Trung ương của Đảng ta, Quốc tế Cộng sản đã chỉ
thị ra quyết định: “Thủ tiêu Chánh cương và Sách lượt vắn tắt”, đổi tên Đảng Cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Cuối năm 1934, sau khi thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Kông, Hồ Chí Minh
đã trở lại Liên Xô và tiếp tục nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế
Cộng sản. Người vẫn giữ vững và kiên trì với con đường cách mạng đã chọn. Khi nguy
cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới đang đến gần, tại Đại hội VII của
Quốc tế Cộng sản đã có sự chuyển biến về sách lược, phê phán khuynh hướng “tả
khuynh” để cho phát xít cùng tư sản, tiểu tư sản có được tiền đề chống phá cách mạng.
Năm 1936, Đảng đề ra chiến sách mới, phê phán những biểu hiện “tả” khuynh, cô độc,
biệt phái trước đây. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, Người đã chủ trì Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Người
khẳng định rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước
sôi lửa nóng”.

Trải qua những khó khăn, thử thách, tư tưởng ban đầu của Hồ Chí Minh về đường lối
cách mạng của dân tộc Việt Nam đã được chứng minh tính đúng đắn, phù hợp với tình
hình của cách mạng Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa phương Đông nói
chung. Điều đó đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
5. Từ 1941-1969: Giai đoạn phát triển và thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa I (tháng 5- 1941), Hồ Chí
Minh đã chỉ đạo xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra Mặt trận Việt Minh, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh, đưa tới thắng lợi của cách
mạng tháng Tám – thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam dân chủ Cộng
Hòa ra đời, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau đó, từ năm 1945- 1969, Đảng và nhân dân ta
phải tiếp tục chiến tranh chống ngoại xâm ở miền Nam, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Cũng trong thời kỳ này, tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và
hoàn thiện trên một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, đạo đức, đối ngoại, … nhằm hướng tới mục tiêu nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, dân chủ, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. - Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng, kết tinh
trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, đã
suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Điều mong muốn cuối cùng của Hồ
Chí Minh là “ Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới ”. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bà học đấu tranh và
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính
cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc ta sau khi khánh chiến thắng lợi.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kinh chỉ nam cho hành động. Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc
đổi mới của chúng ta.

- Giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đại diện đặc biệt
của Tổng Giám đốc UNESCO nhắc đến như sau “ Người sẽ được ghi nhớ không chỉ là
người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại
đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan
nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi thế giới này ”.

You might also like