You are on page 1of 43

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Khoa Công Nghệ Thực Phẩm




Tiểu Luận Giữa Học Kỳ


Chủ đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam. Vận dụng nội dung xây dựng tổ
chức Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh hiện
nay.

Bộ môn : Tư tưởng Hồ Chí Minh


Giáo viên hướng dẫn : ThS.Trần Khánh Dư
Nhóm thực hiện : 04 - B

Hà Nội – 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và Tên MSV Đánh giá

51 Đinh Thị Kim Ngân 6650680


52 Trần Thị Ngân 6655720
53 Bùi Thị Ngọc 6650166
54. Nguyễn Thị Hồng Ngọc 6665920
55 Trần Thị Hồng Ngọc 6666059

Phần 1: Mở đầu
1
I. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là nhà lãnh tụ vị đại của Việt Nam, được thế giới
công nhận là nhà văn hóa kiệt xuất anh hùng giải phóng dân tộc. Những giá trị mà
tư tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế là vô cùng quý giá, được Đảng Cộng sản
Việt Nam coi là kim chỉ nam trong mọi công tác Đảng, mọi đướng lối chính sách
lãnh đạo đất nước. Người cũng là tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách
sống và làm việc cho các thế hệ nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tương Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân
ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Đây cũng là lý do nhóm chúng em chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Vận dụng nội dung xây dựng tổ
chức Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh hiện nay.”để làm rõ hơn những
quan điểm của Người về vai trò của Đảng trong chiều dài lịch sử của dân tộc Việt
Nam.
II. Tổng quan đề tài
Đề tài tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một mảng nghiên cứu vô
cùng rộng lớn và có giá trị với thực tiễn xã hội – cách mạng Việt Nam trong suốt
tiến trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc, đặc biệt là đối với Đoàn TNCS HCM
hiện nay. Với quy mô của một bài tiểu luận, nhóm chúng em tập trung phân tích
nhưng tư tưởng, quan điểm của Bác về Đảng trong cuộc sống hiện nay và ứng
dụng nhưng tư tưởng và quan điểm đó vào xây dựng Đoàn TNCS HCM hiện nay.
Tiểu luận có sự tham gia của nhiều bài báo cáo và đầu sách khác nhau với hi vọng
có thể đưa ra lập luận chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của nhóm.
III. Mục đính nghiên cứu đề tài
2
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐCS Việt Nam đồng thời liên hệ ý nghĩa vai trò đố lên công cuộc xây dựng Đoàn
TNCS HCM hiện nay.
IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tiểu luận đề tài: ”Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vận dụng nội dung xây dựng tổ chức Đoàn TNCSHồ HCM hiện nay.” Tập
trung nghiên cứu về tính tất yếu và vai trò của Đảng cầm quyền, Đảng phái trong
sạch, vững mạnh thông qua 03 vấn đề sau: quan niệm của HCM về vai trò và bản
chất của ĐCS Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng ĐCS VN trong sạch
vững mạnh; Vận dụng nhưng tư tưởng quan niện của HCM về xây dựng ĐCS VN,
xây dựng tổ chức Đoàn TNCS HCM hiện nay.
V. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm 3 phần mở đầu và nội dung; kết luận đi kèm danh sách mục
lục tài liệu tham khảo; 3 chương nội dung gồm:
Chương 1: Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng
Cộng Sản Việt Nam
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong sạch, vững mạnh
Chương 3: Vận dụng nhưng tư tưởng, quan niệm Hồ Chí Minh trong xây
dựng tổ chức Đoàn TNCS HCM hiện nay

Phần 2: Nội dung


3
Chương 1: Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò và bản chất của Đảng Cộng Sản
Việt Nam
I. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
1.1 Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1 Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện những biến
cố lịch sử mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loại người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính bước chuyển này đã
làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt: Mâu thuẫn vốn
có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã phát
triển đến mức cần phải giải quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng
vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách
mạng XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời
điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành
thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống
trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ
thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định được vị trí và được xem
là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, đó là lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin.
Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong
kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân (gọi tắt là chuyên chính công nông). Một cuộc cách mạng như vậy
được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.
4
Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và đặc biệt là lý luận cách mạng không
ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho các dân tộc thuộc địa như Việt Nam, đó
là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh
mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc
cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917.

Cờ Huy hiệu Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội


Vị trí của Liên bang Cộng Hòa Xã Hội chủ
Chủ Nghĩa Xô Viết
nghĩa Xô Viết

Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các

5
nước thuộc địa: Đản cộng sản Đức, Đảng cộng sản Hunggari (1918), Đảng cộng
sản Mỹ (1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng cộng sản Pháp (1920)…
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế
giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế
Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và
các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân". Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam: "Xem trong
cách tổ chức Đệ tam quốc tế, có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ
cho cách mệnh bên Á- Đông… Xem khẩu hiệu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng
"vô sản giai cấp" mà lại thêm câu "… và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hiệp
lại"… Xem những việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm cách mệnh thành
công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế".
Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời đại có ảnh
hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam đặc biệt là quá trình hình thành Đảng cộng
sản Việt Nam.
1.1.2 Sự chuyển biến về kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt
Nam. Đến 1897, thực dân Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt đầu
tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách phản động và hà khắc.
Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề, mọi quyền
hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp. Biến Việt Nam từ
một nước phong kiến thành nước thuộc địa nửa phong kiến.

6
Tranh biến họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người
dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp

Trong bối cảnh đó, các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác
nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của nông dân
Yên Thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908), Phong trào cách
mạng quốc gia tư sản, gắn liền với hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 -
1930)... Nhưng tất cả các phong trào đều lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi
vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
1.2 Vai trò của Nguyễn Ái quốc trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trước yêu cầu bức bách phải tìm con đường cứu nước mới, tháng 6 năm
1911, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ làm
thế nào rồi về giúp đồng bào mình thoát khỏi gông cùm nô lệ.

Danh thiếp của Nguyễn Ái Quốc khi


làm thợ ảnh ở Pari

7
Tháng 7 – 1920, Nguyễn ái Quốc được đọc bản luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Bản luận cương đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của
Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào.
Tháng 12 - 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra cuộc tranh
luận gay gắt là gia nhập quốc tế III hay ở lại quốc tế II. Nguyễn ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự
kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại đại hội


toàn quốc lần thứ XV III, đảng xã hội
Pháp, T12/1920.

Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho mình con đường cứu nước, Nguyễn ái
Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam.
Từ 1921 đến 1923, Nguyễn ái Quốc hoạt động tại Pháp, thành lập "Hội liên
hiệp thuộc địa", viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và được xuất bản lần
đầu tiên ở Pari vào 1925.
Từ tháng 6 - 1923 đến 1924, Nguyễn ái Quốc đi Liên Xô tham dự nhiều Hội
nghị và Đại hội quốc tế.
Từ 11-11-1924 đến 1927, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu - Trung Quốc,
thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông. Tháng 6 - 1925, Người sáng
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.Từ 1925 - 1927, Người mở nhiều lớp

8
huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm 1927, những bài giảng của Người
được tập hợp thành sách với tên gọi “Đường cách mệnh”.

Bìa cuốn “Đường cách mệnh” xuất bản


lần đầu năm 1927.

Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương “Vô sản hóa”,
Đến 1929 phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển rất mạnh mẽ.
Các yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị
phân liệt, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào
dân tộc dân chủ ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản đầu


năm 1930

1.3. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời


Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước thì những
đồng chí hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Bắc
Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm Long Hà Nội vào đầu 3-1929 đã tiến hành
thành lập ra chi bộ cộng sản (CS) đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã ra nghị
quyết: phải thành lập ra Đảng Cộng Sản. Cuối 3-1929 đại hội kì bộ Bắc Kỳ của

9
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến hành và đại hội này
đã thông qua.
Ngày 1-5-1929: đại hội lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội
được tiến hành tại Hương Cảng Trung Quốc. Tại đại hội này, đoàn Đại biểu Bắc
Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại không được đại hội chấp thuận. Vì thế,
các đồng chí đã tự động rút về nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên là
Đông Dương Cộng Sản Đảng (6-1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.
8-1929: Thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.
9-1929: Thành lập Đông Dương Cộng Sản liên đoàn.
Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì Quốc tế CS đã viết
thư kêu gọi những người CS ở Việt Nam là phải nhanh chóng hợp nhất 3 tổ chức
CS, thành lập Đảng CS đồng thời giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ai Quốc là
thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3 tổ chức CS thành lập ra Đảng CS.

Cờ Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước ngoặc vĩ đại
trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp Công nhân Việt Nam
đã trưởng thành. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa
Mac – Lênin, phong trào công nhân và phòng trào yêu nước. Đây là quy luật thành
lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.

10
II. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1 Theo quan điểm của Mac – Lênin
Mac và Ăngghen đã nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa
tư bản và thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, đã đưa ra kết luận: giai cấp
công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng chủ động về mặt xã hội và chỉ có giai
cấp công nhân mới có bản chất cách mạng. “ Trong cuộc đấu tranh của mình
chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sản, giai cấp vô sản chỉ khi được tổ
chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các giai cấp hữu sản lập nên
thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp”( Mác- Ăngghen tập 18,
tr203)
Đây là một điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng của nó là xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bó lột người, tư hữu về tư liệu sản xuất.
2.2 Theo quan điểm của Hồ Chí Minh
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò là người lãnh đạo
cách mạng và đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành công. Người khẳng định:
“Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng
vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”.
Người còn nhấn mạnh: Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không
làmđược cách mạng. Vì vậy trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, xuất bản năm
1927, Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Hơn nữa, theo
Hồ Chí Minh muốn quần chúng không đi lạc phương hướng thì phải có Đảng lãnh
đạo. Có Đảng thì quần chúng nhận rõ tình hình, đường lối và từ đó định phương
châm đúng; mặt khác, cách mạng là một cuộc đấu tranh rất gian khổ, lực lượng kẻ
11
địch rất mạnh. Do vậy, muốn giành được thắng lợi thì quần chúng phải có Đảng để
tổ chức giáo dục thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính
quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với
qui luật phát triển của xã hội Việt Nam. Bởi, Đảng Cộng sản Việt Nam không có
mục đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi
ích của toàn thể dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng
không có lợi ích nào khác.
III. Bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công
nhân.
Quan điểm của HCM hoàn toàn tuân thủ những quan điểm của Lênin về xây
dựng Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Nhưng, HCM còn có một thể hiện khác
về vấn đề "Đảng của ai". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ II của Đảng, HCM nêu rõ: ‘‘trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì đảng lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là
Đảng của dân tộc VN”. Năm 1953 HCM viết: “Đảng lao động là tổ chức cao nhất
của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là Đảng của giai
cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân". Năm1957, HCM khẳng định: Đảng
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân
tộc. Trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm1961, HCM tiếp tục
khẳng định: Đảng là đảng của giai cấp, cũng là của dân tộc, không thiên tư, không
thiên vị. Năm 1965, HCM cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ
tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

12
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng quan điểm nhất quán của Hồ Chí
Minh về bản chất giai cấp của Đảng là: Đảng ta mang bản chất của giai cấp công
nhân. Điều này cũng giống như Đảng ta mang tên là Đảng lao động nhưng bản
chất giai cấp của Đảng chỉ là bản chất giai cấp công nhân.
Trong Báo cáo chính trị tại đại hội II, khi nêu lên Đảng ta còn là Đảng của
nhân dân lao động và của dân tộc, HCM cũng nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận và các
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, những nguyên tắc này tuân thủ một cách chặt
chẽ học thuyết về Đảng kiểu mới của một giai cấp vô sản của Lênin.
HCM khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta dựa trên cơ sở thấy
rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân VN. Còn các giai cấp, tầng lớp khau
chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trở thành đồng minh của giai cấp công
nhân. Nội dung quy định của bản chất giai cấp công nhân không chỉ ở số lượng
đảng viên xuất thân từ công nhân mà ở nền tảng lý luận và tư tưởng của Đảng là
chủ nghĩa Mac-Lenin; mục tiêu của Đảng cần đạt tới là chủ nghĩa cộng sản; Đảng
tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới
của giai cấp vô sản,. HCM phê phán những quan điểm không đúng như không
đánh giá những vai trò to lớn của gia cấp công nhân, cũng như những quan điểm
sai trái chỉ chú trọng công nông mà không thấy rõ vai trò to lớn của giai cấp, tầng
lớp khác
Quan niệm đảng không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là
Đảng của nhân dân lao động và của cả toàn dân tộc có ý nghĩa to lớn với cách
mạng Việt Nam. Đảng không chỉ đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân mà
còn đấu tranh cho quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích
của toàn dân tộc nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của
chính mình. Trong thành phần của mình, Đảng không chỉ kết nạp giai cấp công
nhân mà còn kết nạp cả những thành viên ưu tú thuộc giai cấp nông dân trí thức và
các thành phần khác thông qua quá trình giác ngộ, rèn luyện và tự nguyện đứng
13
vào hàng ngũ Đảng. Đảng cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể dân tọc trong tất cả các thời kì của cách mạng.
Trong quá trình rèn luyện Đảng, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính thống nhất giữa
yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai
cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác.
IV. Quan niệm về Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền
4.1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
Qua những năm tháng hoạt động thực tiễn tìm tòi học hỏi nghiên cứu lý luận
HCM đã tìm thấy con đường cách mạng chủ nghĩa Mac – Lênin và quyết định đi
theo con đường của cách mạng tháng mười. Khi sắp trở thành đảng viên, đồng thời
cũng là một trong người sáng lập ĐCS Pháp, HCM - người cộng sản VN đầu tiên -
đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu
của cách mạng VN.
Từ lý tưởng cao cả ấy, HCM thấy cần phải có một đảng cộng sản để lãnh đạo
phong trào cách mạng, thực hiện mục tiêu nói trên. Chính vì vậy, từ những năm
1920 trở đi, Người tích cực chuẩn bị cả ba mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức để tiến
tới thành lập đảng. Tới 1930, ĐCSVN ra đời, đánh dấu một trang mới trong lịch sử
dân tộc ta.
Trong Đường cách mệnh HCM đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của
đảng cách mạng – nhân tố đầu tiên, quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Thấu
hiểu bài học lịch sử về sức mạnh của quần chúng, lại được soi rọi dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mac – Lênin, Người chỉ rõ: công nông là gốc cách mạng, nhưng
"trước phải làm cho dân giác ngộ". Dân phải được tổ chức, được lãnh đạo thì mới
trở thành lực lượng to lớn, mới là chủ, là gốc cách mạng được. Nếu dan không
được tổ chức thì như đũa "mỗi nơi một chiếc". Để Đảng vững "phải có chủ nghĩa
làm cốt". Thành lập đảng là để mọi thành viên trong đảng đó thống nhất về tư
14
tưởng, từ đó thống nhất trong hành động. Người đã nghiên cứu nhiều học thuyết
trên thế giới, tìm tòi, suy ngẫm, lựa chọn, và khẳng định: "bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất của chủ
nghĩa Mac – Lênin". Tóm lại, HCM nhất quán cho rằng: cách mạng VN muôn
thành công phải đi theo chủ nghĩa Mac – Lênin.
Như vậy, ĐCSVN là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chất của giai cấp
công nhân. Đảng không bao giờ " hi sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông
dân cho giai cấp khác". Đảng dìu dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng VN là để
đem cuộc sống tự do, hạnh húc cho toàn thể dân tộc. Đảng không phải là một tổ
chức tự thân, và vì vậy, mục đích, tôn chí của Đảng là "tận tâm", "tận lực", " phụng
sự", "trung thành", với lợi ích của dân tộc VN.
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân , phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn thể
dân tộc giành chính quyền, thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là
thời điểm ĐCSVN trở thành Đảng cầm quyền.
4.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều
hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Khái niệm "đảng
cầm quyền" đã được dùng phổ biến tại các nước tư bản chủ nghĩa. Ở các nước này,
nếu một chính đảng có đại biểu giành được đa số phiếu tại các cuộc bầu cử quốc
hội thì đảng đó trở thành đảng câm quyền.
Về mặt thuật ngữ, trong di sản tư tưởng HCM có thể bắt gặp các khái niệm
cùng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi đã giành được chính quyền
nhà nước: "Đảng nắm quyền", "Đảng lãnh đạo chính quyền", "Đảng cầm quyền".
15
Trong thuật ngữ, "Đảng cầm quyền" phản ánh rõ nhất, chính xác nhất vai trò lãnh
đạo của ĐCSVN trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới, xã
hội XHCN.
Cụm từ "Đảng cầm quyền" được HCM ghi trong bản Di chúc năm 1960. Theo
HCM, Đảng câm quyền là đảng tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo cách mạng trong điều
kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước đó để
tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong cuộc đấu tranh của dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và phong kiến,
thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác chủ của đảng là
giáo dục, thuyết phục, vận động, tổ chức quần chúng, đưa quần chúng vào đấu
tranh giành chính quyền.
Theo chủ tịch HCM, bản chất của Đảng không thay đổi. Khi có chính quyền trong
tay, một vấn đề cực kỳ to lớn, cũng là thử thách nặng nề của đảng là người đảng
viên cộng sản không được lãng quên nhiệm vụ, mục đích của mình, phải toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân; trên thực tế, đã có một số cán bộ, đảng viên thoái hóa,
biến chất trở thành "quan cách mạng". Với HCM, "độc lập, tự do, hạnh phúc" là
bản chất CNXH. Đó là điểm xuất phát để xây Đảng ta xứng đáng với danh hiệu
Đảng cầm quyền.
Mục đích ý tưởng của đảng cầm quyền:
Theo HCM Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ quốc, của
nhân dân. Đó là mục đích lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá
trình lao động cách mạng VN. Người chỉ rõ: "Những người cộng sản chúng ta
không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc
hoàn toàn độc lập, cho dù chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và
trên thế giới". Khi trở thành Đảng cầm quyền, mục đích, lý tưởng không những

16
không thay đổi mà còn có thêm những điều kiện và sức mạnh nhằm hiện thực hóa
mục đích, lý tưởng ấy.

Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, trung thành đầy tớ của nhân dân.
Xác định "người lãnh đạo "là xác định quyền duy nhất của đảng đối với toàn
bộ xã hội và khi có chính quyền, đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước. đối tượng
lãnh đạo của đảng là toàn thể quần chúng nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem
lại độc lập cho dân tộc tự do, ấm lo, và hạnh phúc cho nhân dân – mà trước hết là
quần chúng nhân dân lao động. nhưng muốn lãnh đạo nhân dân lao động , trước
hết đảng phải có tư cách ,phẩm chất, năng lực cần thiết. vì quần chúng chi quý mến
người có tư cách, đạo đức và chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của đảng thì
đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.
"Là người lãnh đạo", theo HCM , bằng giáo dục, thuyết phục, Đảng phải làm
cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành và lực lượng
đều tại dân, cho nên đảng "phải đi đường lối quần chúng, không quan liêu, mệnh
lệnh và gò ép nhần dân" mà phải giáo dục tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để
thức tỉnh họ. đồng thời tổ chức, đoàn kết, họ thành một khối thống nhất, bày cách
cho dân và hướng dẫn cho họ hành động. vì vậy, đảng phải đảm bảo tên các mặt,
các lĩnh vực đời sống xã hội, phải chăm lo đời sống nhân dân từ việc nhỏ đến việc
lớn.
Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng
nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân phải chịu sự kiểm soát của nhân
dân bởi " sử lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của đảng, ắt phải từ trong quần
chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng", đảng thường xuyên coi trọng công tác giáo
dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt động trong bộ máy nhà
17
nước, luôn bảo đảm cho nhà nước tong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước "của
dân, do dân, vì dân".
Với tư cách là người lãnh đạo, HCM còn đè cập một cách sâu xa đến việc
Đảng phải thực hiện chế độ kiểm tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ
đảng viên, cán bộ của đảng.
Theo tư tưởng HCM, là người lãnh đạo của Đảng bao hàm cả trách nhiệm là
người đầy tớ của dân. Người đã nhấn mạnh: "đã phục vụ cho nhân dân, thì phải
phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho nhân dân, thì phải làm cho kỳ
được. việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh". Người sử dụng "đầy tớ trung
thành" - nhắc nhở và chỉ ra vai trò trách nhiệm của mỗi cán bộ trong hoạt động của
mình đều phải quan tâm đến lợi ích của dân để dân tin dân phục dân hết lòng ủng
hộ giúp đỡ. Ý nghĩa cụm từ "đầy tớ trung thành của nhân dân"- đòi hỏi mơi cán bộ,
đảng viên tri thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng: "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Như vậy, là người lãnh đạo và là người đầy tớ, được HCM, sử dụng và chỉ ra
sự gán bó thống nhất, và quan hệ biện chứng giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù
là người lành đạo hay là người đầy tớ ,thì theo HCM đều cùng chung mục đích: vì
dân. Làm tốt chức năng "lãnh đạp" và làm tròn nhiệm vụ "đầy tớ" cho nhân dân là
cơ sở vững chắc nhất bảo đảm uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những
được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công nhân, mà còn có trong các tầng lớp
quần chúng nhân dân lao động và trong toàn thể dân tộc VN.
Đảng cầm quyền, dân là chủ:
Vấn đề của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. tuy nhiên, theo Mac,
đó mới là cánh cửa vào xã hội chứ chưa phải đã là xã hội cũ. Vì vậy, vấn đề quân
trọng chính là chính quyền thuộc về ai. HCM đã nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận
của các cuộc cách mạng trên thế giới và kết luận: cách mạng rồi thì quyền trao cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong một bọ ít người.Như vậy, theo HCM, quyền lực
18
phải thuộc về nhân dân. Người đã đề cập xây dựng một nhà nước của dân, do dân,
vì dân.
HCM nhấn mạnh rằng: Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố
quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân là bản
chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc nay, Đảng sẽ trở
thành đối lập với nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy dân là
gốc.
Mặt khác, dân muốn làm chủ phải thực sự theo Đảng. mỗi người dân phải biết
lợi ích và bổn phận của mình tham gia xây dựng chính quyền.
Với tư tưởng nhân văn cao cả về mối liên hệ biện chứng giữa Đảng và
dân,HCM luôn suy tư, trăn trở để tìm giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện nguyên
tắc dân là chủ, dân là gốc. Theo Người, cơ chế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực,
không bị vi phạm khi cán bộ, đảng viên còn là đầy tớ trung thành của nhân dân.

Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch, vững mạnh
I. Xây dựng Đảng – Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch
vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng của
Người.
Hồ Chí Minh bàn về xây dựng Đảng không phải là khi trong Đảng có gì đột
biến hay trong Đảng “có vấn đề nổi cộm” mới cần đến giải pháp tình thế. Với
Người xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu thường xuyên để Đảng hoàn thành
vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp dân tộc và nhân dân. Xây dựng Đảng
được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài. Khi cách
mạng gặp khó khăn xây dựng Đảng để cán bộ ở củng cố lập trường, quan điểm,
bình tĩnh, sáng suốt, không tỏ ra bị động, lúng túng, bi quan ngay cả khi cách mạng
19
trên thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những quan điểm, tư
tưởng cách mạng khoa học, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và rơi vào
căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản” - theo cách nói của Lênin.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh lý giải
hết sức thuyết phục theo các căn cứ sau:
 Xây dựng Đảng bị chế độ bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp nhân và nhân dân đánh đổ
đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ mới, tạo điều kiện tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc ,giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Sự nghiệp cách mạng là do Đảng lãnh đạo là một quá trình
bao gồm nhiều thời kỳ nhiều giai đoạn một mỗi thời kỳ, giai đoạn có những
cái mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và những cái yêu cầu riêng. Trước diễn biến
của điều kiện khách quan bản thân Đảng phải tự chỉnh đốn tự đổi mới để
vươn lên làm tròn trách trước dân tộc và giai cấp sinh thời mỗi khi cách
mạng chuyển giai đoạn, bắt đầu triển khai nhiệm vụ mới Hồ Chí Minh bao
giờ cũng chủ trương trước hết phải xây dựng Đảng. Chủ trương đó khẳng
định đúng vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng vừa thể hiện khả năng nhạy bén
làm chủ thời của của người đứng đầu tổ chức của Đảng.Trong suy nghĩ và
nhận thức của Hồ Chí Minh, Đang ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự
phát triển của đất nước và dân tộc, Đảng thực sự là “ một cơ thể sống” luôn
hoàn thiện và vượt lên.
 Đối với toàn Đảng, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng sống trong xã hội là một
bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội ,mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh
hưởng, tác động của môi trường xã hội ,các quan hệ xã hội và có cả cái tốt và
cái xấu, cái tích cực, lạc hậu. Do đó mỗi cán bộ đảng viên phải thường xuyên
rèn luyện Đảng phải chú ý đến việc xây dựng Đảng khả năng tiếp thu nhận
nguồn sinh lực tiềm năng và "đề kháng" các căn bệnh xã hội " thẩm thấu "của
20
Đảng là phụ thuộc vào hiệu quả công tác xây dựng Đảng. Trong hoàn cảnh xã
hội thuộc địa nửa phong kiến của kinh tế nông nghiệp là chủ yếu trình độ sản
xuất là không mà tiến dần lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam thì xây dựng
Đảng càng được quan tâm đặc biệt.
 Xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ Đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và
tu dưỡng tốt hơn hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó,
đặc biệt là giữ được các phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Đảng ta có cơ sở khắp cả nước, có những cán bộ và đảng viên tận tụy, hy sinh
vô cùng oanh liệt, nhưng theo HCM, “vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và
đảng viên chưa được huấn luyện hắn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn
thấp kém, điều đó tỏ rõ ở mỗi khuyết điểm như: không năm vững chính sách
trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh
quan liêu, công thần và tham ô hủ hóa khá nặng...”
Xây dựng Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ hiểu đúng và thực
hành tốt quan điểm đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác giúp cán bộ Đảng
viên nhìn rõ về mình phát huy mặt tốt, loại bỏ những mặt xấu vốn có trong con mỗi
con người. HCM cho rằng cán bộ, đảng viên không phải thần thánh, họ là con
người. Đã là con người ai cũng có hai mặt tốt – xấu, thiện – ác thường xuyên đấu
tranh với nhau.
Vì thế, để mỗi cán bộ Đảng viên luôn giữ trọn phần phẩm chất tốt đẹp của
mình ,giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng để mọi mặt trong mọi điều kiện,
môi trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu họ còn
cần đến sự giúp đỡ, kiểm soát, quản lý từ phía Đảng .xây dựng Đảng không thể là
buông lỏng việc thắt chặt công tác kiểm tra, quản lý cán bộ ,đảng viên .Xây dựng
Đảng nếu không được đặt đúng vị trí, ngang tầm mà lại buông lỏng kiểm soát,
quản lý thì rất dễ làm cho một bộ phận cán bộ Đảng viên bị thoái hóa ,biến chất về
đạo đức và lối sống dẫn đến tha hóa về cả chính trị.
21
Trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trở thành nhu cầu tự hoàn thiện ,nhu cầu tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán
bộ ,đảng viên.
Trong điều kiện Đảng đã cho thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng Đảng lại
được HCM coi là việc càng phải được tiến hành thường xuyên hơn của Đảng. Bởi
lẽ với một nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã nhìn thấy và nhận
diện rõ hai mặt vốn có của quyền lực: Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng mặt khác quyền lực
cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người cầm quyền lực bị thoái hóa biến chất đi
vào con đường ham muốn quyền lực chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực,
lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi biến quyền lực
của nhân dân thành đặc quyền của cá nhân .Vì vậy Đảng phải đặc biệt quan tâm
đến việc chỉnh đốn và đổi mới của Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ
mọi tệ nạn do thoái hóa biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính
quyền nhà nước.
Nhận thức đúng tác phong quan lại giữa môi trường xã hội và vai trò lãnh đạo
của đảng đặc điểm phát triển tâm lý, nhân cách của cán bộ, đảng viên, HCM đã đi
đến một nhận định mang tính triết lý sâu sắc, có giá trị phổ quát trong vấn đề xây
dựng, đổi mới Đảng "một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn ,không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người mến yêu và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân". Nhận định đó là một chân lý: Nó phản ánh đúng thực tiễn và đã đưa thực
tiễn không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới kiểm nghiệm. Nó là lời
cảnh tỉnh có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng
viên cộng sản, nhất là động viên cộng sản có chức quyền, giữ các vị trí then chốt
trong bộ máy nhà nước.

22
Nhìn một cách tổng quát, theo HCM, xây dựng Đảng mang tính quy luật và
là nhu cầu tồn tại, phát triển của bản thân Đảng. Đổi mới đã nhằm làm cho Đảng
thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cho mỗi đội
ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những
yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới,
Đảng sẽ làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư
tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động đủ sức lái con thuyền cách mạng
Việt Nam tiến về phía trước, vượt qua những khúc quanh đầy thử thách.
II. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mac – Lênin .Khi huấn luyện các cán bộ cách
mạng từ năm 1925 đến 1927, Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng muốn giữ vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam", "chủ nghĩa" ấy là chủ nghĩa Mac - Lênin, HCM đã ví chủ
nghĩa mác-lênin như trí khôn của con người như bàn chỉ nam hướng cho tàu đi,
điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ
cách mạng. Với ý nghĩa ấy, theo Người chủ nghĩa Mác Lênin luôn trở thành "cốt",
trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam.

Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mac – Lênin , HCM lưu ý những
điểm sau:

 Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền phải phù hợp với từng đối tượng.

23
 Việc vận dụng phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, tận
dụng chủ nghĩa Mac – Lênin phải tránh giáo điều. Đồng thời chống lại việc xa
rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin.
 Trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh
nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời tặng ta phải tổng kết kinh
nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mac – Lênin. Chủ nghĩa Mac –
Lênin là học thuyết nên nêu lên những cái vấn đề cơ bản nhất trên cơ sở đó
mỗi đảng viên tận dụng tàu hoàn cảnh, điều kiện riêng của mình trong quá
trình vận dụng mỗi đảng lại giải quyết thành công những cái vấn đề mới, tổng
kết thành những vấn đề lý luận bổ sung và làm giàu thêm nội dung lý luận
Mác Lênin là thái độ và trách nhiệm thường xuyên của Đảng.
 Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa mác-
lênin. Chú ý chống lại chống sáo điều cơ hội xét lại chủ nghĩa Mac – Lênin
chống lại những luận điểm sai trái ,xuyên tạc ,phủ nhận chủ nghĩa Mac –
Lênin.

2.2. Xây dựng Đảng về chính trị


Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội
dung bao gồm: Xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực
hiện nghị quyết xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường
chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị... Trong đó theo Hồ Chí Minh, đường lối
chính trị là một vấn đề từ trong sự tồn tại và phát triển của Đảng hoạch định đường
lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trong xây dựng
Đảng.

Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho toàn
xã hội, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng

24
như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài
cũng như từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần
phải coi trọng những vấn đề: Đường lối chính trị phải dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mac – Lênin, tận dụng nó bằng hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng
thời kỳ, trong xây dựng đường lối chính trị, phải học tập kinh nghiệm của các đảng
cộng sản anh em, nhưng phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và thời
đại trong từng giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài, để có đường lối chính trị đúng. Đảng
phải thực sự là đội tiên phong dũng cảm, là bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông
tin thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững
bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ
sai lầm để đường lối chính trị sẽ gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh tổ
quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như hàng triệu nhân dân
lao động.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ.
Hệ thống tổ chức của Đảng: HCM khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn
từ tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ
chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi tốc
độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức của Đảng, HCM rất coi trọng vai trò lãnh đạo của chi
bộ. Bởi lẽ, đối với bản thân Đảng, chi bộ là một tổ chức hạt nhân, quyết định chất
lượng lãnh đạo của Đảng, là một trường tu dưỡng ,rèn luyện và cũng là nơi giám
sát đảng viên, chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần
chúng nhân dân.
Các nguyên tắc sinh hoạt Đảng:
25
 Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tác cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng
thành một câu lạc bộ, Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của
Đảng.

Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
trong một nguyên tắc, dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung; tập trung
trên cơ sở dân chủ, thep nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ
đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiền đánh thì chỉ như một người”.

Về dân chủ, Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự
do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một quyền lợi và cũng là một nghĩa vụ của
một người.

Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy, quyền tự do tư
tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý.”

Người đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì
có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng
cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ
nghĩa.

 Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Nhiều người thì
nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt,
mọi vấn đề. Việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì
cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc mới chạy, như thế mới tránh

26
được thói dựa dẫm, người này ỷ vào người kia, ỷ lại vào tập thể. Không xác định
rõ cá nhân phụ trách, thì giống như “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”.

Người kết luận: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính
phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.

Về vấn đề tập trung dân chủ, Người giải thích:

“Tập thể lãnh đạo là dân chủ

Cá nhân phụ trách là tập trung

Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”

 Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình.

Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật phát triển
của Đảng. Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống
nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”.

Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm
làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn.

Tự phê bình và phê bình là vũ khí để nâng cao trình độ của Đảng, để Đảng
làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân
tộc. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng. Một Đảng có gan từa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là
một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học cách mạng,
mà còn là của nghệ thuật. Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp bộ Đảng từ
27
trên xuống dưới phải “luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê
bình” . Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân
thành với bản thân mình cũng như với người khác, “phải có tình đồng chí thường
yêu lẫn nhau”.

 Bốn là, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.

Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác
trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là
ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên.”

Theo Hồ Chí Minh nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, tự giác là thuộc về
mỗi cá nhân cá bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật này lá do
lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.

Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết
của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các
nguyên tắc xây dựng Đảng.

Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng phải
nghiêm túc kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt đối không ai
được cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Về vấn đề này, Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật,
chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ
quan chính quyền cách mạng”.

 Năm là, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết thống nhất của Đảng là một nguyên tắc
quan trọng của Đảng kiểu mới của Lênin. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng để làm nòng cốt cho việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân,

28
xây dựng nên khối đoàn kết vững chắc, đảm bảo cho việc giành được những thắng
lợi ngày càng to lớn hơn.

Hồ Chí Minh coi giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ của
toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” 3

Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối,
quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nếu xa rời cơ sở này sẽ xuất hiện những
nguy cơ phá hoại đoàn kết thống nhất từ bên trong.

Củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất đối với cán bộ lãnh đạo có ảnh
hưởng đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến toàn Đảng. Về
vấn đề này, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là
quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”.

Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu: phải thực
hiện và mở rộng dân chủ nội bộ; phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê
bình; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra – tham ô, lãng phí, quan liêu,
bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức quyền, danh lợi.

Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng


Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ,
người nhận thức rất rõ về vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán
bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa Đảng, nhà
nước với nhân dân. Muốn muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém. Người cán bộ phải có đủ đức, tài, phẩm chất và lãnh năng lực trong đó đức,
phẩm chất là gốc.

29
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung
của nó bao hàm các mắt khâu liên hoàn có quan hệ chặt chẽ với nhau, tuyển chọn
cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ, đánh giá đúng cán bộ, tuyển dụng,
sắp xếp, bố trí cán bộ thực hiện các chính sách với cán bộ.
2.4. Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh khẳng định: một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức.
Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo hướng
dẫn quần chúng, nhân dân.
Xét về thực chất đạo đức của Đảng là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo
đức đó mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mac – Lênin, đạo
đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì
thế, HCM chỉ rõ Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng và cán bộ phải thực
hiện thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng Đảng ta mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư cách số một Đảng cầm quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng,
rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thực sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của Đảng
cách mạng chân chính, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng phát triển quan
điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng phù hợp với
truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước Phương Đông trong đó có Việt Nam.

30
Chương 3: Vận dụng nhưng tư tưởng, quan niệm Hồ Chí Minh trong xây dựng tổ
chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hiện nay
I. Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII: 3 nhiệm vụ đột phá trong công tác Đoàn và
phong trào thanh niên – nhiệm kỳ 2022 – 2027

Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lần thứ
XII, nhiệm kỳ 2022 - 2027 với khẩu hiệu "Khát vọng - Tiên phong - Đoàn kết -
Bản lĩnh - Sáng tạo" đã bước qua phiên họp trọng thể.

31
Lễ khai mạc trọng thể Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII

Trung ương Đoàn xác định mục tiêu là:

- Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng yêu nước,
có ý chí tự cường, tự hào dân tộc; có lý tưởng cách mạng, hoài bão, khát vọng
vươn lên xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc; có sức khỏe; có văn hóa, kiến
thức khoa học, công nghệ, kỹ năng sống; có nghề nghiệp, ý chí lập thân, lập
nghiệp; năng động, sáng tạo.

- Phát huy tinh thần xung kích, sáng tạo, trách nhiệm của thanh niên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong hội nhập quốc tế, chuyển đổi
số quốc gia, góp phần hiện thực hoá mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Quan tâm, chăm lo các nhóm thanh thiếu nhi yếu thế về
cơ hội phát triển.

- Xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và hành
động; nâng cao trách nhiệm phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh;
Đồng chí Nguyễn Ngọc Lương – phát biểu tại đại hội
làm tốt công tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.

32
Trung ương Đoàn cũng đặt ra 12 chỉ tiêu trọng tâm, đảm bảo dễ nhớ, gắn với
nhiệm kỳ XII của Đoàn.

1) 100% cán bộ đoàn, đoàn viên, 80% thanh niên được học tập, quán triệt, tuyên
truyền, phổ biến nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và Nghị quyết, kết luận, chủ trương của Đoàn.
2) 50 triệu lượt đoàn viên, thanh niên được tham gia các hoạt động tình nguyện
do tổ chức Đoàn, Hội tổ chức.
3) 250 nghìn ý tưởng, sáng kiến của đoàn viên, thanh niên được tổ chức Đoàn hỗ
trợ triển khai, hiện thực hóa.
4) 60% thanh thiếu nhi được tiếp cận các hoạt động nâng cao năng lực số do tổ
chức Đoàn, Hội, Đội các cấp triển khai thực hiện. 50% thanh niên sử dụng
dịch vụ công trực tuyến. 70% thanh niên sử dụng tài khoản thanh toán điện tử.
5) 100 triệu cây xanh được đoàn viên, thanh niên tham gia trồng mới.
6) 300 thôn, bản khó khăn được đoàn viên, thanh niên tham gia hỗ trợ hoàn
thành tiêu chí nông thôn mới.
7) 15 nghìn tỷ đồng được hỗ trợ cho thanh niên vay vốn để khởi nghiệp, lập
nghiệp, làm kinh tế. 7 nghìn dự án khởi nghiệp sáng tạo của thanh niên được
tổ chức Đoàn hỗ trợ.
8) 12 triệu lượt thanh thiếu niên được tư vấn hướng nghiệp và việc làm; 3 triệu
thanh niên được giới thiệu việc làm.
9) 7 triệu lượt thanh thiếu nhi tham gia các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực
ngoại ngữ và hội nhập quốc tế.
10) 3 triệu thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn được tổ chức Đoàn các cấp hỗ trợ.
11) 50% đoàn viên xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tỷ lệ đoàn kết tập
hợp thanh niên đạt 68%.

33
12) 1 triệu đoàn viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp. Các cấp
bộ đoàn phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu do cấp ủy giao về kết nạp đảng viên
mới từ đoàn viên.

3 nhiệm vụ đột phá

Theo đồng chí Bùi Quang Huy - Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, để tập
trung thực hiện đồng bộ và tạo bước chuyển mạnh mẽ, Ban Chấp hành khóa XI đã
đề nghị xác định 3 nhiệm vụ đột phá.

Nhiệm vụ thứ nhất:Đồng


Tập chí Bùi Quang
trung Huy –đội
xây dựng trìnhngũ
bày cán
báo cáo
bộ tại đại hội
đoàn có bản lĩnh
chính trị, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực, uy tín, tiên phong, gương mẫu; chú
trọng rèn luyện, tu dưỡng, thực hành đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ đoàn;
thực hiện tốt công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán
bộ.
Nhiệm vụ thứ hai: Triển khai sâu rộng chương trình "Thanh niên khởi
nghiệp", nhất là khởi nghiệp sáng tạo. Trọng tâm là phát triển năng lực khởi nghiệp

34
của thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước, tham gia kiến tạo môi trường hỗ trợ
thanh niên khởi nghiệp phát triển đất nước trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số
Nhiệm vụ thứ ba: Nâng cao năng lực số nhằm hỗ trợ thanh thiếu niên có nhận
thức, thái độ đúng đắn về chuyển đổi số; trang bị kiến thức, kỹ năng phục vụ giao
tiếp xã hội, học tập, nghiên cứu, giải trí, làm việc, khởi nghiệp sáng tạo... trong bối
cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ
trong tương lai, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.
II. Các phong trào gắn với từng khối đối tượng thanh niên.
- Các phong trào hành động cách mạng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giai
đoạn 2017 – 2022 hiện nay mà Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ XI quyết
định triển khai 3 phong trào hành động cách mạng và bao gồm:
+ Thanh niên tình nguyện: Tình nguyện chung tay xây dựng nông thôn mới;
Tình nguyện tham gia xây dựng đô thị văn minh; Tình nguyện bảo vệ môi trường,
ứng phó với biến đổi khí hậu; Tình nguyện tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao
thông; Tình nguyện đảm bảo an sinh xã hội.

Tuổi trẻ Nhà máy Thủy điện Sơn La xung kích hỗ trợ người dân gặp lũ quét tại huyện
Mường 35
La (tỉnh Sơn La)
+ Tuổi trẻ sáng tạo: Sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học; Sáng tạo
trong lao động, sản xuất, kinh doanh; Sáng tạo trong công tác, phục vụ nhân dân;
sáng tạo trong đời sống sinh hoạt.
+ Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc: Xung kích trong thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng an ninh; Xung kích tham gia thực hiện các chương trình, dự án, cuộc
vận động hướng về biên giới, biển đảo, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; Xung
kích tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại; Xung kích tham gia đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn
dân cư.

Phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” được tiếp
tục triển khai hiệu quả

- Các phong trào có sự đổi mới trong phương thức tổ chức, phát triển về quy
mô, hiệu quả từng bước được nâng lên, qua đó đã phát huy vai trò xung kích, tinh

36
thần tình nguyện, sáng tạo, khơi dậy tiềm năng to lớn của thanh niên. Đặc biệt,
trong bối cảnh dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp, nhất là dịch Covid-19.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Phong trào
“Cả nước đoàn kết, chung sức, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại
dịch COVID-19” do Thủ tướng Chính phủ phát động, hiện gần 5.000 lượt thanh
niên Thủ đô xung phong đăng ký tham gia các đội hình tình nguyện hỗ trợ công tác
phòng, chống dịch tại các tỉnh, thành khu vực phía Nam và các khu vực trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Đây là kết quả sau gần một tuần Thành Đoàn Hà Nội phát động đoàn viên,
hội viên, sinh viên và thanh niên Thủ đô tích cực đăng ký tham gia các đội hình
tình nguyện để hỗ trợ công tác phòng, chống dịch với thông điệp “Mỗi đoàn viên
và thanh thiếu nhi Thủ đô là một chiến sỹ, mỗi tổ chức Đoàn là một pháo đài,
chung tay chống dịch bệnh” và“sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi
nhân dân và Tổ quốc cần.”

Gần 5000 lượt thanh niên Hà Nội tình nguyện tham gia chống
dịch COVID-19
37
Cụ thể, hơn 1.400 lượt tình nguyện viên đã đăng ký tham gia phòng, chống
dịch tại các tỉnh, thành khu vực phía Nam.
Trong đó, 805 tình nguyện viên là sinh viên, giảng viên, cựu sinh viên các
trường về khối ngành y, dược; 599 tình nguyện viên là đoàn viên, sinh viên, thanh
niên thuộc nhiều lĩnh vực khác đang sinh sống trên địa bàn thành phố.

Phần 3: Kết luận

38
DANH MỤC VIẾT TẮT

39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. FSDG
2. DFGFDNH
3. FGFJ
4. Internet theo link:
https://vtv.vn/chinh-tri/dai-hoi-doan-toan-quoc-lan-thu-xii-3-nhiem-vu-
dot-pha-trong-cong-tac-doan-va-phong-trao-thanh-nien-
20221215152942042.htm
https://baohaiquanvietnam.vn/tin-tuc/xay-dung-doan-tncs-ho-chi-minh-
vung-manh-toan-dien-gop-phan-xay-dung-dat-nuoc-ngay-cang-giau-
manh-van-minh
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/815237/tang-cuong-doan-ket%2C-tap-hop-thanh-nien
%2C-phat-huy-vai-tro-xung-kich%2C-sang-tao%2C-tinh-nguyen-de-
xay-dung-to-quoc-viet-nam-giau-dep-va-van-minh.aspx

40
https://www.vietnamplus.vn/gan-5000-luot-thanh-nien-thu-do-tinh-
nguyen-tham-gia-phong-chong-dich/738687.vnp

41
42

You might also like