You are on page 1of 22

Phần mở đầu : tầm quan trọng của vấn đề

Chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh cung cấp thế giới quan, phương
pháp luận khoa học cho sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Xét về tổng thể, chủ nghĩa Mac-Lenin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của nhân loại do
C.Mac và Ph.Angghen đặt nền móng vào đầu thế kỉ XIX, được V.I.Lenin kế tục,
phát triển từ cuối thể kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Chủ nghĩa Mac-Lenin phơi bày bản
chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cổ hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ
nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội
để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy,
đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con
đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó.
Nhờ có chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C. Mac đã lý giải một
cách khoa học và khách quan các quy luật phát triển của xã hội loại người thông
qua sự vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội; đồng thời tìm ra quy luật giá
trị thặng dư, chỉ rõ bản chất, hình thức và cách thức mà nhà tư bản bóc lột người
công nhân và nhân dân lao động. Với chủ nghĩa xã hội khoa học, C. Mac khẳng
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư
sản, đứng lên giải phóng chính mình để xây dựng một chế độ không còn bóc lột
người, biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, như Lenin nhận
định: “đem khoa học thay thế cho mộng tưởng”. Học thuyết Mác đã trở thành một
vũ khí lý luận, tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột
và bất công trong xã hội. Kế thừa những thành tựu lý luận vĩ đại của C. Mac, Ph.
Angghen và V.I. Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hế thống quan điểm tồn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam đến thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước
ta. Người tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân, sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng ta thành Đảng cách mạng chân chính tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân.
Chính những thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã chứng minh, khẳng
định tính đúng đắn, giàu sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một hệ thống
những quan điểm lý luận về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, về sự cải cách biến cách mạng xã hội cũ
và xây dựng xã hội mới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về
xây dựng những điều kiện đảm bảo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối
cùng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt
Nam. Đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần
mở ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải phóng dân tộc gắn với sự tiến bộ
xã hội. Cống hiến lý luận lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là về cách mạng giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm
hệ thống các luận điểm giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo vấn đề dân tộc và
thuộc địa, dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về cách mạng
giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, góp phần
bổ sung, phát triển kho tàng lý luận chủ nghĩa Mac-Lenin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc,
dân chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Hồ Chí Minh đã gắn cách
mạng Việt Nam với các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân trong các nước tư bản và phong trào cộng sản quốc tế, phong
trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Phần 2 : Nội dung


Phân tích cơ sở lý luận hình thành tư tưởng HCM
1. Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi.
2. Bối cảnh ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh

 Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam cho đến trước khi thực dân Pháp xâm lược vẫn là một xã hội phong
kiến, sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành
chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam
cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới.

 Ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân khi hạm đội Pháp
-Tây Ban Nha nổ súng tiến công đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
 Ngày 25 – 8– 1883 Triều đình Nhà Nguyễn ký “Hiệp ước Harmand”. Hiệp ước có tất
cả 27 điều khoản với nội dung chính là xác lập quyền lâu dài của Pháp trên toàn bộ
Việt Nam với hai hình thức Thuộc địa và Bảo hộ: Bắc kỳ là thuộc địa của Pháp và
chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung kỳ (Đó là một nền chuyên chế chính trị đồng
thời dùng người Việt trị người Việt và chia để trị: giữa miền xuôi và miền ngược, giữa
các dân tộc, giữa các tôn giáo nhằm chia rẽ mối quan hệ đoàn kết của các dân tộc). Và
Hiệp ước Patenotre (ngày 6 tháng 6 năm 1884), công nhận quyền bảo hộ của Pháp với
vùng lãnh thổ còn lại của Đại Nam. Dân tộc Việt Nam đã mất nền độc lập trong lịch
sử.
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp tác động mạnh mẽ đến sự chuyển biến về
kinh tế – xã hội Việt Nam. Diện mạo xã hội Việt Nam thời kỳ này bao gồm cả quan hệ
thực dân và các quan hệ phong kiến: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với Thực
dân Pháp xâm lược; Nông dân Việt Nam và địa chủ phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc
địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó không thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ
sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam càng thêm đen tối, tạo ra những tiền
đề bên trong cho phong trào yêu nước – giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hàng loạt các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra theo các xu thế khác nhau,
nhưng đều thất bại: phong trào đấu tranh yêu nước theo theo khuynh hướng phong kiến
(Hoàng Hoa Thám), các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh…); Phong trào công nhân cũng đã diễn ra song chỉ mang
tính tự phát, chỉ đấu tranh đòi những quyền lợi thuần túy trước mắt…

Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đang khủng hoảng trầm trọng không lối
thoát. Một câu hỏi lớn của lịch sử là giải phóng bằng cách nào? Chưa có lời giải đáp.

 Bối cảnh quốc tế


CNTB phát triển xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới và trở thành kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa. Chủ nghĩa đế quốc ra đời làm xuất hiện những mâu
thuẫn mới và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới.
Năm 1917, Cách mạng tháng mười Nga thắng lợi mở ra thời đại mới – thời đại quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chí Minh đã tìm thấy được và Người
nhận xét: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất”.

Sự xuất hiện của Quốc tế Cộng sản làm nảy sinh mâu thuẫn thời đại: chủ nghĩa xã hội và
cư bản. Quốc tế Cộng sản là trung tâm tập hợp lực lượng cách mạng và chỉ đạo cách
mạng thế giới.

Như vậy Hồ Chí Minh xuất hiện trong bối cảnh quốc tế có nhiều sự thay đổi và tác động
rất lớn đến cách mạng Việt Nam.

3. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


a. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn kết.
Bài học lớn nhất mà lịch sử dựng nước và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược của dân
tộc ta để giữ vững nền độc lập đó là đoàn kết dân tộc. Khi tìm ra được con đường cách
mạng, với tư duy “dân là gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy: “Bây giờ phải kêu gọi
được mọi người, làm cho ai cũng hiểu cách mạng để làm gì, để cùng nhau thống nhất
mục tiêu, ý chí và hành động, có như vậy mới thành công được”.
Từ thực tiễn hoạt động phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận cách
mạng là công cuộc khó khăn, phức tạp, nếu chỉ dựa vào lực lượng của một tổ chức, một
tầng lớp thì không thể thành công. Vì vậy, khi đã có đường lối cách mạng đúng đắn thì
phải có sự đồng tâm, hiệp lực, ý chí quyết tâm của nhiều người, nhiều tầng lớp; phải dựa
vào nhân dân, phải phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc. “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”. Người luôn nhắc nhở đoàn kết là nền tảng cơ bản, là nguồn sức mạnh to lớn của
cách mạng, “là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”. Người chỉ
ra bước đi, cơ sở, nền tảng trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
“Trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, là công nhân, nông dân cùng với các tầng
lớp nhân dân khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn đoàn kết thì phải thực sự dân chủ. Thực hành dân
chủ trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là nền tảng vững chắc để xây dựng một Đảng
đoàn kết, thống nhất, trở thành hạt nhân, động lực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Muốn có đoàn kết, dân chủ thực sự thì trước tiên phải có “sự đoàn kết chặt chẽ giữa các
cán bộ lãnh đạo”, phải nghiêm túc thực hiện tự phê bình, phê bình: “Muốn cách mạng
thành công, ắt phải đoàn kết và tiến bộ. Muốn đoàn kết càng chặt chẽ, tiến bộ càng mau
chóng thì mọi người phải sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Mà muốn được như
thế thì không có cách gì hơn là thật thà, tự phê bình và phê bình”. Để thực tâm đoàn kết
và dân chủ thì mỗi cán bộ, đảng viên “phải thật thà, có khuyết điểm gì nói hết, không dấu
diếm chuyện gì, phải làm cho ra vì sao mà sai lầm? Dùng cách gì mà sửa chữa? Và phải
kiên quyết sửa chữa”. Chỉ có tinh thần đoàn kết thực sự, môi trường dân chủ lành mạnh,
trong sáng, bình đẳng, nghĩa tình, thì cán bộ, đảng viên mới thấy tự tin, yên tâm để góp ý,
phê bình khuyết điểm của đồng chí, của cấp trên. Thực tế cho thấy, muốn có đoàn kết thì
phải thực sự tin yêu nhau, phải chân thành đón nhận sự phê bình; mới thấy tự phê bình và
phê bình có hiệu quả, vấn đề này vai trò nêu gương của người đứng đầu tổ chức có ý
nghĩa quyết định. Chỉ khi người đứng đầu gương mẫu tự phê bình thì mới tạo được không
khí dân chủ, tạo ra được động lực để cả cấp ủy, cả đơn vị tiến hành tự phê bình và phê
bình một cách thực chất.
Như vậy, muốn có đoàn kết thì trước tiên “các cán bộ lãnh đạo”, người đứng đầu phải
nêu gương tự phê bình và phê bình, phải thực tâm lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng
chí, của đồng nghiệp và cấp dưới. Tập thể lãnh đạo, người đứng đầu nêu gương tự phê
bình và phê bình chính là hạt nhân, là động lực để phát huy được tinh thần đoàn kết,
không khí dân chủ trong Đảng, làm hạt nhân cho sự đoàn kết trong từng tổ chức, từng địa
phương, từng cơ quan, đơn vị. Sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng làm nòng cốt để
đoàn kết toàn dân, đó là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta
vận dụng vào thực tiễn, tạo nên sức mạnh quyết định trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam giành thắng lợi.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước.
Là vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn hết sức coi trọng khơi dậy, phát động phong trào thi đua yêu nước trong cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Người coi đây là một trong những biện pháp căn
bản để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước vừa chứa đựng những giá trị khoa học,
nhân văn cao cả, vừa bao hàm những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong
phong trào thi đua yêu nước hiện nay.
Ngày 27/3/1948, trong bối cảnh đất nước đang còn rất nhiều khó khăn, thách thức của
những năm tháng đầu cuộc kháng chiến kiến quốc, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị về phát động phong trào thi đua ái
quốc, trong đó nêu rõ: “Thi đua ái quốc là gì? Là ai nấy đều gắng làm nhanh, làm tốt, làm
đẹp, không kể công việc của mình thuộc về đời sống vật chất hay tinh thần, không kể
mình hoạt động ở hậu phương hay tiền tuyến, cốt sao lợi cho nước nhà mà mình tiến bộ.
Nước nhà đang kháng chiến và kiến quốc, mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng
chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành công”
Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 11/6/1948, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Dù
chỉ được thể hiện súc tích trong hơn 400 từ, song Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là văn kiện đã khởi nguồn và mở ra một phong trào hành động thiết thực
thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc, tạo nên nguồn sức mạnh vô cùng to lớn
của cách mạng.
Phong trào thi đua yêu nước chính là một loại trường học thực tiễn cuộc sống. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo con người”. Thông qua việc
phát động và tổ chức phong trào thi đua yêu nước trên toàn quốc, Hồ Chí Minh đã quy tụ
những người Việt Nam yêu nước thuộc mọi giai tầng, lứa tuổi tham gia vào trường đào
tạo của thực tiễn cuộc sống. Từ phong trào thi đua yêu nước của toàn dân, những con
người mới, những tấm gương tiêu biểu cho một xã hội mới được hình thành. Những anh
hùng và chiến sĩ thi đua tiêu biểu trong lao động sản xuất và chiến đấu được tuyên dương
và tôn vinh như: Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh, Tôn Thất Tùng, Lương
Định Của, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn
Viết Xuân,... là những điển hình cho những con người mới được đào tạo, hình thành
trong phong trào thi đua yêu nước, đồng thời cũng là những tấm gương tiêu biểu để các
thế hệ tiếp nối học tập, nhân rộng những con người mới. Đó chính là những điển hình
tiêu biểu cho nguồn lực con người Việt Nam trong kháng chiến kiến quốc, nguồn động
lực quan trọng nhất, quyết định nhất của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Đó cũng chính
là nguyên nhân quan trọng góp phần lý giải vì sao lực lượng kháng chiến lúc đầu nhỏ bé
hơn rất nhiều so với quân đội thực dân, đế quốc thiện chiến, nhà nghề, nhưng càng đánh
càng mạnh, càng đánh càng phát triển và cuối cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân là một trong những di sản tư tưởng bao trùm và xuyên suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Đồng thời, đây cũng là tư tưởng có ý nghĩa chỉ đạo đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được phản ánh một cách chắt lọc, cô
đọng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hành, biểu hiện ở ba vấn đề cốt lõi sau:
Thứ nhất, khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Nó được hình
thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời, nó phản ánh mối
quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và nhân dân trong chế độ chính trị - xã hội nhất định.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân,
vì dân là chủ”. Theo Người, ở nước ta, mọi quyền hành và lực lượng đều là của nhân dân,
từ nhân dân mà ra. Người nhấn mạnh rằng: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Như vậy, nội dung
cơ bản và cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là: Nhân dân là chủ thể của
quyền lực chính trị  - xã hội, thể chế chính trị dân chủ phải bảo đảm quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân, nhân dân là người có quyền quyết định vận mệnh của quốc gia - dân
tộc; nhân dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng, củng cố và thực hành quyền lực
của mình thông qua hệ thống chính trị và thể chế chính trị dân chủ, xây dựng và củng cố
bộ máy quản lý nhà nước nhằm hướng tới phục vụ lợi ích của mình
Thứ hai, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là
điểm khác biệt về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai
cấp bóc lột từng tồn tại trong lịch sử.
Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình,
những đại biểu này thay mặt nhân dân tổ chức, điều hành các cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến địa phương thông qua chế độ tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Đồng thời,
Nhà nước do dân cũng là nhà nước mà nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước,
ủng hộ, giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện
các nghĩa vụ và quyền hạn đối với Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mặt
khác, nhân dân tham gia góp ý xây dựng Nhà nước, kiểm soát và giám sát quyền lực của
Nhà nước. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa là Nhà
nước không đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân thì nhân dân có
quyền bãi miễn Chính phủ.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhà nước không có đặc quyền, đặc
lợi, đứng trên nhân dân mà phải thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: Việc gì có lợi cho dân thì dù nhỏ cũng
cố gắng làm. Việc gì có hại cho dân thì dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Nhà nước vì dân là
Nhà nước luôn đề cao ý thức trách nhiệm chính trị trước nhân dân. Người cho rằng: Nếu
dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt,
Đảng và Chính phủ có lỗi.
Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần dân
chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ
mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để lãnh đạo và tổ chức lực
lượng xây dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà nước phải dựa vào mọi nguồn lực
của nhân dân để phục vụ nhân dân. Trong tư tưởng của Người, nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước phát huy dân chủ đến
cao độ mới động viên được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên.
Đồng thời, phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là tập trung xây dựng một nền pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Để xây dựng một nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức phải được đào tạo chính quy, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp
vụ quản lý hành chính ở tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Năm 1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 197 thành lập Ban Pháp lý học tại Trường Đại học
Việt Nam; năm 1950, ký Sắc lệnh số 76 ban hành “Quy chế công chức” để bảo đảm công
bằng trong thi tuyển, bổ nhiệm vào ngạch bậc hành chính. Đây là cơ sở quan trọng để xây
dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh việc tập trung xây dựng thể chế quản lý đất nước thông qua pháp luật, xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chú ý đến công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ giác ngộ và chấp hành pháp luật của nhân
dân, nhấn mạnh sự nêu gương của đội ngũ thực thi pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị tư
pháp toàn quốc (tháng 1 -1946), Người căn dặn: Các bạn là những người thi hành pháp
luật, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô
tư!”.

4. Cơ sở lý luận
a. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn
tại vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính
chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con
đường cứu nước, cứu dân.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải
phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh
là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư
tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc
khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau…
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những giá trị
truyền thống tốt đẹp và cao quý. 
 

          Trước hết, phải kể đến là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực,
tự cường.

Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện rất rõ nét từ thời vua Hùng
dựng nước cho đến nay với nhiều biểu hiện khác nhau, ở đây tiếp cận dưới góc độ
đánh giặc giữ nước thì từ thời Bà Trưng lãnh đạo nhân dân chống hàng vạn quân
Nam Hán, tới bà Triệu khi chống quân Ngô đã tuyên bố “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn
gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn,
dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”;
Trần Bình Trọng khi bị rơi vào tay quân Nguyên - Mông đã khảng khái trả lời: “Ta
thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”, lịch sử thời kỳ nào
cũng sáng ngời những tấm gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng.

 Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành dòng chủ lưu trong đời sống của người
Việt Nam, là giá trị đạo đức cao quý nhất trong bảng thang giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, trở thành “tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là
nguồn sức mạnh vô địch để dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù.

Nhìn lại lịch sử, trải nghiêm thực tế Bác Hồ đã đúc kết lại: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”, cũng chính truyền thống yêu nước đã sớm
truyền vào người thanh niên trẻ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng đất nước.

Ý chí bất khuất, tự lực, tự cường: Trên thế giới, hầu như dân tộc nào cũng
phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng, nhưng có lẽ không có dân
tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam, kể từ khi
nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên ở Việt Nam ra đời cho đến nay, dân tộc ta
đã dành hơn nửa thời gian cho các cuộc chiến tranh vệ quốc, trong đó kẻ thù chủ
yếu là các cường quốc hơn chúng ta về mọi mặt. Vì vậy, trong các cuộc chiến tranh
ấy để giành được thắng lợi chúng ta chủ yếu là lấy sức ta để giải phóng cho ta, tự
lực và tự cường.

Ý chí bất khuất, tự lực, tự cường chính là hành trang theo người suốt cuộc
đời, tạo nên sức mạnh để Người vượt qua nhưng khó khăn khi mới ra đi tìm cứu
nước phải lao động và kiếm sống ở nước ngoài phụ bếp đến bồi bàn, rửa ảnh, quét
tuyết...., hoàn cảnh làm việc vô cùng vất vả. Chế Lan Viên đã từng có những câu
thơ khắc hoạ lại cảnh Người làm việc: “Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê/Một
viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá/Và sương mù thành Luân Đôn,
ngươi có nhớ/Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?”. Đây không chỉ là thơ mà
là hiện thực cuộc sống của Bác được đưa vào trong thơ, bôn ba ở nước ngoài
không ít lần Người phải chịu cảnh tù đày, nhưng vất vả đó không làm Người chùn
bước.... Khi bắt gặp Chủ nghĩa Mác – Lênin người xác định con đường đi cho dân
tộc Việt Nam là làm cách mạng vô sản, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội và Người luôn kiên định mục tiêu này, dù cho có lúc Quốc tế cộng sản hiểu sai
về Người, từng đặt Người đứng bên ngoài Quốc tế cộng sản. Tuy nhiên, với ý chí
kiên cường và tinh thần quốc tế trong sáng, một con người không chỉ vì dân tộc
mình mà còn vì tất cả các dân tộc bị đoạ đầy đau khổ, một con người cả cuộc đời
vì nước, vì dân. Người đã không chỉ trở thành lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà
còn là biểu tượng ngưỡng vọng của các dân tộc tiến bộ trên thế giới.

Chính sức mạnh của truyền thống yêu nước ấy đã thúc đẩy người thanh niên
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Đó cũng là động lực, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, Người đặt cho
mình cái tên Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn yêu nước để luôn nhắc nhở, cỗ vũ bản
thân và cỗ vũ quốc dân đồng bào.

Tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ. Ở Việt Nam, tính cộng
đồng và tinh thần đoàn kết là một đặc trưng gốc rễ của làng xã Việt Nam, nó được
hình thành từ rất sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, gắn liền
với tiến trình đấu tranh của dân tộc, là nét văn hóa đặc trưng của người Việt được
bảo tồn từ đời này sang đời khác đã được ông cha ta lưu truyền để dạy bảo con
cháu qua ca dao, tục ngữ hay các câu chuyện ngụ ngôn như câu chuyện “Bó
đũa”.Trên thực tế, nếu có nhiều cánh tay, nhiều khối óc góp lại cùng làm thì công
việc sẽ mau chóng hoàn thành dù cho nó có khó khăn đến đâu.

Tình yêu thương con người của Bác còn vượt qua biên giới lãnh thổ, Bác
dành tình cảm đó cho tất cả những người bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Khi bôn
ba ở nước ngoài, Bác đã có một kết luận quan trọng đầu tiên: dù màu da khác nhau
nhưng trên thế giới chỉ có hai loại người là người bị áp bức và kẻ áp bức, chỉ có hai
loại việc: việc chính và việc tà, người làm việc chính là người thiện, người làm
việc tà là người ác và Người từng nói: lòng thương yêu Nhân Dân và nhân loại của
tôi không bao giờ thay đổi. Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác, Bác
thương những người dân lao động nghèo khổ nơi Bác đã từng đi qua, khi tới thăm
tượng Nữ thần Tự do ở Mỹ, Bác đã trăn trở “Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa
rộng khắp trời xanh, còn dưới chân Thần thì người da đen bị chà đạp” và Người tự
hỏi: “Bao giờ thì người da đen mới hết bị chà đạp? Bao giờ thì người da đen và
người phụ nữ mới có bình đẳng? Bao giờ mới có sự bình đẳng giữa các dân tộc?”.
Đối với Hồ Chí Minh, thương yêu con người còn đòi hỏi phải rộng rãi độ lượng
với người khác, phải biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng
không phải vùi dập con người.Người cho rằng “Năm ngón tay cũng có ngón vắn
ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người,
cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này thế khác đều dòng dõi của tổ tiên
ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng, đã là con Lạc, cháu
Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc... Ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa
họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ
vẻ vang” (3)

Như vậy, có thể thấy rằng đoàn kết là một yếu tố vô cùng quan trọng để tạo
nên thành công, đúng như ông cha ta đã đúc kết: “Một cây làm chẳng nên non/ Ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”; hay như sau này Bác Hồ khẳng định: “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.

Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong học tập, lao
động sản xuất, trong chiến đấu.

Cần cù, siêng năng là một trong những phẩm chất đáng quý của người Á
Đông, trong đó có Việt Nam, cần cù chính là yếu tố quan trọng giúp con người có
thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân, bởi vì: Thứ nhất, Việt Nam là
một nước nông nghiệp, trước đây chủ yếu là nghề nông trồng lúa nước, đây là công
việc vất vả và có tính thời vụ cao, vì vậy để có được hạt gạo người Việt phải cần
cù, phải một nắng hai sương, phải “Siêng nhặt chặt bị”; thứ hai, Việt Nam là quốc
gia có khí hậu khá khắc nghiệt, không chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn phải hứng
chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với thiên nhiên,
để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù; thứ ba, trong lịch sử dân tộc
Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành chiến tranh vệ quốc,
mặc dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng hậu quả sau mỗi cuộc
chiến là sự hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả, ổn định đời sống con
người Việt Nam đã rèn cho mình đức tính cần cù.

Bác Hồ - người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kế thừa đức tính cần cù
của con người Việt Nam, được thể hiện cụ thể qua cả học tập, lao động. Trong học
tập, Người luôn cố gắng tự học, tự tìm hiểu để làm phong phú vốn kiến thức và trí
tuệ của mình, trong lao động Người luôn chăm chỉ và cần mẫn để có tiền sống, tiền
học tập và tham gia hoạt động cách mạng khi còn hoạt động ở nước ngoài; khi về
nước dù ở đâu Bác cũng luôn cùng bộ đội, chiến sĩ tham gia sản xuất để cải thiện
đời sống.

Dũng cảm, thông minh, sáng tạo, một dân tộc sau hàng ngàn năm là nô lệ,
bị cưỡng bức, đồng hóa về mặt thể chất và tinh thần - giết đàn ông, đốt sách, nô
dịch, đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán, nhưng vẫn không khuất phục, kiên
cường chịu đựng, nuôi dưỡng ý thức độc lập để rồi lại đứng lên giành lấy độc lập. 

 Tóm lại, tất cả những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã
thấm sâu vào trí tuệ, tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Ái Quốc qua những năm
tháng được tiếp thu trong nền giáo dục của gia đình, quê hương, nhà trường đã trở
thành điểm xuất phát, là nền tảng trong hình thành phẩm chất của vị lãnh tụ.

Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí
Minh hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ,
nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh
thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt
Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết
định thành công của cách mạng; dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc; gốc
có vững cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn
liền với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.

Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch
sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt
đẹp khác của dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm
chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục
tiêu, động lực của cách mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam.
Chính Hồ Chí Minh là một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa
phương Đông và phương Tây.

Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm bất khuất của dân tộc đã hình
thành nên giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Vn, trở
thành tiền đề cho TT, lý luận hình thành nên TTHCM, đó là các giá trị tiêu biểu
như:
- Thứ nhất, chủ nghĩa yêu nước là tinh thần, là ý chí kiên cường, bất khuất
trong đấu tranh, là cội nguồn trí tuệ và long dũng cảm của nhân dân Việt Nam.
- Thứ hai, ý thức tự lực tự cường, tinh thần nhân nghĩa đoàn kết luôn tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại để làm phong phú thêm tinh hoa văn hoá dân tộc.
- Thứ ba, tinh thần lạc quan, niềm tin vào chân lý và chính nghĩa là động lực
mạnh mẽ của dân tộc.
- Thứ tư, tinh thần cần cù lao động, thông minh sáng tạo. Trong đó, chủ
nghĩa yêu nước là cơ sở, là tiền đề để Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và tìm ra
con đường cứu nước. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực
sự khi nó ăn sâu vào tiềm thức và ý chí hành động.
➢ Vận dụng:
- Do vậy, thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng, là thế hệ chủ nhân tương
lai của nước nhà, là lực lượng xung kích và sáng tạo, là thế hệ tiếp bước của
CM nên cần phải được chuẩn bị tốt về mọi mặt. Trong đó giáo dục truyền thống
là một nhiệm vụ quan trọng.
- Giáo dục truyền thống giúp cho sv thấm nhuần và phát huy giá trị truyền
thống tốt đẹp của dtoc, loại bỏ những điểm tiêu cực chưa phù hợp. Giáo dục tư
tưởng giúp mục đích của sinh viên là hiểu biết sâu sắc về lịch sử đầy bi thương,
về những vinh quang của dân tộc, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, nhận thức về
gtri của cs hiện tại. Gduc truyền thống nhằm đảm bảo sự kế tục, thống nhất giữa
các thế hệ cách mạng Việt Nam, tiếp nối sự nghiệp của các thế hệ cha anh đi
trước, vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

b. Tinh hoa văn hoá nhân loại.

- Tinh hoa văn hóa phương Đông.

Tinh hoa văn hoá, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở
phương Đông, và ở Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy
trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học. "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu thái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy
chúng ta như vậy".

Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để
quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng
một xã hội lý tưởng trong đó công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm
được coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hòa bình, không có
chiến tranh, các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh
chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong
việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong công tác xây dựng Đảng
về đạo đức.

Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị
tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề
cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa
đồng, gắn bó với đất nước của Đạo Phật. Những quan điểm tích cực đó trong
triết lý của Đạo Phật được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng
bào theo Đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người
viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi
khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn
kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân
phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc
lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích
Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ"2 . Hồ Chí Minh chú
trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo đức tích cực trong Phật
giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt Nam hiện nay.

Đối với Lão giáo (hoặc Đạo giáo), Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư
tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hoà
đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Hồ Chí Minh
kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ môi trường
sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát
triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người
khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động
đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.

Hồ Chí Minh còn chú ý kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường
phái khác nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại khác như Mặc Tử,
Hàn Phi Tử, Quản Tử, v,v...Và, Hồ Chí Minh cũng chú ý tìm hiểu những trào
lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như chủ nghĩa
Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đã phát triển
sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn
trong cách mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô
sản. Là nhà mácxít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh
hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông để giải quyết những vấn đề thực tiễn
của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.

- Tinh hoa văn hoá phương Tây.

Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh
(1905), Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng
Pháp năm 1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đi sang phương Tây, Người quan
tâm tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở
Anh, Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân
quyền trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền
mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc.

Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống,
hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa
nhân loại tại những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc
trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, v.v. bằng chính ngôn ngữ
của các nước đó. Người trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà
nước pháp quyền của các nhà khai sáng phương Tây như Vonte, Rutxô,
Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Trung Quốc;
v.v..; thích đọc sách văn học của Shakespeare bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng
tiếng Trung Hoa, Hugo, Zola bằng tiếng Pháp; hai nhà văn Anatole France và
Léon Tolstoi “có thể nói là những người đỡ đầu văn học”1 cho Hồ Chí Minh.

c. Chủ nghĩa Mác-Lênin.


Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người
yêu nước cùng thời. Ngay từ cuối nhưng năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh
khẳng định rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết được
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác -
Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách
mạng. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới, phát triển những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với
thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các
quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin
tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn như Lênin mong muốn: "Người ta chỉ có thể trở thành
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những
kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra"

Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ sở hiểu biết sâu sắc kho tàng
tri thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Về việc đó, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việcbiện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm
là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêxu, Mác,
Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn
"mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay họ
còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung
sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.

Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần
phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày
sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ
khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin".

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong
phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; các vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức,
v.v. Hồ Chí Minh đều có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam.

5. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh.


a. Phẩm chất Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát
khỏi cảnh lầm than, cơ cực để đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người
có ý chí, nghị lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngoài khảo sát thực tế các
nước đế quốc giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, mà
chỉ với hai bàn tay trắng. Người đã làm nhiều nghề nghiệp khác nhau để kiếm
sống, biết rất nhiều ngoại ngữ, tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp học
ở nhà trường, học trong sách vở, học trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở
nhân dân khắp những nơi Người đã đến, và đã có vốn học thức văn hoá sâu
rộng Đông Tây kim cổ để vận dụng vào hoạt động cách mạng.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, giàu tính phê phán, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy luật
chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ
thể của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới đáp ứng đúng đòi
hỏi thực tiễn; có năng lực tổ chức biến tư tưởng, đường lối thành hiện thực.
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách
mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là
người có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực tiên tri, dự báo tương lai chính
xác và kỳ diệu để dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng
lợi vinh quang.
Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, Là
người suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng cộng sản Việt
Nam và của cách mạng thế giới. Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố
quyết định những thành công sáng tạo của Hồ Chí Minh trong hoạt động lý luận
và thực tiễn không vì cho sự nghiệp riêng mình mà vì cả dân tộc Việt Nam và
nhân loại.
b. Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận.
Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi
thường. Trước khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã sống, học tập, hoạt
động, công tác ở khoảng 30 nước trên thế giới. Người hiểu sâu sắc chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ qua tìm hiểu trên các
loại tài liệu, sách, báo, radio mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua cuộc sống
và hoạt động thực tiễn tại các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt xác định rõ
bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người
dân ở nhiều nước thuộc hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc ở châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ Latinh.
Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã
hội, về xây dựng đảng cộng sản, v,v,...không chỉ qua nghiên cứu lý luận mà còn
qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động trong Đảng
Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều nước,
qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô – nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới, v.v. Người thấu hiểu về phong trào giải phóng dân tộc, về xây dựng
chủ nghĩa xã hội, về xây dựng đảng cộng sản, v,v,...không chỉ qua nghiên cứu
lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, qua hoạt động
trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở
nhiều nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô – nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới, v.v.
Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện
thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng
kết thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng
với việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa
Mác - Lênin, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều
mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – tổ chức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống
nhất; sáng lập Quân đội nhân dân Việt Nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam. Những phẩm chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong
phú trên nhiều lĩnh vực khác nhau ở trong nước và trên thế giới là nhân tố chủ
quan hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiền đề lý luận đóng vai trò quyết định trong việc hình thành phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lenin là nguồn
gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của khoa học và cách mạng của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác – Lenin ở nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhất là lý luận về giai cấp – dân
tộc và lý luận về chủ nghĩa xã hội.

1. Chủ nghĩa Mác – Lenin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.

- Đây cũng chính là nguồn gốc trực tiếp về mặt lý luận để đưa tới sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lenin ở Hồ Chí Minh diễn ra
trên nền tảng tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị,
vốn hiểu biết phong phú được tích lũy qua hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu
nước và giải phóng dân tộc.

- Đến với chủ nghĩa Mác – Lenin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước
cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, không phải là vào ngày 5/6/1911 khi sang nước
ngoài, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác Lenin, mà phải mất một thời gian
rất lâu sau đó thì người mới tiếp cận chủ nghĩa Mác–Lenin một cách tự giác. Việc
tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lenin đã được Hồ Chí Minh cắt nghĩa trong bài “Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Marx Lenin”: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng
Tháng Mười chỉ là theo cảm tình tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch
sử của nó. Tôi kính yêu Lenin vì Lenin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng
đồng bào mình; trước đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lenin viết. Tôi
tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các ông bà ấy đã tỏ ra đồng tình với
tôi, với cuộc đấu tranh của dân tộc bị áp bức. Còn Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”.

- Điểm mốc để dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lenin là tháng 7 năm
1920, trên những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin,
đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanité) của Đảng Xã hội Pháp. Hồi tưởng giây phút
trọng đại đó, trong tác phẩm “Con đường dẫn tới chủ nghĩa Lenin”, Người viết:
“Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại
nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lenin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi mừng phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây
là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lenin, tin theo
Quốc tế thứ ba”.

- Việc Bác Hồ khóc ở đây không phải vì đau khổ mà là vì sung sướng khi đã tìm
thấy con đường cho cách mạng Việt Nam. Người đã tìm thấy một lý luận, một học
thuyết mà Người chờ đợi bấy lâu nay.

- Tháng 12/1920, Hồ Chí Minh đã tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp ở thành phố Tua (Tours) với tư cách là đại biểu Đông Dương. Tại đây đã
chính thức đánh dấu sự chuyển lập trường Hồ Chí Minh từ một người yêu nước
sang một người cộng sản.

2. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những gì trong chủ nghĩa Mac-Lenin?

- Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Mac-Lenin, Hồ Chí Minh đã đến với
những nhận thức lý tính. Người trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mac sâu sắc hơn để
rồi tiếp thu học thuyết đó một cách khoa học, không dập khuôn máy móc, không
giáo điều. Điểm nổi bật nhất mà Người tiếp thu được ở chủ nghĩa Mac-Lenin là:

 Tinh thần cốt lõi của chủ nghĩa Mac-Lenin là phương pháp Mác xít
 Tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Con đường đúng đắn
nhất là con đường cách mạng vô sản.

- Hồ Chí Minh vui mừng vì đã tìm thấy con đường duy nhất để cứu nước, cứu dân,
con đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản
thực dân Pháp và chế độ phong kiến – đó là con đường cách mạng vô sản. Tại đại
hội Tua của Đảng Xã hội Pháp cuối năm 1920, Bác đã tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Vì vậy, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định “Chủ nghĩa Lenin đối với chúng ta, những người cách
mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái cẩm nang thần kì, không những
là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Sau đó, khi trả lời phỏng
vấn của Saclo Phuocnio, phóng viên bán L’humanité (Pháp), ngày 15/7/1969,
Người tiếp tục khẳng định lại: “Hỏi: Vậy nên gợi lại như thế nào vai trò của Lenin
và chủ nghĩa Lenin đối với đồng chí? Trả lời: Đồng chí biết truyền thuyết của
chúng tôi về cái cẩm nang. Khi gặp khó khăn, người ta giở cẩm nang ra và tìm thấy
cách giải quyết. Chủ nghĩa Lenin cũng gần như cái cẩm nang thần kì đó. Lúc đầu,
chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lenin. Rồi, từng bước một, tôi đi
đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”.

- Vận dụng lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mac-
Lenin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam:

Người chỉ rõ, để làm cách mạng thắng lợi, điều kiện hàng đầu là phải có Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công”. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Người khẳng
định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin” và kết luận: “Cách mệnh
Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công
nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lenin”.

Với tư duy sắc bén, vừa có tính biện chứng, vừa có tính thực tiễn sâu sắc, Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam và giành được những thắng lợi to lớn; vì vậy, Người khẳng định:
“Về phần chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lenin, nhưng
vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi
đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi
giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng …
chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay
thế được là chủ nghĩa Mac-Lenin. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Lenin và công cuộc
giải phóng các dân tộc bị áp bức”, Người tiếp tục nhấn mạnh: “Từ trong học thuyết
dạt dào sức sống của chủ nghĩa Lenin, chúng tôi khơi nguồn sức mạnh để giành
thắng lợi cho sự nghiệp thiêng liêng là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, để
giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội!”.
Phần 3 : kết luận
Về cơ sở lý luận , tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ 3 yếu tố : những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ( chủ nghĩa yêu nước , ý chí bất khất , tinh thần
đoàn kết ,tính dân chủ ) , tinh hoa văn hóa nhân loại ( tinh hoa văn hóa phương
đông , tinh hoa văn hóa phương tây ) và chủ nghĩa Mác-Lênin

Về tiền đề lý luận :

Như vậy chủ nghĩa Mac là tiền đề lý luận có vai trò quyết định tư tưởng Hồ Chí
Minh, không thể tách rời mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mac và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thực tế đã và đang khẳng định bản chất cách mạng và khoa học, giá trị và
sức sống bền vững của chủ nghĩa Mac-Lenin. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc vao trò của chủ nghĩa
Mac-Lenin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lenin”. Theo Người, chủ nghĩa Mac-Lenin không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi
đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Nghiên cứu lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rõ con đường
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mac-Lenin. Người đã nghiên cứu, học tập chủ
nghĩa Mac-Lenin một cách cơ bản, hệ thống. Theo Người: “Tất cả mọi người đều
có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các
Mác”. Và trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không bao giờ
“tách mình” ra khỏi C. Mac. Ph. Angghen và V.I. Lenin để đưa ra các quan điểm
riêng, mà như Người nói là “cố gắng vận dụng” tư tưởng của các nhà kinh điển đó,
“những vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Nếu không
có chủ nghĩa Mac-Lenin thì không có tư tưởng Hồ

You might also like