You are on page 1of 55

Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn ái Quốc lại lựa chọn con

đường cách mạng vô


sản?
Những năm 20 của thế kỷ XX là những năm rất quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước, có thể gọi là
những năm bản lề trong lịch sử cận đại Việt Nam gắn chặt với tên tuổi của Nguyễn ái Quốc”. Đây là thời kỳ đánh dấu sự
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn của Người cho dân tộc Việt Nam và bắt đầu hướng dân tộc Việt Nam đi theo con
đường đó - con đường cách mạng vô sản. Vậy tại sao Nguyễn ái Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô?
Nguyễn ái Quốc (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, tại một vùng quê giàu
tinh thần cách mạng. Lớn lên khi dân tộc mất độc lập dân tộc, tự do, nhân dân lầm than, nô lệ, đang bị rền xiết dưới ách
thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Từ rất sớm Nguyễn Ái Quốc đã có ý chí quyết tâm tìm đường cứu
nước. Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới và những
con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta, “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, bởi vì:
Thứ nhất, đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, con đường cứu nước của Việt Nam đi vào giai đoạn bế tắc, việc
cứu nước như trong đêm tối không có đường ra. Những con đường cứu nước mà Người biết đến từ rất sớm đều bị thất bại
do nó có nhiều hạn chế, sai lầm lớn: con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến đã thất bạị. Năm 1897, ngọn lửa
Hương Sơn tắt, phong trào Cần Vương thất bại chấm dứt thời kỳ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu mang
đậm tư tưởng Nho giáo. Đến thế kỷ XX, cầm vũ khí đánh Pháp tương đối quy mô chỉ còn có Hoàng Hoa Thám ở Yên
Thế. Mà Hoàng Hoa Thám thì không thể đề ra cho mình một phương lược nào mới, nếu thắng lợi cũng lại thực hiện tư
tưởng “khôi phục Đại Nam y cựu” mang nặng cốt cách phong kiến. Trong khi lịch sử đã vượt qua mức ấy rồi, yêu cầu
chính trị bắt đầu rộng hơn, nước Việt Nam độc lập trở lại không thể là một nước quân chủ chuyên chế nữa. Thất bại của
phong trào này đầu thế kỷ XX chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân, sự thất bại hoàn toàn của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử.
“Xa xa, Nhật Bản đã duy tân, trở nên cường thịnh, gần hơn, trí giả Trung Quốc đang xôn xao bàn luận tư tưởng Âu
Mỹ, tiếng dội đến Việt Nam”. Con đường cứu nước của những sĩ phu yêu nước tiên bộ cũng lần lượt thất bại. Ngọn cờ
tiên phong được “Duy tân hội” phất lên đó là vào đầu thế kỷ XX với tư tưởng: phải duy tân, không duy tân thì không
quang phục được. Và chỉ có một con đường duy tân sang Nhật học hỏi (Đông du) cũng chính là đi cầu viện. Điều này
không khác nào là “đuổi hùm cửa trước rước sói” cửa sau. Kết quả là Phan Bội Châu nhận ra rằng: “đồng văn đồng
chủng” không bằng “đồng bệnh”, tư tưởng chủng tộc lùi bước trước tư tưởng dân tộc. Trái ngược với đường lối của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ trương cách mạng theo đường lối ôn hoà. Tư tưởng cốt lõi là “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, dựa
vào Pháp mà đi lên. Song dù có bạo động hay bất bạo động, dù theo đường lối của Phan Bội Châu hay Phan Châu Trinh
thì kết quả cuối cùng đều bị thực dân Pháp phá hoại, bắt giam những người lãnh tụ hoặc tìm mọi cách ly khai họ ra khỏi
phong trào và lợi dụng tư tưởng của họ. Con đường của Nguyễn Thái Học theo hệ ý thức tư sản cũng thể hiện sự bất lực
trước những nhiệm vụ lịch sử dân tộc.
Như vậy, dù rất kính trọng các bậc anh hùng tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không bằng lòng với đường đi
nước bước của họ và không muốn đi theo vết mòn lịch sử. Người không tán thành hoàn toàn cách làm của một người nào
vì Người thấy rõ những hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản mà họ dựa vào để chống thực dân Pháp đã trở nên lỗi thời, yếu
kém hơn rất nhiều so với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đó. Do đó Người không lựa chọn con đường
cứu nước của họ và tự quyết định con đường nên đi.
Thứ hai, cách mạng vô sản là không triệt để:
Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn: Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con
người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận
thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không
thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu
nói). “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa
và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”
Thứ ba, con đường cách mạng chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và bước đầu có những
nhận thức về bạn và thù. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành
hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng
Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách
mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng
nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “trong thế giới
bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật”.
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến
với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
Nếu như luận cương của Lênin làm cho Nguyễn ái Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III, lựa chọn
con đường cách mạng vô sản thì một loạt những sự kiện chính trị sau đó đã góp phần củng cố vững chắc thêm niềm tin ấy.
Đó là việc đọc được điều thứ 8 trong 21 điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản làm Nguyễn ái Quốc thật sự tâm đắc bởi
vì nó khẳng định sự giúp đỡ, tinh thần đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc đối với các nước thuộc địa
và phụ thuộc: “Về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức thì các Đảng ở các nước của giai cấp tư sản có thuộc địa và áp
bức các dân tộc khác, phải có một đường lối đặc biệt rõ ràng minh bạch. Đảng nào muốn gia nhập Quốc tế III đều buộc
phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc nước mình ở các thuộc địa…”,
Thứ tư, con đường cách mạng vô sản đã có tiền lệ, đã trở thành hiện thực ở nước Nga và để lại nhiều bài học kinh
nghiệm. Chính con đường cách mạng vô sản đã đưa đến thắng lợi vang dội của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
đánh đổ chủ nghĩa tư bản ở nước Nga. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thế giới, thành quả cách mạng đã đưa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động lên nắm chính quyền. Con đường cách mạng ấy không là lý thuyết chung chung mà đã
trở thành hiện thực ở nước Nga rộng lớn thì ai dám chắc nó không có cơ hội thành công ở một nước thuộc địa trong đó có
Việt Nam.
Vì vậy Người đã rất vui sướng khi lần đầu tiên bắt gặp con đường cứu nước ấy: “Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ.
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc
tế thứ ba”. Thực tế lịch sử Việt Nam sau này đã chứng minh sự lựa chọn ấy là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt với biểu hiện
là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, với thắng lợi của cách mạng tháng Tám (1945),
Trên đây chính là lý do tại sao Nguyễn ái Quốc trong quá trình đi tìm đường cứu nước lại chọn con đường cách
mạng vô sản. Và với nội dung con đường cách mạng vô sản mà Người xây dựng được trong thời gian này đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo, xuyên suốt con đường cách mạng Việt Nam sau này. Và thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam sau đó đã
chứng minh cho sự lựa chon đúng đắn và sáng suốt của Người. Đây không chỉ là con đường cách mạng Việt Nam mà nó
còn rất phù hợp với con đường cách mạng giải phóng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc nói chung. Vì vậy, nó được
phong trào cách mạng một số nước thuộc địa và phụ thuộc học tập và noi theo.

Câu 2: Chứng minh sự ra đời của đảng cộng sản việt nam là một tất yếu
Mùa xuân năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đó là một mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc. Sự
kiện lịch sử ấy đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, mở ra
thời kỳ đấu tranh và giành thắng lợi dưới sự lãnh đạo của một chính đảng tiên tiến, gắn kết phong trào cách mạng Việt
Nam với phong trào cách mạng thế giới... Đảng ra đời là sự lựa chọn tất yếu khách quan của lịch sử. Thực tiễn quá trình
vận động thành lập Đảng đã chứng minh điều đó.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu
nước ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành “đủ
sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo,
đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn,
Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng
phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,
cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam
nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới.
Tính tất yếu lịch sử:
– Về lý luận:
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có
hệ thống lí luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh
đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác -Lênin. Chủ nghĩa Mác -Lênin chỉ rõ,
muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng
cộng sản. Sự ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc dấu tranh của giai cấp công nhân chống áp
bức, bóc lột.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân phát
triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam.
– Về thực tiễn:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của
nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Dưới tác động của chính sách cai trị và chính
sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Hình thành giai cấp địa chủ,
giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam. Chính sách
thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và phong
kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, trong đó,
mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Trước sự xâm luợc của
thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những
phong trào tiêu biểu trong thời kì này là:
+ Phong trào Cần Vương (1885-1896): Ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần
Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì. Ngày 1/1/1888, vua Hàm nghi bị Pháp bắt
nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận
và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
+ Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt
Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để
lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.

Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu
tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân
Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là
giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp
bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu
Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân
quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Ngoài ra, trong thời kì này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919); Phong trào chống độc quyền
xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do,
dân chủ…
Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm 1923); Đảng Thanh niên (tháng
3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7/1928
lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư
sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt
Nam quốc dân Đảng.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu
của các cuộc đấu tranh ở thời kì này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác
nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ công
hoà tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với
quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp… nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong cuộc đấu tranh
giành độc lập và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ
thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng
xã hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo
lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư sản
trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt
ra.Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất
quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và
chính sự phát triển của phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan
điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con
đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng
khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng
mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Qua quá trình sàng lọc, lựa chọn của lịch sử đã khẳng định chỉ có giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng
cộng sản là lực lượng duy nhất đủ sức nắm quyền lãnh đạo phong trào cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thực
tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất nắm quyền lãnh đạo vẫn là sự kế
thừa tính tất yếu lựa chọn của lịch sử và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Câu 7: Trình bày quá trình đổi mới tư duy, các quan điểm chủ trương của Đảng trong phát triển
nền văn hóa? (vai trò, vị trí)
MY: Trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh và mạnh mẽ, những nhận thức mới về giá trị cho phát triển bền vững
ngày càng được định hình rõ nét. Một trong những giá trị được đề cao, coi trọng, được đánh giá là nền tảng vững bền cho
sự phát triển của tất cả các quốc gia chính là giá trị văn hóa dân tộc - một nguồn lực to lớn, là một phần quan trọng trong
tổng thể sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc, quốc gia.
Nguyên: Từ những năm cuối của thế kỷ XX, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài
chính có quy mô lớn trên bình diện toàn cầu đã đặt ra yêu cầu phát triển bền vững. Một loạt vấn đề được đưa ra là quan hệ
giữa tăng trưởng và phát triển, những thành tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững và quan hệ biện chứng của các thành tố
đó; vai trò của văn hóa, cách thức chỉ đạo và tổ chức thực tiễn để bảo đảm cho sự phát triển bền vững

1.Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta trong thời kì đổi mới.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
Xác định khoa học - kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội; có vị trí then
chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có 2 đặc trưng: tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc thay cho
quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính
Đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII, IX, X và nhiều Hội nghị Trung ương xác định văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Đây là một tầm nhìn mới về văn hóa.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII khẳng định khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong
toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn và lạc
hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới;
- Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (7/1998): chỉ ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (01/2004): xác định phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế.
- Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX (7/2004): đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của
xã hội.
2.Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta thời kì đổi mới.
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống diễn ra trong
quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa
và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc; Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải
vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội
nguồn bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.
Động lực của sự phát triển kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa đang được phát huy (hàm
lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng
hiện thực và bền vững bấy nhiêu). Trong nền kinh tế thị trường, một mặt, văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề,…mặt khác, văn
hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng
bái tiền tệ,…
Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu
hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn
chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường sinh thái.
Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa, nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa
con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và tương lai.
Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là mục tiêu
văn hóa.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, Đảng ta xác định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người”. Đồng thời, nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm phát triển bền
vững, trường tồn. Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương phát triển văn
hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội
mới:
Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực, trong đó, tri thức của con người là nguồn lực vô hạn, có
khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không
có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu vì con người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu hiện và các
phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được
vun đắp trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo
lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,… Bản sắc dân tộc là sức
sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình,
biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, cách giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, nghệ thuật,…nhưng được
thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì mà nhân dân quan
tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể
chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế
giới, quá trình giao lưu văn hóa với các
quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền
văn hóa phải được thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công
nghệ, giáo dục, đào tạo,…sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc
thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu
những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam Nét đặc
trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn
hóa các dân tộc sống trên cùng lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng
đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng - đa dạng trong sự thống nhất.
Không có sự đồng hóa hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đều
tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của
toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân, trí thức là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong xây dựng
và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân lao động, được Đảng, Nhà nước và nhân
dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp phát triển của nền văn hóa dân
tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Để xây dựng đội ngũ
trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) khẳng định: cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ được
coi là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố quốc phòng và an ninh, là nền tảng và là động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân.
Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý
chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm cho những giá
trị ấy thấm sâu vào cuộc sống, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn,
phức tạp. Trong công cuộc đó, xây đi đôi với chống, lấy xây làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát huy những di sản
quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp những giá trị mới, phải kiên trì đấu tranh bài trừ
các hủ tục, các thói hư tật xấu, chống âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện diễn biến hòa bình.
Cách trình bày vai trò khác:
Nội hàm của khái niệm văn hóa luôn thay đổi, không cố định trong khuôn khổ một cách hiểu duy nhất, mà trong
từng thời kỳ, có sự biến đổi, nối tiếp và phát triển mới. Tuy nhiên, với ý nghĩa chung nhất, văn hóa vẫn luôn mang hàm ý
chỉ những giá trị tốt đẹp do con người sáng tạo ra.
Hiện nay, khi hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, thì vấn đề bảo tồn các giá
trị văn hóa dân tộc đặc sắc ngày càng trở nên quan trọng đối với các quốc gia - dân tộc. Quốc gia - dân tộc nào gìn giữ
được bản sắc văn hóa thì có điều kiện trở thành đất nước mạnh, ngược lại, nếu đánh mất bản sắc sẽ trở thành dân tộc bị lệ
thuộc. Sự lệ thuộc văn hóa chính là con đường ngắn dẫn đến lệ thuộc về kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất, phát triển văn hóa để tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từ
nửa cuối thế kỷ XX, khi văn hóa trở thành một ngành công nghiệp (công nghiệp văn hóa) thì văn hóa được nhìn nhận cả
trên góc độ kinh tế và sự đóng góp vào quá trình phát triển của văn hóa không chỉ đơn thuần là yếu tố tinh thần mà có sự
hiện hữu của các giá trị vật chất. Công nghiệp văn hóa hình thành trên cơ sở ban đầu là khai thác các giá trị bản sắc văn
hóa từng dân tộc - tộc người, phát huy sức mạnh nội sinh cho phát triển đất nước, đồng thời làm thay đổi quan niệm
truyền thống vốn chỉ coi văn hóa là yếu tố tinh thần, là của cải tinh thần. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp văn
hóa với những sản phẩm ngày càng đa dạng và có giá trị kinh tế cao, đóng góp ngày càng lớn đối với GDP của các quốc
gia cho thấy vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển của các quốc gia - dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, sức mạnh kinh tế không còn là yếu tố mạnh nhất chi phối quyền lực quốc gia, mà “quyền
lực mềm” quốc gia gắn với sức mạnh văn hóa ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi
đất nước. Thực tế cũng đã cho thấy, chỉ khi quốc gia - dân tộc phát triển dựa trên nền tảng bản sắc văn hóa truyền thống
có tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại thì mới bảo đảm các yếu tố cho phát triển bền vững. Nếu đánh mất bản sắc
văn hóa hoặc chỉ dựa trên những trào lưu văn hóa du nhập, vay mượn hoặc văn hóa ngoại lai thì một dân tộc có thể sẽ
biến mất, chưa nói tới sự phát triển bền vững.
Rõ ràng, văn hóa ngày càng được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, có mối gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội; hơn thế, văn hóa còn được xác định là sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển. Những năm gần đây, trong bối cảnh thế giới hội nhập nhanh, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia - dân
tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh những tác động tích cực, nó cũng tạo ra những nguy cơ đối với sự phát triển
bền vững xã hội, từ sự mai một và những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực trong văn hóa. Do vậy, một trong những
nhiệm vụ được các quốc gia ngày càng coi trọng đó là gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống. Nhiều quốc gia đã coi văn
hóa là một trong bốn trụ cột chủ yếu của phát triển bền vững.
Tiếp cận từ góc độ xã hội học, văn hóa là nền tảng của các hoạt động xã hội. Khi các giá trị văn hóa được đề cao thì
các mối quan hệ xã hội cũng có điểm tựa là các giá trị chân chính, đúng đắn và các quan hệ này sẽ tự nhiên hướng tới cái
đẹp, cái thiện. Ngược lại, xã hội phát triển, con người phát triển thì văn hóa cũng có điều kiện được bảo tồn và phát triển.
Nội hàm văn hóa trong thời đại mới đã có sự mở rộng, phát triển, văn hóa nổi lên đóng vai trò là “hệ điều tiết” sự vận
động mọi mặt đời sống xã hội.
Văn hóa ngày càng được đề cao trong các mối quan hệ xã hội, các lĩnh vực hoạt động và đặc biệt là trong xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa:
+ Đối với kinh tế - xã hội: Văn hóa được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Văn
hóa không nằm ngoài kinh tế, các giá trị văn hóa chuẩn mực luôn ẩn chứa trong kinh tế. Đối với doanh nghiệp, đó là văn
hóa doanh nghiệp với những mục tiêu hướng tới lợi ích kinh tế song hành với thực hành các giá trị văn hóa, xã hội, thực
hiện quản trị doanh nghiệp (thể hiện ở chất lượng sản phẩm tạo ra, ở sự ứng xử chuyên nghiệp với doanh nghiệp khác,
góp phần xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, ở sự ứng xử với người lao động có văn hóa và có trách nhiệm với
cộng đồng, với môi trường…), với đất nước (thực hiện nghĩa vụ thuế, tham gia tích cực vào các lĩnh vực Nhà nước kêu
gọi xã hội hóa…). Đối với doanh nhân, đó là văn hóa doanh nhân (là sự tự trau dồi kiến thức, kĩ năng, trình độ về mọi mặt
để đủ tài, đủ đức dẫn dắt doanh nghiệp, từng bước tiến ra thị trường quốc tế…).
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, văn
hóa càng phải thẩm thấu sâu hơn vào kinh tế. Văn hóa phải thực sự trở thành bản chất nội tại của nền kinh tế, là yếu tố tự
thân của nền kinh tế. Phát triển kinh tế gắn với văn hóa phải vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ trong xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đối với chính trị: Văn hóa không thể tách rời chính trị, được xem là yếu tố cố kết chặt chẽ với chính trị. Mục
tiêu chính trị mà Đảng ta phấn đấu là vì dân, vì nước, vì sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia - dân tộc, được thể hiện
rõ trong chủ trương xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” - đó cũng chính là sự hướng tới các
giá trị chân - thiện - mĩ vốn là nội hàm đặc trưng của văn hóa.
Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài mục tiêu hướng tới thực hiện
một nhà nước có văn hóa pháp quyền. Văn hóa chính trị cần có trong ứng xử của tất cả đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong hệ thống chính trị. Đó là văn hóa chính trị thông qua ứng xử với nhân dân, qua hiệu quả làm việc của những
người đại diện cho nhà nước, là đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Các giá trị văn hóa
chuẩn mực là yếu tố quan trọng hình thành nên nhân cách con người và phẩm chất chính trị người cán bộ. Người có văn
hóa chính trị sẽ biết tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo các giá trị văn hóa chuẩn mực vốn được xã hội thừa
nhận; biết tự trau dồi kiến thức chuyên môn, kĩ năng quản lý hiện đại; dám chịu trách nhiệm cá nhân; dám từ chức khi
thấy nhiệm vụ vượt quá khả năng bản thân hay để xảy ra sai phạm, dám nói không với các giá trị vật chất khi thấy không
xứng đáng, thiếu trong sáng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” trực diện đề cập đến các
vấn đề cần đặc biệt quan tâm giải quyết liên quan đến văn hóa chính trị. Trong mối quan hệ này, văn hóa tiếp tục được xác
định là nền tảng quan trọng mang tính quyết định đến hoạt động chính trị. Từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng nếu
ứng xử, hành động theo những hệ giá trị chuẩn mực văn hóa thì hoạt động chính trị sẽ đem lại hiệu quả, tạo dựng được
lòng tin của nhân dân, là nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển.
+ Đối với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa: Văn hóa bồi đắp và khơi dậy “tinh thần yêu nước, ý chí
tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7), thành văn hóa vươn lên, văn hóa, khát vọng làm giàu, khát vọng sáng
tạo, đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Mối quan hệ giữa văn hóa với con người là sự tương tác hai chiều. Văn hóa là môi trường sản sinh ra những phẩm
chất của con người, có tác động đến sự hình thành nhân cách con người; và, con người lại là chủ thể tác động trở lại văn
hóa. Dưới tác động của con người, môi trường văn hóa có thể thay đổi và ngược lại. Chính vì vậy, trong mối quan hệ này
phải đặc biệt chú ý làm sao để các giá trị văn hóa dân tộc luôn có tác động tích cực đến sự phát triển con người, hướng
con người đến tự nhận thức các chân giá trị thực sự, từ đó hướng con người đến hành động có trách nhiệm với xã hội, với
môi trường văn hóa để đóng góp vào sự phát triển lành mạnh của môi trường văn hóa./.
Câu 4: Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa và nội dung cơ bản về đường lối công nghiệp hoá
của Đảng từ ĐH VI đến ĐH XII?
1. Quá trình đổi mới tư duy về CNH:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) — Đại hội đổi mới, với tinh thần "nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ
trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực tiếp là 10 năm, từ năm 1975 đến năm 1985. Đó là:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất — kỹ thuật,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,...
- Không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây
dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Vẫn chưa thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ, không chú trọng phát triển kinh tế biển.
Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng
được ba Chương trình mục tiêu: lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng; hàng xuất khẩu.
Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khóa VII (tháng 1- 1994), đã có bước đột phá mới trong nhận thức về khái
niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên
sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) nhìn lại đất nước sau mười năm đổi mới đã có nhận định, quan trọng:
nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn
bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX (tháng 4-2001), Đại hội X (tháng 4-2006), Đại hội XI (tháng 1- 2011) và Đại hội XII (1/2016) của
Đảng, bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con đường công nghiệp hóa rút ngắn ở nước ta, về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững.
2. Mục tiêu và quan điểm CNH, HĐH của đảng ta thời kỳ đổi mới.
a. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Mục tiêu cơ bản là cải biến nước ta thành một nước công nghiêp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
b. Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế tri thức.
Hiện nay, tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế hội nhập toàn cầu hoá đã tạo ra nhiều
cơ hội và thách thức đối với đất nước. Nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời
gian, không trải qua các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển
kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hoá được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế
thị trường; trong đó, ưu tiên những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ những sản phẩm mà nước ta có nhiều
lợi thế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của thế giới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh bền vững.
Trong năm yếu tố chủ yếu để tăng trưởng kinh tế (vốn, khoa học và công nghê, con người, cơ cấu kinh
tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước), con người là yếu tố quyết định. Lực lượng cán bộ khoa học và công
nghệ, khoa học quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu, cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào
tạo.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa.
Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa
học công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp
với phát triển công nghệ nội sinh. Khoa học và công nghệ cùng với giáo dục đào tạo được xem là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
- Mục tiêu của công nghiệp hoá và của tăng trưởng kinh tế là vì con người; vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
- Bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn sự đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và
cũng là nội dung của sự phát triển bền vững
- *Vì Đảng Cộng Sản ra đời là một tất yếu?
- Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của Đảng là một tất yếu lịch sử:
- Từ nửa Từ sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ trong
- đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh
- tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm
- và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa
của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách
thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào cách giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Trong bối cảnh
đó, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản đối với các nước tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa; cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt
các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong
trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc.Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng Sản III, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập. Quốc tế
Cộng sản không những vạch đường hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà cả đối với các vấn đề dân tộc và thuộc
địa, giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc.
- Ở xã hội Việt Nam chịu xự thống trị của thực dân Pháp.Về chính trị: thực dân Pháp tước bỏ
- quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Về kinh tế: thực dân
- Pháp tiến hành cướp đoạt tài nguyên và xây dựng hệ thống phục vụ cho chính sách khai thác
- thuốc địa bằng bốc lột sức lao động của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.Về văn hóa, thực hiện chính
sách ngu dân, duy trì các hủ tục lạc hậu. Một bộ phận địa chủ câu kết vớithực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp
trong việc ra sức đàn áp phong trào yêu nướcvà bóc lột nông dân. Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất
(khoảng hơn 90% dânsố), đồng thời là một giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Do vậy, ngoài
mâuthuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp nông dâcòn có mâu thuẫn sâu
sắc với thực dân xâm lược
- Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước:
- Cuốc đấu tranh chống Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc diễn ra liên tục mạnh mẽ,nhưng các phong trào đều
lần lượt thất bại vì không đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc.Trong khi phong
trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đều bế tắc về đường lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong
trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.Bởi vì, khi chưa có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân chỉ có thể
đấu tranh tựphát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải thiện sinh hoạt, chứ không phải đấutranh với tư
cách là một giai cấp nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ khi nào giaicấp công nhân đạt tới trình độ tự giác
bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng củachủ nghĩa Mác – Lênin thì mới đưa cuộc đấu tranh tự phát lên cuộc
đấu tranh tự giác, đấutranh chính trị, đấu tranh với tư cách là một giai cấp để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.Muốn
vậy, điều kiện quan trọng trước tiên là giai cấp công nhân phải tự xây dựng lên chính đảng chính trị của mình, đó là
Đảng Cộng sản.Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước của nhân dân ViệtNam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu
biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xãhội.Sự thành lập
Đảng là quy luật của sự vận động củ phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác.Các phong trào đấu tranh từ
1925-1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và dầntrở thành một lực lượng độc lập,Tình hình khách quan
đòi hỏi phải có một Đảng lãnh đạo. Bên Cạnh đó, ba tổ chức cộng sản ra đời là Đông dương cộng sản Đảng, An Nam
Cộng Sản Đảngvà Đông Dương cộng sản liên đoàn đã thúc đẩy sự phát triển của phòng trào cách mạng. Ngày 3/2/1930
thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Câu 2: Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chínhphủ lâm thời trịnh
trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủCộng Hòa, một nhà nước non trẻ vừa
mới ra đời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn và kẻthù hơn bao giờ hết. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thực hiện một số chính sách hòa hoãn,nhân nhượng với kẻ thù .*Tại sao Đảng ta lại chủ trương hòa hoãn?
- Chiến tranh là cuộc đọ sức toàn diện về mọi mặt của các phe tham chiến, trước hết là đọ sức về kinh tế.Trong
khoản thời gian này nước ta đang phải trải qua thời kì khủng hoảng trầm trọng.Kinh tế kiệt quệ,sản xuất bị trì trệ, ngân
khố quốc gia trống rỗng, nạn đói năm 1945 làm gần 2 triệu người chết chưa khắc phục xong; bên cạnh đó “giặc đói”,
“giặc dốt”,”giặc ngoại
xâm” đang đe dọa vận mệnh quốc gia Cách mạng vừa thành công , chính quyền nhân dân vừa ra đời , nhân dân ta
chưa đủ thời gian xây dựng lực lượng vũ trang chính quy để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Khi đối mặt với kẻ thù
vừa xây dựng lại vừa phải chiến đấu, không tối ưu được hiệu quả vừa chống thù trong lẫn giặc ngoài.Bên ngoài: Ở miền
bắc, 20 vạn quân Tưởng do Mỹ giật dây vào tước vũ khí quân đội Nhật,thật ra là xâm lược nước ta và quyết tâm đánh đổ
Chính phủ Việt Minh, cho một chính phủ bù nhìn thân Mỹ - Tưởng lên thay. Ở miền nam, Anh ủng hộ thực dân Pháp
đánh chiếm lại Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ, đồng thời có kế hoạch chiếm lại cả Ðông Dương. Dựa vào thế chủ, bọn
phản cách mạng trong nước, bọn thân Mỹ, thân Tưởng, thân Pháp ra sức phá hoại,hoành hành. Theo sau bọn đế quốc là
một là một lũ tay sai với nhiều đảng phái phản động năm lật đổ chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng Hòa, lập lại chính
quyền tay sai và cướp nước ta một lần nữa.Cùng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, phải biết phân hóa kẻ thù ra.
Việc hòa với Tưởng là hòa với một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm, nhưng không phải kẻ thù chính để phân hóa, cô lập, tập
trung lực lượng đấu tranh bằng biện pháp quân sự chống kẻ thù chính. Còn hòa với Pháp là hòa ngày với kẻ thù chính để
loại bớt một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm và tranh hay trạng thái không có chiến tranh để xây dựng đất nước, chuẩn bị lực
lượng đối phó với một cuộc chiến tranh lớn nếu kẻ thù cố tình gây ra. Đó là một điều khá đặc biệt được đặt ra và giải
quyết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt.
- *Nội dung hòa hoãn:Để làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng và tay
sai,Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻthù, hòa hoãn, nhân
nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng; đề ra nhiều đối sách khôn khéođối với có hiệu quả với các hoạt động khiêu
khích, gây xung đột vũ trang của quân Tưởngthực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các yêu
sách của quân Tưởnvà các tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, ViệtCách.
Nhằm gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù, ngày 11/11/1945 Đảng ta tuyên bố tự giải tán,rút vào hoạt động bí mật, chỉ để
một bộ phận hoạt động công khai dưới danh hiệu Hội nghiêncứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Những chủ trương và
biện pháp trên đã từng bước vô hiệuhóa các hoạt động phá hoại, làm thất bại âm mưu “Diệt cộng cầm Hồ”, “Hoa quân
nhập Việt”,lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam của Tưởng Giới Thạch. Chính phủ Việt Nam đồng ýviệc đảm bảo
cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết cho 20 vạn quân đội Tưởng khi ở ViệtNam và nhân nhượng cho quân Tưởng
được sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ song hànhcùng đồng bạc Đông Dương. Sau khi bầu cử thành công, Hồ Chí
Minh chấp nhận mở rộng
CHƯƠNG I
CÂU 1.Vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường cách mạng vô sản?
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm ra con đường giải
phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta
đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là
con đường cách mạng vô sản. Vậy, vì sao Bác lại lựa chọn con đường đó?
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới và những
con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và bước đầu có những
nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa
Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”.
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích
cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Loài người căm ghét
chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người
đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu
như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng
tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân
dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu
cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng nước ta lúc đó, cũng
như từ yêu cầu của cách mạng
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực
dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc
dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc.
Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh
đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng
đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải
phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh mới. Trước sự xâm
lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh
mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó
không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến
với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước vô
bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và
bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải
phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Và thực tế lịch sử đã
chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh
hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và
kháng chiến chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn của
dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho cách mạng Việt Nam không ai khác, đó
là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.
CÂU 2.Sự kiện cụ thể chứng minh sự ra đời của Đảng là tất yếu
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục
con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu
sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản
do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là
một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời
đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách
mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và
khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm
“Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định,
muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại
trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ
cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều
kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và
cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1
đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông
qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng.
2. Vì sao nói sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu?
Tất yếu lịch sử bởi vì:
– Đó là kết quả chín muồi của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trong thời đại lịch sử mới.
– Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
– Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mac-Lenin với phong trào đấu tranh của GCCN và phong trào yêu
nước của nhân dân VN trong đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiện quy luật phổ biến của sự hình thành
chính đảng CM của GCCN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào công nhân) vừa thể hiện quy luật đặc thù VN (chủ
nghĩa M-L kết hợp với phong trào CN và phong trào yêu nước VN).
Ý nghĩa ra đời ĐCS Việt Nam:
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản
Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong
trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng
định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời
cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và
sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suốt 89 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách
mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
ĐCSVN ra đời ngày 3/2/1930 đã đánh dấu 1 bước ngoặt trọng đại của lịch sử CMVN là vì:
– Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc “tưởng chừng không có lối ra” ở VN. Mở ra 1
thời kỳ mới: thời kỳ CMVN đi theo con đường CMVS, sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công
nhân và giải phóng toàn xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
– Kết thúc thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Chứng tỏ giai
cấp công nhân VN đã đến độ trưởng thành đủ sức nắm vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong cách mạng
của mình.
– Mở đầu 1 thời kỳ mới cách mạng Việt Nam, đã có 1 nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất, để liên tục dẩy lên các
cao trào cách mạng, đưa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
CÂU 3. Hãy chỉ ra tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên?
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự thảo được thông qua tại Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau:
MỘT LÀ Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
Cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân).
Cách mạng xã hội chủ nghĩa (“ làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản ”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
HAI LÀ, Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc Pháp, vua quan
phong kiến và tư sản phản cách mạng.
Mục tiêu:
- Làm cho nước Việt Nam độc lập.
- Dựng lên chính phủ công nông binh.
- Tổ chức quân đội công nông độc lập .
- Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản cách mạng đem chia cho dân
cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa. Như vậy Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và
chống phong kiến nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
BA LÀ, Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phủ nông, trung, tiêu địa chủ, tự sản Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động
thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng Cách mạng, cô lập tối đa lực lượng kẻ thù. Thành lập một
trận dân tộc thống nhất được sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở công-nông-trí liên minh .
BỐN LÀ, Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần
chúng.
Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân cày.
Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họ đấu tranh chống đế quốc
và phong kiến.
NĂM LÀ, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo,
nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn với tư tưởng cốt lõi là Độc lập - Tự do cho
dân tộc.
Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng vô sản do giai cấp công nhân
lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công nông , đồng thời phái đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, trung, tiêu địa chủ, tự san dân
tộc và phú nông, dùng bạo học cách mạng.
Câu 4 : VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp
bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi
nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong
trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ
lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách
mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách
mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách
mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm
đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động
cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được
nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no
trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ
bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế
kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp
đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những
mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng,
cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt,
Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản";
"Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ
vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị
cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"
3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù
hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị
lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên
đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng
chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết,
đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu
hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí
Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập"
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân
dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng;
trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân
Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua
đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn
toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên
cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác
định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước,
đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo
cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh
thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội". Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải
nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước
chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử,
khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng
với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai
lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa
chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh
nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên
giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng
sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng
xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về
đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù
đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi
du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những
biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư
bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu
xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định
đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí
quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy
nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên
không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
CÂU 5. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó
là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc , làm cho nước
Việt Nam thành một nước độc lập tự do”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu
cầu khách quan của lịch sử và ý chí , nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
Lực hương cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần
chúng mang tên “ cứu quốc ”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc" theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hoà
dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy
được một phần tham gia giữ chính quyền , phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít
Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế
giới chống phát xít xâm lược”
Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân , lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng
Tháng Tám , một phần ruộng đất của đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu , địa tô dược tuyên bố giảm 25 % , một số nợ lưu
cữu được xoá bỏ.
Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam , xóa bỏ chế độ quân
chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng ”, “chưa
xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho công
nghiệp có điều kiện phát triển mạnh.... quan hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như cũ . Chính vì thế Cách mạng
Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn , hoàn thành một
bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về
mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Ý nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính
quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám , nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất
nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc
trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân
dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước .
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập
tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc
địa, đã dột phá một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của
chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà còn là chiến công chung
của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng
độc lập tự do của Hồ Chí Minh . Nó chứng tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo
hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính quốc ” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chi quyền . nghĩa Mác - Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về cách
mạng giải phóng dân tộc.
Kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ
cho nhiệm vụ chống đế quốc
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông , cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi
tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình
thành công của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của VILênin trong tác phẩm Tổng
kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “ lò lửa khởi nghĩa dân tộc”.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng : Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng , ra sức xây dựng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích
cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp đúng thời
cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị
và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh
cách mạng.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động , sáng tạo
của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc sang trang
mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời,
dù phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của
toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15
năm đấu tranh cách mạng 1930-1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập
nhà nước dân chủ nhân dân.
CHƯƠNG 2:
CÂU 6. Vì sao nói Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân reo sợi tóc”?
Khó khăn là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “ chia lại hệ thống thuộc địa thế giới ",
ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới , trong để có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình , các
nước lớn , không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc , bị bao vây tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài .
Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung , cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi , khó khăn,
thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu
kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề , sự tàn phá của nạn lũ lụt , nạn đói năm 1945 rất nghiêm
trọng . Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông
nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu,
thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945
làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống
trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945 , quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít tinh
mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trì, sử dụng đội quân Nhật giúp
sức quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn ( Nam Bộ ) vào rạng sáng ngày 23-9-1945 ,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam ( Đức ) , từ cuối tháng 8-1945 , hơn 20 vạn quân đội của
Tưởng Giới Thạch ( Trung Hoa dân quốc ) tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với
danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm
mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật
Hoàng thua trận chưa được giải giáp.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “ như ngàn cân
treo sợi tóc ”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
CÂU 7. Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết quả của
cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách
mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân , tiến
hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân, động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ , mỗi
làng xã là một pháo đài , mỗi đường phố là một mặt trận ”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết
định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân
dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh
tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không
có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ , chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất,
thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cung.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức
mạnh vật chất, tinh thần vốn có của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân
dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi
có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn , trở thành ngọn cờ
dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ , hưởng ứng
trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
CÂU 8. Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng
hai miền Nam – Bắc.
Tháng 9-1960 , Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “ Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất
nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị
quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,....
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta . Đại hội xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng , cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau , có mục tiêu cụ thể riêng , song trước mặt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam,
hòa bình, thống nhất đất nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền
Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà , hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương ( hay phương châm ) kiên quyết giữ vững đường lối hòa
bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình
thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên
quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ
thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc
nhất định sum họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội
xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt . Đó là quá
trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể
về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhô
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn
dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Song thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược
chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây
dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và
hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng,
làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Trong tổng số các đại biểu tham dự Đại hội có 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia cách mạng từ khi Đảng
còn hoạt động bí mật, tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, nhiều đại biểu là anh hùng và
chiến sĩ thi đua, là đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học... Gần 20 đoàn đại biểu quốc
tế, đại biểu của Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng tới dự Đại hội.
Đồng chí Hồ Chí Minh - Chủ tịch Đảng đọc lời khai mạc Đại hội. Người nói, lịch sử 30 năm đấu tranh của Đảng đã
dạy cho chúng ta rằng: “Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của
dân tộc; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng cộng sản, giữa các nước trong đại
gia đình xã hội chủ nghĩa, đó là các bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi”. Người khẳng định: “Đại hội lần
này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Người nhắc lại ý chí
sắt đá giải phóng miền Nam của nhân dân cả nước ta: “Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước
ta, chưa giải phóng được miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ-Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ
yên”, và nhấn mạnh “Miền Bắc giàu mạnh là cơ sở vững chắc của cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Để bảo đảm
thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là “phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát
huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác. Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ
chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt
đẹp. Nhưng chúng ta còn khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan
liêu, chủ nghĩa cá nhân… chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng,
đấu tranh khắc phục khuyết điểm… Phải nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng, tăng cường không
ngừng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu nước và tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn đọc; Báo cáo về sửa đổi
Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ đọc; Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng
chí Nguyễn Duy Trinh đọc và nhiều tham luận khác.
Báo cáo chính trị đã kiểm điểm lại sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội lần thứ II đến Đại hội lần thứ III, đặc biệt là
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Báo cáo khẳng định “cuộc kháng chiến trường kỳ trường kỳ của nhân dân ta
kết thúc thắng lợi. Thắng lợi đó đã chứng tỏ rằng trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một
khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ,
thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của
giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể tạo
điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền, có hai chế độ khác nhau, Báo cáo xác định: “Nhiệm vụ
cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa
bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á
và thế giới”.

Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều có một
mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Để giải quyết mâu thuẫn chung, mỗi miền Nam, Bắc, có nhiệm vụ chiến lược
riêng và giữ những vị trí khác nhau: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Cách mạng
miền Nam “có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước”.
Báo cáo chính trị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Vì vậy, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống
trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện
độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Báo cáo chính trị đã phân tích một cách sâu sắc về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chủ yếu dự trên cơ sở sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế
tư bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi cho nên “công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải
biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế phân tán và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm
cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”. Tuy có
điểm xuất phát rất thấp nhưng miền Bắc có thuận lợi cơ bản là chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới và ngày
càng lớn mạnh. Tình hình đó đảm bảo cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình
cải biến cách mạng ở miền Bắc là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay gắt,
phức tạp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hoá, xã hội.
Trên cơ sở những phân tích đúng đắn, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng,
lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng
đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở
miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình Đông Nam Á và thế giới”.
“Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản
để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư
bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật, biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá khoa học tiên tiến”.
Muốn cải tạo nền kinh tế lạc hậu ở nước ta, không còn con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực
quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công cộng, xây dựng đời
sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau.
Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân củng cố sự nhất trí về chính trị của
nhân dân, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Đảng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu của cách mạng nước ta trong 30
năm qua. Đó là:
- Xây dựng Đảng Mác-Lênin đoàn kết nhất trí, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo
cách mạng.
- Có đường lối, phương châm cách mạng đúng đắn, kết hợp nhiệm vụ chống đế quốc và bè lũ tay sai là nhiệm vụ
chủ yếu nhất và nhiệm vụ chống phong kiến phải tiến hành từng bước, kết hợp với nhiệm vụ chống đế quốc.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, thực hiện khối liên minh công nông vững chắc.
- Dựa trên cơ sở khối liên minh công nông vững mạnh, tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ thành một mặt
trận thống nhất rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ bản, phối hợp hoạt động hợp pháp và hoạt động
không hợp pháp, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị.
- Tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân.
- Nắm vững phương hướng chiến lược lợi dụng những mâu thuẫn cục bộ và tạm thời trong nội bộ kẻ thù để phân
hoá chúng, trung lập những lực lượng có thể trung lập, cô lập triệt để bọn nguy hiểm nhất.
- Tăng cường đoàn kết quốc tế.
Kinh nghiệm cách mạng được tổng kết đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố cơ bản quyến định mọi thắng
lợi của nhân dân ta. Để cho Đảng làm tròn sứ mệnh, vấn đề mấu chốt là phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng tức là “phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng,… củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn
Đảng, phải cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao không ngừng trình độ hiểu biết và năng lực công tác của
cán bộ đảng viên”.
Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng. Báo cáo chỉ rõ: trong tình hình mới, yêu cầu cơ bản của
việc xây dựng Đảng là phải giữ vững và nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng để nâng cao sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; phải nâng cao trình độ lý luận và tư tưởng trong Đảng, mở rộng dân chủ và tăng
cường tập trung trong sinh hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở phê bình và tự phê bình. Báo
cáo sửa đổi Điều lệ đặc biệt nhấn mạnh vấn đề về đảng viên, coi đó là một trong những vấn đề quyết định chất lượng và
sức chiến đấu của Đảng.
Trong hơn 5 ngày làm việc, Đại hội đã thảo luận sôi nổi và hoàn toàn tán thành Báo cáo chính trị và các báo cáo
khác của Ban Chấp hành Trung ương. Những vấn đề Đại hội thảo luận và thông qua có tầm quan trọng quyết định phương
hướng nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí
Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Ngày 10-9/1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới;
Thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội.
Câu 9: Paris vừa đánh vừa đàm
Hội nghị Pari về Việt Nam là cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở
Thủ đô nước Pháp bắt đầu từ ngày 13-5-1968 và kết thúc vào ngày 27-1-1973. Trong gần 5 năm, khoảng thời gian dài
chưa từng thấy của lịch sử đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1000
cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân Việt Nam ở Pari đã
thực sự góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Khác với Hội nghị quốc tế Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, Hội nghị Pari là một cuộc đàm phán tay đôi do Việt
Nam thắng lớn và chủ động đề xướng. Còn Mỹ, bị thất bại nặng nề buộc không thể không chấp nhận thương lượng để tìm
một lối thoát danh dự. Mỹ phải coi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một bên đối thoại trực tiếp và bình đẳng để giải quyết
mọi vấn đề của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc đàm phán Pari mở ra cục diện“vừa đánh, vừa đàm”, phản ánh một giai
đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ. Đây cũng là đỉnh cao của sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
cả 3 mặt trận, quân sự, chính trị và ngoại giao; giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến trường với cuộc
đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế.
“Vừa đánh, vừa đàm” là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đó là nghệ thuật kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, tạo sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù
xâm lược trên cả chiến trường và tại bàn đàm phán. Nghệ thuật “đánh” và “đàm” đã phát triển, mở rộng lên tầm quốc gia,
dân tộc và quốc tế. Trong kháng chiến chống Pháp, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân Pháp bị thất bại, Chính phủ Pháp
phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, nghệ thuật “đánh” và “đàm” được phát triển lên đỉnh cao, trở thành hoạt động song hành -
“vừa đánh, vừa đàm”; “đánh” tạo thế cho “đàm”, “đàm” khích lệ để tiếp tục “đánh”. Nghệ thuật đó được tiến hành một
cách chủ động trong suốt cuộc chiến tranh và kết hợp rất chặt chẽ, nhịp nhàng, khôn khéo, đồng thời cũng vô cùng quyết
liệt; tạo sức mạnh tổng hợp to lớn đánh bại đội quân “lắm súng nhiều tiền” Mỹ cùng đồng minh của chúng trên chiến
trường và tại bàn đàm phán.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc, tại miền Nam, đế quốc Mỹ đã vội vàng dựng lên Chính quyền
Bù nhìn Ngô Đình Diệm để thực hiện ý đồ đen tối của mình. Mỹ đã viện trợ và hỗ trợ cho ngụy quyền Sài Gòn thẳng tay
đàn áp, khủng bố những người yêu nước. Các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” liên tục được diễn ra trên toàn miền Nam;
đặc biệt, đạo luật phát xít - Luật 10/59 đã giết hại hàng loạt người dân vô tội. Cùng với đó, Mỹ không ngừng tăng viện trợ,
đưa cố vấn quân sự sang với ý đồ bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Trước tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định:
đánh đổ chế độ Mỹ Ngụy, giải phóng miền Nam là nhiệm vụ chung, vì lợi ích và yêu cầu của nhân dân cả nước. Thực
hiện chủ trương này, một mặt ta phát triển mạnh mẽ cách mạng miền Nam; mặt khác, đẩy mạnh mặt trận ngoại giao để
đấu tranh với địch. Theo đó, hoạt động đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang được đẩy mạnh, phong trào
Đồng khởi ở nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đòi dân chủ, hòa bình ở Sài Gòn và các thành phố lớn. Đặc biệt,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng
phái,… để đấu tranh với ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn. Trên mặt trận ngoại giao, ta gửi công hàm
tới Ủy Ban Quốc tế để tố cáo những hành động vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ của Mỹ Ngụy, tuyên bố Mỹ can thiệp và
xâm lược miền Nam Việt Nam, đồng thời tăng cường vận động dư luận trong và ngoài nước,… ủng hộ Việt Nam. Các
hoạt động đó đã làm dư luận cực lực phản đối, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Ủy ban Đoàn kết Á Phi, Hội đồng Hòa bình thế
giới, Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế nhiều lần đòi Mỹ chấm dứt can thiệp quân sự ở miền Nam.
Như vậy, ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại
giao, phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến. Nhưng với
bản chất hiếu chiến, đế quốc Mỹ tiến hành bước leo thang mới, mở rộng chiến tranh ra cả nước ta. Đầu năm 1965, chúng
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, thực hiện các
chiến lược: “tìm diệt”, “bình định”, v.v. Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: “Chúng ta chỉ có thể giành được thắng
lợi trên bàn đàm phán những gì mà chúng ta giành được trên chiến trường”1. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, với
tầm nhìn chiến lược, Bộ Thống soái đã chủ động tổ chức những đòn đánh quân sự, từng bước tiêu hao, tiêu diệt sinh lực,
đẩy chúng vào thế bị động, buộc phải xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàn phán. Thực tiễn đã chứng minh, bằng sức
mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, biết tập trung lực lượng hơn hẳn địch trên từng hướng chiến lược, từng chiến
dịch, tại chiến trường chính miền Nam, quân và dân ta liên tiếp giáng cho Mỹ hai đòn thảm bại trong mùa khô 1965 -
1966 và 1966 - 1967. Trên chiến trường miền Bắc, chỉ tính từ ngày 07-02-1965 đến ngày 01-11-1968 ta đã bắn rơi 3.243
máy bay Mỹ. Đặc biệt, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 - cú “sét vang trời” làm chấn động toàn cầu,
giới cầm quyền Mỹ choáng váng.
Thắng lợi đó đã tạo bước đột biến cho cuộc chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương ngừng đánh phá miền
Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra) và chấp nhận đàm phán. Theo đó, ngày 13-5-1968, Hội nghị bàn về vấn đề chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã chính thức khai mạc tại Pa-ri. Bằng lập trường đấu tranh cương quyết, có lý, có tình
ta đã buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia
đàm phán. Mặt trận đã liên tục tiến công thông qua việc đưa ra lập trường năm điểm (được xem như một tuyên bố chính
trị), bốn tháng sau lại đưa ra giải pháp mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam đòi Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam.
Để tạo áp lực trên bàn đàm phán, Hoa Kỳ gia tăng viện trợ quân sự cho chính quyền ngụy, đẩy mạnh chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” - lấy sức mạnh của súng đạn để buộc ta phải chấp nhận những điều khoản do chúng đưa ra. Để đáp
lại, tại chiến trường, mặc dù bị tổn thất trong năm 1968, nhưng với sự nỗ lực của toàn dân tộc, thế và lực của cách mạng
miền Nam từng bước được phục hồi, thậm chí cả vào những thời đoạn khó khăn, hiểm nghèo nhất (1969 - 1970) quân và
dân ta vẫn tiến hành các chiến dịch, như: Đắc Tô 2, Long Khánh, Búp Răng - Đức Lập, Phước Bình - Bù Đốp,… gây cho
chúng nhiều thiệt hại. Đặc biệt, năm 1971, tại Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, ta đánh bại cuộc Hành quân
Lam Sơn 719 - con át chủ bài trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Thắng lợi về quân sự đó tiếp tục hậu
thuẫn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra các giải pháp: Tám điểm (ngày 14-9-1970),
Bảy điểm (ngày 01-7-1971) và sau đó là Hai điểm nói rõ thêm trong Giải pháp Bảy điểm, nhằm khẳng định lập trường
nhất quán của Việt Nam là: Mỹ phải rút toàn bộ quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, thành lập ở miền Nam Việt Nam
một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần để tiến tới tổng tuyển cử.
Thắng lợi trên chiến trường cùng với thiện chí của ta trên bàn đàm phán đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân tiến bộ trên thế giới. Phong trào phản đối, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, ngày
càng lan rộng trên toàn thế giới. Không thể làm ngơ trước sức ép dư luận gia tăng mỗi ngày, Mỹ phải từ bỏ yêu sách đòi ta
rút quân khỏi miền Nam và chấp nhận: từ tháng 7-1970 sẽ rút dần quân chiến đấu Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền
Nam Việt Nam. Như vậy, đấu tranh ngoại giao không chỉ là khuyếch trương thắng lợi trên chiến trường, củng cố ý chí,
niềm tin cho nhân dân và bạn bè quốc tế, mà còn lay động mạnh mẽ đến tinh thần, ý chí xâm lược của Mỹ. Nắm chắc thời
cơ thuận lợi đó, để tạo nên thắng lợi quyết định, năm 1972 ta mở nhiều chiến dịch lớn: Trị - Thiên, Nguyễn Huệ, Bắc Tây
Nguyên, Bắc Bình Định, v.v. Kết quả, ta giành thắng lợi to lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 vạn sinh lực cùng một số
lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại của địch; giải phóng một vùng rộng lớn, liên hoàn từ Trị - Thiên, Khu
5 vào đến Đồng bằng sông Cửu Long; làm thay đổi so sánh lực lượng, tạo ra yếu tố đủ cả về thế, thời và lực để kết thúc
chiến tranh.
Phát huy chiến quả trên mặt trận quân sự, ta xác định: mặt trận ngoại giao lúc này có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả
chiến cục năm 1972 cũng như toàn bộ cuộc chiến tranh nên đã đẩy mạnh thành “cuộc chiến không tiếng súng”. Ngày
08-10-1972, phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa cho phía Mỹ bản Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam”. Trên thế mạnh áp đảo, ta đã buộc phía Mỹ phải thừa nhận: văn bản của Hiệp định bây giờ có
thể xem như đã hoàn thành và thỏa thuận đến ngày 31-10-1972 sẽ ký. Như vậy, quan hệ tương hỗ với nhau giữa quân sự
và ngoại giao một lần nữa thể hiện đậm nét nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” của ta ở chính giai đoạn cuối của đàm phán,
đi những nước cờ quyết định.
Nét đặc sắc của nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” còn được tiến hành một cách kiên quyết khi Mỹ lật lọng tại bàn
đàm phán để dùng “miếng võ” cuối cùng là đánh đòn tập kích đường không chiến lược cuối năm 1972, hòng hủy diệt Hà
Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, nhằm cứu vãn tình thế và cũng là ép ta bằng sức mạnh quân sự trên bàn đàm phán.
Bằng tất cả tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường và trí tuệ sáng tạo, quân và dân Thủ đô đã lập nên kỳ tích “Điện Biên
Phủ trên bầu trời Hà Nội”, gây chấn động tinh thần giới cầm quyền Nhà Trắng; làm xao động nước Mỹ và thế giới. Không
thể chịu đựng hơn được nữa, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, chấp nhận
đàm phán với ta và chính thức ký Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày
27-01-1973. Sách lược “vừa đánh, vừa đàm” của ta đã thành công.
Tuy vậy, Mỹ vẫn mưu toan duy trì chế độ tay sai ở miền Nam, viện trợ cho quân đội ngụy liên tục tiến hành các
hoạt động đánh chiếm, mở rộng vùng lấn chiếm, đóng thêm đồn bốt, v.v. Với ta, theo phương châm giương cao ngọn cờ
độc lập, hòa bình, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định (ngừng bắn, trao trả tù binh,…), đồng thời liên tục đấu tranh vạch ra
những vi phạm của Mỹ ngụy trên trường quốc tế, đòi chúng phải thực hiện Hiệp định. Nhưng, chúng vẫn ngoan cố, tiếp
tục lấn chiếm, bình định, khủng bố nhân dân. Vì vậy, không còn con đường nào khác là phải tiêu diệt ngụy quân, xóa bỏ
ngụy quyền, giải phóng miền Nam. Bằng sức mạnh tổng hợp của cả nước ta liên tục tổ chức những chiến dịch quân sự
lớn, phá tan từng mảng trong hệ thống Chính quyền Sài Gòn, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy vào mùa Xuân năm
1975, đập tan chế độ ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong quá trình đó, để hỗ trợ cho
mặt trận quân sự, trên mặt trận ngoại giao ta tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc,… và của nhân dân
thế giới trong đó có nhân dân Mỹ, gây sức ép về dư luận, buộc Mỹ không dám dính líu trở lại Việt Nam, cô lập ngụy, tạo
điều kiện thuận lợi cho các đòn đánh quân sự giành thắng lợi quyết định.
Như vậy, nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được tiến hành một cách
chủ động, sáng tạo; đồng thời, yếu tố “đánh” và “đàm” được kết hợp rất chặt chẽ, nhuần nhuyễn trong từng giai đoạn của
cuộc chiến tranh, trên từng mặt trận, hỗ trợ; tác động lẫn nhau tạo nên sức mạnh to lớn đánh thắng kẻ thù. Nghệ thuật độc
đáo đó cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng linh hoạt vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Câu 10: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm về đổi mới kinh tế
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi
lớn: đất nước thoát khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có những
chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên
thực tế, các chủ trương, chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được những yêu
cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất).
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan
trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình
trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và phát triển trên phạm vi cả nước…”.
Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm
chính. Kế hoạch hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán
kinh tế; sử dụng tốt thị trường;… Nếu so sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần
này công tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế hoạch hoá không còn được
nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ
sở.
Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm 1986. Đảng
nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại hội VI là: “Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách quan… Tiêu chuẩn đánh giá sự vận
dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông
thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ
nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố”.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ nghĩa hoá toàn bộ quan hệ sản
xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát triển chậm. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều bước đường khác nhau. Đó
là cả một quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh
sự dập khuân, máy móc. Lênin đã chỉ ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà người xã hội chủ nghĩa
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống.
Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện
đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý
luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng
đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời gian qua (trước Đại hội
VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản
lý kinh tế. Chính vì vậy mà tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng mọi
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khác
với những năm trước đây, là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế
nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế đó là:
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn
liền với thành phần đó.
– Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người
buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình
thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
và các vùng khác.
Việc thừa nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần cũng có nghĩa là ngoài chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
cho phép những cá nhân được phép sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Sự điều chỉnh này đã
góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, phát huy được tính
năng động, chủ động, sáng tạo của người lao động do nó gắn liền với lợi ích cá nhân của họ – một động lực không nhỏ đối
với sự phát triển xã hội.
Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế, ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa quản lý nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất. Để tăng cường vai trò của tính kế hoạch trong nền
kinh tế quốc dân, Đảng chủ trương đổi mới kế hoạch hoá: “kế hoạch kinh tế quốc dân trong những năm tới phải bảo đảm
thực hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo chương trình mục tiêu.
Các cân đối kế hoạch được xây dựng từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của Trung ương.
Đồng thời với việc điều chỉnh cơ cấu thành phần kinh tế và quản lý kinh tế, Đảng chủ trương tiếp tục điều chỉnh quan hệ
phân phối sản phẩm lao động theo hướng mà Đại hội V đã đề ra. Trong chủ trương lần này Đảng nhấn mạnh: “việc thực
hiện đúng nguyên tắc theo chế độ phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng
đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính bình quân… áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế”(30). Quan hệ phân phối này không những có tác dụng khắc phục được những mặt hạn
chế trong quan hệ phân phối trước đây, như tính ỷ lại, thụ động, dựa dẫm… của người lao động mà nó còn có tác dụng
kích thích người lao động hăng say sản xuất. Do đó, quan hệ phân phối này sẽ tác động tích cực tới việc tăng năng suất
lao động, phát triển sản xuất.
Nếu đánh giá một cách tổng thể về đường lối kinh tế của Đảng ta kể từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng đến nay
có thể thấy có sự khác nhau giữa 2 giai đoạn trước và sau đại hội VI năm 1986. Ở thập kỉ đầu tiên cả nước thống nhất đi
lên CNXH, đường lối kinh tế của Đảng ta có nhiều điểm không hợp lý, không phù hợp với điều kiện, tình hình của nước
ta. Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đưa ra được một đường lối kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó
vừa gắn liền với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa có sự phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện , hoàn
cảnh nước ta. Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao (năm 2004 là 7,7 %), tình hình chính trị
ổn định, quốc phòng an ninh vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện vị thế đất nước ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế…Những thành tựu đó chính là cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Câu 11: Tai sao phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước phát triển mới về tư duy
lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn
minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa tư bản . Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho
mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiém lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của
xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Mô hinh chủ nghĩa xã hội kiểu Xô – viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chưc kinh tế muốn sớm khắc phục những
khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất
văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 tồn tại, chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân
Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xoá bỏ ngay kinh tế hàng hoá, áp dụng ngay cơ chế kinh tế
phi thi trường),không năng động,kịp thời đIều chỉnh khi cần thết cho nên rút cuộc đã không thành công.
Thực ra, khi mói vận dụng học thuyết Mác vào xây dưng chủ nghĩa xã hôI ỏ nuớc Nga sau Cách mạng Tháng
Mười. V.I.Le-nin cung đã từng chủ trương không áp dụng kinh tế thị trường mà thực hiện “ chính sách cộng sản thời chiến
” . Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiên “
chính sách kinh tế mới”(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức
độ cơ chế thị trường. Theo V.I.Le-nin,để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như ở
nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hoá – tền tệ và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đẵ
đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị triến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh
tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng tư tưởng của V.I.Le-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính
sách NEP đã không được tiếp tục thực hiên sau khi Người qua đời.Sự thành công và phát triển mạnh mẽ suốt một thời
gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước bằng mô hình kinh tế dư trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, kế hoach hoá tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường
bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn hơn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
phát triển tuyệt đối hoá,biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hôị chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có
cái gì “ chưa ổn ” , cũng đă đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường
”,… nhưng không được chấp nhận. Vào cuối nhưng năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế khuyết tật của mô hình kinh tế
Xô-viết đã bộc lộ ra rất rõ cộng vói sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơI vào tình trang trì trệ, khung hoảng. Một số người lãnh đạo chủ
chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “ tư
duy chính trị mới ”, họ đã pham sai lầm nghiêm trọng cực đoan phiến diện ( ở đây chưa nói đến sự phản bội lý tưởng xã
hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch ), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở đông Âu vào cuối những
năm 80, dâu những năm 90 của thế kỷ XX dã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hinh kinh tế cưng nhă phi thị trường,
mặc dù những khuyết tật đó không phảI là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị triến tranh tàn phá nặng nề .
Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khat vọng ngàn đồi
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn cực kì hệ trọng,
muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác Viêt Nam cũng áp dụng
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu
được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình
này bộc lộ nhiều khuyết đểm và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những
sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ hanh động đơn giả nóng vội không tôn trọng quy luật khách
quan, nhạn thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội VI của đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ
cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trong việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện
và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đó là một kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ
và công sức của toàn Đảng toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khoa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “ chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ di lên chủ nghĩa xã hội ”. Đến đại hội VII ( tháng 6 năm 1991 ), Đảng
cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nươc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
khẳng định : “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng : “sản xuất
hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Những lúc đó cũng
mới nói nền kinh tế hang hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “ kinh tế thị trường ”. Phải đến đại hội IX của Đảng
(tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định:
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết
thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

CÂU 12 :SO SÁNH ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA ĐẢNG THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI VÀ
SAU ĐỔI MỚI.RÚT RA NHẬN XÉT
A. CNH thời kì trước đổi mới:
I.Mục tiêu và phương hướng CNH: Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng
9-1960) của Đảng. Quá trình CNH của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức
tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống
nhất (1975), cả nước đi lên CNXH được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này
lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa
theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước,
hai giai đoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
1. Trên phạm vi cả nước từ 1975-1985:
- Sau đại thắng của chiến dịch Mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất và tiến hàng quá độ lên CNXH. Đại hội
Đảng lần IV ( 12/1976) trên cơ sở phân tích toàn diện tình hình trong nước và quốc tế, đã đề ra đường lối CNH XHCN:
+ Đẩy mạnh CNH XHCN, xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật, đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản
xuất XHCN.
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết
hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công-nông nghiệp.
+ Vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa
phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
⇨ Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về CNH ở miền Bắc trước đây đồng thời cần phát triển thêm.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần V (3/1982), từ thực tiễn chỉ đạo CNH 5 năm ( 1976-1981)
+ Đảng rút ra nhận xét: từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định bước đi của CNH cho phù
hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặn đường.
+ Đại hội xác định nội dung chính của CNH trong chặn đường trước mắt của thời kì quá độ là:
● Tập trung phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu.
● Tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
● Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông hợp lí.
2. Đánh giá sự thực hiện đường lối CNH:
a. Hạn chế và sai lầm:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng, gắn với
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. 
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa... 
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

b. Về nguyên nhân:
- Về khách quan: chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện
chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
- Về chủ quan: chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật
chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, v.v… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hóa.
B. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì đổi mới:
I.Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa:
1. Đại hội VI của Đảng (12-1986 ) phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá
thời kỳ 1960-1986:
- Trong xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng CSVC – KT, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, v.v… muốn xóa
bỏ những bước đi cần thiết nên đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặc khác chậm đổi mới
cơ cấu kinh tế
- Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu SX và đầu tư, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu CN với NN hợp lý. Kết quả
là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lầnV(3-1982): chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt hàng
đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
2. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ ĐH VI đến ĐH X
- Đại hội VI đề ra chương trình mục tiêu
+Lương thực-thực phẩm,
+ Hàng tiêu dùng
+ Hàng XK
- HNTW 7 (1/1994) nêu lên nhận thức mới về khái niệm CNH- HĐH:(CNH- HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sức phát triển
công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.)
- ĐH VIII (6/1996):
+ Đánh giá sau 10 năm đổi mới nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.
+ Đề ra nhiệm vụ là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước.
- ĐH IX (4/2001) và ĐH X (4/2006) nhấn mạnh một số điểm mới về CNH-HĐH:
+Thời gian CNH: chúng ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đó là con đường vừa tuần
tự, vừa nhảy vọt, kết hợp “đi tắt”, “đón đầu” những công nghệ mới.

+Hướng CNH: phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm; các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
+CNH nông nghiệp, nông thôn: đẩy nhanh và hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Đại hội XI (1-2011): Bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con đường CNH rút ngắn ở nước ta, về
CNH-HDH gắn với kinh tế tri thức; CNH-HDH và phát triển nhanh, bền vững.
II.Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH:
1. Mục Tiêu:
- Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Mức sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh.
- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải được mục tiêu cụ thể, đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển: tạo nền tảng để
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại.
2. Quan điểm:
- Đảng ta đưa ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện CNH-HĐH đất nước trong điều kiện mới từ ĐH VI
(1986) đến ĐH X (2006):
• Một là: CNH phải gắn với HĐH và CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
• Hai là: CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thế giới.
• Ba là: lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
• Bốn là: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH-HĐH.
• Năm là: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưỡng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:
a. Kết quả và ý nghĩa:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật đựơc tăng cường đáng kể
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH
- Góp phần đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
- Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp.
- Nguồn lực của đất nứơc chưa được sử dụng có hiệu quả cao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dich chậm.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
A. SO SÁNH
I.Điểm giống:
1. Nhiệm vụ: công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Mục tiêu: nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, quốc phòng – an ninh vững chắc.
II. Điểm khác:
Tiêu chí Trước đổi mới Sau đổi mới
đánh giá

Lợi thế Dựa vào lao động, tài nguyên, đất đai, Tri thức , khoa học-CN
nguồn viện trợ các nước XHCN Dựa vào yếu tố con người

Cách làm Nóng vội, giản đơn,ham làm nhanh Đề ra chủ trương, kế hoạch định
,không quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội hướng.Quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội.
Phương Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng Ưu tiên phát triển nông nghiệp và
hướng nông thôn, phát triển nhanh hơn các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Mô hình khép kín, hướng nội mở và hội nhập kinh tế quốc tế


kinh tế

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao được tiến hành trong thể chế kinh tế
quản lý cấp. thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ lực nhà nước và các doanh nghiệp nhà toàn dân và thành phần kinh tế xã hội
thực hiện CNH nước

III. Nhận xét:


1. Mặt tích cực:
- Giúp cho người lao động vơi bớt một phần gánh nặng về công việc do có máy móc thiết bị hiện đại trợ giúp.
- Hệ thống giao thông vận tải hiện đại rút ngắn thời gian di chuyển mang đến nhiều lợi ích về kinh tế (hệ thống cầu
đường, đường sắt, sân bay).
- Máy móc hiện đại trợ giúp cho việc khai thác khoáng sản một cách thuận tiện và an toàn hơn ( trong lĩnh vực khai
thác và chế biến dầu khí …)
2. Mặt tiêu cực:
- Nền kinh tế phát triển chưa được vững chắc ( còn phải tiếp nhận viện trợ từ các cường quốc lớn)
- Một số vấn đề VH-XH gây bức xúc chưa được giải quyết (nạn thất nghiệp, mua bằng cấp…); tỉ lệ thất nghiệp còn
cao, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp và 1 số giá trị đạo đức xuống cấp trầm trọng.
- Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
Đảng viên tạo nên một lỗ hỏng lớn về niềm tin của người dân vào Đảng, vào con đường XHCN.
- Đô thị phát triển kéo theo sự xuất hiện một cách ồ ạt các khu công nghiệp, khu chế xuất gây ô nhiễm môi trường
trầm trọng.
- Sự tiếp nhận đầu tư nước ngoài một cách vô tội vạ gây nên sự phẫn nộ từ thiên nhiên, dư luận ( formosa)
Câu 13: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA VĂN HOÁ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN

VỮ NG
CÂU 6: VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN
ĐẠI HOÁDA61T NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
CHƯƠNG I
CÂU 1.Vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn con đường cách mạng vô sản?
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức mới, đó là tìm ra con đường giải
phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong kiến, khuynh hướng tư sản từng bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta
đi lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, đó là
con đường cách mạng vô sản. Vậy, vì sao Bác lại lựa chọn con đường đó?
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới và những
con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bôn ba khắp năm châu, và bước đầu có những
nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của bác). Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa
Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”.
Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích
cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Loài người căm ghét
chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người
đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu
như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng
tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân
dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu
cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vô sản cũng xuất phát từ tình hình của cách mạng nước ta lúc đó, cũng
như từ yêu cầu của cách mạng
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực
dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc
dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc.
Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh
đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng
đất cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất. Con đường giải
phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thôi thúc Người tìm ra con đường đấu tranh mới. Trước sự xâm
lược của thực dân pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh
mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con đường đó
không đáp ứng được yêu cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến
với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng
sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, đất nước vô
bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường cứu nước cao cả, tất cả trở thành động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước, và
bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải
phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam. Và thực tế lịch sử đã
chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh
hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và
kháng chiến chống Mỹ (1975) cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn của
dân tộc và người có vai trò quan trọng nhất trong việc tìm ra và đặt nền tảng cho cách mạng Việt Nam không ai khác, đó
là Nguyễn Ai Quốc – Hồ Chí Minh vĩ đại.
CÂU 2.Sự kiện cụ thể chứng minh sự ra đời của Đảng là tất yếu
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục
con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu
sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó,
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản
do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là
một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời
đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách
mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và
khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm
“Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định,
muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại
trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ
cho cách mạng Việt Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều
kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và
cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1
đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng
Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông
qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng.
2. Vì sao nói sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu?
Tất yếu lịch sử bởi vì:
– Đó là kết quả chín muồi của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trong thời đại lịch sử mới.
– Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
– Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mac-Lenin với phong trào đấu tranh của GCCN và phong trào yêu
nước của nhân dân VN trong đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiện quy luật phổ biến của sự hình thành
chính đảng CM của GCCN (chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào công nhân) vừa thể hiện quy luật đặc thù VN (chủ
nghĩa M-L kết hợp với phong trào CN và phong trào yêu nước VN).
Ý nghĩa ra đời ĐCS Việt Nam:
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản
Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong
trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng
định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời
cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và
sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng
Việt Nam trong suốt 89 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách
mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
ĐCSVN ra đời ngày 3/2/1930 đã đánh dấu 1 bước ngoặt trọng đại của lịch sử CMVN là vì:
– Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc “tưởng chừng không có lối ra” ở VN. Mở ra 1
thời kỳ mới: thời kỳ CMVN đi theo con đường CMVS, sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công
nhân và giải phóng toàn xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
– Kết thúc thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Chứng tỏ giai
cấp công nhân VN đã đến độ trưởng thành đủ sức nắm vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong cách mạng
của mình.
– Mở đầu 1 thời kỳ mới cách mạng Việt Nam, đã có 1 nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất, để liên tục dẩy lên các
cao trào cách mạng, đưa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
CÂU 3. Hãy chỉ ra tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên?
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự thảo được thông qua tại Hội
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau:
MỘT LÀ Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn:
Cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân).
Cách mạng xã hội chủ nghĩa (“ làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản ”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
HAI LÀ, Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc Pháp, vua quan
phong kiến và tư sản phản cách mạng.
Mục tiêu:
- Làm cho nước Việt Nam độc lập.
- Dựng lên chính phủ công nông binh.
- Tổ chức quân đội công nông độc lập .
- Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản cách mạng đem chia cho dân
cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa. Như vậy Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và
chống phong kiến nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
BA LÀ, Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phủ nông, trung, tiêu địa chủ, tự sản Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động
thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng Cách mạng, cô lập tối đa lực lượng kẻ thù. Thành lập một
trận dân tộc thống nhất được sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở công-nông-trí liên minh .
BỐN LÀ, Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được quần
chúng.
Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân cày.
Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họ đấu tranh chống đế quốc
và phong kiến.
NĂM LÀ, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo,
nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn với tư tưởng cốt lõi là Độc lập - Tự do cho
dân tộc.
Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng vô sản do giai cấp công nhân
lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công nông , đồng thời phái đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, trung, tiêu địa chủ, tự san dân
tộc và phú nông, dùng bạo học cách mạng.
Câu 4 : VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp
bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng
đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi
nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong
trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ
lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách
mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách
mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách
mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm
đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách
mạng Việt Nam: "không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động
cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được
nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no
trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ
bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế
kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp
đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những
mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách mạng không ngừng,
cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt,
Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản";
"Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ
vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị
cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"
3. Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù
hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị
lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên
đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng
chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết,
đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu
hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí
Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập"
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân
dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng;
trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân
Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua
đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn
toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên
cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác
định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước,
đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo
cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh
thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội". Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải
nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước
chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử,
khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng
với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai
lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa
chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh
nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên
giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng
sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hoá của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng
xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về
đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù
đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi
du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những
biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư
bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu
xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định
đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí
quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy
nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới
toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ 8 phương hướng cơ bản để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên
không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
CÂU 5. Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “ một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó
là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc , làm cho nước
Việt Nam thành một nước độc lập tự do”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu
cầu khách quan của lịch sử và ý chí , nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
Lực hương cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần
chúng mang tên “ cứu quốc ”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc" theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hoà
dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy
được một phần tham gia giữ chính quyền , phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít
Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế
giới chống phát xít xâm lược”
Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân , lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng
Tháng Tám , một phần ruộng đất của đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu , địa tô dược tuyên bố giảm 25 % , một số nợ lưu
cữu được xoá bỏ.
Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam , xóa bỏ chế độ quân
chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng ”, “chưa
xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho công
nghiệp có điều kiện phát triển mạnh.... quan hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như cũ . Chính vì thế Cách mạng
Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn , hoàn thành một
bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về
mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Ý nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh
đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính
quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám , nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất
nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc
trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và nhân
dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước .
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập
tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc
địa, đã dột phá một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của
chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà còn là chiến công chung
của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng
độc lập tự do của Hồ Chí Minh . Nó chứng tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo
hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính quốc ” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chi quyền . nghĩa Mác - Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin về cách
mạng giải phóng dân tộc.
Kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ
cho nhiệm vụ chống đế quốc
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông , cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi
tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình
thành công của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào
kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của VILênin trong tác phẩm Tổng
kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “ lò lửa khởi nghĩa dân tộc”.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng : Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng , ra sức xây dựng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích
cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp đúng thời
cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị
và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh
cách mạng.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động , sáng tạo
của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc sang trang
mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời,
dù phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của
toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15
năm đấu tranh cách mạng 1930-1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập
nhà nước dân chủ nhân dân.
CHƯƠNG 2:
CÂU 6. Vì sao nói Cách mạng Tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân reo sợi tóc”?
Khó khăn là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “ chia lại hệ thống thuộc địa thế giới ",
ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới , trong để có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình , các
nước lớn , không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc , bị bao vây tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài .
Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung , cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi , khó khăn,
thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu
kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề , sự tàn phá của nạn lũ lụt , nạn đói năm 1945 rất nghiêm
trọng . Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông
nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu,
thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945
làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống
trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945 , quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít tinh
mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trì, sử dụng đội quân Nhật giúp
sức quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn ( Nam Bộ ) vào rạng sáng ngày 23-9-1945 ,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam ( Đức ) , từ cuối tháng 8-1945 , hơn 20 vạn quân đội của
Tưởng Giới Thạch ( Trung Hoa dân quốc ) tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với
danh nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm
mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật
Hoàng thua trận chưa được giải giáp.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “ như ngàn cân
treo sợi tóc ”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
CÂU 7. Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết quả của
cuộc chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách
mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân , tiến
hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân, động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ , mỗi
làng xã là một pháo đài , mỗi đường phố là một mặt trận ”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết
định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân
dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh
tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng không
có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ , chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy vọt về chất,
thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cung.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức
mạnh vật chất, tinh thần vốn có của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân
dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế khi
có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn đúng đắn , trở thành ngọn cờ
dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ , hưởng ứng
trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
CÂU 8. Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng
hai miền Nam – Bắc.
Tháng 9-1960 , Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc,
Hồ Chí Minh nêu rõ: “ Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất
nước nhà”.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị
quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,....
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta . Đại hội xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng , cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau , có mục tiêu cụ thể riêng , song trước mặt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam,
hòa bình, thống nhất đất nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền
Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà , hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương ( hay phương châm ) kiên quyết giữ vững đường lối hòa
bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của
nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình
thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên
quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ
thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc
nhất định sum họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội
xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt . Đó là quá
trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể
về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhô
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn
dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và
củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Song thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược
chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây
dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và
hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng,
làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
Trong tổng số các đại biểu tham dự Đại hội có 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia cách mạng từ khi Đảng
còn hoạt động bí mật, tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, nhiều đại biểu là anh hùng và
chiến sĩ thi đua, là đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học... Gần 20 đoàn đại biểu quốc
tế, đại biểu của Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng tới dự Đại hội.
Đồng chí Hồ Chí Minh - Chủ tịch Đảng đọc lời khai mạc Đại hội. Người nói, lịch sử 30 năm đấu tranh của Đảng đã
dạy cho chúng ta rằng: “Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của
dân tộc; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng cộng sản, giữa các nước trong đại
gia đình xã hội chủ nghĩa, đó là các bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi”. Người khẳng định: “Đại hội lần
này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Người nhắc lại ý chí
sắt đá giải phóng miền Nam của nhân dân cả nước ta: “Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước
ta, chưa giải phóng được miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ-Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ
yên”, và nhấn mạnh “Miền Bắc giàu mạnh là cơ sở vững chắc của cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Để bảo đảm
thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là “phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát
huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác. Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ
chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt
đẹp. Nhưng chúng ta còn khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan
liêu, chủ nghĩa cá nhân… chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng,
đấu tranh khắc phục khuyết điểm… Phải nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng, tăng cường không
ngừng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu nước và tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn đọc; Báo cáo về sửa đổi
Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ đọc; Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng
chí Nguyễn Duy Trinh đọc và nhiều tham luận khác.
Báo cáo chính trị đã kiểm điểm lại sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội lần thứ II đến Đại hội lần thứ III, đặc biệt là
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Báo cáo khẳng định “cuộc kháng chiến trường kỳ trường kỳ của nhân dân ta
kết thúc thắng lợi. Thắng lợi đó đã chứng tỏ rằng trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một
khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng Mác-Lênin để giành độc lập và dân chủ,
thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của
giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể tạo
điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền, có hai chế độ khác nhau, Báo cáo xác định: “Nhiệm vụ
cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa
bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á
và thế giới”.

Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song trước mắt đều có một
mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Để giải quyết mâu thuẫn chung, mỗi miền Nam, Bắc, có nhiệm vụ chiến lược
riêng và giữ những vị trí khác nhau: Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”. Cách mạng
miền Nam “có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước”.
Báo cáo chính trị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Vì vậy, “nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống
trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện
độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới”.
Báo cáo chính trị đã phân tích một cách sâu sắc về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chủ yếu dự trên cơ sở sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế
tư bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi cho nên “công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải
biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế phân tán và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm
cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”. Tuy có
điểm xuất phát rất thấp nhưng miền Bắc có thuận lợi cơ bản là chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới và ngày
càng lớn mạnh. Tình hình đó đảm bảo cho miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Trong điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt làm hai miền, thì sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc phải biến miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quá trình
cải biến cách mạng ở miền Bắc là quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay gắt,
phức tạp giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hoá, xã hội.
Trên cơ sở những phân tích đúng đắn, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là “đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng,
lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng
đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở
miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình Đông Nam Á và thế giới”.
“Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản
để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư
bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật, biến
nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá khoa học tiên tiến”.
Muốn cải tạo nền kinh tế lạc hậu ở nước ta, không còn con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc doanh.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực
quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công cộng, xây dựng đời
sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
Các nhiệm vụ đó liên hệ mật thiết với nhau.
Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân củng cố sự nhất trí về chính trị của
nhân dân, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Đảng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Đại hội đã rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu của cách mạng nước ta trong 30
năm qua. Đó là:
- Xây dựng Đảng Mác-Lênin đoàn kết nhất trí, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo
cách mạng.
- Có đường lối, phương châm cách mạng đúng đắn, kết hợp nhiệm vụ chống đế quốc và bè lũ tay sai là nhiệm vụ
chủ yếu nhất và nhiệm vụ chống phong kiến phải tiến hành từng bước, kết hợp với nhiệm vụ chống đế quốc.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, thực hiện khối liên minh công nông vững chắc.
- Dựa trên cơ sở khối liên minh công nông vững mạnh, tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ thành một mặt
trận thống nhất rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ bản, phối hợp hoạt động hợp pháp và hoạt động
không hợp pháp, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị.
- Tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân.
- Nắm vững phương hướng chiến lược lợi dụng những mâu thuẫn cục bộ và tạm thời trong nội bộ kẻ thù để phân
hoá chúng, trung lập những lực lượng có thể trung lập, cô lập triệt để bọn nguy hiểm nhất.
- Tăng cường đoàn kết quốc tế.
Kinh nghiệm cách mạng được tổng kết đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố cơ bản quyến định mọi thắng
lợi của nhân dân ta. Để cho Đảng làm tròn sứ mệnh, vấn đề mấu chốt là phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng tức là “phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng,… củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn
Đảng, phải cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao không ngừng trình độ hiểu biết và năng lực công tác của
cán bộ đảng viên”.
Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng. Báo cáo chỉ rõ: trong tình hình mới, yêu cầu cơ bản của
việc xây dựng Đảng là phải giữ vững và nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng để nâng cao sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng; phải nâng cao trình độ lý luận và tư tưởng trong Đảng, mở rộng dân chủ và tăng
cường tập trung trong sinh hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở phê bình và tự phê bình. Báo
cáo sửa đổi Điều lệ đặc biệt nhấn mạnh vấn đề về đảng viên, coi đó là một trong những vấn đề quyết định chất lượng và
sức chiến đấu của Đảng.
Trong hơn 5 ngày làm việc, Đại hội đã thảo luận sôi nổi và hoàn toàn tán thành Báo cáo chính trị và các báo cáo
khác của Ban Chấp hành Trung ương. Những vấn đề Đại hội thảo luận và thông qua có tầm quan trọng quyết định phương
hướng nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí
Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.
Ngày 10-9/1960, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới;
Thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn bế mạc Đại hội.
Câu 9: Paris vừa đánh vừa đàm
Hội nghị Pari về Việt Nam là cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở
Thủ đô nước Pháp bắt đầu từ ngày 13-5-1968 và kết thúc vào ngày 27-1-1973. Trong gần 5 năm, khoảng thời gian dài
chưa từng thấy của lịch sử đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1000
cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh ngoại giao của nhân dân Việt Nam ở Pari đã
thực sự góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Khác với Hội nghị quốc tế Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, Hội nghị Pari là một cuộc đàm phán tay đôi do Việt
Nam thắng lớn và chủ động đề xướng. Còn Mỹ, bị thất bại nặng nề buộc không thể không chấp nhận thương lượng để tìm
một lối thoát danh dự. Mỹ phải coi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một bên đối thoại trực tiếp và bình đẳng để giải quyết
mọi vấn đề của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuộc đàm phán Pari mở ra cục diện“vừa đánh, vừa đàm”, phản ánh một giai
đoạn chiến đấu cực kỳ gay go, quyết liệt giữa Việt Nam và Mỹ. Đây cũng là đỉnh cao của sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng
cả 3 mặt trận, quân sự, chính trị và ngoại giao; giữa cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Nam trên chiến trường với cuộc
đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế.
“Vừa đánh, vừa đàm” là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đó là nghệ thuật kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, tạo sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù
xâm lược trên cả chiến trường và tại bàn đàm phán. Nghệ thuật “đánh” và “đàm” đã phát triển, mở rộng lên tầm quốc gia,
dân tộc và quốc tế. Trong kháng chiến chống Pháp, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân Pháp bị thất bại, Chính phủ Pháp
phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, nghệ thuật “đánh” và “đàm” được phát triển lên đỉnh cao, trở thành hoạt động song hành -
“vừa đánh, vừa đàm”; “đánh” tạo thế cho “đàm”, “đàm” khích lệ để tiếp tục “đánh”. Nghệ thuật đó được tiến hành một
cách chủ động trong suốt cuộc chiến tranh và kết hợp rất chặt chẽ, nhịp nhàng, khôn khéo, đồng thời cũng vô cùng quyết
liệt; tạo sức mạnh tổng hợp to lớn đánh bại đội quân “lắm súng nhiều tiền” Mỹ cùng đồng minh của chúng trên chiến
trường và tại bàn đàm phán.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc, tại miền Nam, đế quốc Mỹ đã vội vàng dựng lên Chính quyền
Bù nhìn Ngô Đình Diệm để thực hiện ý đồ đen tối của mình. Mỹ đã viện trợ và hỗ trợ cho ngụy quyền Sài Gòn thẳng tay
đàn áp, khủng bố những người yêu nước. Các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” liên tục được diễn ra trên toàn miền Nam;
đặc biệt, đạo luật phát xít - Luật 10/59 đã giết hại hàng loạt người dân vô tội. Cùng với đó, Mỹ không ngừng tăng viện trợ,
đưa cố vấn quân sự sang với ý đồ bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Trước tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định:
đánh đổ chế độ Mỹ Ngụy, giải phóng miền Nam là nhiệm vụ chung, vì lợi ích và yêu cầu của nhân dân cả nước. Thực
hiện chủ trương này, một mặt ta phát triển mạnh mẽ cách mạng miền Nam; mặt khác, đẩy mạnh mặt trận ngoại giao để
đấu tranh với địch. Theo đó, hoạt động đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang được đẩy mạnh, phong trào
Đồng khởi ở nông thôn đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đòi dân chủ, hòa bình ở Sài Gòn và các thành phố lớn. Đặc biệt,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng
phái,… để đấu tranh với ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn. Trên mặt trận ngoại giao, ta gửi công hàm
tới Ủy Ban Quốc tế để tố cáo những hành động vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ của Mỹ Ngụy, tuyên bố Mỹ can thiệp và
xâm lược miền Nam Việt Nam, đồng thời tăng cường vận động dư luận trong và ngoài nước,… ủng hộ Việt Nam. Các
hoạt động đó đã làm dư luận cực lực phản đối, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Ủy ban Đoàn kết Á Phi, Hội đồng Hòa bình thế
giới, Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế nhiều lần đòi Mỹ chấm dứt can thiệp quân sự ở miền Nam.
Như vậy, ngay từ đầu cuộc chiến tranh, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại
giao, phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh to lớn cho cuộc kháng chiến. Nhưng với
bản chất hiếu chiến, đế quốc Mỹ tiến hành bước leo thang mới, mở rộng chiến tranh ra cả nước ta. Đầu năm 1965, chúng
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, đưa quân viễn chinh Mỹ và đồng minh vào miền Nam, thực hiện các
chiến lược: “tìm diệt”, “bình định”, v.v. Trước tình hình đó, Đảng ta khẳng định: “Chúng ta chỉ có thể giành được thắng
lợi trên bàn đàm phán những gì mà chúng ta giành được trên chiến trường”1. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học, với
tầm nhìn chiến lược, Bộ Thống soái đã chủ động tổ chức những đòn đánh quân sự, từng bước tiêu hao, tiêu diệt sinh lực,
đẩy chúng vào thế bị động, buộc phải xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàn phán. Thực tiễn đã chứng minh, bằng sức
mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, biết tập trung lực lượng hơn hẳn địch trên từng hướng chiến lược, từng chiến
dịch, tại chiến trường chính miền Nam, quân và dân ta liên tiếp giáng cho Mỹ hai đòn thảm bại trong mùa khô 1965 -
1966 và 1966 - 1967. Trên chiến trường miền Bắc, chỉ tính từ ngày 07-02-1965 đến ngày 01-11-1968 ta đã bắn rơi 3.243
máy bay Mỹ. Đặc biệt, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 - cú “sét vang trời” làm chấn động toàn cầu,
giới cầm quyền Mỹ choáng váng.
Thắng lợi đó đã tạo bước đột biến cho cuộc chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương ngừng đánh phá miền
Bắc (từ vĩ tuyến 20 trở ra) và chấp nhận đàm phán. Theo đó, ngày 13-5-1968, Hội nghị bàn về vấn đề chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã chính thức khai mạc tại Pa-ri. Bằng lập trường đấu tranh cương quyết, có lý, có tình
ta đã buộc Hoa Kỳ phải chấp nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia
đàm phán. Mặt trận đã liên tục tiến công thông qua việc đưa ra lập trường năm điểm (được xem như một tuyên bố chính
trị), bốn tháng sau lại đưa ra giải pháp mười điểm về vấn đề miền Nam Việt Nam đòi Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam.
Để tạo áp lực trên bàn đàm phán, Hoa Kỳ gia tăng viện trợ quân sự cho chính quyền ngụy, đẩy mạnh chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” - lấy sức mạnh của súng đạn để buộc ta phải chấp nhận những điều khoản do chúng đưa ra. Để đáp
lại, tại chiến trường, mặc dù bị tổn thất trong năm 1968, nhưng với sự nỗ lực của toàn dân tộc, thế và lực của cách mạng
miền Nam từng bước được phục hồi, thậm chí cả vào những thời đoạn khó khăn, hiểm nghèo nhất (1969 - 1970) quân và
dân ta vẫn tiến hành các chiến dịch, như: Đắc Tô 2, Long Khánh, Búp Răng - Đức Lập, Phước Bình - Bù Đốp,… gây cho
chúng nhiều thiệt hại. Đặc biệt, năm 1971, tại Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, ta đánh bại cuộc Hành quân
Lam Sơn 719 - con át chủ bài trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Thắng lợi về quân sự đó tiếp tục hậu
thuẫn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra các giải pháp: Tám điểm (ngày 14-9-1970),
Bảy điểm (ngày 01-7-1971) và sau đó là Hai điểm nói rõ thêm trong Giải pháp Bảy điểm, nhằm khẳng định lập trường
nhất quán của Việt Nam là: Mỹ phải rút toàn bộ quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, thành lập ở miền Nam Việt Nam
một chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần để tiến tới tổng tuyển cử.
Thắng lợi trên chiến trường cùng với thiện chí của ta trên bàn đàm phán đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của
nhân dân tiến bộ trên thế giới. Phong trào phản đối, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, ngày
càng lan rộng trên toàn thế giới. Không thể làm ngơ trước sức ép dư luận gia tăng mỗi ngày, Mỹ phải từ bỏ yêu sách đòi ta
rút quân khỏi miền Nam và chấp nhận: từ tháng 7-1970 sẽ rút dần quân chiến đấu Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền
Nam Việt Nam. Như vậy, đấu tranh ngoại giao không chỉ là khuyếch trương thắng lợi trên chiến trường, củng cố ý chí,
niềm tin cho nhân dân và bạn bè quốc tế, mà còn lay động mạnh mẽ đến tinh thần, ý chí xâm lược của Mỹ. Nắm chắc thời
cơ thuận lợi đó, để tạo nên thắng lợi quyết định, năm 1972 ta mở nhiều chiến dịch lớn: Trị - Thiên, Nguyễn Huệ, Bắc Tây
Nguyên, Bắc Bình Định, v.v. Kết quả, ta giành thắng lợi to lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 vạn sinh lực cùng một số
lượng lớn vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại của địch; giải phóng một vùng rộng lớn, liên hoàn từ Trị - Thiên, Khu
5 vào đến Đồng bằng sông Cửu Long; làm thay đổi so sánh lực lượng, tạo ra yếu tố đủ cả về thế, thời và lực để kết thúc
chiến tranh.
Phát huy chiến quả trên mặt trận quân sự, ta xác định: mặt trận ngoại giao lúc này có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả
chiến cục năm 1972 cũng như toàn bộ cuộc chiến tranh nên đã đẩy mạnh thành “cuộc chiến không tiếng súng”. Ngày
08-10-1972, phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa cho phía Mỹ bản Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam”. Trên thế mạnh áp đảo, ta đã buộc phía Mỹ phải thừa nhận: văn bản của Hiệp định bây giờ có
thể xem như đã hoàn thành và thỏa thuận đến ngày 31-10-1972 sẽ ký. Như vậy, quan hệ tương hỗ với nhau giữa quân sự
và ngoại giao một lần nữa thể hiện đậm nét nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” của ta ở chính giai đoạn cuối của đàm phán,
đi những nước cờ quyết định.
Nét đặc sắc của nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” còn được tiến hành một cách kiên quyết khi Mỹ lật lọng tại bàn
đàm phán để dùng “miếng võ” cuối cùng là đánh đòn tập kích đường không chiến lược cuối năm 1972, hòng hủy diệt Hà
Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, nhằm cứu vãn tình thế và cũng là ép ta bằng sức mạnh quân sự trên bàn đàm phán.
Bằng tất cả tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường và trí tuệ sáng tạo, quân và dân Thủ đô đã lập nên kỳ tích “Điện Biên
Phủ trên bầu trời Hà Nội”, gây chấn động tinh thần giới cầm quyền Nhà Trắng; làm xao động nước Mỹ và thế giới. Không
thể chịu đựng hơn được nữa, ngày 29-12-1972, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20, chấp nhận
đàm phán với ta và chính thức ký Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày
27-01-1973. Sách lược “vừa đánh, vừa đàm” của ta đã thành công.
Tuy vậy, Mỹ vẫn mưu toan duy trì chế độ tay sai ở miền Nam, viện trợ cho quân đội ngụy liên tục tiến hành các
hoạt động đánh chiếm, mở rộng vùng lấn chiếm, đóng thêm đồn bốt, v.v. Với ta, theo phương châm giương cao ngọn cờ
độc lập, hòa bình, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định (ngừng bắn, trao trả tù binh,…), đồng thời liên tục đấu tranh vạch ra
những vi phạm của Mỹ ngụy trên trường quốc tế, đòi chúng phải thực hiện Hiệp định. Nhưng, chúng vẫn ngoan cố, tiếp
tục lấn chiếm, bình định, khủng bố nhân dân. Vì vậy, không còn con đường nào khác là phải tiêu diệt ngụy quân, xóa bỏ
ngụy quyền, giải phóng miền Nam. Bằng sức mạnh tổng hợp của cả nước ta liên tục tổ chức những chiến dịch quân sự
lớn, phá tan từng mảng trong hệ thống Chính quyền Sài Gòn, tiến hành Tổng tiến công và nổi dậy vào mùa Xuân năm
1975, đập tan chế độ ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong quá trình đó, để hỗ trợ cho
mặt trận quân sự, trên mặt trận ngoại giao ta tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc,… và của nhân dân
thế giới trong đó có nhân dân Mỹ, gây sức ép về dư luận, buộc Mỹ không dám dính líu trở lại Việt Nam, cô lập ngụy, tạo
điều kiện thuận lợi cho các đòn đánh quân sự giành thắng lợi quyết định.
Như vậy, nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được tiến hành một cách
chủ động, sáng tạo; đồng thời, yếu tố “đánh” và “đàm” được kết hợp rất chặt chẽ, nhuần nhuyễn trong từng giai đoạn của
cuộc chiến tranh, trên từng mặt trận, hỗ trợ; tác động lẫn nhau tạo nên sức mạnh to lớn đánh thắng kẻ thù. Nghệ thuật độc
đáo đó cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng linh hoạt vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Câu 10: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm về đổi mới kinh tế
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi
lớn: đất nước thoát khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có những
chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên
thực tế, các chủ trương, chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được những yêu
cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất).
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan
trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình
trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất và phát triển trên phạm vi cả nước…”.
Đồng thời với việc tổ chức lại nền sản xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm
chính. Kế hoạch hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán
kinh tế; sử dụng tốt thị trường;… Nếu so sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại hội III, thì tới Đại hội IV lần
này công tác này đã có những bước chuyển biến nhất định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế hoạch hoá không còn được
nhấn mạnh là “pháp lệnh” như tại Đại hội III, mà đã chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ
sở.
Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra Đại hội VI năm 1986. Đảng
nghiêm khắc đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa
nắm vững và vận dụng đúng quy luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại hội VI là: “Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách quan… Tiêu chuẩn đánh giá sự vận
dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông
thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ
nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố”.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ nghĩa hoá toàn bộ quan hệ sản
xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát triển chậm. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều bước đường khác nhau. Đó
là cả một quá trình tìm tòi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm từ thực tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh
sự dập khuân, máy móc. Lênin đã chỉ ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà người xã hội chủ nghĩa
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống.
Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng đã đề ra chủ trương thực hiện
đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý
luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng
đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”.
Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời gian qua (trước Đại hội
VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản
lý kinh tế. Chính vì vậy mà tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải phóng mọi
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khác
với những năm trước đây, là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế
nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế đó là:
– Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn
liền với thành phần đó.
– Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người
buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình
thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
và các vùng khác.
Việc thừa nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần cũng có nghĩa là ngoài chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
cho phép những cá nhân được phép sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Sự điều chỉnh này đã
góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, phát huy được tính
năng động, chủ động, sáng tạo của người lao động do nó gắn liền với lợi ích cá nhân của họ – một động lực không nhỏ đối
với sự phát triển xã hội.
Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế, ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa quản lý nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất. Để tăng cường vai trò của tính kế hoạch trong nền
kinh tế quốc dân, Đảng chủ trương đổi mới kế hoạch hoá: “kế hoạch kinh tế quốc dân trong những năm tới phải bảo đảm
thực hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo chương trình mục tiêu.
Các cân đối kế hoạch được xây dựng từ cơ sở và tổng hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của Trung ương.
Đồng thời với việc điều chỉnh cơ cấu thành phần kinh tế và quản lý kinh tế, Đảng chủ trương tiếp tục điều chỉnh quan hệ
phân phối sản phẩm lao động theo hướng mà Đại hội V đã đề ra. Trong chủ trương lần này Đảng nhấn mạnh: “việc thực
hiện đúng nguyên tắc theo chế độ phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng
đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính bình quân… áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế”(30). Quan hệ phân phối này không những có tác dụng khắc phục được những mặt hạn
chế trong quan hệ phân phối trước đây, như tính ỷ lại, thụ động, dựa dẫm… của người lao động mà nó còn có tác dụng
kích thích người lao động hăng say sản xuất. Do đó, quan hệ phân phối này sẽ tác động tích cực tới việc tăng năng suất
lao động, phát triển sản xuất.
Nếu đánh giá một cách tổng thể về đường lối kinh tế của Đảng ta kể từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng đến nay
có thể thấy có sự khác nhau giữa 2 giai đoạn trước và sau đại hội VI năm 1986. Ở thập kỉ đầu tiên cả nước thống nhất đi
lên CNXH, đường lối kinh tế của Đảng ta có nhiều điểm không hợp lý, không phù hợp với điều kiện, tình hình của nước
ta. Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986), Đảng ta đã đưa ra được một đường lối kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó
vừa gắn liền với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa có sự phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện , hoàn
cảnh nước ta. Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao (năm 2004 là 7,7 %), tình hình chính trị
ổn định, quốc phòng an ninh vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện vị thế đất nước ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế…Những thành tựu đó chính là cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Câu 11: Tai sao phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước phát triển mới về tư duy
lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn
minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của chủ nghĩa tư bản . Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho
mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiém lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của
xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Mô hinh chủ nghĩa xã hội kiểu Xô – viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chưc kinh tế muốn sớm khắc phục những
khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất
văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 tồn tại, chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân
Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xoá bỏ ngay kinh tế hàng hoá, áp dụng ngay cơ chế kinh tế
phi thi trường),không năng động,kịp thời đIều chỉnh khi cần thết cho nên rút cuộc đã không thành công.
Thực ra, khi mói vận dụng học thuyết Mác vào xây dưng chủ nghĩa xã hôI ỏ nuớc Nga sau Cách mạng Tháng
Mười. V.I.Le-nin cung đã từng chủ trương không áp dụng kinh tế thị trường mà thực hiện “ chính sách cộng sản thời chiến
” . Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiên “
chính sách kinh tế mới”(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức
độ cơ chế thị trường. Theo V.I.Le-nin,để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như ở
nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hoá – tền tệ và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đẵ
đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị triến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh
tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng tư tưởng của V.I.Le-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính
sách NEP đã không được tiếp tục thực hiên sau khi Người qua đời.Sự thành công và phát triển mạnh mẽ suốt một thời
gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước bằng mô hình kinh tế dư trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, kế hoach hoá tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường
bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn hơn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
phát triển tuyệt đối hoá,biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hôị chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có
cái gì “ chưa ổn ” , cũng đă đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường
”,… nhưng không được chấp nhận. Vào cuối nhưng năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế khuyết tật của mô hình kinh tế
Xô-viết đã bộc lộ ra rất rõ cộng vói sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơI vào tình trang trì trệ, khung hoảng. Một số người lãnh đạo chủ
chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “ tư
duy chính trị mới ”, họ đã pham sai lầm nghiêm trọng cực đoan phiến diện ( ở đây chưa nói đến sự phản bội lý tưởng xã
hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch ), dẫn tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở đông Âu vào cuối những
năm 80, dâu những năm 90 của thế kỷ XX dã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hinh kinh tế cưng nhă phi thị trường,
mặc dù những khuyết tật đó không phảI là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị triến tranh tàn phá nặng nề .
Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khat vọng ngàn đồi
thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn cực kì hệ trọng,
muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác Viêt Nam cũng áp dụng
mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu
được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình
này bộc lộ nhiều khuyết đểm và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những
sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ hanh động đơn giả nóng vội không tôn trọng quy luật khách
quan, nhạn thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đại hội VI của đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực
hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ
cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trong việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện
và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đó là một kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ
và công sức của toàn Đảng toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khoa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế
hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “ chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ di lên chủ nghĩa xã hội ”. Đến đại hội VII ( tháng 6 năm 1991 ), Đảng
cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nươc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
khẳng định : “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng : “sản xuất
hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Những lúc đó cũng
mới nói nền kinh tế hang hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “ kinh tế thị trường ”. Phải đến đại hội IX của Đảng
(tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định:
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết
thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

CÂU 12 :SO SÁNH ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA ĐẢNG THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI VÀ
SAU ĐỔI MỚI.RÚT RA NHẬN XÉT
A. CNH thời kì trước đổi mới:
I.Mục tiêu và phương hướng CNH: Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng
9-1960) của Đảng. Quá trình CNH của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến phức
tạp và không thuận chiều. Thực hiện công nghiệp hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc. Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế, miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống
nhất (1975), cả nước đi lên CNXH được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này
lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ. Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa
theo 2 giai đoạn: từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước,
hai giai đoạn này có mục tiêu, phương hướng rõ rệt.
1. Trên phạm vi cả nước từ 1975-1985:
- Sau đại thắng của chiến dịch Mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất và tiến hàng quá độ lên CNXH. Đại hội
Đảng lần IV ( 12/1976) trên cơ sở phân tích toàn diện tình hình trong nước và quốc tế, đã đề ra đường lối CNH XHCN:
+ Đẩy mạnh CNH XHCN, xây dựng cơ sở vật chất- kĩ thuật, đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản
xuất XHCN.
+ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết
hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp trong cả nước thành một cơ cấu công-nông nghiệp.
+ Vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương và kinh tế địa
phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
⇨ Đường lối này nhất trí với những nhận thức cơ bản về CNH ở miền Bắc trước đây đồng thời cần phát triển thêm.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần V (3/1982), từ thực tiễn chỉ đạo CNH 5 năm ( 1976-1981)
+ Đảng rút ra nhận xét: từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định bước đi của CNH cho phù
hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặn đường.
+ Đại hội xác định nội dung chính của CNH trong chặn đường trước mắt của thời kì quá độ là:
● Tập trung phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu.
● Tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
● Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông hợp lí.
2. Đánh giá sự thực hiện đường lối CNH:
a. Hạn chế và sai lầm:
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng, gắn với
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. 
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa... 
- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

b. Về nguyên nhân:
- Về khách quan: chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện
chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
- Về chủ quan: chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật
chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, v.v… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí trong nhận thức
và chủ trương công nghiệp hóa.
B. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kì đổi mới:
I.Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa:
1. Đại hội VI của Đảng (12-1986 ) phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hoá
thời kỳ 1960-1986:
- Trong xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng CSVC – KT, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, v.v… muốn xóa
bỏ những bước đi cần thiết nên đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặc khác chậm đổi mới
cơ cấu kinh tế
- Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu SX và đầu tư, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu CN với NN hợp lý. Kết quả
là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội lầnV(3-1982): chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt hàng
đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
2. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ ĐH VI đến ĐH X
- Đại hội VI đề ra chương trình mục tiêu
+Lương thực-thực phẩm,
+ Hàng tiêu dùng
+ Hàng XK
- HNTW 7 (1/1994) nêu lên nhận thức mới về khái niệm CNH- HĐH:(CNH- HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sức phát triển
công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.)
- ĐH VIII (6/1996):
+ Đánh giá sau 10 năm đổi mới nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội.
+ Đề ra nhiệm vụ là chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước.
- ĐH IX (4/2001) và ĐH X (4/2006) nhấn mạnh một số điểm mới về CNH-HĐH:
+Thời gian CNH: chúng ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đó là con đường vừa tuần
tự, vừa nhảy vọt, kết hợp “đi tắt”, “đón đầu” những công nghệ mới.

+Hướng CNH: phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm; các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu.
+CNH nông nghiệp, nông thôn: đẩy nhanh và hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Đại hội XI (1-2011): Bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về mục tiêu, con đường CNH rút ngắn ở nước ta, về
CNH-HDH gắn với kinh tế tri thức; CNH-HDH và phát triển nhanh, bền vững.
II.Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH:
1. Mục Tiêu:
- Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiên đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Mức sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh.
- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải được mục tiêu cụ thể, đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển: tạo nền tảng để
đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại.
2. Quan điểm:
- Đảng ta đưa ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện CNH-HĐH đất nước trong điều kiện mới từ ĐH VI
(1986) đến ĐH X (2006):
• Một là: CNH phải gắn với HĐH và CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
• Hai là: CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thế giới.
• Ba là: lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
• Bốn là: khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH-HĐH.
• Năm là: phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưỡng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân:
a. Kết quả và ý nghĩa:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật đựơc tăng cường đáng kể
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH
- Góp phần đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao.
b. Hạn chế và nguyên nhân:
- Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp.
- Nguồn lực của đất nứơc chưa được sử dụng có hiệu quả cao.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dich chậm.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
A. SO SÁNH
I.Điểm giống:
1. Nhiệm vụ: công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Mục tiêu: nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, quốc phòng – an ninh vững chắc.
II. Điểm khác:
Tiêu chí Trước đổi mới Sau đổi mới
đánh giá

Lợi thế Dựa vào lao động, tài nguyên, đất đai, Tri thức , khoa học-CN
nguồn viện trợ các nước XHCN Dựa vào yếu tố con người

Cách làm Nóng vội, giản đơn,ham làm nhanh Đề ra chủ trương, kế hoạch định
,không quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội hướng.Quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội.

Phương Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng Ưu tiên phát triển nông nghiệp và
hướng nông thôn, phát triển nhanh hơn các ngành
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Mô hình khép kín, hướng nội mở và hội nhập kinh tế quốc tế


kinh tế

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao được tiến hành trong thể chế kinh tế
quản lý cấp. thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ lực nhà nước và các doanh nghiệp nhà toàn dân và thành phần kinh tế xã hội
thực hiện CNH nước

III. Nhận xét:


1. Mặt tích cực:
- Giúp cho người lao động vơi bớt một phần gánh nặng về công việc do có máy móc thiết bị hiện đại trợ giúp.
- Hệ thống giao thông vận tải hiện đại rút ngắn thời gian di chuyển mang đến nhiều lợi ích về kinh tế (hệ thống cầu
đường, đường sắt, sân bay).
- Máy móc hiện đại trợ giúp cho việc khai thác khoáng sản một cách thuận tiện và an toàn hơn ( trong lĩnh vực khai
thác và chế biến dầu khí …)
2. Mặt tiêu cực:
- Nền kinh tế phát triển chưa được vững chắc ( còn phải tiếp nhận viện trợ từ các cường quốc lớn)
- Một số vấn đề VH-XH gây bức xúc chưa được giải quyết (nạn thất nghiệp, mua bằng cấp…); tỉ lệ thất nghiệp còn
cao, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp và 1 số giá trị đạo đức xuống cấp trầm trọng.
- Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
Đảng viên tạo nên một lỗ hỏng lớn về niềm tin của người dân vào Đảng, vào con đường XHCN.
- Đô thị phát triển kéo theo sự xuất hiện một cách ồ ạt các khu công nghiệp, khu chế xuất gây ô nhiễm môi trường
trầm trọng.
- Sự tiếp nhận đầu tư nước ngoài một cách vô tội vạ gây nên sự phẫn nộ từ thiên nhiên, dư luận ( formosa)
Câu 13: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA VĂN HOÁ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN
vữngvững
CÂU 6: VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI
HOÁ DA61T NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
-

You might also like