You are on page 1of 64

Phần 1.

Khởi nghĩa trước Cách mạng tháng 8 (trình bày kiến thức lịch sử)
Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản

Bác chọn con đường cách mạng vô sản vì lúc bấy giờ Chủ nghĩa vô sản là con đường duy nhất có đề cập tới giải
phóng các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Châu Mĩ có nhiều học thuyết nhưng theo bác Hồ lúc ấy giờ học
thuyết của Lênin là học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất và là học thuyết duy nhất lúc đó có đề cập tới chuyện
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - thời kỳ của những biến động lịch sử sâu sắc
Vào những năm đầu thế kỷ XX, đây là thời gian cả dân tộc phải sống trong cảnh tối tăm nô lệ, nhân dân bị đè nén bởi
hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Chính vì thế mà hai mâu thuẫn cơ bản
nhất: mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam với bên kia là thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa
nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân với giai cấp phong kiến địa chủ ngày càng trở nên gay gắt.
Trong bối cảnh đó, nảy sinh một yêu cầu cấp bách: để giải quyết hai mâu thuẫn trên, cách mạng Việt Nam phải đi theo
con đường nào? Phải chọn con đường nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do đích thực. lực lượng nào có thể lãnh
đạo để đưa công cuộc giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi? Lịch sử đặt ra nhu cầu bức thiết phải có một hệ tư tưởng
mới, một đường lối mới đủ sức soi sáng, dẫn dắt con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc đi tới thành công.

Trên thực tế các phong trào đấu tranh này đã khiến thực dân Pháp không thể thực hiện được âm mưu đánh nhanh
thắng nhanh, nhưng cuối cùng đều lần lượt thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn: Từ phong trào
Cần Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,
Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và rất nhiều các cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến
đợt khác nhưng tất cả đều thất bại.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các phong trào đó là do những nhà yêu nước cách mạng
- những người đứng đầu đã không nhận thức được đúng và đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử nước ta vào đầu
thế kỷ XX, không phân tích một cách toàn diện những biến động của xã hội Việt Nam cũng như thế giới vào thời điểm
bản lề của lịch sử: giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá lỗi thời, còn giai cấp tư sản
với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất lực, không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước của dân tộc mình với
cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung cảnh ngộ bị áp bức, bóc lột và nô dịch.
Nhận thức và quyết định hướng đi đúng đắn
Sinh ra trong một gia đình khoa bảng, được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của gia
đình, của quê hương sông Lam núi Hồng “địa linh, nhân kiệt”, Bác được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà
Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than,
cơ cực dưới sự thống trị hà khắc và tàn bạo của thực dân Pháp, chứng kiến sự thất bại của các cuộc đấu tranh của nhân
dân ở nhiều nơi. Chính hoàn cảnh ấy đã hình thành ở Nguyễn Tất Thành lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc,
Người quyết tâm phải tìm ra một hướng đi mới cho cuộc cách mạng của dân tộc để cứu dân. Nguyễn Tất Thành đã
quyết định sang phương Tây, cụ thể là sang Pháp - nơi có tư tưởng tự do, dân chủ, khoa học và kỹ thuật hiện đại. Năm
1923, Người đã trả lời nhà báo Nga Ôxip Manđenxtam rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba
chữ Pháp “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn
giấu
đằng sau những chữ ấy”.
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách mạng thế giới và những
con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc ta.
Vượt qua những hạn chế trên của các bậc tiền bối, với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và sự trăn trở về vận
mệnh dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con đường do những người đi trước mở ra sẽ không giải phóng
được dân tộc.
Theo Người, con đường của Hoàng Hoa Thám, vì tư tưởng phong kiến lỗi thời của nó, không thể dẫn tới thắng lợi.
Con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng khác gì việc “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn
con đường của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”.

PAGE 1
Bởi vậy, mặc dù rất kính mến, trân trọng thế hệ cha anh, nhưng Nguyễn Tất Thành đã không thể đi theo con đường
của họ. Người muốn đi tìm một con đường cứu nước mới. Đó chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử có ý nghĩa
rất quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
Sau khi không chấp nhận con đường cứu nước cũ, vấn đề rất quyết định đối với Nguyễn Tất Thành lúc đó là chọn
hướng đi nào?
Người không đi Trung Quốc, đi Nhật, mà ý tưởng của Người là hướng về Tây Âu, trước hết là nước Pháp. Tại sao lại
như vậy? Năm 1923, tại Mát-xcơ-va, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, Người đã giải
thích quyết định về sự lựa chọn của mình như sau: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe những từ ngữ tiếng
Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái - đối với chúng tôi lúc ấy, mọi người da trắng được coi là người Pháp - thế là tôi muốn
làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
Rõ ràng, ý nghĩ tìm hiểu về nước Pháp đã xuất hiện rất sớm ở Nguyễn Tất Thành. Cái lý do hấp dẫn để Người muốn
tìm hiểu về nước Pháp đó là những truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc, đồng thời
đó cũng là nơi đẻ ra mọi chế độ thực dân thối nát và cực kỳ tàn bạo như chính Người đã thấy trên đất nước mình.
Nguyễn Tất Thành muốn hiểu cho được cái nghịch đề văn minh - dã man mà chính nước Pháp vĩ đại đã sản sinh ra nó.
Như vậy, theo Nguyễn Tất Thành: muốn tìm được con đường cứu nước thì trước hết phải hiểu thật đúng, thật đầy đủ
về những kẻ đang cướp nước mình. Muốn đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để giải phóng cho đồng bào thì trước hết
phải hiểu cho được cái gốc rễ, cái bản chất của chủ nghĩa thực dân. Sự khác biệt của Nguyễn Tất Thành so với tất cả
những người Việt Nam đi sang nước Pháp lúc bấy giờ chính là ở chỗ đó.
Từ chỗ xác định rõ động cơ, mục đích, hướng đi như vậy, Nguyễn Tất Thành đã chọn một cách đi riêng cho mình.
Trong vòng mười năm, từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới.
Bàn chân của Người đã từng in dấu trên nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân
khảo sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp.
Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm đó, Người đã bổ sung được cho mình những kiến thức vô cùng phong
phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát. Người đã nhìn thấy giai cấp tư sản ở thế kỷ này không còn là giai
cấp tiến bộ của thời đại nữa và con đường cách mạng tư sản không phải là con đường chúng ta nên đi. Còn về các dân
tộc thuộc địa và về chủ nghĩa thực dân, Người rút ra kết luận gần như một chân lý bất hủ: ở đâu bọn đế quốc, thực dân
cũng tàn bạo, độc ác, ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Trên cở sở những nhận thức căn bản đó, điều mong muốn tìm cho được con đường cứu nước đúng đắn càng thôi thúc,
giục giã Nguyễn Tất Thành.
Người móc nối liên hệ, trao đổi thư từ với cụ Phan Chu Trinh và một số người Việt Nam yêu nước khác đang sống ở
Pháp. Người đã tham gia vào các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật rất đa dạng. Tham gia vào
nhiều tổ chức khác nhau như: Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp, tổ chức lao động hải ngoại - một tổ chức bí
mật của những người lao động từ các thuộc địa khác nhau đang sống ở nước Anh. Đặc biệt, khoảng đầu năm 1919,
Người gia nhập tổ chức tiến bộ nhất ở Pháp lúc bấy giờ là Đảng Xã hội Pháp - một chính đảng nhân danh đại biểu cho
giai cấp công nhân mà lúc đó phần nào quan tâm đến quyền lợi của những người lao động, phần nào đồng tình với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
Từ đây, Nguyễn Tất Thành đã thực sự bước vào cuộc chiến đấu với tư cách một nhà hoạt động cách mạng chuyên
nghiệp. Người không còn dừng lại ở việc quan sát hay suy ngẫm riêng mình, mà đã thực sự đi vào hoạt động, vào tổ
chức, hòa mình vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ngày càng rộng lớn hơn.
Bằng những hoạt động sôi nổi như vậy, Nguyễn Tất Thành đã nhanh chóng nắm bắt được thời cuộc, trên cơ sở đó có
sự lựa chọn và định hướng đúng đắn cho bản thân và cho dân tộc.
Bước ngoặt của sự lựa chọn đó trước hết là ảnh hưởng vang dội của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tuy
lúc đầu chưa hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về sự kiện vĩ đại này, song vốn có sự nhạy cảm về chính trị, lại có thực tiễn
cuộc sống của nhân dân bị áp bức và việc ấp ủ, nung nấu nhiều ý tưởng, mong ước giải phóng dân tộc, Người đã nhận
thấy đây là biến cố lớn “có một sức lôi cuốn kỳ diệu”, và ảnh hưởng của nó được Người ví “tựa như Người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói có cơm ăn”.
Nếu trước năm 1911, Nguyễn Tất Thành mới nhận thức được sự bế tắc của con đường cứu nước cũ, tình trạng đất
nước như “trong đêm tối không có đường ra”, thì giờ đây, Nguyễn Tất Thành đã thấy bùng lên một hy vọng về công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường mới, nhất định sẽ đưa lại thắng lợi. Dần dần về sau trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức lý luận, Người hiểu rõ hơn về Cách mạng Tháng Mười, về Chủ nghĩa Lê-nin, về con đường
Cách mạng Tháng Mười đã vạch ra cho các dân tộc bị áp bức đấu tranh để tự giải phóng.
PAGE 2
Sự kiện thứ hai dẫn đến bước ngoặt của sự lựa chọn của Người đó là khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V. I. Lê-nin vào năm 1920 đăng trên báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội
Pháp. Bản Luận cương đã thu hút sự chú ý đặc biệt của Người và qua lăng kính của chủ nghĩa yêu nước chân chính,
Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân.
Sau này, khi nhắc đến sự kiện này, Người đã viết: “Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!”. “Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III”.
Như vậy là cùng với ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, sự tiếp nhận tư tưởng của V.I. Lê-nin đã dẫn đến sự
chuyển biến về chất trong nhận thức cũng như trong hành động của Nguyễn Ái Quốc, quyết định việc Người đứng về
phía V.I. Lê-nin và Quốc tế Cộng sản.
Sự kiện thứ ba, thể hiện sự khẳng định về sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc đó là quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc
tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Việc bỏ
phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp
đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc và cũng là sự khởi đầu một
bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực
dân, đế quốc, và đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Năm 1930,
Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám 1945, thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến chống Mỹ (1975) cũng như
thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi đúng đắn của dân tộc. T rong thắng lợi chung đó,
lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhận công lao và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn - sự lựa chọn lịch sử, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra của cách mạng Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

KHÁC:

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là quá trình của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta. Đó còn là quá trình đấu trình miệt mài của rất nhiều chủ thể,
trong đó có ĐCSVN cùng sự lựa chọn của lịch sử đã dẫn tới sự hình thành trên.

Sự ra đời đó một mặt là do bối cảnh các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành
một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung chống tư bản, thực dân mà tiêu biểu là thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917. Bên cạnh đó, một mặt khác quan trọng hơn và đóng vai trò quyết định là tình hình xảy ra
ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX cho đến khi Đảng hình thành.

Là quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam trở thành đối tượng nằm
trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều đế quốc khác. Sau một quá trình điều tra
thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và thương nhân Pháp, ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó từng bước thôn tính Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam
(dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn) đã lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trước hành động xâm lược của
Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày 6-6-1884 với Hiệp ước
Patơnốt (Patenotre) đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.

Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn không chịu khuất phục.
Một bộ phận phong kiến yêu nước đã cùng với nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp. Đó là phong trào
Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1885-1896). Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu
nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)… diễn ra sôi nổi và thể
hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là
ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung
tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa. Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là mốc chấm dứt vai

PAGE 3
trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX,
Vua Thành Thái và Vua Duy Tân tiếp tục đấu tranh chống Pháp, trong đó có khởi nghĩa của Vua Duy Tân (5-1916).

Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở vùng miền núi và trung du phía Bắc, phong trào nông dân
Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực lượng
chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp. Nhưng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn
mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.

Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác động của trào lưu dân chủ
tư sản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong
trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng (12/1927 - 2/1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh
Bắc Kỳ, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng
cùng với khẩu hiệu “không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất
thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản”.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống
ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn
ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành
độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, “các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản
qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại” . Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối
chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững mạnh
để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.

Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất bại, nhưng đã góp phần
cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần
thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu
nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là
cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.

Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan
chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra
đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng
một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người
bị bóc lột”, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.

Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức của Nguyễn Tất
Thành. Người nhận thấy rằng “chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi.” Sau đó, Người từ
nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga, về V.I.Lênin. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở
Versailles, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới
Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-
1919. Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận
quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.

Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo). Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của
V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để
Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp (12-1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc
tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành
Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp.

Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị
của Nguyễn Ái Quốc: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường vô sản”. Sau
khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận
thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Sự truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin là quy luật thứ hai cho sự hình thành Đảng Cộng sản ở Việt Nam bên cạnh phong trào yêu nước.

PAGE 4
Để việc truyền bá về Việt Nam được tiếp cận với nhiều người, Người đã thực hiện việc chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng. Về tư tưởng, từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của
các nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria
(Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư
tín quốc tế,... Những năm sau đó, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ
nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng.
Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con
đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam.

Về chính trị, xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa
ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của
các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.

Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích
cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.

Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng
đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải
xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh, còn học trò nhà buôn
nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông” . Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người” .

Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.

Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928
đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.

Việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng là cực kỳ quan trọng vì cần tìm ra một chủ thuyết lý luận nhưng sự chuẩn
bị về mặt tổ chức mới là quyết định bởi vì tìm ra được lực lượng xã hội nào thực hiện, vai trò, vị trí của các nhóm xã
hội khác hình thành nên một hệ thống tổ chức để phát huy sức mạnh của quốc gia, dân tộc để tạo thành cái chung nhất.
Vì thế, sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập”. Sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người
đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để xúc tiến các công việc tổ chức
thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm
Cộng sản đoàn.

Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội bao gồm thanh niên, tiểu tư sản trí thức, có tinh thần yêu nước, tinh thần dân
tộc và có trình độ học vấn. Họ là những người có khả năng nhận thức, tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào
Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng nhất để thành lập ĐCSVN.

Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên) dùng để tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của
Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận
động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Sau khi
được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.

PAGE 5
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nước tại
Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là
cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí
hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con
đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều
kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong
nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái
Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể
hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ
chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và
thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929
theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng
cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Chính sự truyền bá đó đã đưa phong trào công
nhân ngày càng phát triển lớn mạnh, đặc biệt là sau cuộc bãi công của công nhân xưởng may Ba son - Sài Gòn (tháng
8-1925), phong trào công nhân đã chuyển từ đấu tranh tự phát thành đấu tranh tự giác. Những cuộc đấu tranh của thợ
thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu
tranh của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm 1926-1927. Sự phát triển của phong trào công
nhân chính là quy luật thứ ba trong sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người
lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố
Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, đại biểu của các tổ chức
cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng.

Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở Nam Kỳ theo xu hướng
cộng sản, lần lượt tổ chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam
Cộng sản Đảng được thành lập. Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên-đã đi theo
khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc
thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã khẳng định bước phát
triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu
bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng
sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, không tránh
khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.

Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, nhu cầu
thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản,
ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, gồm 2 đại biểu của
Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu
Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-đại biểu của Quốc tế Cộng sản.

Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn kiện quan trọng do lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của
Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần
chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy

PAGE 6
định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng
hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng”.

Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai
văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát
triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam .

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: Từ việc phân tích thực
trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách
mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong
kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập
cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.

Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: Dân chúng được tự do tổ chức, Nam nữ bình quyền, Phổ
thông giáo dục theo công nông hoá”. Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thâu
hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lý, thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế,
xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống
trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải
phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.

Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp
công nhân lãnh đạo, đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung
chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được
đại bộ phận dân cày,… hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn
đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại
đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh giá
đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.

Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường
bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được thoả hiệp “không khi nào nhượng
một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.

Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng
thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc
tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp công nhân.

Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” . “Đảng là đội tiên phong của đạo quân
vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng” .

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội
thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách của cách mạng Việt Nam, đồng thời

PAGE 7
xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược
và sách lược đã đề ra.

Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước,
chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã
kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù
“vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt
Nam sang một trang sử mới.

* Ý nghĩa của việc thành lập Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối cứu nước, đưa cách mạng
Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng
vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự
chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng
tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống
nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn
tới viêch thành lập Đảng, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” .

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan
của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời
đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết quả của sự
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong
điều kiện lịch sử mới.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định sự lựa chọn con
đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách mạng vô sản. Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế
của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác
để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch
sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta” .

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành
nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào
cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự
nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tất yếu lịch
sử.

Từ hoàn cảnh lịch sử thế giới


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Chính bước chuyển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới Tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn
này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản,
cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm này cũng xuất
hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng.
Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo
của chủ nghĩa Đế quốc làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa Đế quốc thực dân ngày càng trở
nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.

PAGE 8
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- Lênin đã xây dựng nên học thuyết lý luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ
bản: Giai cấp công nhân, sau khi đã trưởng thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả năng và điều kiện
lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên
chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một
học thuyết cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng
lợi của cuộc cách mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trên thế giới, dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức quốc tế
đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò
tiên phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu
"Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu
giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị thực dân".
Đến yêu cầu lãnh đạo phong trào đấu tranh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của
nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Dưới tác động của chính sách cai trị và
chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Hình thành giai
cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị
thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai
cấp địa chủ phong kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược. Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là:
Phong trào Cần Vương (1885-1896): Ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Phong trào Cần
Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì. Ngày 1/1/1888, vua Hàm nghi bị Pháp bắt
nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và
gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam
vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941) với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh
đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu trải qua nhiều bước
thăng trầm, đi từ lập trường quân chủ lập hiến đến lập trường dân chủ tư sản, nhưng đều bị thất bại. Vào nửa đầu của
thế kỉ XX, Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc đánh giá “Phan Bội
Châu là tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia”.Việc cụ dựa vào Nhật để đánh Pháp chẳng khác nào đuổi hổ cửa trước rước
beo cửa sau”.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội, động viên
lòng yêu nước cho nhân dân, đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện
khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu tranh vũ trang cầu viện nước ngoài. Hoạt
động cách mạng của Phan Châu Trinh đã góp phần làm thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên,
về phương pháp, “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương… điều đó là sai lầm, chẳng khác gì
đến xin giặc rủ lòng thương”.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác như: Phong trào Đông Kinh nghĩa
thục(1907), Phong trào “tẩy chay Khách trú”(1919), Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923),
đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…

PAGE 9
Do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ, chưa tập hợp được rộng rãi lực
lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân), nên cuối cùng các phong trào và tổ chức đã không thành công. Sự thất
bại của các phòng trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế
và chính trị yếu kém của giai cấp này trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những
nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra. Chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều
kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam. Đặt ra yêu cầu phải có
Đảng của giai cấp tiên tiến nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến
bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân
Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động. Một bộ phận khác lại coi cải
cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương
dùng biện pháp bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho xu hướng cải
cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân,
đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Từ 1919 -1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành
lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam một cách sâu rộng, chuẩn bị
về tư tưởng chính trị, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Thành lập hội Việt
Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam.
Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của gia cấp vô sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó ở Vịêt Nam lần lượt xuất
hiện ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng phát triển trên cơ sở trong nhiều địa phương và trực tiếp lãnh đạo các cuộc
đấu tranh của quần chúng. Nhưng các tổ chức đó đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, thậm chí
công kích lẫn nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp
bách phải thành lập một Đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm sang Trung Quốc tổ chức và chủ trì hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, từ ngày 6-1
đến ngày 7-2-1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất 3 tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Vì vậy, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2 hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất, theo một đường lối
chính trị đúng đắn đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước,
hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng
ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô
sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường
lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai
cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng
đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng
sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập  hợp lực lượng
và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại
PAGE 10
giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của
cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc giai cấp và tính nhân văn?

Cương lĩnh đầu tiên tuy vắn tắt, gồm 282 chữ song đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng
Việt Nam, có nội dung cách mạng, khoa học và sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, thuận chiều tiến hóa của thời đại. Cương lĩnh đã giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan
điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế, trong đó thấm đậm yếu tố dân tộc trên lập trường giai cấp
công nhân - yếu tố quyết định tính độc đáo của cách mạng thuộc địa. Thực hiện chiến lược cách mạng  giải phóng dân
tộc, dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì độc lập tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là viên ngọc quý
được khảm trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930 Nguyễn Ái Quốc tới Hương Cảng
(Trung Quốc) để triệu tập và chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản, lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam. Tại Hội nghị, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra Đảng Cộng sản Việt  Nam.
Trong lịch sử Đảng ta, Hội nghị hợp nhất mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng, được xem như Đại hội
đầu tiên của Đảng. Hội nghị này đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của
Đảng... Đó là các văn kiện của Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đã xác định
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Chính cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất của kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của
nước Việt Nam thuộc địa. Tính chất độc quyền khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực cản
trở sự phát triển độc lập về kinh tế của Việt Nam. Chánh cương chỉ rõ:  “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư
bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghiệp một
ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”. Phân tích rõ vị trí, vai trò của tư
bản bản xứ: “Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ
mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”
Xuất phát từ tình hình đó, Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc " tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Cương lĩnh đã nêu ra nhiệm vụ cụ thể của cách mạng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội:
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, chuẩn bị cách mạng ruộng đất để tiến lên lật đổ địa chủ phong
kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công
nông.
Thủ tiêu các thứ quốc trái, thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc Pháp
để giao lại cho chính phủ công nông binh quản lý, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho
dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Dân chúng tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

PAGE 11
Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra bao hàm hai nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong
đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Về sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại
bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Chủ trương của Đảng là : “Thu phục
cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến”.
Đảng chủ trương xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách
mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái phản cách mạng: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải đánh đổ”. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ giai
cấp lãnh đạo và lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là: “Trong cuộc cách mạng tư
sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng
mới thắng lợi được”. Trong khi liên minh với các giai cấp, phải giữ vững nguyên tắc cách mạng, không được đi vào
con đường thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi cơ bản của công nông cho một giai cấp nào khác.
Về phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc, phong kiến. Việc nêu
lên phương pháp cách mạng bạo lực thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực và khởi nghĩa vũ
trang của chủ nghĩa Mác - Lênin. Con đường phát triển chỉ có thể là cách mạng chứ không thể là cải lương, thỏa hiệp.
Về xây dựng Đảng, văn kiện khẳng định: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, người tổ chức và
lãnh đạo cách mạng, đấu tranh để giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta khỏi bị đế quốc và phong kiến
thống trị, áp bức và bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do.
Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Cương lĩnh nêu rõ:  “...trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước
An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới,
nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Đồng thời, Cương lĩnh cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng lao động trên thế giới nhất là quần chúng vô
sản Pháp. Cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, đề cao vấn đề đoàn kết quốc tế là sự kết hợp chặt chẽ
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ đang
đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định
được những nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnhđược khẳng định qua thực
tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm qua:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc, chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất
phát từ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai nhiệm vụ cơ bản là
chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước
Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ có
độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Tư tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các lực lượng
cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ đều được Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết
lại trong lực lượng cách mạng do công nông làm nòng cốt.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng
hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc
đầu sỏ. Hiện nay, khi tình hình Biển Đông không bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa, hơn bao giờ hết việc
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế là yếu tố quyết định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo quần chúng
lao khổ đấu tranh giải phóng toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực
hiện xã hội cộng sản”.
Với cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình
toàn thể dân tộc làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết
tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh
đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của

PAGE 12
Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan. do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Không ít vấn đề lý luận và
thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ, nhưng điều quan trọng là Đảng ta đã nhận ra, thẳng thắn tự phê bình và nghiêm túc sửa
chữa, khắc phục có kết quả. Và qua mỗi vấp váp, sai lầm Đảng thêm trưởng thành. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là tiền
đề những Cưỡng lĩnh chính trị sau. Ví dụ rằng tuy có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự
khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
vào điều kiện nước ta, vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc,
phong kiến.

Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (1930-1945)

Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến đã lỗi thời, ngọn cờ của giai cấp tư sản cũng không phất cao lên
được, điển hình là thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành. Cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước thực chất là cuộc khủng hoảng về sự lãnh đạo cách mạng của một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là
chính đảng cách mạng. Đất nước trong cơn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”, năm 1911, Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
    Qua một quá trình chuẩn bị, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận
động cách mạng trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, là sự kiện có
ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó đến nay. Đảng ra đời sớm
có Cương lĩnh cách mạng đầu tiên đúng đắn. Cương lĩnh xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản… Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đáp ứng đúng yêu cầu của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng
giành được quyền lãnh đạo phong trào cách mạng, đồng thời phản ánh vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng
ngay từ khi mới ra đời. Đánh giá sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt
vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng”
    Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh.
Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong
kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong
kiến đã không thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta, ở chỗ,
nó đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn
của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp
phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển về sau của cách
mạng Việt Nam. “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu rung trời chuyển đất những năm 1930-1931, trong
đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-1939.
Đây là “cuộc tổng diễn tập đầu tiên” cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
    Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất
hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách

PAGE 13
mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống
chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939 dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời
kỳ vận động quần chúng sôi nổi với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả việc lợi dụng
các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực dân Pháp lập ra. Đảng đã động viên, giáo dục cho hàng
triệu quần chúng trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đánh dấu bước
trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu
quyết liệt trong những năm 1940-1945. 
    Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng nước ta cho phát xít Nhật, dân ta một cổ
hai tròng. Đảng nhận định đây là thời kỳ mà ách áp bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân dân ngày càng
cách mạng hóa, cách mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi các lực lượng dân
tộc dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị vũ trang đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp,
đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ. Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát động
cao trào kháng Nhật, cứu nước, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền nhanh gọn
trong cả nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm
quyền. Đánh giá về cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”

Sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước, trước nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù
trong giặc ngoài gây ra, tình hình đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Với sự lãnh đạo sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở,
lướt sóng đi lên. Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc
thì tạm hòa hoãn với Pháp để đuổi quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai, giành thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt
đó cho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã “được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời
của sách lược lêninnít”. 

    Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954. Dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào
sức mình là chính” và đã giành được thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội
năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối
với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời, cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và Xã hội chủ nghĩa trên thế giới”.
    Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng
miền Nam, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn
dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình
độ cao những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và Chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi
được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng
của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”
    Hơn 30 năm đổi mới là giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về
sự lãnh đạo của Đảng ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt
để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, thể hiện tài năng lãnh đạo của Đảng ta. Đất
nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng
kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, chính trị - xã
hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, văn hóa, xã hội có bước phát triển mới, đời sống nhân dân từng
PAGE 14
bước được nâng lên, dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế
độ Xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
    Thời gian là hòn đá thử vàng, 90 năm qua là giai đoạn đặc biệt của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của
một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, là thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều thách thức, có lúc
hiểm nghèo. Mỗi lần vượt qua thách thức, Đảng và dân tộc ta lại trưởng thành, vươn lên tạo dựng những mốc son
mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ tài năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất
lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chỉ điểm qua những kết quả nêu trên, có thể khẳng định sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 

Câu 5: Tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945

Lịch sử hơn 80 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành
quả đầu tiên của Đảng ta với tư cách là lực lượng chính trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi.
Đây là thắng lợi điển hình cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong thế kỷ
XX. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn là điển hình cho khát vọng độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
của toàn thể nhân loại trong thế kỷ XX.

Tính chất điển hình của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công đầu tiên ở một nước
thuộc địa và phụ thuộc do một chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám thực sự là một bằng chứng hấp dẫn nhất trong sự hiện thực hóa những tư
tưởng về cách mạng thuộc địa của V.I. Lênin. Đồng thời, đây cũng là thắng lợi đầu tiên của một phong trào đấu
tranh cách mạng do một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc.
Trong hoàn cảnh lịch sử của một đất nước bị thực dân đế quốc và chế độ phong kiến lỗi thời lạc hậu áp bức bóc lột,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra con đường cứu nước cho cả dân tộc. Con đường mà các Nhà sử học trong
và ngoài nước trước kia và sau này không thể phát hiện được bất kỳ một đảng nào vạch ra một đường đi chính xác như
thể con đường đi có uyển chuyển tùy lúc, tùy nơi mà nhìn chung là không thay đổi so với mục tiêu dân tộc như Đảng
ta.
Trung thành và kiên định với đường lối đã lựa chọn, vượt qua những thách thức nghiệt ngã của cuộc đấu tranh một
mất một còn, Đảng Cộng sản Đông Dương đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh của
lòng yêu nước, truyền thống văn hiến của một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử, nỗi nhục mất nước và khát vọng độc
lập tự do đã kết thành một sức mạnh đủ để "nhấn chìm tất cả lũ cướp nước và bán nước", khôi phục lại quốc hiệu Việt
Nam và làm sống lại một dân tộc có nền văn hiến của khu vực và trên thế giới. Đảng Cộng sản và toàn thể dân tộc Việt
Nam đã làm nên một cuộc cách mạng mà trước đó, chưa có một nước nào, một Đảng Cộng sản nào lãnh đạo thành
công ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đây chính là nét điển hình tiêu biểu mang tính "khai phá, mở đầu" cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc do các Đảng Cộng sản và phong trào yêu nước lãnh đạo trên thế giới trong thế kỷ XX. Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã “gõ những nhịp trống đầu tiên” báo hiệu sự thắng lợi của phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đây cũng là báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế
giới.
Từ thắng lợi này, một chân lý của thời đại đã được Đảng ta và toàn thể dân tộc Việt Nam làm sáng tỏ đó là: Trong thời đại
ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng nếu biết đoàn kết toàn dân và có một Đảng Cộng sản với
một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp thì vẫn có thể giành được thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự
do.

PAGE 15
Hai là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu hiện tập trung nhất của lý tưởng độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của
dân tộc ta: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Nhận thức sâu sắc và triệt để tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân
dân. Ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của mình Đảng ta đã khẳng định: Ngoài công -
nông là gốc của cách mạng thì "Đảng phải liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt... để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ đứng trung lập" .
Như vậy, khác với các đảng phái và tổ chức chính trị đương thời, Đảng ta đã đánh giá đúng đắn sức mạnh của quần
chúng nhân dân. Từ nhận thức đúng đắn này, trong hoạt động của mình, Đảng không ngừng xây dựng, mở rộng khối
đại đoàn kết toàn dân để tập hợp lực lượng, nhân lên sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám trước hết là thắng lợi của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh
đạo. Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chúng ta càng thấy rõ nhờ chính sách đại đoàn kết dân tộc mà
các tầng lớp nhân dân hiệp sức chung lòng dựa vào sức mạnh của liên minh công - nông, dưới sự lãnh đạo vững
chắc của Đảng Cộng sản, nổi lên như một người, quyết chí giành độc lập, tự do.
Vì vậy, trong hàng ngũ cách mạng chẳng những là công nhân, nông dân như trước nay, mà còn có trí thức, tiểu
thương, điền chủ, tư sản, công chức trong chính quyền cũ, lại có cả phần lớn văn nghệ sĩ có tài có tiếng trong
hàng ngũ những người làm cách mạng. Các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo đều có đại diện trong hàng ngũ
đấu tranh.
Hãy nhìn hàng vạn người ở Hà Nội những ngày 17 - 18 Tháng Tám tập hợp ở trước Nhà hát Lớn, kéo ra bờ Hồ và
trở thành năm bảy cuộc biểu tình càng lúc càng đông dưới cờ đỏ sao vàng, mãi đến đêm khuya mới giải tán. Hay
cuộc tập hợp ở Huế ngày 23 Tháng Tám đông đúc bằng nửa số dân của Huế và Thừa Thiên. Hay hàng vạn đồng
bào ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định ngày 25 Tháng Tám trong một biển cờ sao, trong một rừng vũ khí thô sơ đến
hiện đại, đồng tình dựng lên Ủy ban Hành chính Nam Bộ. Chính sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân đã tạo nên
áp lực chính trị mạnh mẽ làm tan rã một thể chế chính trị lạc hậu và phản động để lập nên một Nhà nước công nông,
hình thành nên một thể chế chính trị mới. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sử dụng hình thức khởi nghĩa,
Đảng ta đã huy động được sức mạnh của tất cả các tầng lớp nhân dân vào cuộc cách mạng. Đây là một trong những
biểu hiện độc đáo tính chất điển hình của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, một học giả phương Tây khẳng định: "Chắc chắn là ông Hồ sẽ không thể
thành công nếu như Đảng Cộng sản Đông Dương của Ông đã không được tổ chức và chuẩn bị tốt cho việc giành chính
quyền. Nhiều năm chuẩn bị không phải là vô bổ" .
Mười lăm năm kể từ ngày ra đời là một khoảng thời gian đầy máu và nước mắt của hàng ngàn, hàng vạn cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh trực tiếp với kẻ thù. Có những thời điểm, người lãnh đạo cao nhất
của Đảng bị cầm tù, phần lớn Ban Thường vụ, Ban chấp hành Trung ương đều bị bắt. Vượt qua những thách thức đó,
Đảng ta không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Từ trong ngục tù, xà lim và máy chém, đường lối cách mạng của Đảng
luôn được bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh.
Cùng với sự lớn lên của Đảng là sự trưởng thành, giác ngộ của quần chúng cách mạng. Một quá trình tập hợp, giáo
dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đấu tranh cách mạng đã diễn ra ngay sau khi Đảng ra đời. Các
cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945 là những cuộc tổng diễn tập để đi đến thắng lợi cuối
cùng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Mười lăm năm so với lịch sử là một khoảng thời gian không dài, song Đảng Cộng sản Đông Dương cùng với toàn thể
dân tộc đã tạo nên những tiền đề hết sức căn bản để đủ sức xóa bỏ cả một thể chế chính trị đã tồn tại hàng ngàn năm và
giải phóng dân tộc khỏi sự nô dịch của một trong những thế lực thực dân đế quốc hùng mạnh. Đó là cả  một quá trình
đấu tranh kiên cường, một quá trình chuẩn bị về tất cả các mặt cho sự thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Quá trình chuẩn bị đó diễn ra bằng thực tế của những cuộc đấu tranh, những cao trào cách mạng cùng với những
thành công và cả những thất bại, sai lầm. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám được tạo ra chính là ở những
thành công và cả những hạn chế trong quá trình chuẩn bị đó. Trong quá trình đó, những người Cộng sản Việt
Nam đã đấu tranh với kẻ thù và cũng đấu tranh với chính mình, đấu tranh với những tư tưởng sai lầm để đi đến sự
thống nhất, chọn lựa đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp tiến hành một cuộc cách mạng.
Ba là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là điển hình của nghệ thuật “chớp thời cơ” và lựa chọn hình
thái khởi nghĩa.
Thời cơ chỉ có giá trị khi con người nhận thức được và làm chủ được tình thế tận dụng và phát huy để giành chiến
thắng. Cách mạng Tháng Tám thành công nhanh chóng trên cả nước xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Trong đó, có
một nguyên nhân mang tính quyết định chính là nghệ thuật “chớp thời cơ” để giành thắng lợi.
PAGE 16
V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng, mà
phải dựa vào giai cấp tiền phong. Đó là điểm thứ nhất. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân
dân. Đó là điểm thứ hai. Khởi nghĩa phải dựa vào một bước ngoặt trong lịch sử của cuộc cách mạng đang lên, khi
mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng
ngũ địch và trong hàng ngũ những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của cách mạng, mạnh
hơn cả. Đó là điểm thứ ba"
Nhận thức và vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình đất nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta đã phát
động cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chứng tỏ việc chớp thời cơ của
Đảng ta là khoa học và chính xác. Đảng cho rằng, chiến tranh thế giới đã tạo thời cơ “trăm năm có một” để dân tộc ta
thừa chiến tranh đế quốc mà làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công. Một mình Đảng  đã chuẩn bị lâu dài, liên
tục nên tập hợp được sức mạnh hùng hậu của đồng bào cả nước.
Nhưng nét đặc sắc, tiêu biểu và độc đáo của hình thức khởi nghĩa chính là ở quyết định Tổng khởi nghĩa trên cả nước
trong một khoảng thời gian ngắn. Sự đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa ở tất cả các địa phương từ Bắc chí Nam, từ miền núi
đến đồng bằng và các đô thị lớn đã làm cho kẻ thù không còn hậu phương, không kịp hỗ trợ, cứu viện bảo vệ lẫn
nhau. Trong tiến trình khởi nghĩa, Đảng ta đã có những sáng tạo trong tổ chức thực hiện đó là: Vừa kết hợp chính
trị với vũ trang và kêu gọi đầu hàng, vừa kiên quyết tiến công, giành chính quyền ở các đô thị lớn. Từ nông thôn
tiến đến bao vây thành thị để giành chính quyền. Từ thắng lợi ở các đô thị để giành thắng lợi ở các vùng nông
thôn, đồng bằng. Kiên quyết giành chính quyền, không thỏa hiệp với đối tượng của cách mạng. Sự kiên quyết và
triệt để của Tổng khởi nghĩa đã thúc đẩy tiến trình khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Do đó, Tổng khởi nghĩa
vừa là một hình thức mang tính phổ biến của cách mạng vô sản, vừa là một nét đặc sắc của cách mạng Việt  Nam.
Bốn là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là mẫu mực của quá trình lật đổ chế độ cũ, xây nên chế độ
mới một cách nhân văn và tiến bộ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự thành công của Đảng ta trong việc hạn chế đến mức thấp
nhất sự đổ máu, thể hiện một truyền thống nhân ái và cao thượng của một dân tộc. "Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân". Đó là sự chuyển giao quyền lực diễn ra trong không khí cách mạng sục sôi nhưng hòa bình. Không hề có
một cuộc thanh trừng hay "tắm máu", trả thù cá nhân. Thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân, một số quan
chức cũ của triều đình Nhà Nguyễn  cũng được mời tham gia chính quyền cách mạng. Kiên quyết, triệt để mà hạn
chế được sự đổ máu, đó cũng là nét đặc biệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước ta.
Tính nhân văn của Cách mạng Tháng Tám và việc lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới đã thể hiện được bản
chất của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng ta là vì con người và cho con người. Cách mạng thành
công, bộ máy nhà nước nhanh chóng được thiết lập trên khắp cả nước từ trung ương đến địa phương mà không
gặp những cản trở lớn.
Đó cũng là một thành công điển hình của Đảng ta trong việc giải quyết quá trình xác lập quyền lực và giải quyết
vấn đề cơ bản và chủ yếu nhất của một cuộc cách mạng đó là vấn đề chính quyền.

Ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám năm 1945

Ý nghĩa lịch sử:

Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận
mệnh của mình. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã
lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân
dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực
kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Tiếp tục nhấn mạnh giá trị đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao
Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng tháng Mười, ngày 6-11-1957 đăng trên báo Nhân dân, số 1341, ngày 10-11-
1957, Người lại khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân
ra khỏi đất nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi”.

Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở kỷ nguyên độc
lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ thế giới, đồng thời đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước
trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền: “Lịch sử dân tộc ta đã có nhiều
thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày Cách mạng Tháng Tám, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi
PAGE 17
nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi
đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô. Cụ Phan Bội Châu đã phải thốt lên rằng:

Đã lắm lúc bầm gan tím ruột,


Vạch trời cao mà tuốt gươm ra,
Cũng xương, cũng thịt, cũng da,
Cũng hòn máu đỏ, con nhà Lạc Long,
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Mấy mươi năm nhơ nhuốc lầm than!...
Cách mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp
thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lẫy lừng khắp năm châu, bốn biển”.
Đối với tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, một mặt,
đã góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Về vấn đề
này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, ngày 19 tháng 8 năm 1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng
xích thực dân”.
Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân
và đế quốc): “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc
lập”.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam và
là thắng lợi vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ thắng
lợi to lớn đó, đã cổ vũ nhân dân ta kiên cường đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bằng Chiến dịch
Hồ Chí Minh năm 1975 lịch sử. Đất nước hoàn toàn độc lập, người dân được hoàn toàn tự do, hạnh phúc.
Ý nghĩa thời đại:
Đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là tấm gương, là nguồn
cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh, nhất là các nước láng
giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của  thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng
Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có
ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai
nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược
nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do, đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Vì thế, trong
diễn văn kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, Người khẳng định: “Suốt trong 80 năm nước ta bị Pháp chiếm, nhân dân ta
từ Nam đến Bắc đã nhiều lần nổi dậy chống giặc ngoại xâm. Nhưng vì bọn vua quan hèn mạt, câu kết với địch, phản
nước hại dân, cho nên các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Cách mạng Nga thành công đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức,
dạy cho họ cách tổ chức, đấu tranh và giành thắng lợi. Nhờ vậy mà ta có Đảng tiên phong, có Mặt trận dân tộc thống
nhất, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân, kiên quyết đấu tranh cho độc lập tự do, làm Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Lần
đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái
chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ đó dân ta làm chủ nước
ta”.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 mang tầm vóc thời
đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại, giáng một đòn chí mạng vào nền
móng của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân
đồng minh đánh đổ chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Tinh thần của chiến thắng
lịch sử. Do đó, cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Về vấn đề này, Người
dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất
đối với nhân dân Việt Nam anh hùng... Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí
vẻ vang nhất trên thế giới...”.
Thắng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã chứng minh tính cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng

PAGE 18
Mười vĩ đại năm 1917: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác -
Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười vĩ đại đã vạch ra”. Về vấn đề này, trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở đường giải phóng cho các dân
tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng nhờ có sự lãnh đạo
của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên
giá trị và ngày càng tỏa sáng. Đó là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn
trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp
lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”
Nguyên nhân thắng lợi Cách mạng tháng tám năm 1945:
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đó là thắng lợi của đường lối chiến lược và chỉ đạo chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ Nhân dân đúng đắn của Đảng trải qua 15 năm đấu tranh khắc phục sự khác nhau trong nhận
thức.
Đó là kết quả của 15 năm xây dựng lực lượng và chờ đợi chớp lấy thời cơ khởi nghĩa của Đảng trải qua ba cao trào
cách mạng.
Đó là kết quả của phương pháp bạo lực cách mạng kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và kết
hợp chặt chẽ đấu tranh nông thôn với đấu tranh thành thị và đấu tranh linh hoạt.
Đó là kết quả của quá trình xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong điều kiện mà tình hình
thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nổi bật là:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và
dân chủ, chống đế quốc và phong kiến.

Ngay từ khi Đảng ta mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản. Chính từ phương hướng đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xuất
phát từ thực tế nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng
đầu, Đảng đã linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và phong
kiến, trong đó xác định đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp thực hiện từng
bước thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Chính sự linh hoạt trong giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa chống đế quốc và phong kiến trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân tộc và đã giúp cho Đảng huy động được sức mạnh
của toàn dân tộc cùng quyết tâm chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.

Thứ hai, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững
chắc của khối liên minh công - nông, đấu tranh vì độc lập, tự do.

Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong
lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành
lập và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ
năm 1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt với sự ra
đời của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được tạo dựng vững chắc và sâu
rộng. Với chủ trương đúng đắn là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng
chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”1, cùng phương thức tổ chức
đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đứng

PAGE 19
vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính
quyền về tay Nhân dân.

Thứ ba, kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Muốn có thời cơ thì phải biết
tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ. Cuộc tổng khởi nghĩa giành
chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ
khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự báo về
tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ
thực dân Pháp ở Đông Dương (ngày 9-3-1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày
12-3-1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể
diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và
tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai của Đảng ta, ngày 14-8-1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng
minh vô điều kiện đã khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt
Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống
trị như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải
hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng
không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật nhưng
thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh. Trước tình thế vô cùng khẩn
cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ từ
ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa
đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công triệt để.

Thứ tư, xây dựng Đảng vững mạnh, trung thành vô hạn với dân tộc và giai cấp.

Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lúc đó Đảng ta mới 15 tuổi, với gần 5.000 đảng viên, nhưng đã lãnh đạo toàn dân
tộc làm cuộc cách mạng giành thắng lợi. Thành công đó là nhờ Đảng được xây dựng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ sáng suốt, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Đảng đã nắm vững thời cơ, kiên định, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Đặc biệt, Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương
mẫu, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân; luôn gắn bó mật thiết với
Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng và đi theo. Nhờ đó, khi Đảng kêu gọi Nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng thì
muôn người như một, đoàn kết thành sức mạnh vô cùng to lớn đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân
tộc bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa dân tộc Việt Nam đứng vào hàng ngũ
những dân tộc tiên phong trong đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

Vận dụng bài học để giải quyết một số vấn đề trong giai đoạn cách mạng hiện nay:
Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn trong quá trình phát triển.Từ năm 2020 này, những khó
khăn, thách thức càng tăng lên do ảnh hưởng tiêu cực từ dịch COVID-19. Đà tăng trưởng về kinh tế nước ta bị chặn
lại, đời sống của nhân dân, cả về vật chất, tinh thần, việc làm … đều gặp muôn vàn khó khăn. Thế giới đang bị khủng
hoảng lớn về kinh tế và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường…
Trước tình hình ấy, những bài học của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa
tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Đầu tiên, bắt đầu từ nhân tố tiên quyết, điều kiện quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
hiện nay, đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng phải trong sạch, vững mạnh hơn bao giờ hết để lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ
mà Nghị quyết Đại hội XII đã đề ra và chuẩn bị đón nhận nhiệm vụ của Đại hội XIII. 

PAGE 20
Hiện nay, các cấp của Đảng, từ cơ sở đến cấp trên cơ sở là huyện, quận, thị xã đã và đang tiến hành đại hội để từ nay
đến cuối năm hoàn thành đại hội cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trung ương Đảng cũng đang tích cực
chuẩn bị về mọi mặt để tiến hành Đại hội toàn quốc. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo
đức vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng.
Với bài học của Cách mạng Tháng Tám, Đảng cần nhận thức và hành động để chứng tỏ rằng, Đảng xứng đáng với
niềm tin của nhân dân với vị trí vai trò và trách nhiệm Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn dân tộc Việt Nam. Đảng phải xây dựng đường lối đúng và đề ra những chủ trương phù hợp, tăng cường
xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo,
xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng dựa chắc vào cơ sở lý luận Mác - Lênin, nắm chắc
tình hình trong nước và quốc tế để giải quyết các mối quan hệ trong quá trình cách mạng Việt Nam. 
Bài học nắm thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám phải được vận dụng có hiệu quả trong tình hình hiện nay, khi Đảng
cần tỏ rõ bản lĩnh chính trị và trí tuệ sáng suốt của mình để vượt qua khó khăn trở ngại, đưa đất nước phát triển bền
vững. Muốn thế, bản thân Đảng phải luôn luôn chú trọng “tự chỉnh đốn”, phòng và chống những tiêu cực trong Đảng,
nhất là tham nhũng, lãng phí, quan liêu, khắc phục cho được tình hình một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. 
Bài học của cuộc Cách mạng Tháng Tám vận dụng vào giai đoạn hiện nay cũng đặt ra yêu cầu rằng, đội ngũ cán bộ,
đặc biệt là những cán bộ chủ chốt, người đứng đầu, phải luôn xứng tầm. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, biết
bao cán bộ, đảng viên đã đứng mũi chịu sào, sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình cho cách mạng. Nay, điều kiện hy
sinh đó không còn, nhưng cũng cần có sự hy sinh không nhỏ về nhiều mặt. Cần lắm một đội ngũ cán bộ như trong
Cách mạng Tháng Tám, những người ngày đêm lăn lộn vì phong trào cách mạng, biết đặt quyền lợi của cá nhân mình
trong và dưới quyền lợi của Đảng, của cách mạng, của nhân dân, luôn luôn gương mẫu về mọi mặt. Một đội ngũ cán
bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng trong sáng, có nhân cách cao đẹp đã dẫn dắt cả phong trào cách mạng tiến lên
như “triều dâng thác đổ” làm nên thắng lợi cách mạng. Với đội ngũ cán bộ, đảng viên như vậy, dân đã theo Đảng, theo
Việt Minh, chứ không đi theo nội các Trần Trọng Kim của Nam triều Bảo Đại. Uy tín của Đảng
được xác lập, được khẳng định trong thực tế của cách mạng. Giai đoạn cách mạng hiện nay cũng đang cần một quyết tâm
chính trị mạnh mẽ, cần thực hiện “nói đi đôi với làm” trong Đảng, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Thứ hai là, giai đoạn cách mạng hiện nay càng cần củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
tộc hơn nữa để đưa đất nước vượt qua khó khăn tiến nhanh và bền vững hơn.
Trong thử thách, trong hoạn nạn, càng chứng tỏ sức mạnh của tập thể, của sự giác ngộ chính trị, chung tay vượt qua
khó khăn. Với những chủ trương của Đảng và Chính phủ coi chống dịch như chống giặc, toàn dân tin theo Đảng và
Chính phủ để phòng và chống dịch COVID-19 đạt kết quả tốt. Một hệ thống chính trị vào cuộc và phát huy tác dụng,
nhân dân đồng tình ủng hộ, chúng ta tin tưởng vào sự thắng lợi chung của đất nước trong trận chiến cam go với hai
nhiệm vụ kép: vừa chống dịch COVID-19 vừa phát triển về mọi mặt. 
Công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân càng cần được coi trọng hơn hết. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt
là công nông trí - nhân tố đặc biệt quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, càng quan trọng hơn
trong sự nghiệp cách mạng giai đoạn hiện nay trong một thế giới hội nhập, toàn cầu hóa, trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để biến nước ta thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Theo tinh thần bài học Cách mạng Tháng Tám, đoàn kết cần được xây dựng trên cơ sở của cương lĩnh, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội, tôn
trọng những ý kiến riêng của cá nhân miễn là những ý kiến đó không làm tổn hại chung cho sự phát triển của đất
nước. 
Đoàn kết theo bài học của Cách mạng Tháng Tám trong giai đoạn cách mạng hiện nay còn cần cả sự tích cực giáo dục
chính trị, nâng cao sự giác ngộ về tinh thần yêu nước, đấu tranh chống lại các quan điểm và hành động sai trái của các
thế lực thù địch. Đoàn kết toàn dân tộc phải luôn đi đôi với phòng và chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chống lại tất cả những hành động làm tổn hại đến sự đoàn kết
toàn dân tộc, chống lại sự kích động hằn thù dân tộc, chống lại mọi tiêu cực trong hệ thống chính trị và ngoài xã hội.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã trải qua 75 năm xây dựng và
trưởng thành, bắt đầu từ cột mốc có tầm vóc quốc tế là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam, trong lúc này càng nhớ tới lời tuyên bố trịnh trọng, như là lời thề độc lập, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực
đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
PAGE 21
Những nội dung giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ từ giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945:
Thứ nhất, giáo dục cho thế hệ trẻ kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của
dân tộc.
Thứ ba, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống đoàn kết dân tộc, lao động sáng tạo của con người Việt Nam.
Thứ tư, giáo dục cho thế hệ trẻ tinh thần nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

KHÁC:
Tính chất điển hình của Cách mạng tháng Tám năm 1945
Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công đầu tiên ở một nước
thuộc địa và phụ thuộc do một chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đây chính là nét điển hình tiêu biểu mang tính "khai phá, mở đầu" cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc do các Đảng Cộng sản và phong trào yêu nước lãnh đạo trên thế giới trong thế kỷ XX. Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã “gõ những nhịp trống đầu tiên” báo hiệu sự thắng lợi của phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đây cũng là báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế
giới.
Từ thắng lợi này, một chân lý của thời đại đã được Đảng ta và toàn thể dân tộc Việt Nam làm sáng tỏ đó là: Trong thời đại
ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, nhưng nếu biết đoàn kết toàn dân và có một Đảng Cộng sản với
một đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp thì vẫn có thể giành được thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự
do.
Hai là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu hiện tập trung nhất của lý tưởng độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của
dân tộc ta: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta".
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám trước hết là thắng lợi của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh
đạo. Nhìn lại Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chúng ta càng thấy rõ nhờ chính sách đại đoàn kết dân tộc mà
các tầng lớp nhân dân hiệp sức chung lòng dựa vào sức mạnh của liên minh công - nông, dưới sự lãnh đạo vững
chắc của Đảng Cộng sản, nổi lên như một người, quyết chí giành độc lập, tự do.
Trong hàng ngũ cách mạng chẳng những là công nhân, nông dân như trước nay, mà còn có trí thức, tiểu thương,
điền chủ, tư sản, công chức trong chính quyền cũ, lại có cả phần lớn văn nghệ sĩ có tài có tiếng trong hàng ngũ
những người làm cách mạng. Các dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo đều có đại diện trong hàng ngũ đấu tranh.
Cùng với sự lớn lên của Đảng là sự trưởng thành, giác ngộ của quần chúng cách mạng. Một quá trình tập hợp, giáo
dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đấu tranh cách mạng đã diễn ra ngay sau khi Đảng ra đời. Các
cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945 là những cuộc tổng diễn tập để đi đến thắng lợi cuối
cùng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ba là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là điển hình của nghệ thuật “chớp thời cơ” và lựa chọn hình
thái khởi nghĩa.
V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu, một chính đảng, mà
phải dựa vào giai cấp tiền phong. Đó là điểm thứ nhất. Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân
dân. Đó là điểm thứ hai. Khởi nghĩa phải dựa vào một bước ngoặt trong lịch sử của cuộc cách mạng đang lên, khi
mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng
ngũ địch và trong hàng ngũ những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của cách mạng, mạnh
hơn cả. Đó là điểm thứ ba"
Bốn là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là mẫu mực của quá trình lật đổ chế độ cũ, xây nên chế độ
mới một cách nhân văn và tiến bộ.
Tính nhân văn của Cách mạng Tháng Tám và việc lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới đã thể hiện được bản
chất của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng ta là vì con người và cho con người. Cách mạng thành
công, bộ máy nhà nước nhanh chóng được thiết lập trên khắp cả nước từ trung ương đến địa phương mà không
gặp những cản trở lớn.
Đó cũng là một thành công điển hình của Đảng ta trong việc giải quyết quá trình xác lập quyền lực và giải quyết
vấn đề cơ bản và chủ yếu nhất của một cuộc cách mạng đó là vấn đề chính quyền.

Cách mạng tháng Tám thành công để lại nhiều ý nghĩa lịch sử, cụ thể:

PAGE 22
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở
ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc
hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người
dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành
một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã
hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. 

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;. Là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-
Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn
năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh của cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. 

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc
thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do
một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích
yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa
cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nổi bật là:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và
dân chủ, chống đế quốc và phong kiến.

Ngay từ khi Đảng ta mới thành lập, trong “Chính cương vắn tắt” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định
phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản. Chính từ phương hướng đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành chính quyền, xuất
phát từ thực tế nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, nổi lên hàng
đầu, Đảng đã linh hoạt trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa chống đế quốc và phong
kiến, trong đó xác định đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp thực hiện từng
bước thích hợp ở từng giai đoạn, tùy thuộc vào tiến trình giải phóng dân tộc. Chính sự linh hoạt trong giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa chống đế quốc và phong kiến trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đã đáp ứng đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách của toàn dân tộc và đã giúp cho Đảng huy động được sức mạnh
của toàn dân tộc cùng quyết tâm chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.

Thứ hai, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững
chắc của khối liên minh công - nông, đấu tranh vì độc lập, tự do.

Thấm nhuần và phát triển sáng tạo luận điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng Nhân dân trong
lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, ngay từ khi mới thành
lập và lãnh đạo Nhân dân đấu tranh cách mạng, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất. Từ
năm 1930 đến năm 1941, qua nhiều chặng đường thể nghiệm xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đặc biệt với sự ra
đời của mặt trận Việt Minh (năm 1941) đã đảm bảo cho khối đại đoàn kết dân tộc được tạo dựng vững chắc và sâu
rộng. Với chủ trương đúng đắn là “liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng
chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập...”1, cùng phương thức tổ chức
đa dạng, phong phú, mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp Nhân dân đứng
vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính
quyền về tay Nhân dân.

PAGE 23
Thứ ba, kịp thời nắm bắt thời cơ, chủ động, sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.

Thời cơ là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong nghệ thuật chỉ đạo cách mạng. Muốn có thời cơ thì phải biết
tạo ra thời cơ và khi thời cơ đến thì phải tận dụng và tranh thủ thời cơ, không được bỏ lỡ. Cuộc tổng khởi nghĩa giành
chính quyền Tháng Tám 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ
khởi nghĩa của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc nắm bắt thời cơ được thể hiện ngay khi Đảng đưa ra những dự báo về
tình thế cách mạng để dân tộc Việt Nam vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Khi phát xít Nhật nổ súng lật đổ
thực dân Pháp ở Đông Dương (ngày 9-3-1945), với chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày
12-3-1945), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng đã nhận định tình hình và dự đoán hai tình huống có thể
diễn ra: thứ nhất là, quân đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; thứ hai là, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Và
tình hình đã diễn ra đúng như dự đoán thứ hai của Đảng ta, ngày 14-8-1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng
minh vô điều kiện đã khiến cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, đồng thời chính phủ thân Nhật ở Việt
Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt. Đến đây, kẻ thù của cách mạng Việt Nam đã suy yếu, không còn có khả năng thống
trị như cũ được nữa, thời cơ “ngàn năm có một” cho chúng ta giành chính quyền đã xuất hiện, đòi hỏi chúng ta phải
hành động mau lẹ và kiên quyết. Nếu không kịp thời phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền thì “vạn năm” cũng
không thể được bởi lúc này quân Tưởng và Anh đang sẵn sàng nhảy vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật nhưng
thực chất là để thực hiện âm mưu mới của chủ nghĩa đế quốc trên danh nghĩa đồng minh. Trước tình thế vô cùng khẩn
cấp và thuận lợi đó, Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ từ
ngày 14 đến ngày 28-8-1945, với sự kết hợp linh hoạt các hình thức, phương pháp đấu tranh cả đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang, tuyên truyền kết hợp với bạo lực cách mạng, nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, cuộc Tổng khởi nghĩa
đã giành thắng lợi một cách nhanh, gọn, không đổ nhiều máu và thành công triệt để.

Thứ tư, xây dựng Đảng vững mạnh, trung thành vô hạn với dân tộc và giai cấp.

Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lúc đó Đảng ta mới 15 tuổi, với gần 5.000 đảng viên, nhưng đã lãnh đạo toàn dân
tộc làm cuộc cách mạng giành thắng lợi. Thành công đó là nhờ Đảng được xây dựng trên nền tảng Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ sáng suốt, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức. Đảng đã nắm vững thời cơ, kiên định, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Đặc biệt, Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương
mẫu, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân; luôn gắn bó mật thiết với
Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng và đi theo. Nhờ đó, khi Đảng kêu gọi Nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng thì
muôn người như một, đoàn kết thành sức mạnh vô cùng to lớn đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, đưa dân
tộc bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đưa dân tộc Việt Nam đứng vào hàng ngũ
những dân tộc tiên phong trong đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phần 2. Kháng chiến 1945-1975 (trình bày quan điểm, vận dụng, lí giải)

Câu 1: Vì sao nói Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”

Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc chiến thắng nghiêng về phe đồng minh, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa
trên thế giới ra đời trở thành hệ thống vững chắc trên thế giới. Tuy nhiên, chiến tranh cũng đã tàn phá nặng nề kể
cả các nước tham chiến và bị chiến, Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trong khi đó Mỹ giàu lên nhờ buôn
bán vũ khí trong chiến tranh và ít chịu ảnh hưởng của chiến tranh và Mỹ có tư tưởng muốn làm bá chủ thế giới do
đó Mỹ đã dùng tiền mua chuộc Pháp, Anh. Đồng thời thực hiện kế hoạch Macsan can thiệp sâu hơn vào Đông
Dương.
Năm 1949 cách mạng Trung Quốc thắng lợi, nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời đã giúp đỡ tận tình Việt
Nam. Sau thành công của cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Ngay từ khi ra đời,
nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn, có thể nói rằng: “Vận mệnh nước ta như ngàn cân treo sợi tóc”.
Khó khăn:

PAGE 24
Về ngoại giao: Chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta kể cả Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa làm cho chúng ta cô lập với thế giới nên không thể tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế.
Chính quyền non trẻ thiếu kiến thức và trình độ quản lý. Lực lượng phản động trong nước và quốc tế ráo riết
chống phá cách mạng. Theo quy định của hiệp định Postdam.
Cuối tháng 8 đầu tháng 9 từ vĩ tuyến 16: Miền Bắc 20 vạn quân Tưởng lấy cớ giải giáp quân Nhật tiến vào nước ta
theo con đường Móng Cái, Lào Cai, đằng sau Tưởng là đế quốc Mỹ với âm mưu đặt Đông Dương dưới chế độ uỷ
trị. Theo sau quân Tưởng là tổ chức Việt gian phản động Việt Quốc, Việt Cách về chống phá cách mạng, Việt
Quốc, Việt Cách lập chính quyền ở Móng Cái, Hồng Gai, Lào Cai.
Lực lượng quân Tưởng vào Việt Nam thực hiện âm mưu.. lật đổ chính quyền cách mạng thành lập chính quyền tay
sai nguy cơ rất lớn đe doạ nền độc lập của nước ta. - Đầu tháng 9 năm 1945 ở phía Nam có khoảng 1 vạn quân
Anh vào rải rác quân đội Nhật đã đồng loã với thực dân Pháp xâm lược nước ta. 23-9-1945 thực dân Pháp được sự
giúp đỡ của Anh xâm lược trở lại nước ta. Ngoài ra ta còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ rải rác sẵn sàng thực hiện
theo lệnh của Tưởng và Anh chống phá cách mạng của ta. Ở Việt Nam có các lực lượng thân Pháp cũng nổi lên
chống phá cách mạng hết sức quyết liệt. Lôi kéo nhân dân chia rẽ dân tộc tôn giáo
Mặc dù đế quốc mâu thuẫn nhau về quyền lợi nhưng chúng đều thống nhất ở mục tiêu diệt cách mạng Đông
Dương bóp chết chính quyền non trẻ ngay trong thời kỳ còn trứng nước.
Về quân sự: Lực lượng quân đội chưa có đủ thời gian và điều kiện phát triển lực lượng vũ trang và quân đội chính
quy. Sau cách mạng tháng 8 lực lượng quân đội chính quy của ta chỉ có khoảng 5 nghìn người với vũ khí thô sơ.
Tài chính kinh tế: Do chính sách cai trị khắc nghiệt của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã để lại hậu quả hết sức
nặng nề: Ruộng đất hoang hoá, công thương nghiệp đình đốn, công nhân không có việc làm, hàng hoá khan hiếm,
nhân dân ta vừa trải qua nạn đói 1945. Nguy cơ nạn đói mới đe doạ, sản xuất nông nghiệp chưa được phục hồi,
năm 1946 lại xảy ra hạn hán đe doạ đời sống nhân dân. Tài chính cạn kiệt, ngân khố chống rỗng, thuế chưa thu
được.
Về văn hoá xã hội: Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp nên sau cách mạng nước ta có hơn 95% dân số mù
chữ, đồng thời tàn dư của chế độ cũ hết sức lỗi thời các hủ tục lạc hậu diễn ra phổ biến.
Như vậy: Sau cách mạng tháng 8 đất nước ta, dân tộc ta đứng trước tình thế vô cùng hiểm nghèo, ta vừa giành
được chính quyền lại đứng trước nguy cơ mất chính quyền vận mệnh dân tộc chẳng khác nào: “Ngàn cân treo sợi
tóc” giữ vững chính quyền là điều không tưởng nhưng bằng tài năng sáng suốt Đảng đã lạnh đạo nhân dân vượt
qua những khó khăn này
Biện pháp:
Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính :
Xây dựng chính quyền cách mạng :
Chính trị :
Ngày 06/01/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu bầu Quốc hội.
Ngày 02/03/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu, lập ra Ban dự thào Hiến pháp.
Ngày 09/11/1946: Ban hành Hiến pháp đầu tiên.
Các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ bầu cử hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) theo nguyên tắc
phổ thông đầu phiếu.
Quân sự :
Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam giải phóng quân đổi thành Vệ quốc đoàn (9/1945), rồi Quân đội
quốc gia Việt Nam (22/ 5/1946). Cuối năm 1945, lực lương dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người.
Giải quyết nạn đói:
Biện pháp cấp thời: Hồ Chủ tịch kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “ Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”.
Quyên góp, điều hòa thóc gạo giữa các địa phương trong cả nước, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ, không dùng
gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu.
Biện pháp lâu dài : Tăng gia sản xuất “Tấc đất tấc vàng”, “ Không một tấc đất bỏ hoang”. - Bỏ thuế thân và các
thứ thuế vô lý. Giảm tô, thuế ruộng đất 25 %, chia lại ruộng đất công nên sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được
phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi.
Giải quyết nạn dốt : Ngày 8/ 9/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh lập Nha Bình dân học vụ, kêu gọi nhândân xóa
nạn mù chữ. Đến ngày 8/9/1946, trên toàn quốc gần 76 nghìn lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người .
Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm khai giảng, nội dung và phương pháp giáo dục được đổi mới theo
tinh thần dân tộc dân chủ.
PAGE 25
Giải quyết khó khăn về tài chính : Kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước qua “Quỹ độc
lập” và “Tuần lễ vàng”, thu được 370 kg vàng, 20 triệu đồng vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng vào “Quỹ đảm phụ
quốc phòng”.
Ngày 31/01 /1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.
Ngày 23/11/1946. Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước.
Đấu tranh chống ngoại xâm, nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng :
Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở miền Nam :
Ngày 02/09/1945, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “ngày độc lập”, Pháp xả súng vào
đám đông là nhiều người chết và bị thương. Đêm 22 rạng sáng 23/09/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp
đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộvà cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, xâm lược nước ta lần thứ hai .
Quân dân Nam Bộ nhất tề đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược, bao vây Pháp trong thành phố. Từ 5/10/1945,
Pháp phá vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch lãnh đạo cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung bộ kháng chiến: huy động
các “đoàn quân Nam tiến” sát cánh cùng nhân dân Nam Trung Bộ chiến đấu; tổ chức quyên góp giúp nhân dân
Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
Đấu tranh với Trung hoa Quốc dân Đảng và bọn phản cách mạng ở miền Bắc:
Đối với quân Trung Hoa Quốc dân đảng. Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch chủ trương tạm thời hòa hoãn, tránh
xung đột với quân Trung Hoa Quốc dân đảng.
Quốc hội khóa I đồng ý: Cho tay sai Tưởng 70 ghế trong Quốc hội cùng 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên
hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước.
Kinh tế: Cung cấp một phần lương thực thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, nhận tiêu tiền Trung Quốc.
Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai:ta kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của
chúng, ban hành một số sắc lệnh trấn áp bọn phản cách mạng.
Ý nghĩa: Hạn chế mức thấp nhất các hoạt động chống phá của Trung Hoa Quốc dân đảng và tay sai, làm thất bại
âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng .
Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Quốc dân đảng ra khỏi nước ta:
Nguyên nhân việc ta hòa hoãn với thực dân Pháp (Hoàn cảnh ký kết Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp 06/03/1946) :
Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Quốc dân đảng ký Hiệp ước Hoa - Pháp, theo đó Pháp nhượng một số quyền
lợi kinh tế, chính trị cho Trung Hoa để thay quân Trung Hoa gải giáp quân Nhật ở Bắc Kỳ.
Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, hoặc
hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù. Đảng quyết định chọn con
đường hòa hoãn với Pháp, ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.
Nội dung Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946: Pháp công nhận nước Việt Nam là quốc gia tự do, có Chính phủ, nghị viện,
quân đội, tài chính riêng và là thành viên của Liên bang Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp.
Chính phủ Việt Nam thỏa thuận cho 15.000 quân Pháp giải giáp quân Nhật ở miền Bắc · Hai bên ngừng xung đột ở
miền Nam, tạo thuận lợi đi đến đàm phán chính thức
Ý nghĩa :
Ta tránh được việc phải đương đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Quốc dân đảng và
tay sai ra khỏi nước ta. Có thêm thời gian hòa bình để củng cố, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài chống
Pháp.
Tạm ước Việt - Pháp ngày 14 /9/1946 - Sau hiệp định Sơ bộ, Pháp tăng cường các hoạt động khiêu khích, chống
phá ta, quan hệ Việt - Pháp căng thẳng, có nguy cơ xảy ra chiến tranh. Hồ Chủ tịch ký với Pháp Tạm ước
14/09/1946, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây
dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.
Ý nghĩa của những biện pháp trên đối với cuộc kháng chiến chống Pháp:
Đề ra chủ chủ trương sáng suốt, tài tình (cứng rắn về nguyên tắt, mềm dẻo về phương pháp, biết lợi dụng mâu
thuẫn kẻ thù, không cho chúng tập trung lực lượng chống ta…) đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, chuẩn bị sẵn
sàng bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp.
Xây dựng và củng cố được chính quyền cách mạng từ trung ương đến địa phương – lực lượng chỉ đạo kháng chiến
sau này.
Xây dựng và củng cố được lực lượng kháng chiến (vệ quốc đoàn, dân quân, tự vệ). Xây dựng được cơ sở kinh tế -
xã hội phục vụ kháng chiến.
Thắt chặt hơn nữa khối đoàn kết - kiến quốc. Củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng.
PAGE 26
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

KHÁC:

Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới với nhiều thuận lợi căn bản và
khó khăn chồng chất.

Thuận lợi về quốc tế là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu vực và thế giới có những sự thay đổi lớn
có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được
sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao.

Thuận lợi ở trong nước là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp
bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong
cả nước. Đặc biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ
sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Việt Nam. Quân đội quốc gia và lực lượng Công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng
và phát huy vai trò đối với cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.

Khó khăn là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra
sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các
nước lớn, không có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên
ngoài. Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi,
khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.

Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém
về nhiều mặt, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm
trọng. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông
nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng, các hủ tục lạc
hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu
năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay
trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào
cuộc mít tinh mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.

Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh- Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ
giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật
giúp sức quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng ngày 23-9-
1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 8-1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng
Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh
nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm
mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội
Nhật Hoàng thua trận chưa được giải giáp.

Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi
tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.

Trước tình hình đó, ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25-11-1945, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên
của cách mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới
và trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” , nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc
giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”, mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ
yếu, trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân
dân”.

Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời của cách mạng Việt Nam,
trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp,
PAGE 27
động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài, kiên định nguyên tắc độc lập về
chính trị, về ngoại giao phải đặc biệt chú ý “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”, đối với
Tàu Tưởng nêu chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”. Về
tuyên truyền, hết sức kêu gọi đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược, “đặc biệt chống mọi mưu mô phá
hoại chia rẽ của bọn Trốtxkit, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng ” v.v.

Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc đã giải đáp
trúng, đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, có tác dụng định hướng tư tưởng, trực
tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai
đoạn đầy khó khăn, phức tạp này.

Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào lớn, các cuộc vận động, như:
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với khẩu hiệu tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa, lập hũ gạo tiết kiệm,
tổ chức Tuần lễ vàng, gây Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến,...

Chính phủ bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%. Ngay năm đầu,
sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt, việc sửa chữa đê điều được khuyến khích, tổ chức khuyến nông, tịch thu
ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đất hoang hóa chia cho nông dân nghèo. Sản xuất lương thực tăng lên rõ rệt, cả về
diện tích và sản lượng hoa màu. Một số nhà máy, công xưởng, hầm mỏ được khuyến khích đầu tư khôi phục hoạt động
trở lại. Ngân khố quốc gia được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được
đẩy lùi, đời sống nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên kháng chiến ở
Nam Bộ.

Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ mới,
góp phần tích cực xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng và Hồ Chí
Minh chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt,
vận động toàn dân xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới để đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu
cản trở tiến bộ. Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới, thành lập Trường Đại học Văn
khoa Hà Nội. Đến cuối năm 1946, cả nước đã có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Đời sống
tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo
vệ chính quyền cách mạng.

Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng: Để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam, Đảng
và Hồ Chí Minh đã chủ trương sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu phiếu để bầu ra
Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, cả nước tham gia cuộc bầu cử và có hơn 89% số cử tri
đã đi bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên, đồng bào Nam Bộ và một số nơi đi bỏ phiếu dưới làn đạn của giặc Pháp, nhưng tất
cả đều thể hiện rõ tinh thần “mỗi lá phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”, làm thất bại âm mưu chia rẽ, lật đổ của
các kẻ thù. Bầu cử thành công đã bầu ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3-1946 và lập ra Chính phủ chính thức, gồm
10 bộ và kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Quốc hội đã nhất trí bầu Ban Thường
trực Quốc hội do cụ Nguyễn Văn Tố làm Chủ tịch.

Các địa phương cũng tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn Ủy ban hành chính các cấp. Ban soạn
thảo bản Hiến pháp mới được thành lập do Hồ Chí Minh làm trưởng ban và tới kỳ họp thứ 2 (9-11-1946), Quốc hội đã
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946). Xây dựng đi đôi
với bảo vệ và làm cho bộ máy chính quyền thực sự dân chủ, trong sạch, trong thư gửi cho các Ủy ban nhân dân, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” . Và yêu cầu
chính quyền các cấp phải khắc phục và bỏ ngay những thói hư, tật xấu, như: tư túng, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ,
kiêu ngạo ...

Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập trung chống Pháp ở Nam
Bộ. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập do Huỳnh Thúc Kháng làm hội trưởng, Tôn Đức
Thắng làm hội phó, thành lập Hội đồng cố vấn Chính phủ do Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) đứng đầu, thành lập
thêm một số đoàn thể xã hội mới, tiếp tục củng cố các tổ chức đoàn thể của Mặt trận Việt Minh, tổ chức Hội nghị Văn
hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam ở Tây Nguyên... Lực lượng
vũ trang cách mạng được củng cố và tổ chức lại, tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực, thuốc men, củng cố các
cơ sở và căn cứ địa cách mạng cả ở miền Bắc, miền Nam. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính quy,
lực lượng công an được tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân, tự vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí Nam…

PAGE 28
Bên cạnh việc phải giải quyết các vấn đề trong nước cũng như xây dựng chính quyền non trẻ, Đảng còn phải tổ chức
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Sau vụ
khiêu khích trắng trợn ngày 2-9-1945 ở Sài Gòn, thực dân Pháp ráo riết thực hiện mưu đồ xâm lược Việt Nam. Đêm
22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Cuộc kháng
chiến chống xâm lược của nhân dân Nam Bộ bắt đầu. Sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, Ủy ban nhân
dân, Ủy ban kháng chiến và đại diện Tổng bộ Việt Minh đã nhanh chóng thống nhất, đề ra chủ trương hiệu triệu quân,
dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống xâm lược Pháp. Trên địa bàn thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn các đơn vị bảo vệ
Trụ sở Ủy ban nhân dân, Sở tự vệ, nhà Bưu điện thành phố đã kiên quyết chiến đấu anh dũng. Ngày 25-10-1945, Hội
nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái Bè (Mỹ Tho) quyết định những biện pháp cấp bách củng cố
lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô, tổ chức và phát động toàn dân kháng
chiến, kiên quyết đẩy lùi cuộc tấn quân của quân Pháp, ngăn chặn bước tiến của chúng...

Để làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng và tay sai, Đảng, Chính phủ Hồ Chí
Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với
quân Tưởng, đề ra nhiều đối sách khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ trang
của quân Tưởng, thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách của quân Tưởng và các
tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách. Để tránh mũi nhọn tấn công
của các kẻ thù, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật bằng việc ra “Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý
tự giải tán, ngày 11-11-1945”, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mác ở Đông Dương” , Chính phủ Việt Nam đồng ý việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết cho 20
vạn quân đội Tưởng khi ở Việt Nam và nhân nhượng cho quân Tưởng được sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ
song hành cùng đồng bạc Đông Dương. Sau khi bầu cử thành công, Hồ Chí Minh chấp nhận mở rộng thành phần đại
biểu Quốc hội, đồng ý bổ sung thêm 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt Cách, Việt
Quốc, cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người không đảng
phái và cả một số phần tử cầm đầu tổ chức phản động tay sai của quân Tưởng, trong đó có nhiều ghế Bộ trưởng quan
trọng,…

Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký kết bản
Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp ước Hoa-Pháp, ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp
đưa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước, hạn
cuối cùng là ngày 31-3-1946. Và đổi lại Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và
Việt Nam. Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp lên nền độc lập của Việt Nam, hợp pháp
hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp ra miền Bắc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình thế vô
cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực
cách mạng vẫn còn non kém.

Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã nhận định,
đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp và Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3-1946. Trong
đó nêu rõ: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình, biết người, nhận một
cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng” và chủ trương tạm thời
“dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt
Nam, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu trắng, trừ những hành động
khiêu khích ly gián ta với Pháp” , thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6-3-1946,
tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Cộng
hòa Pháp tại Hà Nội là Jean Sainteny (J.Xanhtơny) bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định sơ bộ nêu rõ: Chính phủ Pháp công
nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang Đông
Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp, về phía Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn
quân đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm, hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để
giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp…

Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến
phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát triển của tình hình. Chỉ thị nêu rõ: Cần phải tiếp tục nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và nhất
định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta, nhất là đối với đồng bào
Nam Bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận, cần đẩy mạnh công tác xây dựng đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ chính trị
và quân sự, gây dựng cơ sở đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến tháng 12-1946, Đảng đã có sự phát triển thêm
về chất lượng, số lượng đảng viên tăng lên tới hơn 20.000 người.

Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng, Chính phủ tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì,
kiên quyết, đầy khó khăn, phức tạp trong suốt năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19-4 đến
ngày 10-5-1946, đại diện Chính phủ Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ ngày 31-5-1946, theo

PAGE 29
lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính phủ Việt Nam thăm chính
thức nước Cộng hòa Pháp, chuyến thăm kéo dài hơn 4 tháng và đã thu được nhiều thành công về mặt đối ngoại, làm
cho dư luận Pháp, nhân dân Pháp và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu tranh chính nghĩa, vì nền độc lập
thực sự của Việt Nam. Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi
thăm thân thiện và tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên Việt-Pháp tại Hội nghị Fontainebleau, (Phôngtenơblô,
Paris-Pháp) từ ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946, song không thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp. Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng và để đảm bảo an toàn cho phái đoàn đại biểu
Việt Nam rời Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Marius Moutet (M.Mutê) đại diện Chính phủ
Pháp một bản Tạm ước 14-9 tại Marseill (Mácxây, Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh
tế, văn hóa ở Việt Nam, hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán…

Trong khi đó ở Việt Nam, thời hạn quân đội Tưởng phải rút về nước đã hết (trước ngày 31-3-1946), nhưng quân
Tưởng vẫn trì hoãn kéo dài, các thế lực thực dân hiếu chiến Pháp ở Hà Nội móc nối, câu kết với tay sai phản động Đại
Việt-Quốc dân đảng, ráo riết chuẩn bị một âm mưu thâm độc đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam, dự định vào ngày
14-7-1946. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, sáng suốt của Đảng và Chính phủ do cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền
Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ lãnh đạo, rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã khôn khéo, mưu
trí, sáng tạo, quyết đoán tổ chức một cuộc đột nhập, tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt- Quốc dân đảng ở số
nhà 132 Duvigneau (Đuyvinhô nay là phố Bùi Thị Xuân -Hà Nội), nhanh chóng khống chế bọn phản động có vũ trang,
tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động, trong đó có bản Kế hoạch tổ chức làm đảo chính lật đổ
chính phủ Hồ Chí Minh do Trương Tử Anh soạn thảo, kịp thời kết thúc Vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu, (nay Nguyễn
Gia Thiều, Hà Nội). Với thắng lợi quan trọng này ta đã đập tan hoàn toàn mưu đồ thâm độc lật đổ chính quyền cách
mạng của bọn tay sai phản động câu kết với thực dân Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng.

Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh thần quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ
và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng
non trẻ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam
Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ thù, củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy
chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám, tạo thêm thời
gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa
vào sự ủng hộ vật chất là chính trị, tinh thần của toàn dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đó là những thành công và
kinh nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, giai đoạn 1945-1946.

Câu 2. Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết quả của cuộc chiến
tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”

Nếu có liên hệ VN hiện nay: https://khotrithucso.com/doc/p/phan-tich-noi-dung-toan-dan-toan-dien-lau-dai-va-dua-


vao-1539176

Cách đây hơn 60 năm, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Trong đó, Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta là: “Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh
sinh” - Thể hiện qua lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi
của đồng chí Trường Chinh.
Kháng chiến toàn dân:
Đường lối này xuất phát từ truyền thống "toàn dân đánh giặc" của dân tộc ta. Từ quan điểm "cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng" của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng "chiến tranh nhân dân" của chủ tịch Hồ Chí Minh.

PAGE 30
Và bởi "kháng chiến toàn diện" nên cần phải kháng chiến toàn dân. Nhằm huy động sức mạnh toàn dân, lực lượng vũ
trang làm nòng cốt, tạo nên thế trận cả nước đánh giặc. Để phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc, Đảng tổ chức, tập
hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái,... cùng tham gia một mặt trận dân tộc thống
nhất. Có lực lượng  toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến có đoạn: "Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc".
Kháng chiến toàn diện:
Do địch đánh ta toàn diện, không chỉ trên mặt trận quân sự mà còn trên phương diện kinh tế, văn hoá, chính trị, ngoại
giao nên ta cũng phải thực hiện kháng chiến toàn diện trên tất cả các mặt, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.
Nhờ kháng chiến toàn diện mới tạo điều kiện để kháng chiến toàn dân.
Về quân sự, ta chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích.
Về chính trị và ngoại giao: Năm 1948, tại Nam Bộ, lần đầu tiên ta tiến hành bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp xã đến
cấp tỉnh, ở nhiều nơi Hội đồng Nhân dân và ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn.
Tháng 6 - 1949, Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thống nhất hai tổ chức từ cơ sở đến trung ương. 
Ngày 14 - 1 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng đặt
quan hệ ngoại giao với bất cứ nước lao tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Sau lời tuyên bố đó, nhiều nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta : đầu tiên là Trung Quốc, tiếp
đó là Liên Xô, rồi lần lượt các nước dân chủ nhân dân khác.
Đảng ta đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh to lớn của nhân dân từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ
thành thị đến nông thôn, từ vùng tự do đến vùng tạm bị chiếm, phát huy được sức mạnh của các yếu tố nội lực, truyền
thống và con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc.
Về kinh tế, ta chủ trương vừa ra sức phá hóa kinh tế địch, vừa đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ nền kinh tế dân chủ nhân
dân có khả năng tự cấp tự túc. Mặt trận kinh tế trong suốt 9 năm kháng chiến được Đảng và Chính phủ đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp nhằm khuyến khích phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ban hành nhiều sắc lệnh giảm
tô, giảm tức, xóa nợ, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất, chú trọng phát triển ngành công nghiệp, nhất là công
nghiệp quốc phòng, đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng thiết yếu… Nhờ đó, nền kinh tế thu được những thành tựu
quan trọng, tạo nền tảng để huy động nguồn lực cho kháng chiến.
Về văn hóa, giáo dục: Tháng 7 - 1950 Đảng quyết định thay hệ thống giáo dục 12 năm bằng hệ thống giáo dục 9 năm,
hướng giáo dục phục vụ kháng chiến và kiến quốc. Đảng chủ trương vừa đánh đổ văn hóa ngu dân, nô dịch, ngoại lai
phản động, vừa xây dựng văn hóa mới theo ba nguyên tắc “Dân tộc, khoa học, đại chúng”, tạo tiền đề và cơ sở để tiến
lên xây dựng nền văn hóa mới, tiến bộ. Nền giáo dục mới không ngừng phát triển, đạt được mục tiêu đào tạo con
người mới, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là xây dựng được đội ngũ cán bộ, trí thức có đủ phẩm chất, năng lực đáp
ứng nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao tinh
thần dân tộc, yêu chế độ mới, cổ vũ, động viên quân và dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ dồn sức cho chiến thắng.
Kháng chiến trường kì:

Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn,...
nhằm làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày càng hạn chế, chỗ yếu của ta
từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày càng được phát huy. Mặt khác, âm mưu của địch là "đánh nhanh
thắng nhanh", lực lượng chênh lệch, địch mạnh hơn ta về nhiều mặt, ta chỉ hơn địch về tinh thần chính nghĩa. Do đó ta
phải tiến hành đánh lâu dài. Vừa đánh vừa phát triển lực lượng, làm tiêu hao sinh lực địch, gây cho chúng những khó
khăn khi phải đánh lâu dài tại một đất nước xa xôi, không phù hợp về lương thực, khí hậu,...

Đánh lâu dài là để đoàn kết, động viên sức mạnh toàn dân, bồi dưỡng sức mạnh toàn dân, làm cho ta càng đánh càng
mạnh, để cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.
Kháng chiến tự lực cánh sinh:
Đảng ta hiểu rõ mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó, yếu tố chủ quan là quan trọng nhất. Chỉ
có tự thân nỗ lực mới phát huy được sức mạnh của mình, bao gồm đấu tranh trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục ngoại giao,... nhằm phát huy khả năng của mỗi người trên từng lĩnh vực, tạo ra sức mạnh tổng
hợp.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế:
Vì là cuộc chiến tranh chính nghĩa, giải phóng dân tộc khỏi đế quốc xâm lược. Vì vậy, ta cần kêu gọi và tranh thủ sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
PAGE 31
Mặc dù coi trọng thuận lợi và sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhưng vận mệnh dân tộc ta phải do dân ta quyết định, sự giúp
đỡ từ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ.
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả dân tộc ta đoàn kết một lòng chiến đấu chống thực dân pháp
xâm lược, giành thắng lợi vẻ vang
Chuyển đất nước vào thời chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài
Hà Nội là nơi thực dân Pháp có ý định đánh úp cơ quan đầu não và tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta đã trở thành
chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Sau đòn tiến công chủ động, đồng loạt và bất ngờ
lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, quân và dân Thủ đô tiếp tục triển khai thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc.
Qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho cơ
quan đầu não, tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân dân.
Quân và dân từ Bắc vĩ tuyến 16 trở vào cũng giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam bộ, Nam Trung bộ và
Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực
lượng chi viện cho Trung bộ và bắc bộ. Đồng thời, chúng ta thực hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng, máy
móc vào An toàn khu. Đến tháng 3-1947, cơ quan của Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt
Bắc an toàn. Việt Bắc trở thành Thủ đô của kháng chiến. Ở các địa phương cũng làm tốt việc di chuyển cơ quan vào
các vùng nông thôn hoặc những nơi rừng núi, nhân dân triệt để thi hành chính sách “vườn không nhà trống”, tản cư ra
vùng tự do.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với ý chí “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, đồng bào các dân tộc trong
cả nước, đặc biệt là đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260 nghìn dân công (tính ra
thành 14 triệu ngày công), 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về bảo đảm vật chất,
đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Chỉ tính
riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận là hơn 20 nghìn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, hơn 62
tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô.
Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, giành thắng lợi vẻ vang
Ở mặt trận quân sự, Đảng đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận “cả nước đánh giặc” với khẩu hiệu “Mỗi người dân là
một chiến sĩ”, “Mỗi xóm làng là một pháo đài”, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân. Thế trận chiến
tranh nhân dân của ta phát triển ngày càng vững chắc, rộng khắp, khiến đội quân xâm lược không những phải đối mặt
với bộ đội chủ lực mà còn phải đối diện với thế trận toàn dân đánh giặc. Thế trận đó tạo thành “tấm lưới thiên la địa
võng” khổng lồ thường xuyên uy hiếp, vây hãm quân thù, khiến cho quân Pháp rơi vào những mâu thuẫn không sao gỡ
nổi.
Khi cơ hội tìm kiếm giải pháp hòa bình không còn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ động mở đầu cuộc
kháng chiến đúng thời điểm và kịp thời chuyển cả nước vào thời chiến, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân.
Về phía Pháp, sau khi được tăng cường lực lượng, chúng mở rộng vùng chiếm đóng. Thu - Đông năm 1947, Bộ Chỉ
huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ
quan đầu não, ráo riết thực hiện đòn tấn công, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta, kết thúc sớm
chiến tranh. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, sáng tạo của Trung ương Đảng, quân, dân ta chiến đấu ngoan cường,
giành thắng lợi vẻ vang, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai
đoạn mới cho cuộc kháng chiến.
Các nhà cầm quân Pháp buộc chuyển sang “đánh kéo dài”, “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh”, đồng thời tiến hành “Chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Đến năm 1950, lực
lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, mở rộng và củng cố căn cứ
địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước Xã hội chủ nghĩa..
Lợi dụng sự sa lầy chiến tranh Đông Dương, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp, can thiệp sâu nhằm âm mưu
ngăn chặn phong trào cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, sẵn sàng thay Pháp để kéo dài chiến tranh.
Trước tình hình đó, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng
Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn

PAGE 32
toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng
trên các chiến trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào,…
Quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng củng cố, lực lượng vũ
trang ba thứ quân được tăng cường, bộ đội chủ lực ngày càng mạnh, hậu phương được củng cố là chỗ dựa. Hòng xoay
chuyển tình thế, Pháp lập kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động, tiến tới tiêu diệt bộ đội chủ lực ta để kết thúc
chiến tranh.
Trước sự chỉ đạo chủ động của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh, sự chiến đấu kiên cường của quân và dân ta, kế
hoạch Nava thất bại, buộc Nava đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm khổng lồ để
tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Ta đã huy động 5 đại đoàn chủ lực bao vây tiến công địch và 26 vạn dân công liên tục.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, căn cứ quân sự lớn nhất của thực dân Pháp bị đập tan, tạo nên “cột mốc vàng” trong lịch
sử chống ngoại xâm, tạo điều kiện đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Miền Bắc
nước ta được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Câu 3: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là Đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng hai miền
Nam - Bắc

Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai
mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình
thống nhất nước nhà” .

Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị
quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,… .

Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền
Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.

Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng
miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước.

Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phương châm) kiên quyết giữ vững đường lối hòa
bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như
của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với
mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả
nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm
vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu
dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta,
Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.

Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại
hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là
quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên

PAGE 33
sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ
nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát
triển. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm
xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến
hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã
hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà.

Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công
thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã
hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.

Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhận thức về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, song
thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác
nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm
thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa
phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết
hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên
thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp để
dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của Đảng còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960), Đại hội lần thứ III của
Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật
chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng
một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu
thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Câu 4: Hiệp định Paris 1973 là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm: và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý kiến của anh/chị về nhận định trên.

Ngày 27- 01-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (gọi tắt là Hiệp định Pa-ri) được
ký kết. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của
nhân dân ta, đồng thời, khẳng định quyết tâm và tầm cao trí tuệ của ngoại giao Việt Nam.

Sức mạnh của “Quyết tâm chiến thắng”

Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, ngoại giao luôn được coi là một mặt trận quan trọng góp phần đánh
thắng các thế lực ngoại xâm. Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là thời kỳ đàm phán ký kết Hiệp

PAGE 34
định Pa-ri, ngoại giao ta đã phát huy vai trò là một mặt trận quan trọng, chủ động và tích cực đóng góp vào kết thúc
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Từ năm 1968 đến năm 1973, song hành với mặt trận quân sự và chính trị,
ngoại giao Việt Nam đã mở “Chiến dịch Hồ Chí Minh giữa lòng Pa-ri”, với quyết tâm sắt đá đi tới chiến thắng, dù gặp
vô vàn khó khăn. Đây là cuộc đối đầu quyết liệt nhất trong lịch sử thế kỷ XX, giữa Việt Nam - một dân tộc nhỏ bé với
Mỹ - một cường quốc hàng đầu thế giới, giữa một nền ngoại giao Việt Nam non trẻ, đang bắt đầu quá trình xây dựng,
phát triển với một nền ngoại giao Mỹ hùng hậu, có đội ngũ các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có kinh nghiệm hoạt
động quốc tế và có nền tài chính dồi dào.

Trong khi đó, bối cảnh quốc tế đang có nhiều phức tạp. Sự đối đầu giữa hai siêu cường Liên Xô - Mỹ lúc “căng
thẳng”, lúc “hoà hoãn” từ những toan tính về lợi ích quốc gia, khiến cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam bị tác
động không nhỏ. Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn (ở một số mặt) giữa Liên Xô và Trung Quốc lúc đó để chia rẽ các nước
trong phe xã hội chủ nghĩa và hạn chế sự ủng hộ, chi viện của các nước này (chủ yếu là của Liên Xô và Trung Quốc)
cho Việt Nam.

Trong bối cảnh và với tương quan lực lượng như vậy, ngày 13-5-1968, cuộc “đấu trí, đấu lý lẽ và đấu lực trên bàn đàm
phán” tưởng như không cân sức tại Pa-ri bắt đầu. Trong suốt quá trình đàm phán Hiệp định, dù có những thời điểm bế
tắc, rơi vào tình trạng “hai người điếc nói chuyện với nhau”, nhưng các nhà ngoại giao của ta vẫn không nản chí, kiên
trì đấu tranh và kiên quyết không nhượng bộ. Động lực chính giúp các nhà ngoại giao Việt Nam vượt qua mọi khó
khăn và hoạt động tích cực chính là vì lợi ích tối cao của dân tộc, là niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của
cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta.

Từ giữa năm 1972, khi đàm phán trên bàn hội nghị căng thẳng, chính quyền Mỹ ráo riết thực hiện chính sách “ngoại
giao con thoi”, tìm mọi cách thỏa hiệp với các nước lớn khác để cô lập Việt Nam, thực hiện đàm phán với ta trên thế
mạnh, ép Việt Nam nhượng bộ và chấp nhận những đòi hỏi phi lý mà phía Mỹ đưa ra. Thậm chí, để phá thế bế tắc trên
bàn đàm phán, từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972, Mỹ sử dụng máy bay B-52 ném 10 vạn tấn bom xuống các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ, trọng tâm là Hà Nội và Hải Phòng. Tuy nhiên, hành động thâm độc đó của phía Mỹ không đạt được kết
quả mong muốn. Ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã làm nên chiến thắng
lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”. Đây là đòn quyết định buộc Tổng thống Mỹ R.Ních-xơn phải tuyên bố ngừng
ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị được gặp đoàn đại biểu Việt Nam tại Pa-ri để đi đến ký kết Hiệp định,
chấm dứt chiến tranh.

Hiệp định Pa-ri được ký kết đã làm nức lòng nhân dân tiến bộ thế giới và khẳng định sức mạnh về quyết tâm chiến
thắng của Đảng, của dân tộc Việt Nam nói chung và của các nhà ngoại giao Việt Nam nói riêng.

Tầm cao trí tuệ ngoại giao Việt Nam

Thắng lợi của Hiệp định Pa-ri 1973, trước hết, bắt nguồn từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những nỗ lực phi thường, quyết tâm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc
lập, tự do, thống nhất đất nước của quân và dân ta trên các chiến trường. Bên cạnh đó, Hiệp định còn là kết tinh của
tiến trình đấu tranh chủ động, sáng tạo và đầy bản lĩnh, trí tuệ của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Trước hết, đó là kết quả của việc kiên trì nguyên tắc "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Nguyên tắc này đã được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra từ thời kỳ 1945 - 1946, được phái đoàn Việt Nam vận dụng một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt
trong suốt thời kỳ đàm phán tại Pa-ri. Trong đó, vấn đề “độc lập chủ quyền” và “toàn vẹn lãnh thổ” là nguyên tắc “bất
biến”. Đế quốc Mỹ đưa quân xâm lược miền Nam Việt Nam thì Mỹ phải chấm dứt xâm lược, rút quân ra khỏi Việt
Nam vô điều kiện là những yêu cầu ta kiên quyết đấu tranh trong suốt quá trình đàm phán, bất chấp những đe dọa, gây
sức ép từ phía Mỹ cả trên lĩnh vực quân sự lẫn ngoại giao hoặc mua chuộc về kinh tế. Kiên trì về nguyên tắc nhưng
mềm dẻo về sách lược, đó chính là “ứng vạn biến”. Chúng ta đã linh hoạt chấp nhận tồn tại hai chính quyền, hai lực
lượng quân đội ở miền Nam Việt Nam và đề cao nguyên tắc tự quyết. Đây là bước triển khai cụ thể của phương châm
“đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Hiệp định Pa-ri 1973 là kết quả
của việc vừa giữ vững nguyên tắc, vừa linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược của ngoại giao Việt Nam.

Hiệp định Pa-ri 1973 là kết quả của việc vận dụng nghệ thuật “vừa đánh, vừa đàm” . Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, ngay từ đầu, ngoại giao được Đảng ta xác định là một mặt trận song hành với mặt trận chính trị và mặt
trận quân sự, kết hợp chặt chẽ “vừa đánh, vừa đàm”. Một mặt, ngoại giao Việt Nam tích cực đẩy mạnh các hoạt động
đối ngoại, nhằm làm cho các nước xã hội chủ nghĩa hiểu và ủng hộ sách lược “ đánh - đàm” của Việt Nam. Mặt khác,

PAGE 35
chúng ta luôn tự chủ và vững vàng tiếp tục chủ động thế “đánh - đàm” khi Mỹ tìm cách phá hoại, cố tình hạ thấp vai
trò của Hội nghị Pa-ri, gây nên những bế tắc về ngoại giao. Trong suốt thời gian đàm phán tại Pa-ri, chúng ta luôn kịp
thời phát huy thắng lợi, tranh thủ mọi cơ hội để tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của các nước, bạn bè
yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đỉnh cao trong việc vận dụng thành công nghệ
thuật “đánh - đàm” của ngoại giao Việt Nam được thể hiện ở thời điểm tháng 3-1972, khi Mỹ đơn phương “ngừng
không thời hạn” hội nghị Pa-ri, ném bom trở lại miền Bắc với quy mô chưa từng có, nhằm buộc Việt Nam phải nhân
nhượng. Tuy nhiên, Trung ương Đảng vẫn chủ trương duy trì Hội nghị Pa-ri với mục tiêu làm diễn đàn tuyên truyền
để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế và kết hợp với chiến trường để đấu tranh với Mỹ về mặt ngoại giao. Quán
triệt chỉ đạo này, tại Pa-ri, phái đoàn Việt Nam đã chủ động, tích cực đấu tranh, đòi phía Mỹ phải nối lại đàm phán
theo hướng giải quyết toàn bộ về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Với nghệ thuật “đánh - đàm”, trong quá trình đàm
phán, Việt Nam đã có 05 lần kéo địch xuống thang. Trên thực tế, “giành thắng lợi từng bước” thì các nước có chiến
tranh đều thực hiện, song kéo đối phương xuống thang từng bước thì chỉ có tại cuộc đàm phán về Hiệp định Pa-ri
1973.

Hiệp định Pa-ri 1973 còn là kết quả về một nền ngoại giao “tâm công” của cha ông. Đấu tranh ngoại giao thông qua
mặt trận báo chí và vận động dư luận là một trong những điểm đặc sắc, thể hiện trí tuệ và tầm vóc của ngoại giao Việt
Nam, góp phần quan trọng để đi đến ký kết Hiệp định Pa-ri. Hội nghị Pa-ri kéo dài gần 05 năm, song thực chất thời
gian dành cho đàm phán chỉ khoảng 06 - 07 tháng, còn lại là đấu tranh dư luận. Chúng ta đã chủ động tổ chức 500
cuộc họp báo và hàng nghìn cuộc tiếp xúc với bạn bè Pháp và quốc tế để vận động dư luận, phát huy tính chính nghĩa
cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, thể hiện rõ thiện chí hòa bình, tinh thần ngoại giao nhân văn, thế mạnh đạo lý
của Việt Nam và nhận được sự ủng hộ rộng rãi trên khắp thế giới. Chúng ta đã “đưa chiến tranh vào trong lòng nước
Mỹ”, biến cuộc đấu tranh của nhân dân ta thành cuộc đấu tranh của nhân dân Việt - Mỹ, chống lại chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ. Có thể khẳng định rằng, trong lịch sử các phong trào đấu tranh tiến bộ trên thế giới, chưa từng
có một phong trào quốc tế nào lại rộng lớn đến mức hình thành một mặt trận bao trùm khắp năm châu, với sự tham gia
của nhiều tầng lớp, chính giới khác nhau trong xã hội, đặc biệt là có sự tham gia của rất nhiều trí thức có tên tuổi, có
tầm vóc quốc tế và có ảnh hưởng sâu rộng, với nhiều hình thức tập hợp lực lượng, đấu tranh phong phú và hiệu quả,
với những diễn đàn quốc tế lớn như là phong trào ủng hộ Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng Hiệp định Pa-ri 1973 vẫn để lại những bài học vô giá về đề cao chính nghĩa dân tộc
và ngọn cờ hòa bình, về giữ vững độc lập, tự chủ trong xử lý các vấn đề đối ngoại, về tạo thời cơ và tận dụng thời cơ,
về kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, về tranh thủ dư luận quốc tế, về kiên trì
giữ vững nguyên tắc với linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược, v.v. Và bao trùm lên tất cả là bài học về sự lãnh đạo sáng
suốt, bản lĩnh vững vàng của Đảng, vận dụng đúng đắn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong các vấn đề có liên
quan. Những bài học này vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo nhằm nâng cao bản
lĩnh, trí tuệ ngoại giao Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Qua những trình bày trên, em hoàn toàn đồng ý với nhận định: “Hiệp định Paris 1973 là kết quả của quá trình “vừa
đánh vừa đàm” và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

Phần 3. Xây dựng - từ 1975 tới nay (có 4 vấn đề: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, một trong 4 vấn đề sẽ
ra đề thi)
* Trình bày quan điểm của mình, vận dụng, lí giải nó như thế nào trong giai đoạn hiện tại, mình quan tâm chuyện đó
thế nào, thấy nó tốt hay xấu, tốt thì tốt hết chưa còn điểm gì chưa tốt không, nếu xấu thì xấu ở điểm nào.

Câu 1. Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

PAGE 36
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV 1976-1981 nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng Việt Nam giai đoạn mới:

Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song
cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra .

Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai
thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt” .

Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất, tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế
với các nước khác.

Chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến thời gian cơ
bản đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc
thời kỳ quá độ. Việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và
công nghiệp vượt quá khả năng thực tế… là những chủ trương nóng vội, không thực hiện được.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.

Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế với chủ trương khắc phục những khuyết
điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo
đó, Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được
miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm, quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất
có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.

Quá trình Đổi mới ở Việt Nam được khởi xướng bởi những người có tầm nhìn “đi trước thời gian”, và một trong
những người tiên phong của hành trình đó là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc, với câu chuyên “Khoán 10” làm
thay đổi vận mệnh của cả đất nước. Tại thời điểm Nghị quyết 68 ra đời và triển khai thực hiện, “khoán hộ” bị coi là
đốt cháy giai đoạn, không phù hợp với bối cảnh chung của đất nên được coi là một sự “vượt rào” trong phát triển nông
nghiệp thời bấy giờ. Tuy nhiên, sau 2 năm thực hiện “khoán hộ”, năng suất ở tỉnh Vĩnh Phúc tăng vọt. Đời sống của
đại bộ phận nhân dân trong tỉnh đã cải thiện rõ rệt. Điều này chứng tỏ, Nghị quyết trên đã nhanh chóng đi vào thực
tiễn. 
Chủ trương “khoán hộ” của cố Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc là một hướng đi tích cực trong tìm tòi cách thức quản lý mới
trong nông nghiệp, gắn lợi ích của người nông dân với kết quả lao động, dẹp bỏ những cánh đồng “cha chung không ai
khóc”, nhằm đem lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất nông nghiệp. Ông từng nói: “Xã viên không coi ruộng đất là của
mình nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng, phải để nông dân làm chủ mảnh đất của mình”.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ chức thí điểm, Ban Bí
thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã
nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu
hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán.
Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương
thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985, những hiện
tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Sau 5 năm 1975-1981, các tỉnh phía Nam đã cơ bản việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, phong kiến.
Ở miền Bắc, bước đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán. Tuy
nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập
khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ
cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí
điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng...

PAGE 37
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra, chiến tranh biên
giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ, các thế lực thù địch. Về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm
của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên. Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã tự phê bình về những khuyết điểm và sai lầm trước Đại hội V của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế 1982-1986:

Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình kinh tế nhiều khó khăn, thách
thức mới. Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Trong nước, khủng hoảng
kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.

Đại hội đề ra những quan điểm mới:

Nhiệm vụ trước mắt là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây
dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và
xuất khẩu. Kinh nghiệm của 5 năm 1976-1980 cho thấy phải cụ thể hoá đường lối của Đảng, vạch ra chiến lược kinh
tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”.

Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp
nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông
nghiệp hợp lý. Nhận thức đó phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về
lao động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên, tạo ra những tiền
đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.

Đại hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan điểm kết hợp kế
hoạch với thị trường. Công tác quản lý lưu thông, phân phối, vẫn tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm, vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công
nghiệp nặng một cách tràn lan, không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng
tiêu dùng…

Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế

Một số vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay:

Một là, phải đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do.

Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị Trung ương 7 (12-1984)
xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất
lương thực, thực phẩm. Nổi bật nhất là Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai
trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng, chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp,
lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm, giá
cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ,
xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp, bù lỗ, khắc phục tình trạng thả nổi trong định giá-quản lý giá. Thực
hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh
sang hoạch toán kinh doạnh xã hội chủ nghĩa. Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả
lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ
các khoản chi của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn công
tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản xuất
hàng hoá như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Cuộc điều
chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.

PAGE 38
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế. Đây là
bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của
Đảng:

Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương quá lớn về quy mô,
quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất
trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình
hình kinh tế-xã hội ngày càng không ổn định, chậm giải quyết căn bản các vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng,... và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.

Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và
nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho được ba chương trình
quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.

Đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần
thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải
sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay
đổi cả chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất,
vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.

Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản
lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật
kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá-tiền tệ, làm cho các đơn vị
kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức
năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế, phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống
nhất của Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ
sản xuất kinh doanh của cơ sở.

Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 Sai lầm, khuyết điểm lớn là không hoàn thành các mục tiêu kinh
tế - xã hội do Đại hội IV, V đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, sản xuất tăng chậm, không
ổn định. Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ, lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao
vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu,
sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh, hậu quả nặng nề
của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn
mới. Về chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, trong bố trí cơ
cấu kinh tế, sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, duy trì quá lâu cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh
chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.

Câu 3. So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước đổi mới và sau thời kì đổi mới.

PAGE 39
Trước thời kỳ đổi mới, vào những năm 60, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá
hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”.
Nghiên cứu quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi
mới sẽ giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó
góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thời gian tới.
Thứ nhất: Những điểm giống nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước
đổi mới và hiện nay được thể hiện là:
Đảng ta luôn khẳng định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, tương ứng 5 phương thức sản xuất khác nhau. Mỗi
phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Đối với Chủ nghĩa
xã hội, giai đoạn thấp của Chủ nghĩa Cộng Sản muốn tồn tại và phát triển cũng cần thiết phải có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất ở mức thấp kém,
lại trải qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, do đó cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn chưa thích ứng với Chủ nghĩa
xã hội. Để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất Xã hội
chủ nghĩa, đồng thời để củng cố khối liên minh công- nông- trí cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chính là nhân tố quyết định thắng lợi của công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.
Thứ hai: Những điểm khác nhau trong quá trình công nghiệp hoá trước và sau thời kỳ đổi mới thể hiện qua một số
nội dung cơ bản sau:
Về quan điểm: Trước đổi mới, chúng ta hiểu công nghiệp hoá một cách chưa đầy đủ, cho rằng công nghiêp hoá đơn
giản là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc. Trong giai đoạn đổi mới đất nước, vào năm
1994, Đảng ta chính thức xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Trước đổi mới, công nghiệp hoá ở nước ta đã đặt vấn đề theo hướng hiện đại hoá. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
do sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và dự kiến trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa
do đó yêu cầu phải gắn chặt hiện đại hoá với công nghiệp hoá đã được đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Hiện nay, thực
hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem thị trường là yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân
bổ các nguồn lực cho sản xuất, trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện pháp tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, vì vậy nó
được xem là công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp quân đội và kinh tế tập thể thực hiện là chủ
yếu.
Trong giai đoạn hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xác định là sự nghiệp của toàn dân, tất cả thành phần
kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta
vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, dẫn đến
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải do các thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện. Tính tất yếu đó
là do trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, trình độ lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã
hội còn thấp kém, không thể ngay lập tức làm cho lực lượng sản xuất phát triển đến mức cần thiết để xác lập nền kinh
tế dựa trên chế độ công hữu mà đòi hỏi phải xác lập quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao cho phù hợp
với trình độ phát triển hiện tại của lực lượng sản xuất, mà do lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng đều trong các
ngành nghề, lĩnh vực nên tương ứng với mỗi trình độ phát triển đó là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất và các kiểu quan hệ sản xuất khác nhau, từ đó tất yếu sẽ có nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài ra, sự tồn
tại nhiều thành phần kinh tế còn do chế độ xã hội cũ để lại, trong điều kiện chế độ xã hội mới, chúng vẫn mặc nhiên
tồn tại.
PAGE 40
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ trước đổi mới chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà nước giao chỉ tiêu
kế hoạch sản xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời bao tiêu sản phẩm làm ra, do đó không
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, nhà nước
chỉ chú trọng đầu tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu quả trong sản xuất.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn
cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm,
thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”- Trích Văn kiện
Đại hội VIII.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đổi mới thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khép kín, hoặc
chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống Xã hội chủ nghĩa đây là mô hình phù hợp trong thời kỳ chống Mỹ - cứu nước.
Hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện trong mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa, do đó cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác theo xu thế quốc tế hoá, hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là:
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về
đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – Trích Văn kiện Đại hội IX.
Trước đổi mới, khi đất nước còn chiến tranh, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm để phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, do đó công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn này cũng không nằm
ngoài mục tiêu đó. Hiện nay, chúng ta xác định: kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng
cường nền quốc phòng- an ninh của đất nước, vì vậy thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đảm bảo đi đôi với
giữ vững quốc phòng- an ninh đất nước.
Về mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Mục tiêu dài hạn của quá công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước đổi mới
và hiện nay là giống nhau, tuy nhiên đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta cụ thể thêm mục tiêu trung
hạn, đó là: đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Về nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Từ 1960-1981, chúng ta chủ trương công nghiệp hoá phải đi từ công nghiệp nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng được nâng thành bản chất cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do đó đã tập trung đầu tư
cho các ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu thuỷ điện) mà chưa chú ý đến
đầu tư cho công nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa tạo ra, cũng như hoàn
cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép.
Đến năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định phải ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành
công nghiệp nặng quan trọng, tuy nhiên do không đề ra được các chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để phát triển
nông nghiệp, vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp nặng, chưa chú trọng
đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xác định là: Đặc biệt coi trọng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản. Phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương
thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin. Xây dựng có
chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu
xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, đồng thời phát huy được hiệu
quả, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu
tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ dàng thấy được công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong giai đoạn hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát
triển công nghiệp nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều này là hoàn toàn phù
hợp bởi vì nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống ở nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn sẽ góp
phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị đất nước. Từ chỗ chỉ tập trung phát triển công nghiệp
nặng với một số ít ngành công nghiệp mũi nhọn nay đã chú ý đến cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và phát
triển hợp lý các vùng, lãnh thổ. Chú ý phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin và tự động hoá. Từ mô hình kinh tế nhập khẩu nay đã chuyển sang mô hình hướng mạnh xuất khẩu là
chính…
PAGE 41
Ngoài những khác biệt trên, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải không
ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau:
Phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là
quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng.
Phải tạo được nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới. Để
thực hiện được điều đó đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giáo dục- đào tạo, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc.
Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Có đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn, đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội bảo vệ vững chắc tổ quốc.
Thực tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nổi lên một số tình hình: “Đi tắt đón đầu hay là bãi thải công nghiệp”. Nguyên
nhân do nhiều chủ trương chưa được thực hiện tốt, yếu kém về năng lực trong nhập máy móc thiết bị. Cơ chế chính
sách chưa đầy đủ, kịp thời, nhất là đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường; việc tổng kết thực tiễn chậm;
công tác nghiên cứu, ứng dụng, triển khai khoa học công nghệ chưa được quan tâm…
Tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do đó trong quá trình thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá bên cạnh những kết quả tích cực đạt được chắc chắn cũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn
đến hiệu quả không cao; điều quan trọng là phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ
để vươn lên. Từ những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, từ những kết quả đạt được trong những năm tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng; chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng
vào đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, tin tưởng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhất định sẽ
thắng lợi, Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thành công.+

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 4. Quan điểm của Đảng về vị trí vai trò của văn hoá trong phát triển bền vững đất nước

Đề những năm trước: Trong nghị quyết Trung ương 9 khoá 11-2011, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra quan điểm
“Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển vững bền của đất nước” . Anh chị hãy nêu ý
kiến về quan điểm trên

Quan niệm về văn hóa và phát triển bền vững

Trước hết, văn hóa là khái niệm rộng và đa nghĩa, không có định nghĩa nào bao hàm, phải được nhìn nhận, tiếp cận
dưới nhiều gốc độ khác nhau: 

Một là, coi văn hóa như một hoạt động cho sự phát triển, hoạt động cơ bản của con người đó là hoạt động sản xuất vật
chất và hoạt động sản xuất tinh thần, nhưng không phải hoạt động nào cũng là văn hóa. Ngược lại, không có hoạt động
thì cũng không có văn hóa được tạo ra, những hoạt động hướng đến Chân - Thiện - Mỹ tức là văn hóa

Hai là, văn hóa mang hệ giá trị phổ biến và phổ quát của nhân loại, đó là Chân - Thiện - Mỹ, như vậy văn hóa được
cấu thành từ khoa học - đạo đức - nghệ thuật.

Ba là, nhìn nhận văn hóa như sự sáng tạo, đổi mới.

Bốn là, dùng văn hóa như bộ lộc, điều chỉnh hành vi, ứng xử, đạo đức của con người.

Năm 1943, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm văn hóa cụ thể, khái quát và tinh tế: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hoá, văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội, có tính tất yếu trong việc giải quyết
những khó khăn và bất ổn về kinh tế - xã hội. Vì vậy năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của
Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát
triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến
khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: 

PAGE 42
Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng.
Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người HDI là tiêu
chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người, trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi
thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
cải thiện chất lượng môi trường sống.
Ở nước ta, phát triển bền vững vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều đó được thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước ta, trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định nghĩa: “Phát triển
bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường”.
Quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững đất nước
Đổi mới ở nước ta đã đi qua một chặng đường hơn 30 năm, đây là quá trình cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để mọi
lĩnh vực, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị
quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”.
Sự ra đời của Nghị quyết đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, nhất là đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”, một trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn
diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, là sức mạnh nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát
triển văn hóa cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá
trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam.

Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng ta cần phải mở rộng
giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm
giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và
chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa.
Đảng ta đề cao, coi trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị
văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và
sự bền vững của chế độ ta.
Thứ hai, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” , đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định
mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá,
nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác được tiến
hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang”. Điều đó có nghĩa là,
muốn phát triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn hóa, nên văn hóa chính là mục tiêu của

PAGE 43
sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng
xã hội mới.
Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới Chân - Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người,
đem hạnh phúc đến cho mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có
nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới sự phát triển con người, phát triển xã hội, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự
phát triển.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh
tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm
bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần
đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội,
phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.

Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vô
cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa
ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh
phúc.

Thứ ba, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.

Thực tế cho thấy, không ít quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên nhưng lại giàu về kinh tế, xã hội tiến bộ chính là nhờ coi
trọng văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn hóa, con người. Sự phát triển của
một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ, phát triển phải dựa trên cội nguồn, cội nguồn đó là văn hóa.
Kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế
cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng
nằm trong văn hóa.

Trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0 tác động, làm thay đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển
bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong
phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát
triển chính là trí tuệ, tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển,
chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.

Ngày nay nguồn lực con người là tiềm năng sáng tạo. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo
đức, nhân cách của mỗi cá nhân, cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này vô hạn, có thể tái sinh, tự sinh, không bao giờ cạn
kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai
thác chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào
trong phát triển.

Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh vai trò của văn hóa, con người
Việt Nam là sức mạnh nội sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để có được nguồn lực nội sinh như vậy
cần phải quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sớm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam, nền giáo dục đó  “vừa
phản ảnh sâu sắc chiết lý văn hóa, giáo dục Việt Nam, vừa phản ánh xu thế phát triển của thời đại” . Những tri thức, trí
tuệ, tình cảm, đạo đức kết tinh, thấm sâu vào trong mọi hoạt động của đời sống con người và xã hội càng tăng cao bao
nhiêu thì sự phát triển kinh tế - xã hội càng nhanh chóng và bền vững bấy nhiêu.

Với những thành tựu qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng minh rằng văn hóa từ trong bản chất có vai trò hết sức quan
trọng đối sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển bền vững đất nước, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực của sự phát triển gắn với tiến bộ công bằng xã hội hướng tới phát triển văn hóa và phát triển toàn diện cá
nhân con người.

Ở nước ta, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, cần phải nhận thức đúng vai trò của văn hóa cũng như mục tiêu của sự phát triển, đó là vai trò của văn hóa trong

PAGE 44
kinh tế, kinh tế trong văn hóa, chỉ có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững, sớm hiện thực hóa mục
tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn.

Qua những trình bày trên, em hoàn toàn đồng ý với quan điểm (hoặc nhận định): “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu, động lực phát triển vững bền của đất nước”.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 5. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc
tế.

- Phần đối ngoại này chúng ta lồng vô luôn cái phần xây dựng hệ thống chính trị, là chúng ta thay đổi quan điểm như
thế nào. Vai trò hiện đại hoá hội nhập quốc tế, về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng như thế nào, thế dựng hệ
thống chính trị ra sao.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ NHỮNG NĂM TRƯỚC:

Câu 1.

* 1. Phân tích sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong Cách mạng tháng 8

Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1-9-1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính trị thế giới. Để phục vụ cho
chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ phản động, giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp, ở Đông
Dương, chúng thực thi chính sách cai trị tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và các đoàn thể
do Đảng lãnh đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ phục
vụ cuộc chiến tranh đế quốc của chúng.

Chính sách phát xít hóa bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương không làm Đảng ta bất ngờ, vì Đảng đã
sớm dự báo vấn đề này. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, Đảng cho rằng nếu cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914-1918) làm xuất hiện tình thế cách mạng ở Nga, dẫn tới cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 nổ ra,
thì cuộc chiến tranh thế giới lần này sẽ làm xuất hiện tình thế cách mạng. Nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng
cách mạng của V.I.Lênin: giai cấp vô sản nắm lấy ngọn cờ dân tộc, tự mình trở thành dân tộc, dựa trên cơ sở phân
tích diễn biến tình hình ở Đông Dương lúc này, Đảng kịp thời đề ra chủ trương cách mạng mới.

Chiến lược cách mạng đã được Đảng xác định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930), đó là đường lối
cách mạng vô sản ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong ba Hội nghị Trung ương 6,7,8, Đảng không
có sự thay đổi chiến lược cách mạng, mà dựa trên cơ sở nắm vững sự biến đổi của tình hình thế giới và Đông Dương,
nhu cầu đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng, bổ sung phát triển chiến lược cách mạng phù hợp, nhằm thúc đẩy
phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng phát triển, mau chóng thắng lợi. Chủ trương của Đảng trong ba Hội
nghị Trung ương 6,7,8 là sự nối tiếp, phát triển chiến lược cách mạng của Đảng ở thời kỳ mới, thể hiện tư duy mới
về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, tập trung trong mấy vấn đề cơ bản:

Một là, chuyển hướng mục tiêu đấu tranh từ đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ hằng ngày lên mục tiêu đấu tranh giải
phóng dân tộc. Đảng khẳng định vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương lúc này là phải tập trung lực lượng
đánh đổ đế quốc và tay sai phản động, giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm chỉ rõ: “Cách
mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền…Nguyên tắc chính ấy không bao giờ
thay đổi được, nhưng phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế
quốc”. Hội nghị Trung ương 8 họp tại Pác Bó phân tích kỹ lưỡng tình hình chiến tranh thế giới, khằng định: “nếu cuộc
chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa - thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ
đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập dân tộc, tự do cho toàn thể dân tộc thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”.

PAGE 45
Trong các Hội nghị Trung ương, Đảng chỉ rõ tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất không đồng nghĩa với việc Đảng
từ bỏ cách mạng ruộng đất, mà vẫn thực hiện đồng thời. Sự sáng tạo của Đảng trong chuyển hướng chỉ đạo là thực
hiện nhiệm vụ chống phong kiến và nhiệm vụ dân chủ khác rải ra làm từng bước, phục tùng, phục vụ cho nhiệm vụ
hàng đầu là chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đây là bước phát triển tư duy lý luận của Đảng so với thời kỳ trước. Sự
chuyển hướng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng là nội dung quan trọng nhất trong chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược của Đảng thời kỳ 1939-1945. Xét về thực chất, chủ trương này của Đảng nhằm giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trên lập trường giai cấp công nhân. Chủ trương ra đời
không chỉ có giá trị trong phân hóa cô lập kẻ thù, tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, mà còn trực tiếp định hướng
thống nhất mọi hoạt động của các lực lượng cách mạng tập trung vào thực hiện thắng lợi mục tiêu hàng đầu của cách
mạng: giải phóng dân tộc.

Hai là, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng trong từng nước, lấy liên minh công - nông làm nòng cốt, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương 6,7,8, vấn đề thành lập, xây dựng phát triển lực lượng
cách mạng luôn được Đảng coi trọng, bởi không có lực lượng cách mạng thì không thể làm cách mạng. Đảng từng
bước lãnh đạo, chỉ đạo xúc tiến thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương - mặt trận chung cho cả 3 dân tộc. Từ khi
chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, xuất hiện tình thế cách mạng, Đảng phân tích kỹ lưỡng và cho rằng tuy dân tộc
Việt Nam, Lào, Campuchia cùng trên bán đảo Đông Dương, song mỗi dân tộc lại có những đặc điểm, yêu cầu riêng
trong tập hợp lực lượng cách mạng. Vận dụng lý luận Mác - Lênin về “quyền dân tộc tự quyết”, Đảng chủ trương mỗi
nước thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Tháng 5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập ở Việt
Nam. Chủ trương này tạo điểu kiện để các lực lượng cách mạng trong từng nước tận dụng những thế mạnh trong xây
dựng, phát huy kịp thời sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời khắc phục những biểu hiện thiếu tính chủ động, ỷ lại. Đảng
chỉ rõ việc thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở mỗi nước không có nghĩa tách biệt giữa các mặt trận, mà các
mặt trận phải liên minh chặt chẽ với nhau, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương. Phải
tích cực xây dựng, phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất mỗi nước trở thành tổ chức tập hợp đông đảo mọi tầng lớp
nhân dân, trên nền tảng lấy liên minh công - nông làm nòng cốt.

Ba là, chuyển hướng phương pháp đấu tranh cách mạng.Chủ trương và phương pháp đấu tranh cách mạng luôn được
Đảng coi là vấn đề mấu chốt. Thắng lợi chỉ có thể giành được trên cơ sở chủ trương và phương pháp cách mạng đúng
đắn. Trong thời kỳ 1936-1939, chủ trương của Đảng là tranh thủ điều kiện thuận lợi, sử dụng nhiều phương pháp đấu
tranh công khai đòi dân sinh, dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh phát xít. Đến khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra,
bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương chuyển mạnh sang “phát xít hóa”: chúng tăng cường đưa quân
đội khủng bố, đàn áp, giết hại đồng bào, tìm phá các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Các Hội nghị Trung ương 6,7,8 của
Đảng đều thống nhất rằng phương pháp cách mạng ở thời kỳ trước cần có sự điều chỉnh. Trung ương Đảng quyết định
chuyển phương pháp đấu tranh cách mạng sang thời kỳ mới: kết hợp đấu tranh bí mật, bất hợp pháp với tranh thủ triệt
để mọi điều kiện để xây dựng phát triển lực lượng, sử dụng kết hợp lực lượng, hình thức đấu tranh chính trị với lực
lượng, hình thức đấu tranh quân sự làm phương pháp đấu tranh chủ yếu để giành chính quyền.

Đến Hội nghị Trung ương 8, Đảng chỉ rõ hình thái đấu tranh giành chính quyền  đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới
tổng khởi nghĩa. Sự khẳng định thể hiện tính sáng tạo, xuất phát từ phân tích khoa học của Đảng về tính chất mâu
thuẫn và sự chín muồi không đều về thời cơ khởi nghĩa. Việc xác lập hình thái đấu tranh mang tính “giai đoạn” - khởi
nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa cho phép lực lượng cách mạng trong từng nước, từng địa phương chủ động
tận dụng tối đa mọi điều kiện, khả năng, phát huy sức mạnh lực lượng cách mạng khi thời cơ khởi nghĩa vũ trang xuất
hiện. Chủ trương phản ánh tư duy sắc sảo của Đảng trong vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin về quy luật “thắng
từng bước” vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam.

Bốn là, chuyển hướng công tác xây dựng Đảng. Kể từ khi ra đời, công tác xây dựng Đảng luôn được Đảng coi là
nhiệm vụ chiến lược. Trong thời kỳ 1939-1945, Đảng sẽ xuất hiện thời cơ cho cuộc “cách mạng chính quyền”, do đó
cần chuẩn bị đầy đủ các yếu tố, công tác xây dựng Đảng đóng vai trò then chốt. Cả ba Hội nghị Trung ương của Đảng
đều chỉ rõ vấn đề gay cấn đang đặt ra đối với Đảng và cách mạng là thực trạng: đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thiếu
nhiều, thành phần công nhân trong đảng còn ít, hệ thống tổ chức của Đảng tuy đã phát triển nhưng chưa vững chắc,
hoạt động thiếu tính thống nhất, bí mật, trong khi chính quyền đế quốc phát xít và tay sai tìm mọi cách tìm diệt cán bộ,
đảng viên, phá tan tổ chức của Đảng, Nếu không kịp thời chỉ đạo chuyển hướng công tác xây dựng Đảng theo đòi hỏi
của tình hình, thì chẳng những sức mạnh, năng lực lãnh đạo của Đảng bị ngưng trệ, mà phong trào cách mạng khó có

PAGE 46
thể giành thắng lợi. Chiến lược nhất quán trong công tác xây dựng Đảng từ khi Đảng ra đời là xây dựng vững mạnh,
trong sạch cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Do yêu cầu cấp bách trong mục tiêu giải phóng dân tộc, các Hội nghị
Trung ương 6,7,8 của Đảng đều nhấn mạnh : gấp rút đào tạo cán bộ, tăng thành phần công nhân trong Đảng, kiện
toàn, củng cố vững chắc hệ thống tổ chức của Đảng, nhất là ở Lào và Campuchia.

Đầu năm 1945, thực hiện mưu đồ nắm quyền thống trị ở Đông Dương, phát xít Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban
Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), do đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí
thư) chủ trì. Hội nghị đưa ra quyết định lịch sử: Đánh đuổi phát xít nhật, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều nhiệm vụ
khẩn kíp được triển khai nhanh: thành lập căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu, thống nhất lực lượng vũ trang, tổ
chức ủy ban dân tộc giải phóng các cấp, chuẩn bị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ cách
mạng lâm thời) v.v..

Ngay sau Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào (16-8-1945), Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả
nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy, kết thành sức mạnh đại đoàn
kết xuống đường tranh đấu, đánh sụp, xóa bỏ bộ máy thống trị tàn bạo của phát xít Nhật và bè lũ tay sai, giành lại nền
độc lập dân tộc. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời khảng
khái đọc Tuyên Ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập dân tộc và sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là mốc lịch sử mở đầu cho sự phát triển mới của cách mạng Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”. Đã 70 năm trôi
qua (1945-2015), song thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn là bản anh hùng ca
bất hủ, là thực tiễn sinh động chứng minh tư duy chính trị sắc sảo, nghệ thuật lãnh đạo xuất sắc của một Đảng mácxit
chân chính mới 15 tuổi. Đó cũng là một trong những bằng chứng thực tiễn đập tan luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai
trò to lớn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Những kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo,
chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tiếp tục được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng ở
giai đoạn mới, với việc đề ra nhiều quyết sách chiến lược mới hết sức đúng đắn, đem lại những thành tựu to lớn, bền
vững trong suốt mấy thập kỷ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* 2. Vì sao Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự tất yếu? Phân tích sự sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng

Mùa xuân năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đó là một mốc son chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc. Sự
kiện lịch sử ấy đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, mở ra
thời kỳ đấu tranh và giành thắng lợi dưới sự lãnh đạo của một chính đảng tiên tiến, gắn kết phong trào cách mạng Việt
Nam với phong trào cách mạng thế giới... Đảng ra đời là sự lựa chọn tất yếu khách quan của lịch sử. Thực tiễn quá
trình vận động thành lập Đảng đã chứng minh điều đó.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một quá trình vận động hoàn toàn khách quan, hợp quy luật của lịch sử. Sau
khi thực dân Pháp hoàn thành quá trình xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta đã biến Việt Nam từ một quốc
gia phong kiến độc lập có chủ quyền thành xã hội thực dân nửa phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp đời
sống của các giai cấp tầng lớp trong xã hội vô cùng thống khổ. Không cam chịu thân phận nô lệ, nhân dân ta liên tiếp
nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo nhiều xu hướng, con đường chính trị khác nhau, nhưng đều lần lượt thất
bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào thời kỳ “đen tối như không có đường ra”.
Lịch sử đặt ra yêu cầu phải tìm được một đường lối cứu nước đúng đắn nhằm đánh đổ ách áp bức giành độc lập tự do
cho nhân dân. Trong bối cách đó đã xuất hiện người con ưu tú của dân tộc là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Với
lòng yêu nước thương nòi và trí tuệ xuất chúng Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước là đi theo con đường
cách mạng vô sản. Sau khi tìm ra con đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào trong nước, tích cực chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Những hoạt động tích cực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy phong trào cách mạng nước ta phát

PAGE 47
triển mạnh mẽ. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển đã dẫn đến sự hình thành các tổ chức cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam.
Tuy nhiên ba tổ chức cộng sản tồn tại và hoạt động riêng rẽ làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng
bị phân tán, không phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng sản. Với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng triệu tập đại biểu của ba tổ chức cộng sản họp từ 6/1 đến
8/2 năm 1930 tại Cửu Long - Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một tổ chức duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng)...
Như vậy, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng tất yếu cần một chính đảng đại diện cho một giai cấp
tiên tiến để lãnh đạo đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quá trình phát triển khách quan, phù
hợp với quy luật vận động của lịch sử. Quy luật vận động thành lập chính Đảng vô sản cần hội tụ đủ hai yếu tố là lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, riêng ở Việt Nam có thêm yếu tố là phong trào yêu nước, đây là
điểm khác biệt trong quá trình vận động thành lập Đảng ở Việt Nam. Qua đây khẳng định sự sáng tạo của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định tính tất yếu về con đường
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản
ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở
đánh giá đúng bản chất của xã hội Việt Nam Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện
đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. Cương lĩnh chính trị đã phản ánh được quy luật khách quan của xã hội
Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định
hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Với những giá trị đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định rõ ràng nội
dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay trong quá trình
tìm đường cứu nước lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từng cho rằng“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Sau này Người tiếp tục khẳng định "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng
ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim
chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản." Theo Người "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta tiếp tục kế thừa quan điểm độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta rút ra một số bài học trong đó có bài
học: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với Việt Nam” . Do đó sự
lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế cách mạng của thời đại.
Quá trình vận động thành lập Đảng đã khẳng định tính tất yếu và duy nhất về vai trò lãnh đạo của Đảng.  Thực tiễn cho
thấy khi Tổ quốc bị xâm lăng và dưới ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đều có một lòng nồng
nàn yêu nước, đứng lên chống ngoại xâm, cởi ách nô lệ, giành độc lập cho dân tộc. Hàng loạt các phong trào đấu tranh
mạnh mẽ đã nổ ra. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đều bước lên vũ đài chính trị nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo
cách mạng như: Phong trào Cần Vương, phong trào nông dân Yên Thế, phong trào dân chủ tư sản, tiêu biểu là cụ Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh, phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản, tiêu biểu là Việt Nam Quốc dân Đảng... Tuy
nhiên tất cả các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại.
Qua quá trình sàng lọc, lựa chọn của lịch sử đã khẳng định chỉ có giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng
sản là lực lượng duy nhất đủ sức nắm quyền lãnh đạo phong trào cách mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thực
tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất nắm quyền lãnh đạo vẫn là
sự kế thừa tính tất yếu lựa chọn của lịch sử và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phân tích sự sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
PAGE 48
Phân tích tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, Cương lĩnh chính trị đầu tiên chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc đã nắm toàn
quyền thống trị, thi hành chính sách độc quyền về kinh tế ở nước ta, làm cho tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp. Văn
kiện ghi: "Tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về
nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ
không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về
phe đế quốc chủ nghĩa".
Xuất phát từ tình hình đó, Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc "tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Cương lĩnh đã nêu ra nhiệm vụ cụ thể của cách mạng về các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và sách
lược của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, chuẩn bị cách mạng ruộng đất để tiến lên lật đổ địa
chủ phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân
đội công nông.
Thứ hai: Thủ tiêu các thứ quốc trái, thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế
quốc Pháp để giao lại cho chính phủ công nông binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công và
chia cho dân cày nghèo, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8
giờ.
Dân chúng tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Các nhiệm vụ cách mạng nêu ra bao hàm hai nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong
đó nổi bật lên là nhiệm vụ dân tộc, mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Cương lĩnh giải quyết được mâu thuẫn: Xã hội Việt Nam tồn tại 2 mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giai cấp giữa nông
đân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn dân tộc giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp.
Chỉ ra mâu thuẫn dân tộc là quan trọng nhất cần được giải quyết trước, sau khi giải quyết được mâu thuẫn dân tộc
mới giải quyết mâu thuẫn giai cấp.
Cương lĩnh cũng đã giải quyết được đường lối cách mạng đó là cách mạng vô sản, kết thúc bằng khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền.
Về sách lược, Đảng chủ trương phải thu phục, tập hợp được đông đảo quần chúng công nhân và nông dân khỏi ảnh
hưởng của tư sản dân tộc, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản,
tiểu và trung địa chủ, còn bộ phận nào phản cách mạng như Đảng Lập hiến thì phải đánh đổ. Trong khi liên minh với
các giai cấp, phải giữ vững nguyên tắc cách mạng, không được đi vào con đường thỏa hiệp, hy sinh quyền lợi cơ bản
của công nông cho một giai cấp nào khác.
Về xây dựng Đảng, văn kiện khẳng định: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, người tổ chức và
lãnh đạo cách mạng, đấu tranh để giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta khỏi bị đế quốc và phong kiến
thống trị, áp bức và bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do.
Về mối quan hệ với cách mạng thế giới, văn kiện chỉ ra: Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng
lao động trên thế giới nhất là quần chúng vô sản Pháp.
Cương lĩnh đầu tiên tuy vắn tắt song đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam. Về cơ sở lý
luận: Cương lĩnh dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, một hệ thống tiến bộ và khoa học, có nội dung
cách mạng sáng tạo phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thuận chiều
tiến hóa của thời đại:
Cương lĩnh đã xác định được nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam.
Phù hợp với xu thế phát triển thời đại mới, giải quyết được đường lối và giai cấp lãnh đạo đã trở thành ngọn cờ tập
hợp các tầng lớp cách mạng đấu tranh chống Pháp.
Đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp công nhân và đội tiên phong là Đảng
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Cương lĩnh đã giải quyết một cách nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc với quan điểm giai cấp, quốc gia với quốc tế,
trong đó thấm đậm yếu tố dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân - yếu tố quyết định tính độc đáo của cách mạng

PAGE 49
thuộc địa. Thực hiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ tiến lên theo định hướng xã hội cộng sản vì
độc lập tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là viên ngọc quý được khảm trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

* 3. Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối đấu tranh giành chính quyền của Đảng Cộng Sản Đông Dương (1939-
1945), Liên hệ đến bài học nắm bắt thời cơ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Để có thể tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cả một quãng thời gian dài vô cùng gian khó. Tính từ
năm 1925 cho đến năm 1945 là 20 năm chuẩn bị. Nhưng khi thời cơ đến, những chiến sỹ cách mạng tiên phong đã thổi
bùng lên tinh thần yêu nước mãnh liệt của toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết rũ khỏi kiếp bùn đen nô lệ, áp bức của
phong kiến, thực dân, giành lại độc lập, tự do. Từ khi “Mệnh lệnh khởi nghĩa” (ngày 12/8/1945) và “Quân lệnh số 1”
(ngày 13/8/1945) của Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng tại Tân Trào (Tuyên Quang) được phát đi, cho đến khi
Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, ngày 28/8/1945, và Lễ Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, ngày 2/9/1945, đã diễn ra trong 22 ngày.
Mất 20 năm dày công chuẩn bị để thực hành thành công trong 22 ngày. Và sự thành công ấy chính là do những người
lãnh đạo cuộc cách mạng đã chớp được và vận dụng đúng thời cơ.
Thời cơ ấy là gì?
Thứ nhất là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản đã bị thua to trên hầu khắp
các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề
nghị ngừng bắn. Bằng tầm nhìn nhạy bén, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp
ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” 
được phát ra.
Chiều tối ngày 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp để nhận định tình hình, phân công
nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang thì tiếp tục nhận được tin lớn, đó là phát xít Nhật đã bại trận, chuẩn bị đầu hàng
quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc,
đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản “Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi
ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí
Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền
độc lập đã tới”. Đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến
nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận định
và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức, quân đội Nhật
đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường, quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Nếu không
khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ
tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân
Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua
cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ, và vận dụng đúng thời cơ. Vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu
sự sụp đổ của chính quyền phong kiến, triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy
trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố
với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời, Chính
phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ
không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn
giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo
sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước
chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt
dưới danh nghĩa quân Đồng minh. 
Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám và Lễ Độc lập chỉ có thể thực hiện thành công trong khoảng thời gian 22 ngày ấy.
Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa
chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã
vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật.
Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm rung chuyển cả Đông
Nam Á, châu Á, châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới, tạo ra làn sóng cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh
PAGE 50
giành độc lập, tự do của các nước thuộc địa như: Inđônêxia cùng giành được độc lập trong tháng 8/1945, Ấn Độ giành
độc lập năm 1947, Mianma giành độc lập năm 1948, Marôc giành độc lập năm 1956, Malaixia giành độc lập năm
1957, Ănggôla giành độc lập năm 1961, Angiêri giành độc lập năm 1962…
Liên hệ đến bài học nắm bắt thời cơ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng
thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng chính là
tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận
dụng thời cơ, phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để dẫn đến thắng lợi
của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, chính thức đặt dấu chấm hết
cho gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam.
Hay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân ta cũng đã nhiều lần thực hiện thành công bài học về
chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ. Điển hình là năm 1972, chúng ta đã chớp được thời cơ nội bộ chính phủ
Mỹ có xáo trộn, phong trào phản đối chiến tranh trong nhân dân Mỹ dâng cao, kết hợp với quân ta quyết tâm giành
nhiều thắng lợi quan trọng trên chiến trường Việt Nam nên đã buộc chính phủ Mỹ phải rút quân đội về nước. Rồi đến
tháng 3/1974, khi quân ta giành được thắng lợi và làm chủ Tây Nguyên, quân Ngụy bắt đầu tan rã, đã làm xoay
chuyển tình thế chiến trường có lợi cho ta. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã chớp thời cơ
rút ngắn kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam từ 2 năm xuống còn 1 năm. Cuối cùng là thực hiện Tổng tiến công
và nổi dậy, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày
30/4/1975.
Trong công cuộc xây dựng, phát triển, bảo vệ Tổ quốc về sau này, chúng ta nhiều lần vận dụng thành công bài học về
chớp thời cơ và tận dụng thời cơ. Năm 1986, Trung ương Đảng đã kịp thời nắm bắt tình hình, tận dụng thời cơ có sự
chuyển biến trong lý luận và nhận thức để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam thoát ra khỏi những
khó khăn của thời kỳ bao cấp và ảnh hưởng của chiến tranh. Năm 1991, những biến cố chính trị ở Liên Xô và các
nước Đông Âu đã tạo ra cho chúng ta những thách thức rất lớn, nhưng chúng ta đã vượt qua thử thách, nắm bắt được
thời cơ, chuyển hóa khó khăn thành cơ hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng uyển chuyển trong
ngoại giao để mở rộng quan hệ đối với nhiều nước trên thế giới. Những năm sau đó, Việt Nam cũng đã nắm bắt tốt
thời thế để gia nhập ASEAN năm 1995, cùng trong năm 1995, Việt Nam đồng ý bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ,
năm 2007 gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc năm 2007…
Hiện nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 quốc gia thành viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Thiết lập quan hệ ngoại giao gần 200 quốc gia với nhiều cấp độ khác nhau,
trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia gồm: Nga (2001), Ấn Độ (2007), Nhật Bản (2006), Trung Quốc
(2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Italia, Thái Lan, Inđônêxia, Xinhgapo, Pháp (2013),
quan hệ đối tác toàn diện với 4 quốc gia gồm Ôtxtrâylia (2009), New Zealand (2010), Đan Mạch, Hoa Kỳ (2013), và
đối tác chiến lược theo lĩnh vực với Hà Lan. Đây là những cơ hội rất lớn giúp nâng cao vị thế đất nước trên trường
quốc tế.
Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội mới luôn có những khó khăn, thách
thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến điều bất
lợi thành có lợi. Trung ương Đảng ta đã nắm bắt rất rõ quy luật vận động ấy, từ đó thường xuyên, kịp thời có những
nhận định, phân tích, định hướng, chỉ đạo mang tính chiến lược. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính trị Đại hội toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách
thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước
và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải
quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”. Vì thế cần phải “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại,
tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.
Một trong những yếu tố giúp chúng ta nhìn nhận, phân tích, đón bắt, tận dụng tốt thời cơ chính là nhân tố con người.
Vì vậy, trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, chúng ta cần chú trọng nguồn nhân lực chất
lượng cao để đi tắt, đón đầu. Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người
có tri thức là yếu tố quyết định. Do đó, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ khoa học công nghệ chính là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy nội lực, kết

PAGE 51
hợp tốt nội lực với ngoại lực thì chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập
quốc tế.
Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhìn nhận và xác định rõ một số thách thức, rào cản cần phải phá bỏ và vượt qua để từ
đó đón bắt thêm được nhiều cơ hội mới, trong đó đáng chú ý là tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Nếu phá bỏ được những rào cản này, cũng chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn,
thách thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

* 4. Phân tích vai trò của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (tháng 1-1959) đối với Cách mạng Việt Nam

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, đất nước độc lập, non sông
thu về một mối. Ðể làm nên thắng lợi cuối cùng, sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định. Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 15 là một minh chứng điển hình thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng đối
với cuộc đấu tranh cách mạng ở Miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung.

Sự cần thiết của Nghị quyết 15

Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Ðông Dương (20-7-1954), quân và dân ta nghiêm chỉnh thi hành
các điều khoản của Hiệp định. Trái lại, cả Mỹ và chính quyền Ngô Ðình Diệm tìm mọi cách phá bỏ Hiệp định, cự
tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử, đàn áp đẫm máu những người cộng sản, cán bộ kháng chiến và người dân yêu nước
sử dụng đấu tranh chính trị, đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình. Tình hình này diễn ra trong một thời gian dài làm cho
phong trào đấu tranh cách mạng bị tổn thất nặng nề.

Trong hai năm 1957-1958, Ðảng đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương, biện pháp
đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.

Thực tế là từ tháng 6-1956, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết khẳng định "đấu tranh chính trị không có nghĩa là tuyệt đối
không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định", và sau đó, tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư
Xứ ủy Nam Bộ, đã viết "Ðề cương cách mạng Miền Nam", cũng đề cập đến vấn đề bạo lực cách mạng và đấu tranh vũ
trang, song chúng ta chưa sử dụng hình thức đấu tranh vũ trang một cách mạnh mẽ, thích hợp để đối phó với sự đàn
áp, khủng bố tàn bạo của kẻ thù, nên cách mạng Miền Nam vẫn tiếp tục bị tổn thất.

Mặc dù bị chính quyền Ngô Ðình Diệm thẳng tay khủng bố, song cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước ở Miền
Nam cơ bản vẫn nghiêm túc chấp hành chủ trương đấu tranh và sự chỉ đạo của Ðảng, không manh động. Ðiều đó
chứng tỏ đảng viên và quần chúng vẫn tin tưởng và chờ đợi một sự thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ về chủ trương,
phương pháp đấu tranh của Ðảng đối với kẻ thù.

Nhận được những kiến nghị khẩn thiết của các tổ chức Ðảng và của cán bộ, đồng bào, chiến sĩ Miền Nam yêu cầu phải
nhanh chóng thay đổi hình thức đấu tranh, trên cơ sở xem xét thực tế tình hình, Bộ Chính trị đã cử ra một tổ tập trung
nghiên cứu, đề xuất chủ trương, hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng Miền Nam để đưa phong trào
cách mạng thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, phát triển đi lên.

Nghị quyết 15 soi sáng con đường phát triển của cách mạng  Việt Nam

Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, đã xác định con đường phát triển
của cách mạng Miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng ở Miền Nam, xác định mối quan hệ giữa hai
chiến lược cách mạng ở Miền Nam và Miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng
Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc, thống nhất nước nhà.

Nghị quyết 15 được thông qua và phổ biến sau cuộc họp đợt 2 (7-1959) khẳng định: nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
Miền Nam là giải phóng Miền Nam, nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế
quốc Mỹ, phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên

PAGE 52
kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân tiến lên cuộc
đấu tranh vũ trang trường kỳ.

Nghị quyết 15 ra đời đã đáp ứng đúng đòi hỏi của tình hình và nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân,
giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên của cách mạng Miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng, phải chuyển
hướng sang đấu tranh vũ trang, để đưa phong trào vượt thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa
lịch sử, đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh cách mạng ở cấp lãnh đạo cao nhất, sự chuyển hướng
mạnh mẽ về hình thức và phương pháp đấu tranh.

Nghị quyết 15 của Trung ương Ðảng chính là ngọn lửa châm ngòi cho cao trào Ðồng khởi trên quy mô lớn tại các địa
phương ở Nam Bộ và Khu 5. Trước năm 1959, trước khi có Nghị quyết 15, các cuộc đấu tranh có tính chất vũ trang tự
vệ của quần chúng cách mạng, yêu nước chỉ diễn ra lẻ tẻ, tự phát ở một vài địa phương. Sau khi Ban Chấp hành Trung
ương họp Hội nghị lần thứ 15 (đợt 1, từ ngày 12 đến 22-1-1959, đợt 2, từ ngày 10 đến 15-7-1959) và ra Nghị quyết, thì
dù chưa có Nghị quyết chính thức (trong nửa đầu năm 1959) nhưng tinh thần cơ bản của Nghị quyết đã được các đồng
chí lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, ra Hà Nội dự Hội nghị, đem về truyền đạt ngay sau khi kết thúc đợt 1. Vì thế, thực tế
diễn biến cho thấy, từ giữa năm 1959 trở đi đã có hàng loạt cuộc đấu tranh mang tính bạo lực của quần chúng nổ ra ở
các địa phương, như Minh Thạnh (Tây Ninh), Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), Gò Quản Cung, Gò Măng Ða (Ðồng Tháp),
Tà Lốc, Tà Léc (Bình Ðịnh), Tam Ngân (Bình Thuận), Nóc Ông Tía, Trà Bồng (Quảng Ngãi)... Ðiều đó báo hiệu một
giai đoạn đấu tranh mới đang hình thành. Quá trình khởi nghĩa từng phần ở Miền Nam đã bắt đầu. Như thế, ý nghĩa,
tác động của Nghị quyết 15 là trực tiếp, nhanh chóng và rõ rệt, mở ra hướng đi mới cho phong trào đấu tranh ở Miền
Nam.

Ngay sau khi có văn bản Nghị quyết 15, Xứ ủy Nam Bộ họp (11-1959), nhận định: tuy địch có gây cho ta nhiều khó
khăn nhưng xét về căn bản và toàn cục thì ta đã giành được thế chủ động, cơ sở Ðảng vẫn được giữ vững, phong trào
quần chúng phát triển cao hơn so với năm 1958, hoạt động vũ trang tuyên truyền phát huy tác động hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị.

Tháng 12-1959, Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ họp, có sự tham dự của đại biểu các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Gò
Công, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Kiến Phong, trên cơ sở đánh giá tình hình, khả năng của các lực lượng cách
mạng, đã quyết định phát động nhân dân khởi nghĩa ở xã, ấp. Phương châm đấu tranh là: nổi dậy đều khắp không để
nổi cộm từng điểm khiến địch có thể tập trung lực lượng đàn áp, phải vận động cho được quần chúng nhân dân vùng
lên đấu tranh với địch nhưng phải giữ cho được thế hợp pháp. Hoạt động vũ trang phải khôn khéo, tránh nặng về đấu
tranh vũ trang đơn thuần.

Ban quân sự Liên tỉnh miền Ðông Nam Bộ cũng tổ chức họp bàn việc thực hiện chủ trương của Xứ ủy. Căn cứ địch ở
Tua Hai (Tây Ninh) được chọn làm trận tiến công mở đầu cho các tỉnh miền Ðông Nam Bộ.

Ðến đầu tháng 1-1960, thời cơ cho một cuộc tiến công, nổi dậy rộng khắp các địa phương Miền Nam đã tới. Mở đầu
cho phong trào Ðồng khởi là cuộc đấu tranh chính trị, vũ trang của quần chúng nhân dân huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre,
ngày 17-1-1960, giành được thắng lợi. Phối hợp với Bến Tre, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Ðảng, nhân dân các địa
phương ở Trung Nam Bộ, Ðông Nam Bộ đã đồng loạt đứng lên phá rã hệ thống kìm kẹp và chính quyền cơ sở của chế
độ Sài Gòn, giành quyền làm chủ, đẩy chính quyền Ngô Ðình Diệm vào tình thế bị động đối phó.

Ngày 26-1-1960, trận tiến công địch ở căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) của lực lượng vũ trang giành thắng lợi, trở thành
phát súng mở đầu cho cuộc nổi dậy của quần chúng cách mạng ở địa bàn trọng yếu miền Ðông Nam Bộ.

Trong quá trình diễn ra cao trào Ðồng khởi, bên cạnh quyền làm chủ một số thôn, xã của nhân dân được xác lập, lực
lượng vũ trang và bán vũ trang cũng từng bước được xây dựng và trưởng thành... dẫn đến sự ra đời của Mặt trận dân
tộc giải phóng Miền Nam. Mặt trận đã trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng yêu nước tán thành độc lập, dân chủ và
hòa bình, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai.

Như vậy, có thể thấy rằng Nghị quyết 15 ra đời là vô cùng cần thiết, đáp ứng đúng đòi hỏi của tình thế cách mạng, giải
quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi, giải tỏa
nỗi bức xúc bị kìm nén và nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Miền Nam. Nghị quyết 15 như ngọn

PAGE 53
đuốc soi sáng con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, là cơ sở trực tiếp cho phong trào Ðồng
khởi nổ ra và giành thắng lợi. Kết quả to lớn và dễ nhận thấy của phong trào Ðồng khởi là sự khôi phục hoạt động của
Ðảng bộ Miền Nam. Ðội quân đấu tranh chính trị, đặc biệt là "đội quân tóc dài", một lực lượng đấu tranh độc đáo và
hiệu quả của phụ nữ Nam Bộ ra đời. Cũng từ phong trào Ðồng khởi, lực lượng vũ trang ba thứ quân từng bước củng
cố, phát triển về số lượng và chất lượng. Phong trào Ðồng khởi thực sự là một mốc son lịch sử đánh dấu bước chuyển
giai đoạn cách mạng quan trọng, đẩy Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn vào thế bị động chống đỡ và thất bại.

Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội đại biểu Ðảng toàn quốc lần thứ 3 (9-1960), đã hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Việt Nam ở Miền Nam. Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Ðảng ta đã chỉ đạo nhân dân
Miền Nam đứng lên tiến hành cuộc Ðồng khởi vĩ đại, đánh một đòn chí tử vào hình thức thống trị thực dân mới của đế
quốc Mỹ, tạo ra một bước ngoặt đi lên cho cách mạng Miền Nam, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh,
chuyển sang tiến hành "chiến tranh đặc biệt" với sự dính líu và sa lầy ngày càng tăng ở Việt Nam.

Nghị quyết 15 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ đấu tranh cách mạng giải phóng Miền Nam, đánh đổ
sự thống trị của Mỹ-Diệm, với nhiệm vụ xây dựng, củng cố bảo vệ Miền Bắc, hậu phương lớn và trực tiếp của cách
mạng Miền Nam. Ðồng thời, Nghị quyết 15 cũng góp phần xác định và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng, đấu tranh bảo vệ hòa bình, giải phóng dân tộc trên thế giới.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 2.

*1.

Đánh giá về đường lối đối ngoại (hoặc vai trò lãnh đạo, hoặc cả 2) của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Sau gần 30 năm đổi mới, với vị trí và vai trò của một Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiều chủ
trương, đường lối đúng đắn, góp phần đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước,
trong đó, đường lối đối ngoại của Đảng mang nhiều dấu ấn đậm nét.

Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Quan hệ chính trị quốc tế có
những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến lược đối ngoại của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Trong
bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ ngày 15 - 18/12/1986 tại Hà Nội.

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách quan tình hình đất
nước, thừa nhận những sai lầm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn
diện. Về đối ngoại, mục tiêu của chính sách đối ngoại được Đại hội xác định là phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, phấn đấu giữ gìn hòa bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới,
tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có những điểm đổi mới về tư duy đối ngoại. Trước hết là rút ra những
bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải đổi mới phương cách tập hợp lực lượng là “phải biết kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”; nhận thức được xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể
cả các nước có chế độ kinh tế, xã hội khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế
và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Sau gần hai năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 20/5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm
vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Trong đó, mục tiêu đối ngoại được Nghị quyết khẳng định “lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh
tế”.

Theo cố Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, “Nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ Chính trị là một cuộc đổi
mới mạnh mẽ tư duy trong việc đánh giá tình hình thế giới, trong việc đề ra mục tiêu và chuyển hướng toàn bộ chiến
lược đối ngoại của ta”.

PAGE 54
Sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, tháng 3/1990, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI
đã ban hành Nghị quyết số 8A “Về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm
vụ cấp bách của Đảng ta”.

Theo đó, việc mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm “thêm bạn, bớt thù” được coi là một trong những nhiệm
vụ cấp bách. Đồng thời, Nghị quyết xác định: Cách đóng góp tốt nhất và thiết thực nhất lúc này vào các mạng thế giới
là thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Việt Nam ngày càng ổn định về chính trị, phát triển về
kinh tế, xã hội, mạnh về quốc phòng và an ninh.

Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, từ năm 1986 - 1990, Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại
kinh tế, đối ngoại chính trị. Kết quả hoạt động đối ngoại đạt được trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX tuy
mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa quan trọng, mở cửa giao lưu hợp tác với bên ngoài, tạo được vị thế mới cho đất
nước trong quan hệ quốc tế.

Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo
chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi. Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định trọng tâm của công tác đối ngoại là tiếp tục tạo môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với những nội dung được
quyết nghị, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII được đánh giá là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương
- đoàn kết”.

Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã phá được thế bao vây, cô
lập, mở rộng quan hệ quốc tế trên phạm vi rộng lớn. Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước
lớn, kể cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và cũng là lần đầu tiên Việt Nam gia nhập
ASEAN, một tổ chức khu vực mà trong đó các thành viên đều không cùng ý thức hệ và chế độ chính trị, xã hội với
Việt Nam.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 28/6 - 1/7/1996, Đảng ta khẳng định:
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại
với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển . Đại hội nêu rõ chủ trương: Tiếp theo việc gia nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia Khối mậu dịch
tự do (AFTA), cần xúc tiến tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).

Trong những năm đầu thế kỷ XXI, quan hệ đối ngoại của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp, với nhiều
cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Trong bối cảnh đó, tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng họp, nhận định tổng quát sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội (1991 - 2000),
“đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.

Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội đã phát triển phương
châm “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” của
Đại hội VII thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”. Với phương châm này, lần đầu tiên Đảng ta đề ra chủ trương “xây dựng quan hệ đối tác”
trong đường lối đối ngoại. Đây là điều có ý nghĩa quan trọng, bởi mô hình quan hệ đối tác chiến lược được coi là mô
hình hợp tác ở mức độ cao và quan trọng hơn so với hợp tác quốc tế thông thường.

Nhằm đẩy mạnh hơn nữa chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 27/1/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
07/NQ-TW Về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhanh chóng đưa Việt Nam vào các thể chế kinh tế, trước hết là AFTA
và sau đó là WTO trên tinh thần “phát huy tối đa nội lực”. Đây là Nghị quyết có tầm quan trọng đặc biệt, là “kim chỉ
nam hướng dẫn chúng ta trên con đường hội nhập, một con đường không ít chông gai mà chúng ta phải vượt qua và
nhất định vượt qua để giành lấy cơ hội cho phát triển”.

Tuy nhiên, nếu như chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chiến lược lâu dài, thì những diễn biến của tình hình thế
giới, khu vực và trong nước xảy ra thường xuyên, Đảng liên tục có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Theo
đó, tháng 7/2003, Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp và ra Nghị quyết về Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết đã thể hiện những nhận thức mới của Đảng về nguyên tắc xác
PAGE 55
định đối tác và đối tượng trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, nhấn mạnh: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết
lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam; bất kể
lực lượng nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.

Có thể nói, từ khi đổi mới năm 1986, sau Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị năm 1988, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX là tài liệu thứ hai có tầm quan trọng chiến lược trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam, đã xác định nguyên tắc và phương thức đối ngoại của Việt Nam với tất cả các nước trong khu vực và
thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Trong cuộc trả lời phỏng vấn Báo Vietnamnet ngày
8/1/2011, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khi đó khẳng định: “Tôi tin đây là Nghị quyết
đi vào lịch sử bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình như Nghị quyết 15 trong chiến tranh chống Mỹ”.

Trên cơ sở những thành tựu đạt được, tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được triệu tập tại
Hà Nội. Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đã nêu chủ trương lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế. So với đường lối đối ngoại Đại hội IX, Đại hội X đã điều chỉnh, bổ sung một số nội dung
như:

Thứ nhất, khẳng định việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm
từ hòa bình, hợp tác và phát triển)

Thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương
hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính sách đối ngoại rộng mở)

Thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần “chủ động” mà còn phải “tích cực”, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác

Thứ tư, quan điểm của Đại hội X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều
sâu, ổn định, bền vững.

Tiếp theo đường lối đối ngoại của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa X (15/1/2007) đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới”. Trên cơ sở quan điểm
biện chứng, phát triển, Ban Chấp hành Trung ương cho rằng những cơ hội, thách thức khi Việt Nam là thành viên của
WTO có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tùy thuộc
vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn
hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng cơ hội thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản
trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu cùng còn tùy thuộc vào nỗ lực và khả
năng vượt qua của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của
các thách thức thì không những chúng ta sẽ vượt qua được thách thức mà còn có thể biến thách thức thành động lực
phát triển.

Tháng 1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra tại Hà Nội. Đại hội đề ra nhiệm
vụ chủ yếu về đối ngoại từ năm 2011 - 2015 là “mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế”.

So với nhiệm vụ đối ngoại được xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế”, thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã thể hiện bước
phát triển mới về tư duy, chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” lên “hội nhập quốc tế” - hội nhập toàn diện, đồng bộ từ
kinh tế đến chính trị, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh. Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và chính sách đối
ngoại của Đảng ta, là kết quả bước chuyển từ tư duy đối ngoại thời kỳ chiến tranh lạnh sang đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.

Thực tiễn gần 30 năm đổi mới cho thấy, đường đối ngoại rộng mở do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
đề ra đã được các Đại hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát
triển thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, thể hiện ở mục
tiêu đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại và phương châm đối ngoại. Đường lối đó đã góp phần giữ vững

PAGE 56
môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế và
uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Cũng từ đường lối đúng đắn đó, Việt Nam đã tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực, đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền
vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương.

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* 2. Vì sao Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện đổi mới tư duy đối ngoại “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc
tế”. Anh chị hãy đánh giá tác động của phương châm này đối với hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới

Trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên trường quốc tế, đưa đất nước đi lên.
Việt Nam đã và đang từng bước chủ động hội nhập quốc tế và khu vực nhờ “Chủ trương của Đảng về đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”.
Cơ sở hình thành chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng:
Trong bối cảnh cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hóa, …,từ giữa những năm
1980, các chủ thể trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.
Nhận thấy những cơ hội từ xu thế này nên quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đã được Đảng,
Nhà nước ta đưa ra từ rất sớm. Nó được thể hiện trước hết trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực… Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc”.
Qua các kỳ Đại hội của Đảng, từ Đại hội VI đến nay, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới được hình thành và dần hoàn chỉnh với một quan điểm luôn được nhấn mạnh: Đa dạng hóa, đa phương hóa các
mối quan hệ quốc tế, hội nhập khu vực và quốc tế một cách chủ động, tích cực.

Các giai đoạn hình thành và phát triển chủ trương, đường lối :

Giai đoạn 1986-1996 : Đảng xác lập đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa phương hóa đa dạng hóa quan
hệ quốc tế.
Trong Đại hội VI (12-1986), Đảng đã nhận định: “Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước
có chế độ kinh tế xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.” . Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới cũng đã chỉ ra: “Mục tiêu
chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là củng cố giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát
triển kinh tế…Kiên quyết mở rộng hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.”
Đại hội VII của Đảng (6-1991) chủ trương: “Mở rộng, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc
giữ vững độc lập chủ quyền bình đẳng cùng có lợi”, “Việt Nam muốn là bạn của các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, “Gắn với thị trường trong nước với thị trường thế giới”.
Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương khóa VII cụ thể: Đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ quốc tế là mở rộng cửa để
thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới, trên cơ sở bảo đảm an ninh
quốc gia, tài nguyên, môi trường, Hạn chế thấp nhất các tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì của Đại hội VII : Triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ đối ngoại.

Giai đoạn 1996 đến nay: Bổ sung và phát triển dường lối đối ngoại theo phương châm: Chủ động tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đại hội lần thứ VIII (6-1996) : Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu
vực và quốc tế. Quan điểm đối ngoại với các đối tác là : Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các
nước trong khu vực ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với
các nước phát triển và các trung tâm kinh tế thế giới, tham gia tích cực đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc
tế.
Hội nghị lần thứ 4 khóa VIII: Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, tiến hành khẩn
trương việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mĩ, gia nhập APEC và WTO. So với Đại hội VII thì đại hội VIII có
nhiều điểm tích cực hơn: Chủ trương mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác, Quán triệt yêu cầu

PAGE 57
mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, lần đầu tiên Đảng đưa ra chủ trương thử
nghiệm để tiến tới đầu tư nước ngoài.
Đại hội IX (4-2001): Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với tinh thần mạnh nẽ
hơn, tâm thế chủ động hơn: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng động quốc tế, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Đặc biệt chuyển mối quan hệ với các nước lớn và các thể chế quốc tế từ bình
thường hoá sang mối quan hệ ổn định, lâu dài, đi vào chiều sâu, vì lợi ích của cả hai bên”. Là một mốc quan trọng
đánh dấu bước phát triển về chất trong tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006) đề ra các quan điểm, nhiệm vụ để “Mở rộng quan hệ đối ngoại tích cực,
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế”. Quan điểm chỉ đạo hoạt động đối ngoại là “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế… khu vực”.
Đại hội XI (1-2011) đã có những bổ sung phù hợp tình hình mới, từ đó chỉ rõ: “Bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững
độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc”. Về phương châm, các văn kiện của Đại hội khẳng định: Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đổi mới đường lối đối
ngoại được đưa ra: Đánh dấu bước chuyển từ chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đến “chủ động tích cực hội
nhập quốc tế”. Đại hội cũng khẳng định cần “triển khai đồng bộ toàn diện các hoạt động đối ngoại”.

Nội dung đường lối đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế
Việc thực hiện chủ trương, đường lối về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của đảng nhằm đạt được
những Mục tiêu, nhiệm vụ sau :

Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công nghiệp đổi mới để phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dâm,
nâng cao địa vị quốc gia trên chính trường quốc tế.

Kết hợp nội lực và ngoại lực để tạo ra nguồn lực tổng hợp đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.

Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã
hội.

Để đạt được những mục tiêu ấy Đảng đã đưa ra Tư tưởng chỉ đạo như:

Bảo đảm lợi ích dân tộc đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc lập tự chủ tự
cường đi đôi với đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.

Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, tránh đối đầu nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức
và mức độ thích hợp, kết hợp đối ngoại của Đảng ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, xác định hội nhập kinh
tế quốc tế là công việc của toàn dân….
Trong quá trình thực hiện đảng đã có Một số chủ trương, chính sách lớn như :
Thứ nhất: Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Triển khai mạnh mẽ các
hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN. Kí hiệp định khung với liên minh Châu Âu. Bình
thường quan hệ ngoại giao với Mỹ. Củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống.
Thứ hai: Nước ta đã Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Gia nhập ASEAN và tham
gia AFTA. Tham gia Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEAM) với tư cách là thành viên sáng lập. Trở thành thành viên
chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (APEC), gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO.
Thứ ba: Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác cải cách hành chính. Thực hiện đồng bộ cải cách hành chính với cải cách lập pháp, cải cách tư
pháp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ
quan hành chính nhà nước. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc,
quy định của WTO. Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế
nhiều thành phần, thúc đẩy sự hình thành phát triển từng bước hoàn thiện các loại thị trường.

PAGE 58
Thứ tư: Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm: Nâng cao năng lực về vốn của doanh
nghiệp, Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, xây dựng chiến lược kinh
doanh…

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA PHƯƠNG CHÂM NÀY ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần
nâng cao vị thế của nước ta.
Về quan hệ hợp tác song phương: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế
hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,các nước trong
nhóm G8,  nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga,
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại
diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các
tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và
thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và chính thức tham gia Khu vực thương mại
tự do ASEAN từ 1/1/1996.
Năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp
vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đã có một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Bên cạnh những thành tựu, việc thực hiện đường lối của Đảng tồn tại một số hạn chế:
Một là, một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại.
Hai là, các kế hoạch tổng thể và dài hạn chưa đáp ứng , cũng như chưa có lộ trình thực hiện hợp lí.
Ba là, đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đối ngoại chưa đáp ứng được nhu cầu về cả số lượng và chất lượng.
Bốn là, Bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Từ những hạn chế nêu trên, em xin đưa ra một số giải pháp như :
Thứ nhất, chủ trương đường lối của Đảng cần được đổi mới sao để bắt kịp với yêu cầu của thị xã hội
Thứ hai, cần có lộ trình hợp lí để thực hiện có hiệu quả các chính sách
Thứ ba, đội ngũ cán bộ cần không ngừng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu của công việc,...

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

*3. Trong nghị quyết Trung ương 9 khoá 11-2011, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra quan điểm “Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển vững bền của đất nước” . Anh chị hãy nêu ý kiến về quan điểm
trên.

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* 4. Hãy cho biết vì sao Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương xoá bỏ cơ chế quản lí tập trung bao cấp, chuyển thành
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa

Lý do cần xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung bao cấp

Sau hơn 10 năm tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong trạng
thái trì trệ: sản xuất nông nghiệp thấp kém không đáp ứng được nhu cầu trong nước; công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng hiệu
quả thấp; nhiều mặt hành tiêu dùng thiếu trầm trọng, dấu hiệu của suy thoái và khủng hoảng kinh tế- xã hội đã dần dần xuất
hiện. Xuất phát từ những hạn chế của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp.

PAGE 59
Thủ tiêu cạnh tranh nên kìm hãm sự phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh, kìm hãm sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật.
Mô hình kinh tế này không phản ánh đúng yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế thị trường, nên mọi sự tính toán
đều mang tính chủ quan, duy ý chí làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, làm mất đi tính năng động sáng tạo của các
đơn vị kinh tế.

Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những không tạo được động lực mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Điều này đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp duy trì quá lâu đã tạo ra nhiều lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội. Điều đó gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước, tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng,
triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động.

Chế độ phân phối bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả sản xuất với năng suất và hiệu quả lao động, triệt tiêu động
lực của người lao động. Việc tạo nên một hệ thống thương nghiệp nhà nước độc quyền mua và bán, đã tạo nên những đặc
quyền đặc lợi gắn liền với những người nắm giữ hệ thống "thị trường có tổ chức" gây bất bình đẳng ngay trong khâu phân phối

Không coi trọng quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng hiện vật hóa, không khai thác được vai trò, sức
mạnh của quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Những chức năng của tiền tệ vốn được khai thác để phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay
thì khi đó nó gần như không được thể hiện trong cả điều hành vĩ mô và thực tiễn cuộc sống.

Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp bách.

Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa?
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển kinh tế tổng quát của nước ta hiện
nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu
khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa
thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và
ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các
quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Tại Đại hội IX - Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng
định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng
ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con
đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. 
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn đó là Chủ nghĩa xã hội và
để đi lên Chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ
hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh do nhân dân làm chủ.

PAGE 60
Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.
Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Mục tiêu và phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Mục tiêu

Mục tiêu quan trọng của chặng đường đầu là: Đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định và vững chắc, tạo
tiền đề cho sự phát triển sau này . 

 Mục tiêu kế tiếp là đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa nhằm đến năm 2020 nước ta trở thành nước cơ bản công
nghiệp hiện đại (tập trung xây dựng đội ngũ kỹ thuật, kỹ sư lành nghề trình độ cao, xây dựng mối quan hệ tổ chức sản
xuất hiện đại, quốc phòng được cũng cố...) 

Phương hướng

Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân vì dân, lấy dân là nền tảng họat động, dựa trên cơ cấu
thành phần chính là công nhân, nông dân, thành phần tri thức, tất cả do Đảng Cộng sản lãnh đạo . 

Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền móng
nông nghiệp toàn diện, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, cải thiện đời sống cá nhân.

Thiết lập từng bước mối quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, đa dạng về hình thức sở hữu và phân phối phát triển thành phần hàng hóa nhìều thành phần vận hành theo
nền kinh tế thị trường theo định hứớng Xã hội chủ nghĩa.

Tiến hành cách mạng Xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, đòan
kết với các phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập của dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Xây dựng Xã hội chủ nghĩa gắn liền với bảo vệ tổ quốc.

Xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh về chính trị, bồi dưỡng công các chính trị, tư tưởng các cán bộ. Đảm bảo
công tác giữ an ninh trật tự xã hội, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp Xã hội chủ nghĩa ở
nước ta
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát
triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương
đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song,
trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với
mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.

PAGE 61
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở
kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách
biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa
xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán,
là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều
năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn, và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Vì sao việc Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn mô hình định hướng Xã hội chủ nghĩa là một tất yếu?

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng thời góp
phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có sự điều
tiết của Nhà nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo.

Tính tất yếu chung

Vận dụng lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vào công cuộc xậy dựng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga trước đây,
V.I.Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu
khách quan đối với mọi nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đối với những nước có lực lượng sản xuất phát
triển cao thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể ngắn hơn so với những nước đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế kém phát triển.

Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do đặc điểm ra đời, phát triển
của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định.

Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc them mâu thuẫn của xã hội phong
kiến, cách mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt chính quyền nhà
nước, làm cho kiếm trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.

Cách mạng vô sản có điểm khác biệt căn bản với cách mạng tư sản. Do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất, còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên
chủ nghĩa xã hội không thể ra đời từ trong lòng xã hội tư sản. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời sau khi
cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội – giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc có
thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải  có thời gian. Nói cách khác, tính tất yếu phải có thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I.Lênin cho rằng cách mạng vô sản thắng lợi mới chỉ là sự
khởi đầu cho thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở Việt Nam xuất phát từ những lí do cơ bản sau:

Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của
Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.

PAGE 62
Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự
tồn tại và phát triển, nền kinh tê hàng hoá tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá theo các quy luật tất
yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự hình thành và phát
triển kinh tế kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó, sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu
khách quan.

Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là mong muốn chung của các quốc gia trên thế
giới. Do đó, việc định hướng tới xác lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu
trong phát triển. Song trong sự tồn tại hiện thực sẽ không thể có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung
cho mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi quốc gia, dân tộc.

Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hoá giản đơn kiểu chiếm hữu nô lệ và phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Nó tồn tại trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản
xuất thống trị trong xã hội đó. Ngay như trong cùng một chế độ tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường của mỗi quốc gia,
dân tộc cũng sẽ khác nhau, mang đặc tính khác nhau.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, măc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh
ở các nước tư bản phát triển, nhưng những mâu thuẫn vốn có của nó không thể nào khác phục được trong lòng xã hội
tư bản, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến hoá tạo ra những điều kiện cần
và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội - cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa
đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại
và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu thuẫn với tiến trình phát triển của đất nước. Đây thực
sự là bước đi, cách làm mới hiện nay của các dân tộc, quốc gia đang trên con đường hướng tới xã hội xã hội chủ nghĩa.

Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thức đẩy phát triển đối với Việt Nam

Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương thứuc phân bổ nguồn lực hiệu quả mà con
người đã đạt được so với các mô hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường mà nền kinh tế luôn phát triển theo
hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá
thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội.

Kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã ,
tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ, làm cho sản xuất gắn với tiêu dùng. Kinh tế thị trường chịu sự chi phối của   quy
luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hóa mình làm ra. Mỗi người
sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm tới sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội
thừa nhận và cũng từ đó họ mới có thu nhập.

Do vậy, trong phát triển của Việt Nam cần phải phát triển kinh tế thị trường để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Tuy nhiên trong quá trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của thị trường
đề có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan để đi đến mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh của người dân Việt Na,

Trên thế giới có nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng nếu phát triển mà dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước
không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh thì không quốc gia nào muốn. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,

PAGE 63
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện hoá khát vọng
như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.

Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng
và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khách
quan sinh ra nó quy định, Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều kiện cho sự ra đời và tồn
tại của sản xuất hàng hoá như: Phân công lao động xã hội, các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản xuất vẫn được thực hiện thông qua thị trường.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát vỡ tính chất tự cấp, tự túc, lạc hậu của nền hình tế,
đẩy mạnh phân công lao động xã hội và tập trung sản xuất, chuyên môn hóa sản xuất vì thế mà phát huy được tiềm
năng, lợi thế của từng vùng, của đất nước để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. phát triển ngành nghề, tạo việc làm
cho người lao động, thúc đẩy công nghệ mới đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chất lượng và chủng
loại hàng hoá, dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, thúc đẩy tích tụ và tập trung
sản xuất, tạo điều kiện ra đời nền sản xuất lớn xã hội hóa cao; đồng thời chọn lọc được những nhà sản xuất kinh doanh
giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, đội ngũ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu của đất nước. Mở
rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong nước và với nước ngoài, khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong
các hoạt động kinh tế, tạo cơ chế phân bố và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lí, tiết kiệm,... Điều này phù
hợp với khát vọng của người dân Việt Nam.

PAGE 64

You might also like