You are on page 1of 7

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

THI GIỮA KỲ 


BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 
Giảng viên: Nguyễn Thị Thảo Nguyên
Mã lớp học phần: 22C1HCM51000418
Sinh viên: Nguyễn Ngọc Vân Trang
Khóa - lớp: K47 - AD001
MSSV: 31211020681

TP Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 09  năm 2022

ĐỀ BÀI: Hãy nêu và phân tích một vật dụng hoặc một sự kiện lịch sử liên quan
đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ chủ tịch mà bạn cảm thấy tâm đắc và
rút ra bài học.
BÀI LÀM:
PHÂN TÍCH SỰ KIỆN NGAY 5/6/1911- NGÀY BÁC HỒ RA ĐI
TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC.
Cách đây 111 năm, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
đã lên con tàu Admiral Latouche Tréville, bắt đầu chuyến hành trình tìm đường
cứu nước kéo dài suốt 30 năm, để rồi sau đó đã mang về ánh sáng tự do cho dân
tộc. 

Sống trong cảnh “nước mất, nhà tan”, hàng ngày chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của
thực dân và phong kiến tay sai, nỗi thống khổ của nhân dân lao động, người thanh
niên Nguyễn Tất Thành đã sớm hình thành khát vọng tìm đường giải phóng dân
tộc và có tầm nhìn độc lập, sáng tạo so với các bậc tiền bối. Người quyết định ra đi
tìm đường cứu nước, với một quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi
hiểu”.

Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ngày 5/6/1911 đã trở thành một dấu mốc lịch
sử, mở ra một thời đại mới cho đất nước ta. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất
nước ta và thời đại đã sinh ra Người và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta, non sông đất nước ta và thời đại chúng ta.
Dấu ấn quê hương và gia đình, sự tác động về nhiều mặt đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, dù rất khâm phục lòng yêu nước của các bậc tiền
nhân, nhưng khác họ, qua những kiến thức mới mẻ tiếp thu được từ Tân thư, từ
những năm tháng học tập, sinh sống ở Huế, và bằng nội lực bẩm sinh, Nguyễn Tất
Thành hiểu rằng một thời đại mới, đòi hỏi một con đường đi mới, một phương thức
đấu tranh mới, khác hẳn con đường cách mạng cải lương từng diễn ra, đó là làm
cách mạng. Đây là một suy nghĩ đúng đắn, hợp quy luật và thời đại.
Thực tế, sự hiểu biết, chí hướng yêu nước, hành động tham gia cuộc biểu tình
chống thuế của nông dân Trung Kỳ năm 1908 chính là cơ sở, là tiền đề chuẩn bị
cho quyết định của Nguyễn Tất Thành sau này. Đầy nhiệt huyết và mang trong
lòng hoài bão giành lại “độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi”, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định rời nhà trường, rời Tổ quốc
ra đi tìm đường cứu nước. Và khác những vị tiền bối cách mạng, vì muốn tìm hiểu
và khảo nghiệm thực tế những gì đang diễn ra trong lòng chế độ tư bản, trong “nội
bộ kẻ thù của dân tộc mình”, Nguyễn Tất Thành ước muốn "đi ra nước ngoài, xem
nước Pháp”, “muốn làm quen với nền văn minh Pháp” và các nước khác không
phải chỉ để thỏa mãn những hiểu biết của tuổi trẻ mà chính là "muốn tìm xem
những gì ẩn giấu đằng sau”/những gì đã làm nên sức mạnh và văn minh của
phương Tây - nơi sản sinh những tư tưởng lớn, những cuộc cách mạng lớn và "sau
khi xem xét họ làm như thế nào… sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.
Vậy là, khi quyết định không sang phương Đông, không nhờ cậy vào những người
“anh lớn” như Trung Quốc và Nhật Bản, mà muốn làm quen với văn minh Pháp,
muốn xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ mỹ từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”
của cách mạng tư sản Pháp, Nguyễn Tất Thành đã muốn học hỏi nhiều hơn những
gì mình đang có, dân tộc mình đang có để không chỉ làm giàu tri thức cho mình mà
chính là hướng đến giải phóng dân tộc mình. Từ xuất phát điểm này, từ sự vượt lên
chính mình này đã quyết định sự lựa chọn, con đường đi sau đó của Người - con
đường bôn ba tìm đường cứu nước, mở đầu một chặng đường dài xa Tổ quốc.
Với ý chí và quyết tâm của một người dân mất nước, với nhiệt huyết và sức trẻ của
tuổi thanh xuân, Nguyễn Tất Thành đã khởi đầu một con đường đúng khi quyết
định xin làm thuê trên tàu Đô đốc Latútxơ Trêvilơ, rời Tổ quốc ngày 5/6/1911 để
“tìm đường đi cho dân tộc theo đi”.
Suốt thời thanh niên sôi nổi của đời mình, Nguyễn Tất Thành dành cho việc lao
động kiếm sống, tích luỹ tri thức và tìm hiểu đời sống chính trị, xã hội các quốc
gia, dân tộc và các nền văn hoá của nhiều châu lục. Trải qua những tháng ngày lao
động vất vả, bằng nghề làm phụ bếp trên tàu; thợ chụp ảnh, vẽ đồ giả cổ Trung
Hoa ở thủ đô Paris của nước Pháp hoa lệ; làm người cào tuyết cho trường học, bồi
bàn trong khách sạn ở nước Anh, v.v..và vượt qua cái lạnh giá của châu Âu, với
viên gạch ủ nóng thay cho lò sưởi là một Nguyễn Ái Quốc - Người thanh niên yêu
nước đã sống, học tập và hoạt động không mệt mỏi.
Bằng tinh thần lao động và sự hòa mình vào dòng chảy của các sự kiện trên thế
giới, cuộc hành trình của Nguyễn Tất Thành tiến hành trong gần một thập niên ở
nước ngoài không chỉ là quá trình học tập, khảo sát, nghiên cứu kỹ lưỡng nhằm
thấu hiểu mà chính là để chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hóa - văn minh của
nhân loại. Bằng những nỗ lực hoạt động của mình trong nhiều tổ chức, trên nhiều
phương tiện thông tin đại chúng, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - một
người dân nô lệ ở thuộc địa, ham học hỏi, không sợ cường quyền, từng bước vượt
qua mọi thử thách, gian truân, luôn phấn đấu cao độ với một nghị lực phi thường
và một định hướng chính trị đúng đã gom góp và đanh thép đưa ra bản cáo trạng
tội ác thực dân - Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.
Thông qua cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc ở các châu lục, trải qua thực
tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều nước, tri thức, văn hóa, trí tuệ và thế giới quan
của Người được mở rộng từ dân tộc đến nhân loại. Quá trình tích lũy cởi mở đó
giúp Người hiểu được ngọn nguồn nỗi khổ đau của các dân tộc thuộc địa, của
những người lao động, không phân biệt chủng tộc, màu da và nhất là sự khác biệt
giữa phương Đông và phương Tây. Đặc biệt, được chứng kiến những diễn biến lớn
của thời đại, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy những tồn tại, những khoảng cách và cả
những bất công về quyền lợi và hưởng thụ trong lòng xã hội tư bản, tất yếu sẽ dẫn
đến những “khủng hoảng” không thể tránh khỏi ở cả các nước chính quốc, như
nước Mỹ (với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776) và nước Pháp (với bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng 1791).
Đó chính là sự phân biệt giàu nghèo giữa những người bị áp bức và những kẻ bị áp
bức ở các thuộc địa, giữa nhân dân lao động tại các nước tư bản với những tên thực
dân, những kẻ hữu sản và Người đi tới khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà
cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[4]. Vì thế, vấn
đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của dân tộc và
con người Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên thế
giới.
Một Nguyễn Ái Quốc sau chặng đường bôn ba qua nhiều châu lục, qua nhiều quốc
gia trên thế giới, cùng với sự khảo nghiệm thực tế đã bị lôi cuốn bởi thắng lợi của
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tuy khi đó chưa hiểu biết đầy đủ,
sâu sắc về sự kiện vĩ đại này, song với sự nhạy cảm về chính trị và khát khao đất
nước được giải phóng, nhân dân được tự do, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sự kiện
trọng đại này “có một sức lôi cuốn kỳ diệu”. Đặc biệt, khi được đọc “Sơ thảo lần
thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin đăng
trên báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội Pháp (16-17/7/1920), Người đã đi đến một
quyết định trọng đại - đó là đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường
cách mạng vô sản, đến với cách mạng Tháng Mười Nga và bỏ phiếu tán thành
Quốc tế thứ ba do V.I. Lênin sáng lập và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (12/1920).
Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp đã đánh dấu một bước ngoặt quyết
định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc và cũng là sự khởi đầu một
bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối.
Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đã đi vào quỹ đạo cách mạng
vô sản; đã hòa vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế
quốc và nhất định sẽ đi tới thắng lợi cuối cùng là giành độc lập dân tộc, đi lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Với ý nghĩa đó, có thể thấy, Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ tìm được con đường
cứu nước, cứu dân phù hợp quy luật của thời đại mà còn trang bị cho mình một
nhân sinh quan mới để định hình con đường phát triển cho một đất nước Việt Nam
còn lạc hậu, kém phát triển, nhưng ở đó “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước… Chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc”[5]. Đây là quá trình
khảo nghiệm, tiếp biến và vượt gộp của Hồ Chí Minh, khi thâu thái tinh hoa, tri
thức của các nền văn minh nhân loại, để vừa sáng tạo, vừa độc lập vận dụng vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam sau đó.
Vậy là, với quyết định đi sang “phương Tây”, với hành trình gần 30 năm lao động,
học hỏi và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã có thời gian
khám phá, chiêm nghiệm, để hiểu được thực chất của “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”,
của pháp quyền, dân chủ và mô hình tổ chức Nhà nước tư sản; của nhân quyền,
pháp quyền, dân chủ, mô hình tổ chức Nhà nước Xô viết và con đường đấu tranh
giải phóng dân tộc theo tinh thần của V.I.Lênin. Và sự lựa chọn đúng đắn của Hồ
Chí Minh sau khi đã “trưng cất” những tinh hoa của nền văn minh Đông và Tây, tư
bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa sẽ giúp Người thực hiện hoài bão của mình, đó là
giải phóng dân tộc mình, giải phóng “các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ”- sự nghiệp giải phóng toàn diện loài người.
Từ những tri thức tích luỹ được, tháng 11/1924, một Hồ Chí Minh thấu hiểu được
nguồn sức mạnh nội lực “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”; với
niềm tin cháy bỏng về một Tổ quốc Việt Nam được độc lập, nhân dân Việt Nam
được tự do; với mong muốn đem lại hạnh phúc “cho tất cả mọi người” đã về đến
Quảng Châu, Trung Quốc. Trên cơ sở những nguyên lý của học thuyết Mác -
Lênin về xây dựng Đảng, Nhà nước, về phương pháp vận động quần chúng, tập
dượt đấu tranh cách mạng được tích luỹ trong những năm tháng hoạt động của tuổi
trẻ, Nguyễn Ái Quốc đã tận tâm, tận lực truyền giảng cho những thanh niên Việt
Nam yêu nước, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán đầu tiên, chuẩn bị những tiền đề về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, để xúc tiến cho sự ra đời của một chính Đảng vô sản
kiểu mới ở Việt Nam.
Mở lớp huấn luyện chính trị, thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên năm 1925, sáng lập báo Thanh niên 6/1925, tuyên truyền về chủ nghĩa cộng
sản, về Đảng Cộng sản, về Cách mạng Tháng Mười Nga, xuất bản tác phẩm
Đường Kách mệnh đầu năm 1927.v.v, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đem đến cho những
thanh niên Việt Nam yêu nước, những người chủ tương lai của nước nhà, những
người cũng giống như cha anh mình phải sống trong thân phận nô lệ, một luồng
sinh khí mới, một con đường cách mạng mới. Bằng khát vọng tuổi trẻ và kinh
nghiệm của chính bản thân mình, Người muốn thức tỉnh thanh niên, truyền cho họ
con đường cách mệnh, để đi tới thức tỉnh cả dân tộc - Đó là phương pháp cách
mạng đúng đắn, thể hiện một tầm nhìn vĩ đại.
Từ những định hướng chính trị nêu trên, cùng với những hoạt động về lý luận và
thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc và những người Việt Nam yêu nước từng học tập ở
Quảng Châu đã ngày mỗi ngày, góp phần đưa tư tưởng của thời đại mới về Việt
Nam, đưa đến sự chuyển biến về chất trong phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Sau đó, khi các tổ chức cộng sản Việt Nam ra đời, khi nguy cơ phân liệt,
mất đoàn kết, sự tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau của các tổ chức cộng sản đe dọa
sự phát triển của phong trào cách mạng cả nước, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định
viết thư mời, triệu tập, tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (từ 6/1-8/2/1930) tại Hương Cảng. Hội nghị đã
thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; trong đó khẳng định "chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản"… Trong những năm sau đó, dưới sự lãnh đạo của Người và Đảng Cộng sản
Việt Nam, với đường lối cách mạng đúng đắn, với sức mạnh đoàn kết muôn người
như một của các tầng lớp nhân dân Việt Nam nồng nàn yêu nước, kiên cường đấu
tranh cách mạng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử đã thành công. Ngày
2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam châu Á; đưa những thân dân/người dân nô lệ An Nam trở
thành chủ nhân của nước Việt Nam độc lập, tự do.
 Với thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, một đất
nước Việt Nam hồi sinh từng ngày sau những đêm dài nô lệ đã vững vàng, kiên
định tiến hành thắng lợi cuộc trường chinh kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống Mỹ, cứu nước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Kiên định con đường đã lựa chọn trên hành trình đi
tới tương lai, sau hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, một đất nước Việt Nam
đổi mới từng ngày đã khẳng định được vị thế của mình trong cộng đồng các quốc
gia, đóng góp vào sự phát triển bền vững, phồn vinh của nhân loại. Trong hành
trình đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc mình, dân tộc Việt Nam,
nhân dân Việt Nam đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, làm cho
thế kỷ XX trở thành thế kỷ phi thực dân hóa, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của loài
người tiến lên trong một thế giới đầy biến động.
Thời gian càng lùi xa, càng khẳng định rằng, ngày 5/6/2011 không chỉ là một sự
kiện đặc biệt đánh dấu sự lựa chọn đúng, một khởi đầu đúng của Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mà còn cho thấy, đi theo con đường
Người đã chọn, đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã hòa mình vào dòng
chảy chung của nhân loại; đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
tạo nên sức mạnh tổng hợp về thế, lực và thời để đưa Việt Nam ngày một đổi mới
và phát triển.
Từ một sự lựa chọn đúng và khởi đầu một hướng đi đúng, với ý chí, quyết tâm và
sự phấn đấu không mệt mỏi cho con đường mình đã chọn, Nguyễn Tất Thành -
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi từ bến cảng Sài Gòn năm xưa đã tìm thấy
con đường cách mạng đúng đắn và lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi đến độc lập và
thống nhất, tự do và hạnh phúc, ngày một phát triển bền vững. Đồng thời, cũng từ
một sự khởi đầu đúng đắn kiên định con đường cách mạng do Người và Đảng đã
chọn. Đến nay, 111 năm sau - một nước Việt Nam độc lập , tự do, hạnh phúc ngày
càng phát triển vững mạnh và phồn vinh đã khẳng định vị thế của mình trên trường
quốc tế.

You might also like