You are on page 1of 6

4. Nhận xét, đánh giá.

Để có thể có được con đường cứu nước đúng đắn, thì ta cần phải có những tiêu chuẩn gì? Tại sao
con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc thành công, lý do con đường cứu nước của các vị tiền
nhân lần lượt thất bại.
Nguyễn Tất Thành đã đi qua nhiều nơi khác nhau trên thế giới và chính nhờ vào quá trình lao
động, học tập, hòa mình vào dòng chảy của các sự kiện trên thế giới Người đã có điều kiện nghiên
cứu, khảo sát, thấu hiểu để chọn lọc tiếp thu những giá trị tinh hoa văn minh của nhân loại. Nhờ
tìm tòi, học tập không ngừng thế giới quan của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành dần
đựợc mở rộng. Người đã nhận thấy nguồn gốc trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc
địa đó là chủ nghĩa đế quốc và đồng thời khám phá ra chân lý “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. Bằng những phân tích lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn Người đã sớm nhận thức
được tính chất không đến nơi của các cuộc cách mạng tư sản như cách mạng Anh, Pháp, Mỹ và đi
đến kết luận khoa học đúng đắn, có giá trị “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Việc bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải đáp
những câu hỏi, thắc mắc của Nguyễn Ái Quốc sau bao nhiêu năm bôn ba, tìm kiếm. Sự lựa chọn
con đường cứu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản là sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt đầy
nhạy bén của Nguyễn Ái Quốc. Nó phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại, xu thế của thời đại
và đồng thời phù hợp với khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Con đường cứu nước
Tìm đường cứu nước là con đường thời đại rất khó khăn, rút kinh nghiệm các vị tiền bối như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh hướng con đường cứu nước về phía Nhật Bản đều bị thất bại thì
Người quyết định đi các nước Tây Âu với nhận thức rất đúng đắn là muốn đánh đổ kẻ thù thì
phải biết rõ kẻ thù đó. Người nói: “ Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên tôi nghe từ Pháp tự do, bình
đẳng, bác ái. Thế là tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng
sau những từ ấy”. Vì thế, Người sang Pháp với mong muốn “đến tận hang ổ của kẻ xâm lược để
xem nước Pháp và các nước khác làm ăn như thế nào rồi trở về giúp đồng bào”. Việc chọn
hướng đi đúng là điểm mới rất quan trọng thể hiện bản lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã mở ra thành công trên con đường cách mạng của Người và mở ra phương
hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam. Điều này có tầm quan trọng rất lớn để Nguyễn Ái
Quốc đến với chủ nghĩa Mác -Lênin sau này. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sĩ
phu, văn thân, chí sĩ xả thân vì nước, nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các
bậc tiền bối. Tư tưởng yêu nước của Người tuy lúc đó chưa gặp chủ nghĩa xã hội, nhưng đã thể
hiện tầm vóc vượt trước quan điểm cứu nước đương thời là tự ra đi tìm đường cứu nước, không
dựa dẫm vào nước nào; không nhờ vả, kêu gọi người khác giúp mình. Người cho rằng, chủ
trương của cụ Phan Chu Trinh yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương chẳng khác gì “đến xin
giặc rủ lòng thương”; chủ trương của cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp chẳng
khác nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, chủ trương của cụ Hoàng Hoa Thám tuy thực tế
hơn, nhưng không có hướng thoát rõ ràng, “còn mang nặng cốt cách phong kiến.
Ngày 5/6/1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Khác với các nhà
yêu nước tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây để
tìm đường cứu nước. Người đã chọn nước Pháp là nước đầu tiên để đặt chân đến. Bởi nước Pháp
là nước giành thắng lợi trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền 1789, đây là cuộc các mạng tư
sản triệt để nhất châu Âu. Trong quá trình thống trị Việt Nam, thực dân Pháp rêu rao khẩu hiệu
“Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Người đến nước Pháp để tìm hiểu sự thật của tự do, bình đẳng,
bác ái đó.
Từ năm 1911 đến năm 1920, Hồ Chí Minh - Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được
đến nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát ở 3
nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi,
nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có
tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những
người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ
có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó
càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng
đất nước, giải phóng dân tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước
ngoài là chủ nghĩa yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống,
vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời
đại.
Khác biệt thứ nhất: Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc suốt gần 10 năm hoàn toàn sống bằng
lao động, với đủ mọi nghề kể cả những nghề cực nhọc nhất. Tự mình lao động để sống, sống để
học hỏi, sống để tìm cho kỳ được “Cái cần thiết cho chúng ta”. “Con đường giải phóng chúng
ta”. Trong một con người Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc có cùng 2 thân phận: người dân
mất nước và người lao động bị áp bức. Điều này hẳn đem đến cho Nguyễn Tất Thành nhận thức
sâu rộng hơn sự gắn bó mật thiết giữa yêu nước với thương dân, giữa giải phóng dân tộc với giải
phóng người lao động.
Khác biệt thứ hai: Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc không chỉ sang Pháp, ở Pháp mà còn
sang Anh, sang Mỹ và một số nước châu Âu. Còn đi đến nhiều nước khác ở châu Phi có cùng
thân phận thuộc địa “được” văn minh phương Tây “khai hóa” như nước Việt Nam của mình.
Hẳn nhờ đó, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thấu hiểu sâu sắc, cặn kẽ về điều gọi là
“Văn minh phương Tây”, về thân phận của dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới. Vượt ra ngoài tầm nhìn quốc gia dân tộc, Người vươn lên tầm nhìn nhân loại.
Khác biệt thứ ba: Hoàn toàn không đứng ngoài để quan sát, tìm tòi và học hỏi, Người dấn thân
vào trung tâm cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, vào trung tâm
cuộc đấu tranh của phong trào công nhân ngay giữa lòng châu Âu tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó,
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc nhận ra mối quan hệ giữa con đường cứu nước của dân tộc
Việt Nam với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đặc biệt, nhận ra
mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giải phóng giai cấp. Nhận ra các
mối quan hệ ấy, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc giác ngộ sâu sắc khẩu hiệu của Lê nin
“Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại”. Và cũng từ đó, với
Người, cuộc đấu tranh để giành lại độc lập cho dân tộc không thể “đứng một mình” mà nhất thiết
phải là một bộ phận của cuộc đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc. Nhất thiết phải đặt
công cuộc giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới.
Khác biệt thứ tư: Học từ và trong thực tiễn đấu tranh, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đặc
biệt tự vượt lên để học lý luận từ các trước tác của các nhà lý luận, các nhà cách mạng mà nhân
loại có từ thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX, thế kỷ XX. Người không hề dị ứng với bất cứ học thuyết
cách mạng nào, mà luôn tìm cho được những hạt nhân hợp lý từ các học thuyết để làm giàu tri
thức lý luận của mình. Người kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn việc học trong sách với học
trong thực tiễn đấu tranh. Nhờ kiên tâm và kiên trì tìm tòi, học hỏi lý luận như vậy, nhờ phương
pháp học hỏi khoa học như vậy, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đến được với Chủ
nghĩa Mác-Lê nin, đến được với học thuyết khoa học và cách mạng của thời đại. Chính đó là nền
tảng lý luận để từ tầm nhìn truyền thống - dân tộc nâng lên tầm nhìn thời đại - quốc tế.
Khác biệt thứ năm, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành)
đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đề cao những tư tưởng tự
do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu nhưng Người
cũng nhận thức rõ và phê phán bản chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn
Ái Quốc nhận xét: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh
đổ phong kiến. Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa”. Đây là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc khẳng định một cách dứt khoát rằng: Con
đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước
nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng
⟹ Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ nghĩa Mác-Lênin và xác định con đường cứu nước
theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là
con đường đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản.“Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
Khác biệt thứ sáu là cách đi. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, có một người bạn đã hỏi
Nguyễn Tất Thành: Chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi? Nguyễn Tất Thành “vừa nói vừa giơ hai bàn
tay - chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”. Và, từ việc làm phụ
bếp trên con tàu Pháp của hãng “Vận tải hợp nhất”, đến cào tuyết trong một trường học, đốt lò,
làm vườn, làm thợ rửa ảnh... Nguyễn Tất Thành đã hòa mình, gần gũi với cuộc sống của nhân
dân lao động, hiểu được nỗi thống khổ, hiểu được nguyện vọng và ý chí, năng lực của họ và
đồng cảm với họ. Và như thế, trên cuộc hành trình của mình với sự lăn lộn trong cuộc sống lao
động và đấu tranh của nhân dân các nước, với tầm hiểu biết rộng lớn và vốn thực tiễn sâu sắc,
phong phú, Nguyễn Tất Thành đã nhận thức về thế giới và thời đại theo một lập trường và quan
điểm mới so với các nhà yêu nước đương thời. Đó là nhận điện đúng đắn kẻ thù chung của cách
mạng thế giới - chủ nghĩa thực dân đế quốc; nhận thức đúng đắn về lực lượng cơ bản của cách
mạng thế giới - nhân dân lao động.
Cuối cùng, mục đích sang phương Tây của Hồ Chí Minh cũng khác và thể hiện tầm nhìn vượt
trội so với những nhà cách mạng tiền bối. Phan Chu Trinh nhiều năm sống ở Paris (Pháp) nhưng
không phát hiện được bản chất của chủ nghĩa thực dân, mà còn đặt niềm tin vào con đường “ỷ
Pháp cầu tiến”. Còn Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây là để khảo sát, nghiên cứu, “xem người
ta làm thế nào”, chứ không phải đi cầu ngoại viện. Người đã hiểu rất sâu sắc bản chất của chủ
nghĩa thực dân và rút ra những nhận xét sâu sắc: xã hội thì đâu đâu cũng có cảnh khổ cực của
người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Người đau nỗi đau
chung của nhân loại và nỗi đau riêng của người dân Việt Nam bị mất nước. Đây là điểm khác
biệt lớn của Hồ Chí Minh so với những nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và đương thời trong việc
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Lý do thất bại
Nguyên nhân sâu xa là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của
một giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến, có vai trò tiến bộ nhất định trong lịch sử đã trở thành
giai cấp phản động, bán nước, tay sai cho đế quốc. Giai cấp tư sản mới ra đời, còn non yếu với
lực lượng kinh tế phụ thuộc và khuynh hướng chính trị cải lương, không có khả năng lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do. Giai cấp nông dân và tiểu tư
sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc và phong kiến, nhưng không thể vạch ra
con đường giải phóng đúng đắn và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Cách mạng Việt
Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về đường lối cứu nước.
Thực tế thất bại của lớp cha ông đã chỉ ra rằng: Sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư
tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân
tộc. Cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, tức là thiếu hệ thống lý luận cách mạng
tiên tiến của giai cấp công nhân có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
thành công. Câu hỏi của "bài toán thế kỷ" đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công
nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam? đến lúc này vẫn chưa có lời giải.
Thất bại của các cụ Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… nói lên một sự thật
lịch sử là: không thể cứu nước trên lập trường phong kiến hay lập trường của giai cấp tư sản, tiểu
tư sản. Các đường lối và phương pháp này đều không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc
trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới. Chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam đang đòi hỏi được đổi mới, đó là một nhu cầu cấp thiết của dân tộc lúc bấy giờ.
Yếu tố, Vai trò của Đảng và nhân dân

 Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò trung tâm trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước và tiếp tục lãnh đạo sự phát triển chính trị, kinh tế, xã hội của
đất nước. Sự lãnh đạo của ĐCSVN là công cụ định hướng sự phát triển của Việt Nam,
hoạch định chính sách và chiến lược, bảo đảm sự ổn định và tiến bộ.
 Một trong những đóng góp quan trọng nhất của ĐCSVN đối với con đường cứu nước
của Việt Nam là cam kết đại đoàn kết toàn dân tộc. ĐCSVN đã làm việc để đoàn kết
các tầng lớp xã hội, các nhóm dân tộc và tôn giáo khác nhau dưới một bản sắc dân tộc
chung, điều này đã giúp thúc đẩy sự gắn kết và ổn định xã hội.
 Sự tham gia và ủng hộ tích cực của người dân đã giúp ĐCSVN thực hiện các chính
sách và chiến lược một cách hiệu quả. Người dân đã góp phần phát triển kinh tế thông
qua lao động, sản xuất và tinh thần kinh doanh của mình. Người dân cũng đã ủng hộ
các chính sách của ĐCSVN, mang lại sự ổn định chính trị và xã hội.
 Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời hiểu rõ tình hình và những điều kiện cụ thể của đất
nước, từ đó có những đường lối đúng đắn, sáng tạo.
 Đảng đủ trưởng thành và đủ sức để lãnh đạo cách mạng.
 Toàn dân đồng lòng, đoàn kết, luôn giữ truyền thống yêu nước quý báu của ông cha ta.
 Vai trò của nhân dân trong con đường cứu nước của Việt Nam cũng rất quan trọng
trong việc bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. Nhân dân đã tham gia quốc phòng,
an ninh, bảo vệ đất nước trước sự xâm lược của bên ngoài, bảo đảm hòa bình ổn định.
 Nhân dân chính là mục tiêu, là lý tưởng cũng như là động lực suốt quá trình tìm kiếm
con đường độc lập của Nguyễn Ái Quốc cũng như trong sự nghiệp cách mạng nước ta.

Sự giúp đỡ quốc tế

 Không thể không nhắc đến cuộc Cách mạng tháng Mười Nga mà qua đó, Nguyễn Ái
Quốc đã xác định được con đường cách mạng của cả đất nước. Nhờ nghiên cứu, học
hỏi và áp dụng có chọn lọc học thuyết của Mác - Lenin mà Nguyễn Ái Quốc đã thành
công trong việc tìm độc lập tự do cho dân tộc, đồng thời xây dựng tổ chức Đảng Cộng
sản Việt Nam thấm nhuần tư tưởng Mác - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Xuyên suốt quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc đã nhận được sự
hỗ trợ từ những người bạn quốc tế thuộc Đảng Cộng sản các nước cũng như phong trào
cộng sản quốc tế, là những nhà hoạt động, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, luật sư có cùng
lý tưởng cách mạng.
 Việt Nam cũng nhận được sự ủng hộ về chính trị và ngoại giao của nhiều quốc gia và
tổ chức quốc tế, trong đó có Khối Xã hội chủ nghĩa. Cộng đồng quốc tế lên án hành
động xâm lược của Hoa Kỳ, ủng hộ quyền độc lập tự quyết của Việt Nam.
 Sự giúp đỡ quốc tế dành cho Việt Nam là rất quan trọng trong việc hỗ trợ cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của đất nước. Nó đã giúp Việt Nam vượt qua thế cô lập,
chống xâm lược, giành độc lập, chủ quyền. Sự hỗ trợ này cũng giúp thúc đẩy tình đoàn
kết quốc tế và thúc đẩy các giá trị hòa bình, chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế
quốc.

5. Liên hệ (bài học rút ra cho học sinh, sinh viên)


Trước hết, về hành động quả quyết ra đi tìm đường cứu nước, cho thấy Bác là con người của
hành động. Chất thanh niên thể hiện trong sự can đảm đến mức táo bạo khi Bác xuất dương chỉ
với hai bàn tay trắng và tự tin nói với bạn: “Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm
bất cứ việc gì để sống và để đi”. Khởi đầu sự nghiệp cứu nước bằng vị trí của một người vô sản,
rèn luyện và trưởng thành qua lao động, Bác thâm nhập thật sự tinh thần của học thuyết Mác -
Lênin. Noi gương Bác, thanh niên thời nay, không hẳn phải trải nghiệm tất cả những gì Bác đi
qua, nhưng cũng cần chú ý trau dồi và chủ động tìm kiếm những cơ hội để được rèn luyện mình
trong thực tiễn, mạnh dạn nêu ý tưởng và thực hiện ý tưởng bằng tất cả tâm huyết và niềm tin.

Thứ hai, bài học thiết thực nhất là thái độ sống và lao động của Bác. Thừa hưởng một vốn học
thức phong phú từ quê nhà, lối sống nhân ái, nghĩa tình khiến cho Bác luôn giản dị, chân thành
đối với mọi người. Khi làm việc trên tàu, dù cả ngày làm việc mệt nhọc, Bác vẫn dành thời gian
dạy các bạn thuỷ thủ chưa biết chữ, giúp họ viết thư về gia đình. Sau này khi làm ở toà soạn báo,
Bác cũng dành lấy nhiều công việc để các đồng chí có thời gian chăm lo gia đình vì chỉ mình
Bác là người duy nhất sống độc thân. Cuộc sống kham khổ đã hình thành ở Bác một phong cách
sống, sinh hoạt giản dị và tiết kiệm. Cũng cần phải học theo Bác để có quan niệm đúng đắn về
nghề nghiệp: nghề nào cũng cao quý và chỉ có làm không tốt công việc của mình thì mới đáng bị
chê trách mà thôi.

Thứ ba, thanh niên ngày nay nên học tinh thần học ở Bác. Việc học tập đối với Bác rất quan
trọng. Bác xác định kiến thức rất cần thiết đối với người hoạt động cách mạng. Với một cuộc
sống kham khổ và lao động vất vả, Bác không hề có thời gian nhiều dành cho việc học. Tuy
nhiên, luôn nhớ lời cha dạy: “muốn làm được việc, người ta phải có chí”, Bác quyết tâm dù bận
đến đâu cũng phải dành thời giờ để học. Sau giờ làm việc Bác cố gắng học ngoại ngữ, đi đến các
viện bảo tàng, thư viện. Bác đọc báo thường xuyên và thấy đây là một vũ khí rất lợi hại cho cuộc
đấu tranh của mình. Việc đọc báo khiến Bác nắm bắt được tình hình trong nước và ngoài nước,
nâng cao khả năng lý luận chính trị. Để có thể viết báo, Bác cố gắng học tiếng Pháp, khởi đầu chỉ
viết vài dòng rồi nhờ bạn bè sửa lỗi cho. Từ từ, bài viết dài hơn, thành hẳn một cột báo. Lối viết
của Bác ngày càng cô đọng, sắc sảo, là ngọn bút tuyên truyền mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo mọi
người. Bác còn thường xuyên tham gia các hội, câu lạc bộ, các đảng phái chính trị. Qua đó, Bác
học tập được cách tổ chức cho sự nghiệp cách mạng ở quê hương mình. Với khát vọng khôn
nguôi tìm ra con đường giải phóng đất nước, Bác nghiên cứu Lịch sử, Văn hoá, Triết học, tham
khảo những tư tưởng giải phóng, bình đẳng, tự do của những người đi trước. Chính qua quá trình
học tập và hoạt động thực tiễn bác đã tìm thấy điều mình ao ước, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. .
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các thành tựu văn hoá, kinh tế, khoa
học kỹ thuật… bên cạnh thuận lợi cũng có rất nhiều thách thức,  chính vì vậy, bước vào nền kinh
tế tri thức, đòi hỏi thanh niên phải năng động hơn, tích cực hơn để tiếp nhận thông tin, tiếp thu
các thành tựu của nhân loại, phải học tập rất nhiều để có thể hội nhập và bắt kịp với trình độ
chung của thế giới.

You might also like