You are on page 1of 20

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG THƯƠNG TP.HỒ CHÍ MINH


KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TÊN CHỦ ĐỀ: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA


NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

NHÓM: 6

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2024


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG THƯƠNG TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT

TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA


NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

Nhóm: 6 Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Tú Trinh


Trưởng nhóm:
Phạm Trường Huy
Thành viên:
1. Nguyễn Tấn Sang
2. La Thuận Phát
3. Nguyễn Đức Anh
4. Nguyễn Văn Đức
5. Phạm Nhật Minh
6. Nguyễn Thanh Phong
7. Lê Hoàng Minh Thư
8. Nguyễn Hưng Khánh Tú
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2024
Lời cam đoan
.......... Chúng em xin cam đoan đề tài tiểu luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” do nhóm em nghiên cứu và thực
hiện.

Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.

Kết quả bài làm của đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là trung thực và không sao chép từ bất
kỳ bài tập của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng.
Lời cảm ơn
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Khoa Chính trị - Luật, trường ĐH Công
Thương thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm em được học
tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân” cho bài tiểu luận.

Nhóm em cũng xin cảm ơn các giảng viên đã hướng dẫn, chỉ dạy cho bọn em
những kiến thức và hướng dẫn trong quá trình làm bài.

Mặc dù đã dành nhiều thời gian và nỗ lực để hoàn thành bài tiểu luận này,
nhưng do sự hạn chế về mặt kiến thức nên bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót.
Em kính mong nhận được những lời góp ý của quý thầy, cô để bài làm ngày càng
hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước Việt Nam…………..3


2. Nhà nước dân chủ...............................................................................

2.1. Bản chất giai cấp của nhà nước......................................................

2.2. Nhà nước của dân, do dân, vì dân..................................................


2.2.1. Nhà nước của nhân dân.....................................................................................................5
2.2.2. Nhà nước do nhân dân......................................................................................................6
2.2.3. Nhà nước và nhân dân.......................................................................................................7

3. Nhà nước pháp quyền.........................................................................


3.1 Nhà nước hợp hiến, hợp pháp....................................................................................................8
3.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật................................................................................................8
3.2.1. Thượng tôn pháp luật là gì ?..............................................................................................8
3.2.2. Tư tưởng thượng tôn pháp luật của chủ tịch Hồ Chí Minh...............................................8
3.2.3. Ban hành và chấp hành thượng tôn pháp luật..................................................................9

4. Nhà nước trong sạch, vững mạnh...................................................


4.1. Kiểm tra quyền lực nhà nước..................................................................................................10
4.2. Phòng chống tiêu cực trong nhà nước.....................................................................................11
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật........................................................................................11
4.2.2. Nâng cao công tác giáo dục, tuyên truyền......................................................................11
4.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.......................................................................11
4.2.4. Xây dựng Nhà nước liêm chính, pháp quyền.................................................................11
4.2.5. Xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực........................................................................12
4.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng chống tham nhũng..................12
4.3. Phát triển nhà nước trong thời đại hiện nay..........................................................................12
4.3.1. Đổi mới, sáng tạo, phát triển, độc lập, mạnh mẽ, bền vững với khát vọng xây dựng
thương hiệu quốc gia hùng cường............................................................................................12

PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................

1
PHẦN MỞ ĐẦU
Tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân vô cùng sâu sắc là một phần không thể tách rời trong cốt lõi của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Khái niệm về nhà nước không chỉ là một cơ cấu quản lý chính trị mà
còn là biểu tượng của sự tự lập, tự chủ và tự quản của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh của nhân
dân. Ông luôn coi nhân dân là nguồn lực quan trọng nhất, là chủ thể của lịch sử, là
người xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tư duy này đã được ông thể hiện qua việc tham gia
vào các phong trào cách mạng, tạo ra sự đoàn kết và sức mạnh to lớn của nhân dân
Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do.
Nhà nước theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là công cụ của
một tầng lớp hay một nhóm người cụ thể mà là tổ chức của toàn bộ nhân dân. Nhà
nước phải phục vụ cho lợi ích cơ bản của nhân dân, phải làm việc vì sự phát triển của
cả xã hội, không để bất kỳ cá nhân hay tầng lớp nào lợi dụng để hưởng lợi cá nhân.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước không chỉ làm nhiệm vụ quản lý, điều
hành mà còn làm nhiệm vụ tạo ra một môi trường xã hội công bằng, dân chủ, phát
triển và hạnh phúc cho toàn bộ nhân dân. Ông luôn khuyến khích sự tham gia của
nhân dân vào việc quản lý, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là một lý thuyết mà còn là một tư tưởng thực tiễn, đã được áp
dụng vào cuộc sống và hoạt động của đất nước Việt Nam. Đây là nền tảng quan trọng
định hình hình ảnh và vai trò của nhà nước trong xã hội, đồng thời là động lực thúc
đẩy sự phát triển và tiến bộ của đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa.

2
NỘI DUNG

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước Việt Nam.


Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ
Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý luận cách mạng tiên tiến nhất của
thời đại. Được soi sáng bởi phương pháp luận biện chứng mácxít, thông qua hoạt động
thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phát hiện vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận
hành, trên cơ sở phân tích, so sánh và đặt chúng trong dòng chảy liền mạch của tiến bộ
lịch sử. Trong quá trình khảo cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước
hiện thời: Nhà nước dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà
nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười 1917.

Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp, mặc
dầu đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo,
nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiểu số;
đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc lột, nô dịch cả ở chính quốc lẫn ở các nước thuộc
địa. Tính chất phiến diện nửa vời, không triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay
trong bản chất của nó đã bộc lộ những đối kháng không thể điều hòa và chắc chắn sẽ
là nguyên nhân làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai. Cái gọi là
“thiên đường của dân chủ, tự do”, lý tưởng bình đẳng, bác ái chỉ còn là những ngôn từ
sáo rỗng, không có nội dung xã hội xác thực. Vì vậy, mục đích giải phóng và phát
triển của xã hội Việt Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó. Những
nhận xét và khảo nghiệm của Hồ Chí Minh về nhà nước tư sản mang tính cách mạng,
khoa học, có ý nghĩa phương pháp luận to lớn và ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.

Đối lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xôviết còn non trẻ, nhưng đã bộc lộ
sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần chúng công -
nông - binh, thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là loại hình nhà nước của chế độ xã
hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi theo. Như vậy, bằng những khảo nghiệm
thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo, vào những năm 20 của thế kỷ trước,
Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười, kiểu nhà
nước theo học thuyết Mác - Lênin. Câu hỏi về con đường xóa bỏ nhà nước thực dân
phong kiến và lấy gì để thay thế đã tìm được lời giải xác đáng. Để lựa chọn kiểu nhà
nước theo xu thế vận động của lịch sử, Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính. Đó là
tính chất nhân dân và khả năng của nhà nước trong việc bảo đảm cuộc sống tự do, ấm
no, hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần thế” của nhân dân và con người. Ở Hồ Chí
Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người
và phát triển xã hội.

Tính chất sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh nghiệm Xô
viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Về mục đích, nguyên tắc,
Người trung thành với “mô hình Xôviết”, nhưng lại có bước đi, cách làm độc lập,
không giáo điều, rập khuôn. Có thể nói, Hồ Chí Minh chỉ lĩnh hội cái “tinh thần
Xôviết” để định hình “mô hình Nhà nước Việt Nam”. Chính vì thế, năm 1941, khi về

3
nước, trong quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng, Hồ Chí Minh không chủ trương
xây dựng các Xôviết đã từng xuất hiện trong phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh (1930 -
1931) mà thành lập Ủy ban Việt minh, Ủy ban giải phóng và Ủy ban nhân dân cách
mạng tỉnh, liên tỉnh. Giữa năm 1945, khu giải phóng Việt Bắc đã hình thành chính
quyền hoàn chỉnh. Đồng bào toàn khu được hít thở không khí tự do, tự tổ chức đời
sống của mình, từ sản xuất, đánh giặc, quản lý mọi mặt đời sống xã hội đến bảo vệ
chính quyền. Bằng công tác thực tiễn chu đáo, thiết thực, các ủy ban nhân dân, chính
quyền kiểu mới cắm rễ trong lòng quần chúng, tạo nên uy tín và sức mạnh. Chính phủ
lâm thời (Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam) do Đại hội quốc dân Tân Trào bầu ra
(16-8-1945) và Nhà nước hình thành theo quy định của Hiến pháp 1946 đều tiếp tục
truyền thống này, thực sự là một nhà nước dân chủ nhân dân.

2. Nhà nước dân chủ.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, nhưng
tuyệt nhiên nó không phải là “Nhà nước toàn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi
giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định.
Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân.

2.1. Bản chất giai cấp của nhà nước


Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam thể hiện trên mấy
phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền. Lời nói đầu
của bản Hiến pháp năm 1959 khảng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân
dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Ngay
trong quan điểm về nhà nước dân chủ, nhà nước do nhân dân là liên minh công – nông
– trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng phương thức thích hợp sau đây: Bằng đường lối,
quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế
hoạch; Bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng viên của mình trong bộ máy, cơ
quan nhà nước; Bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng
xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí Minh. Việc giành lấy
chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới, chính là để giai cấp công nhân và nhân
dân lao động lao động có được tổ chức mạnh mẽ nhằm thực hiện mục tiêu nói trên.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến cả
hai mặt dân chủ và tập trung trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan
nhà nước. Người nhấn mạnh đến dự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời
cũng nhấn mạnh phải phát huy cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất
quyền lực để tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

4
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc. Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng
của Người về Nhà nước mới ở Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc, thể hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ giữa thế kỷ XIX,
khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam, hết thế hệ này đến thế hệ
khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh của toàn dân tộc đã
được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do, lập
nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam châu Á. Nhà nước Việt Nam mới, do vậy, không phải của riêng giai cấp,
tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì,
nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi cơ bản của giai
cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Nhà
nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh không chỉ cho lợi ích của giai
cấp công nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Ba là, trong thực tế, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà
toàn thể dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo
vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của
thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con
đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định. Cũng là sự nghiệp của chính Nhà
nước.

2.2. Nhà nước của dân, do dân, vì dân.


2.2.1. Nhà nước của nhân dân.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất
cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Người khẳng
định: “Trong Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền
lực đều là của nhân dân". Nhà nước của dân tức là “dân là chủ". Nguyên lý “dân là
chủ" khẳng định địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó
nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân
tộc và quyền lợi của dân chúng. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hình thức dân chủ trực

5
tiếp bởi đây là hình thức dân chủ hoàn bị nhất, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi
để thực hành dân chủ trực tiếp.
Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức
dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức
dân chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại diện mà
họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập nên. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Quyền lực nhà nước là "thừa ủy quyền" của nhân dân. Tự bản thân nhà nước
không có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác do. Do vậy, các
cơ quan quyền lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ của nó đều là “công bộc” của
nhân dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”. Ở
đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà
nước trên cơ sở nhân dân là chủ thể nắm giữ mọi quyền lực. Theo Hồ Chí Minh: “Dân
làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì? Làm
đây tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. “Nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho
dân". Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước thoái hóa, biến chất, từ
chỗ là công bộc của dân đã trở thành “quan cách mạng", đứng trên nhân dân, coi
khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho
dân”.
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại
biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ
đã lập nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo cho
mọi quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, luôn nằm trong tay dân chúng. Một
nhà nước thật sự của dân, theo Hồ Chí Minh, luôn “mong đồng bảo giúp đỡ, dồn đốc,
kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận
tuy của nhân dân...; trong Nhà nước đó, “nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân”, thậm chí, “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
đuổi Chính phủ.
Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
sự khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật pháp của
các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền
lợi của dân chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực của
nhân dân, là phương tiện để kiểm soát quyền lực nhà nước.
2.2.2. Nhà nước do nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do
nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên

6
nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền
bầu cử, phúc quyết, v...
Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa “dân làm chủ". Người khẳng định rõ:
“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”. Nếu "dân là chủ”
xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ" nhấn
mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn
phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo
pháp luật của Nhà nước, tuân theo kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp
(nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc
chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, v.v,..
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân
dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng
đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình. Người yêu cầu cán bộ, đảng
viên phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân
dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.
Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm
chủ dân, cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia công việc nhà nước, mà còn chuẩn bị
và động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng
dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
2.2.3. Nhà nước và nhân dân.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh là
một vị Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước
đều phải vì nhân dân phục vụ. Người nói: "Các công việc của Chính phủ làm phải
nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên
Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có
lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh". Theo Hồ Chí Minh, thước
đo một Nhà nước vì dân là phải được lòng dân. Hồ Chí Minh đặt vấn đề với cán bộ
Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”, đồng thời chỉ
rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền
lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chỉ công vô tư. Trong Nhà nước vì
dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai
đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những phẩm chất cần có ở
người cán bộ nhà nước vì dân. Là đày tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có
trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng
dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài,
phải vừa hiền lại vừa minh. Phải như thế thì mới có thể “chẳng những làm những việc

7
trực tiếp có lợi cho dân, mà cũng có khi làm những việc mới xem qua như là hại đến
dân”, nhưng thực chất là vì lợi ích toàn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.

3. Nhà nước pháp quyền.


3.1 Nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một trong sáu nhiêm vụ cấp bách của
Chính phủ là: “Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ
tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
6/1/1946: Tổng tuyển cử trong cả nước bầu đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa. Đây là một sự kiện quan trọng sau Lễ Tuyên ngôn Độc lập
diễn ra vào ngày 2-9-1945 chỉ hơn 4 tháng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích: Đây là
lần đầu tiên người dân Việt Nam được thể hiện quyền làm chủ của mình trong một
quốc gia theo chính thể Cộng hòa - Dân chủ.
Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, toàn thể nhân dân Việt Nam từ
miền xuôi đến miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, từ nông thôn đến thành thị,
không phân biệt gái trai, già trẻ đã dành trọn ngày lịch sử - ngày 6/1/1946: Toàn dân đi
bỏ phiếu bầu cử Quốc hội.
Ngày 2/3/1946, Quốc hôi họp phiên đầu tiên và Chủ tịch Hồ Chí Minh được
Quốc hội nhất trí bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ
hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải
quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
3.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật.
3.2.1. Thượng tôn pháp luật là gì ?
"Thượng tôn pháp luật" là một cách dùng từ Hán Việt, dịch sang nghĩa tiếng
Việt là "Pháp luật là trên hết", còn dịch theo thuật ngữ trong ngành luật học thì là "Sự
nghiêm minh của pháp luật". Thượng tôn pháp luật mang hàm ý rằng tất cả mọi thành
phần trong xã hội của một quốc gia, lãnh thổ thì phải tôn trọng và tuân thủ nghiêm
ngặt luật pháp của quốc gia, lãnh thổ đó. Một khi luật pháp đã được ban hành, thì toàn
xã hội phải lấy nó làm chuẩn mực để hành xử theo cho phù hợp, không phân biệt
thành phần, địa vị xã hội, không một ai có quyền “ngồi trên” pháp luật cả.
3.2.2. Tư tưởng thượng tôn pháp luật của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đại diện cho một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đây là kết quả của sự vận dụng
8
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta ngày
nay. Tiếp tục kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng thượng tôn pháp luật của Hồ Chí Minh được thể hiện trong tư tưởng
của người về quan niệm và vai trò của pháp luật trong xã hội và quyền tự do, dân chủ
của mọi công dân. Khi Người lên án và vạch trần chế độ cai trị hà khắc, bất hợp pháp
của Chính quyền Pháp ở các nước thuộc địa, Người đã chỉ rõ rằng: “Ở Đông Dương
có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp
thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không
có luật sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt
bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp
cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người”. Khi sinh sống và làm việc tại
Pháp, năm 1919 Người đại diện cho một nhóm người Việt Nam yêu nước để gửi tới
Hội nghị Versailles về Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Trong số các yêu sách đó,
đáng được quan tâm và chú ý đó là yêu sách thứ bảy: Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật. Điều đó cho thấy rằng chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ coi
trọng công tác quản lý xã hội bằng pháp luật và tinh thần thượng tôn pháp luật mà còn
rất chú trọng đến việc thực thi quyền của con người. Trong lời mở đầu của bản Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tuyên bố: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để tăng thêm giá trị cho lời tuyên bố này,
Người đồng thời trích dẫn nội dung trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp năm 1971: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là những sự thật mà không ai
phủ nhận được. Bản Tuyên ngôn chỉ vỏn vẹn 49 câu với 1.010 chữ nhưng lại chứa
đựng những nội dung vô cùng to lớn, mang ý nghĩa sâu sắc. Bên cạnh những sứ mệnh
đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - độc lập, tự do và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, Bản Tuyên ngôn còn mang trong mình những giá trị tinh thần cách mạng
và nhân văn cao đẹp. Tư tưởng về quyền con người không chỉ dừng lại ở quyền sống,
quyền bình đẳng, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
bàn đến khía cạnh quyền con người phải được pháp luật bảo vệ. Cách mà Bác dùng
cụm từ « Tất cả mọi người… » có một ý nghĩa nhân văn sâu sắc, bởi cách diễn đạt này
thể hiện quan điểm rõ ràng là quyền con người không phân biệt giới tính, tôn giáo hay
dân tộc.
3.2.3. Ban hành và chấp hành thượng tôn pháp luật.
Từ góc độ là người dân, tính thượng tôn pháp luật thể hiện ở việc tuân thủ và
chấp hành nghiêm ngặt các quy định pháp luật được ban hành. Tuy nhiên, để đạt được
kết quả mong muốn này, người dân phải có kiến thức và hiểu biết rõ về các quy định
đã được ban hành rồi từ đó họ mới có thể chấp hành tốt.
Để người dân được biết và hiểu rõ, thì luật pháp sau khi được ban hành phải
được phổ biến công khai rộng rãi bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng, và phải

9
trong một khoảng thời gian đủ dài để tất cả các thành phần trong xã hội có cơ hội được
biết và hiểu rõ.
Đồng thời,các văn bản pháp luật được ban hành phải đơn giản, dễ hiểu, và
không được mơ hồ, chồng chéo, phức tạp, khó hiểu, dễ gây hiểu nhầm, hiểu nước đôi,
từ đó dẫn đến việc giải thích, áp dụng không nhất quán dẫn đến mâu thuẫn.
Nếu một đạo Luật được ban hành không được áp dụng vào đời sống xã hội, thì
việc nó được ban hành cũng chỉ để nhìn, để ngắm, và sẽ trở thành đạo Luật “chết”.
Càng nguy hiểm hơn, nếu việc áp dụng của nó bị xuyên tạc, bị lợi dụng để trục lợi, vì
lợi ích nhóm và cá nhân, hay do người ban hành và người thực thi pháp luật không có
đủ trình độ chuyên môn, thiếu kiến thức, kinh nghiệm, trải nghiệm thực tiễn... và cũng
chính vì vậy, luật pháp sẽ trở thành một thứ vũ khí giết người, nó sẽ loại bỏ hoàn toàn
tính “thượng tôn pháp luật” trong hệ thống pháp luật, xã hội của một quốc gia.
Tóm lại, “thượng tôn pháp luật” là giá trị được tạo ra nhờ sự vận hành tốt và
đúng chức năng của hệ thống các “mắt xích” trong việc ban hành pháp luật - thực thi
(áp dụng) pháp luật - chấp hành pháp luật, dựa trên nền tảng các quyền cơ bản về dân
chủ và nhân quyền. Nếu một trong các “mắt xích” hoạt động không tốt hoặc có khiếm
khuyết thì tính “thượng tôn pháp luật” sẽ không được bảo đảm và duy trì, gọi là
“thượng bất nghiêm, hạ tắc loạn”.

4. Nhà nước trong sạch, vững mạnh.


4.1. Kiểm tra quyền lực nhà nước.
Quyền lực là một khái niệm phức tạp, vì thế có nhiều cách hiểu khác nhau.
Quyền lực ở khía cạnh khoa học pháp lý được hiểu với ý nghĩa là “thẩm quyền”,
“quyền lợi” của các cá nhân và nhóm người tham gia vào một hệ thống xã hội được
bảo trợ bởi một nền tảng pháp luật đã được xây dựng và đưa ra dựa theo các tiêu chí
cụ thể, đặc biệt là dựa trên các thỏa thuận và cam kết của những chủ thể tham gia
trong xã hội (khế ước xã hội).
Quyền lực xác định phạm vi, giới hạn về các “khả năng hành động, gây ảnh
hưởng” cả về thể chất lẫn tinh thần của một người, một nhóm người. Việc sử dụng sức
mạnh để gây ảnh hưởng đến cá nhân, nhóm người khác, có thể mang theo cả ý nghĩa
tích cực lẫn tiêu cực, dựa trên mục đích, nguyên tắc, cách thức sử dụng chúng.
Để đảm bảo rằng nhà nước được trong sạch và vững mạnh, việc kiểm soát
quyền lực nhà nước là rất quan trọng. Một số biện pháp cần thiết để kiểm soát quyền
lực nhà nước:
+ Tách biệt và cân bằng quyền lực: Thực hiện chia cắt quyền lực giữa các cơ
quan chính phủ, lập pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan phải có chức năng, quyền
hạn và trách nhiệm rõ ràng, không được tự áp đặt lẫn nhau.
+ Kiểm tra và cân nhắc quyền lực: Thúc đẩy việc tổ chức các cơ quan kiểm tra
độc lập và có thẩm quyền để giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước.

10
Điều này bao gồm việc thành lập các Ủy ban kiểm tra và các cơ quan kiểm
toán.
+ Đảm bảo sự minh bạch và quyết định công bằng: Tăng cường minh bạch
trong quy trình ra quyết định của nhà nước, đảm bảo rằng các quyết định được
đưa ra dựa trên dữ liệu và thông tin đầy đủ và chính xác.
+ Thúc đẩy trách nhiệm và trách nhiệm: Tạo điều kiện cho việc chịu trách
nhiệm của các quan chức và nhân viên nhà nước khi họ vi phạm quy định và
luật pháp. Điều này có thể bao gồm việc thực hiện các biện pháp kỷ luật, pháp
luật và cải cách hệ thống pháp luật.
+ Tạo điều kiện cho sự tham gia của người dân: Tạo điều kiện cho việc tham
gia của người dân trong quá trình ra quyết định chính sách và giám sát hoạt
động của nhà nước thông qua việc thúc đẩy tranh luận công bằng, tự do ngôn
luận và tự do truy cập thông tin.
+ Tăng cường giáo dục và đào tạo: Tăng cường giáo dục và đào tạo về luật
pháp, đạo đức và trách nhiệm công dân để tạo ra một lực lượng lao động nhà
nước chất lượng cao và có ý thức pháp luật.
Những biện pháp này có thể giúp tạo ra một hệ thống nhà nước trong sạch,
vững mạnh và phục vụ tốt cho lợi ích của toàn bộ cộng đồng.
4.2. Phòng chống tiêu cực trong nhà nước.
4.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tham nhũng, tiêu
cực một cách đồng bộ, thống nhất và khả thi, bao gồm các quy định về phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực.
Đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật; kịp thời
sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp với thực tiễn.
4.2.2. Nâng cao công tác giáo dục, tuyên truyền.
Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân về tác hại của tham nhũng, tiêu cực.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng, tiêu cực; nêu
cao gương điển hình, phê bình, lên án những hành vi tiêu cực.
4.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội và các doanh nghiệp.
Tập trung thanh tra, kiểm tra những lĩnh vực, địa bàn trọng điểm, dễ phát sinh
tiêu cực.
4.2.4. Xây dựng Nhà nước liêm chính, pháp quyền.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch
trong hoạt động của Nhà nước.

11
Tăng cường công tác kiểm soát quyền lực, giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của Nhà nước.
4.2.5. Xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực.
Kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có
vùng cấm, không có ngoại lệ.
Khắc phục tình trạng "chống tiêu cực trong chống tiêu cực", "bao che" cho
những hành vi vi phạm.
4.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng chống tham nhũng.
Tăng cường trang thiết bị, phương tiện và kinh phí cho các cơ quan phòng
chống tham nhũng.
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác phòng chống tham nhũng.
4.3. Phát triển nhà nước trong thời đại hiện nay.
Chúng ta đang sống và hành động trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, với tất cả sự
phức tạp của thời cơ và nguy cơ đan xen, chuyển hóa khôn lường, đặt ra thách thức
lớn, hoặc là tụt hậu tức là bị bỏ rơi hoặc là bứt lên ngang tầm thời cuộc, làm chủ vận
mệnh của chính mình, mà một khi dừng lại hoặc đứng im cũng chính là tụt hậu. Một
sự rung chuyển của thế giới lập tức gây chấn động tới mọi quốc gia, dân tộc toàn cầu.
Tất cả phải được chủ động, tiên liệu để tìm đối sách cho phù hợp.
4.3.1. Đổi mới, sáng tạo, phát triển, độc lập, mạnh mẽ, bền vững với khát vọng
xây dựng thương hiệu quốc gia hùng cường
Một cách tự nhiên, nếu xem cốt lõi của chính trị là lợi ích và quan hệ chính trị
dù vi mô hay vĩ mô là xoay chung quanh vấn đề lợi ích, thì đâu là cái bất biến, cái khả
biến của công việc đổi mới toàn diện, đồng bộ cần phải làm?
Do vậy, dù muốn hay không, càng tiếp tục đổi mới, thực chất là trở lại nhận
thức và hành động đúng quy luật vận động của đất nước một cách tổng thể, trước hết
và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích chung một cách tổng hòa,
cụ thể từ cá nhân, giai cấp, giai tầng,... tới quốc gia, dân tộc với các nước trên bình
diện quốc tế mang tính thống nhất và đa dạng.
Một là tự do. Đất nước độc lập, nhưng nhân dân phải được hưởng hạnh phúc,
tự do, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Vì thế, nếu gìn giữ giá trị toàn vẹn của độc
lập là một công việc khó khăn, thì phát triển tự do là một chân trời lớn, vì sự bảo đảm
nhu cầu tự nhiên và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đó chính là tiền đề của
nền dân chủ chân chính.
Hai là dân chủ. Hơn 75 năm qua, mệnh đề đó làm nên tiêu ngữ của thể chế Việt
Nam dân chủ cộng hòa, là mục tiêu của thể chế Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhưng dân chủ từ nghĩa nguyên khai “Đê-mốt Kra-tốt” (chính quyền của nhân dân),
tới thực tiễn vẫn đang là một trong những mệnh đề lớn nhất, cần nỗ lực tiến tới trong
mục tiêu là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, dưới chế độ chính

12
trị của Nhà nước ta. Dân chủ là việc trước hết, là mục tiêu, là động lực phát triển. Dân
là gốc của nước.
Ba là pháp quyền. Dân chủ phải được bảo đảm bằng pháp quyền; đó là bản chất
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, khi lấy pháp luật làm thượng tôn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”, nên không có pháp quyền,
thì không thể nói tới dân chủ hay tự do chân chính nào. Đó là thách thức và chính là cơ
hội đối với chúng ta.
Bốn là đạo đức. “Quốc pháp vô thân”, “quốc pháp thượng tôn”,... Kinh nghiệm
lịch sử đã và đang cho chúng ta thấy, không một thể chế chính trị nào, có thể vận hành
thành công trên một nền tảng đạo đức không tương dung. Khi mà chúng ta đang phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, dù
dưới sự dẫn dắt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề đạo đức vẫn
đang trở thành vấn đề nóng bỏng nhất hiện nay; cả ở tầm vĩ mô tới mức độ vi mô, cả
xã hội tới mỗi cá nhân, không kém sự khắc nghiệt, thăng trầm của chính sự phát triển
kinh tế,... cần phải xây dựng và được thực thi. Sự băng hoại về đạo đức nhất định dẫn
tới băng hoại về chính trị; vì thế mà quyền lực nhân dân, nếu giao cho những kẻ vô
đạo đức, thì nguyên vẹn là sự tàn bạo. Đó là phản văn hóa! Vì, chính trị lúc này, hơn
lúc nào hết, là “Thanh khiết từ to đến nhỏ”, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Năm là phát triển. Đó là thước đo sự tiến bộ xã hội văn minh và hiện đại. Một
đất nước Việt Nam truyền thống và hiện đại, hài hòa và khoan dung, dân chủ và kỷ
cương, thủy chung và minh bạch, bản sắc và hội nhập, độc lập và hòa mục,... là những
phẩm chất quan trọng mà chúng ta cần hướng tới, để xây dựng đất nước công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đó là con đường phát triển tất yếu của dân tộc, phù hợp với bước đi
của thế giới. Vấn đề thành bại nằm ở chỗ, phải tiên lượng, tính toán và hoạch định về
chiến lược sao cho tương thích, khả thi. Thiếu những vấn đề cốt tử đó, chúng ta khó có
thể xây dựng được tầm nhìn chính trị xa, rộng; từ đó, mới có khả năng đưa ra những
quyết sách chính trị đúng đắn, phù hợp với thời cuộc.

13
PHẦN KẾT LUẬN
Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là một tư tưởng trừu tượng mà là nguồn cảm hứng và sức
mạnh lớn lao đối với việc xây dựng và phát triển đất nước. Qua tư duy này, ông đã
khẳng định vai trò trung tâm của nhân dân trong mọi hoạt động xã hội và nhà nước chỉ
thực sự hiệu quả khi được xây dựng và phát triển từ lòng tin, sự đoàn kết và nỗ lực
chung của toàn bộ cộng đồng.
Tư tưởng về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân không chỉ là
một phần không thể thiếu của lịch sử cách mạng Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng
và bài học quý giá cho sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Tư tưởng này đã
chứng tỏ khả năng tạo ra sức mạnh động viên và thúc đẩy mỗi thành viên trong xã hội
tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Việc tiếp tục gìn giữ và phát triển tư tưởng này là một nhiệm vụ trọng yếu,
không chỉ của chính phủ và các cơ quan nhà nước mà còn của toàn bộ xã hội. Mỗi cá
nhân, từng tầng lớp trong xã hội cần nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình
trong việc thực hiện và bảo vệ tư tưởng cao quý này. Chỉ khi mọi người đồng lòng
hướng về mục tiêu chung, chúng ta mới có thể đạt được những thành tựu lớn lao, xây
dựng một cộng đồng vững mạnh, giàu mạnh và công bằng, tiếp tục ghi dấu ấn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lòng của dân tộc và trên trường quốc tế.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Truy cập ngày 25/3/2024, Phạm Quang Hòa - Thượng tôn pháp luật và các quan điểm về thượng
tôn pháp luật.

[2]: Truy cập ngày 25/3/2024, Phòng NCKH Tòa án - Hồ Chí Minh với tư tưởng thượng tôn pháp luật.

[3]: Truy cập ngày 25/3/2024, Nguyễn Thanh Tuấn - Thượng tôn pháp luật - nguyên tắc tối thượng
của quốc gia.

15

You might also like