You are on page 1of 27

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Phương Anh

Lớp: CTHĐC8 – Quản lí xã hội

Mã sinh viên: 2155320010

Giảng viên: TS. Dương Thị Thục Anh

HÀ NỘI – 2021
1

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em gửi lời chào đến cô giáo bộ môn Chính trị học – Dương Thị Thục
Anh. Em xin chân thành cảm ơn cô đã dành thời gian, tâm huyết để giảng dạy và
truyền cảm hứng cho em cũng như các lớp. Qua những thông tin, tư liệu quý giá và
những mẩu chuyện nhỏ về Bác trong những buổi lên lớp, em mới có thể hoàn thành
bài tiểu luận này.

Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã
tạo điều kiện cho sinh viên được tìm hiểu và học hành một cách thuận tiện nhất
trong thời buổi dịch bệnh COVID khó khăn này.
2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................................................3
1. Lý do nghiên cứu đề tài ..........................................................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................................................5
5. Kết cấu của đề tài ...................................................................................................................................5
NỘI DUNG ......................................................................................................................................................6
CHƯƠNG I: CỞ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẤN LIỀN VỚI CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI ............................................................................................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................................................................6
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................................6
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ....................................................................................................................................8
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: ............................................................................8
2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội..........................................................................10
2.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội................................................................13
2.4. Điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong cách mạng Việt Nam
..............................................................................................................................................................17
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI......................................................................................................20
3.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh ...............................................................................................................................20
3.2. Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay ...................................22
CHƯƠNG IV: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI....................23
KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................................................26
3

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Để nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ không bao giờ hết được những lời kính
trọng, thương yêu về những gì Người đã làm cho dân tộc ta. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng từng nói: “ Những tư tưởng lớn của Hồ Chủ tịch là những tình cảm lớn.
Trong đời sống hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch, cũng như trong đời sống
hàng ngày của mình, Người đối xử với nhân dân luôn có lý, có tình. Bác Hồ muôn
vàn yêu thương đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình yêu đó, có chỗ cho mọi
người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mỗi người một vị trí chiến đấu, cũng
như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống học tập, vừa nghiêm khắc
đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt. Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch
còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa
con vì cảnh ngộ mà lạc bầy”

Quả thật đúng như lời Thủ tướng nói, từ chính cốt cách con người Bác, Bác đã luôn
đau đáu trong mình một niềm khao khát đem lại độc lập dân tộc suốt quãng đường
chinh chiến của cuộc đời mình. Lịch sử đã ghi dấu lại cả cuộc đời cống hiến hy
sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân tiến tới con đường độc lập dân tộc của Bác.
Đối với mỗi người dân Việt Nam, Bác chính là hiện thân cho tương lai tươi sáng, là
vị anh hùng của Tổ quốc và là vị lãnh tụ thế hệ mới.

Trong suốt quãng thời gian hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
mang theo mình một tư tưởng – Tư tưởng độc lập dân tộc. Tư tưởng của Người
được lĩnh hội từ những cuộc chiến tranh mà Việt Nam đã trải qua. Đối với Người,
độc lập dân tộc là cách mạng giải phóng dân tộc, là quá trình đẩy lùi thực dân đế
quốc phong kiến và đưa Việt Nam sang một trang lịch sử mới của chủ nghĩa xã hội.

Từ phương diện chính trị học, có thể hiểu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lênin với phong trào yêu nước. Lý luận về
cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội
4

và giải phóng con người, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào cách mạng thế giới. Có thể thấy
rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị có ý nghĩa và vai trò vô cùng quan trọng
đối với cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà tình hình đất
nước, khu vực và thế giới có nhiều thay đổi.

Chính vì thế để làm sáng tỏ các vấn đề trên, em chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính trị” làm đề tài tiểu luận.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài này, để bản thân hiểu sâu hơn về tư tưởng Hồ Chí
Minh, con đường chính trị của Người về sự phát triển của Đảng và nhà nước ta. Từ
khi hình thành và phát triển đến nay đã trải qua bao khó khăn, gian khổ để đi đến
thành công trong công cuộc giành độc lập và giải phóng dân tộc, xây dựng một nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Và sự vân dụng của Đảng đối với tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính trị trong bối cảnh hiện nay. Giải pháp phát huy những giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chính trị để phát triển đất nước.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ kinh nghiệm đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX; Từ kinh nghiệm cách mạng thế giới, từ hoạt động thực tiễn của Người
và từ lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mac-Lênin, Hồ Chí Minh rút ra: “Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn” cho cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người.
loại”. Vì vậy, nhiệm vụ chính khi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cần đi sâu vào nghiên cứu con đường chính trị của
5

Người đã chọn và con đường ấy đã cho ra đời một Đảng cộng sản, một nhà nước
độc lập, xã hội chủ nghĩa của ngày nay.

3. Đối tượng nghiên cứu


Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong công cuộc giải phóng dân tộc, lập nên một Nhà nước mới, nhà nước có
Đảng lãnh đạo và một nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhà nước của dân, do dân,
vì dân. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là
bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện trong toàn bộ di sản của Hồ
Chí Minh mà còn là quá trình vận động, hiện thực hóa các quan điểm, lý luận đó
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu phân tích lý thuyết để phân tích cơ sở lý luận tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính trị.

Phương pháp điêu tra thực nghiệm và so sánh để chỉ ra và phân tích sự vân dụng
của đảng đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị trong bối cảnh hiẹn nay. Và
giải pháp phát huy những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị để phát
triển đất nước.

5. Kết cấu của đề tài


Chương I: Cơ sở hình thành

Chương II: Nội dung cơ bản

Chương III: Sự vận dụng vào tình hình hiện nay

Chương IV: Biện pháp khắc phục những khó khăn


6

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CỞ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC GẤN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Cơ sở lý luận
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến các tư
tưởng dân chủ tư sản Pháp và Mĩ: Các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái đã ảnh
hưởng mạnh đến tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản của Trung
Quốc trong Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), tập trung ở chủ nghĩa Tam dân (Dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn. Sau này
Người cũng đã chắt lọc những quan điểm tiến bộ này. Nhưng qua việc quyết định
đi tìm đường cứu nước ở các nước phương Tây, cái nôi của chủ nghĩa tư bản;
chứng tỏ Người vẫn chưa tin vào tư tưởng yêu nước và con đường cứu nước đó.
Chính vì vậy, con đường đi tìm tư tưởng chân lí của Người vẫn tiếp diễn.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố quyết định đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cơ sở
hình thành thế giới quan và phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Nhờ có thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
chuyển hoá những yếu tố tích cực của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưỏng,
văn hoá nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.

1.2. Cơ sở thực tiễn


Xuất phát từ tình hình thực tế của Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX. Nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và trở thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến. Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư
tưởng tư sản được dấy lên nhưng đều bị thất bại. Dân tộc Việt Nam đang phải đối
mặt với tình trạng khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
7

Bắt nguồn từ quá trình bôn ba khắp các châu lục để tìm đường cứu nước (1911 –
19920), đi sâu nghiên cứu về xã hội tư bản, xã hội thuộc địa, nghiên cứu về các
cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế giới như cuộc cách mạng tư sản Mỹ, cách mạng
tư sản Pháp. Hồ Chí Minh đã hiểu được bản chất của chủ nghĩa đế quốc: “Chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản đâu đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao
động ở đâu cũng bị áp bức bóc lột, đầy đoạ”.

Xuất phát từ xu thế của thời đại, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi trên toàn thế giới được mở ra từ cách mạng tháng Mười
Nga đã tác động sâu sắc đến tư duy của Người về mục tiêu và con đường của cách
mạng Việt Nam, nhất là khi Người được tiếp cận với luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ”.

Như vậy, bằng một cuộc khảo sát thực tiễn và nghiên cứu lý luận trên bình diện
rộng lớn ở trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh đã được tiếp cận chủ nghĩa
Mac-Lênin, nhìn nhận rõ con đường cứu nước, con đường cách mạng của dân tộc,
Người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”

(Nguồn: Internet)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
8

CHƯƠNG II: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ


ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Đối với
các dân tộc mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là “Làm thế nào
cho Tổ quốc được độc lập, cho nhân dân được tự do?” Đó là lẽ sống, là nguồn cổ
vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc.

Độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thực sự. Hồ Chí Minh nêu rõ: Dân tộc Việt
Nam kiên quyết đấu tranh cho độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Đối với Người,
độc lập dân tộc thưc sự có nghĩa là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo;
dân tộc đó phải có quyền tự quyết trong mọi lĩnh vực đối nội và đối ngoại.

Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc. Hồ Chí Minh
đã tiếp cận vấn đề độc lập dân tộc từ quyền con người. Trên con đường tiếp cận
chân lý cứu nước, Người đã tìm hiểu và tiếp thu những nội dung quý báu bản
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và
Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người
ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”. Từ quyền con người ấy, Người đã đúc kết chân lý về quyền cơ
bản của các con người: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, các
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Mọi công dân
của một nước độc lập đều có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ quyền độc lập thiêng
liêng của quốc gia. Bất kể người Việt Nam nào bán rẻ nền độc lập thiêng liêng của
đất nước đều sẽ bị trước pháp luật trừng trị.
9

Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Một
quốc gia không thể có độc lập dân tộc thực sự nếu quốc gia đó còn có sự lệ thuộc
vào quốc gia khác hoặc nếu có sự hiện diện của quân đội nước ngoài. Hồ Chí Minh
luôn tìm mọi cách để đẩy lùi chiến tranh, cứu vãn hòa bình, giữ vững nền độc lập
dân tộc.

Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”. Bởi vậy, khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kêu gọi chính phủ cách mạng phải chăm lo đến đời sống thiết thực
của nhân dân, cung cấp cơm ăn, áo mặc, nơi ở, học hành cho nhân dân.

Như vậy, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn
sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của Việt
Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế
giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc của
Việt Nam mà còn được thừa nhận là Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở thuộc địa trong thế kỷ XX.

(Nguồn: Google Image)


10

2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

2.2.1. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:


Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi
hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một, Bắc – Trung – Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào
Kinh, Mường, Thái, Êđê, Bana… đều là con Rồng, cháu Tiên. Đó là quan điểm
nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chính Minh. Nếu không duy trì và phát
triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói
đến việc tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản dựa trên cơ sở đại đoàn kết
mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức. Nhân dân nắm mọi quyền lực
trong xã hội và cũng là người quyết định đến sự phát triển của đất nước dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ có nền kinh tế phát triển cao. Nền kinh tế của xã
hội muốn phát triển phải dựa trên cơ sở năng suất lao động, lực lượng sản xuất hiện
đại và kết hợp với những nền tảng của khoa học – kỹ thuật. Ngoài ra còn không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chủ nghĩa xã hội còn
được hiểu với là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng
bước đạt tới mục tiêu.

Hồ Chí Minh còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức,
văn hóa. Theo Người, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
mới mong hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của sự nghiệp xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Để có đạo đức cách mạng thù phải loại trừ mặt trái của nó là chủ
11

nghĩa cá nhân. Qua các tác phẩm “Tư cách của người Kách mệnh”, “Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Người nhấn mạnh rằng: “Không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi
việc gì”. Từ đó, Người đưa ra lời khẳng định: “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa là chống
tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”.

Bao trùm lên tất cả là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa
trong chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị, kinh tế.
Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là quá trình xây dựng
một nền văn hóa mà trong đó kết tinh, kế thừa phát triển những giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế.

2.2.2. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:

Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng tầm quan trọng của giá trị chủ nghĩa xã hội
nhưng việc cấp bách hơn là tìm ra con đường để thực hiện những giá trị này. Ý
nghĩa của các phương pháp luận là tìm ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi giai đoạn khác nhau.

Mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Hồ Chủ tịch chỉ có
duy nhất một điều. Đó chính là mang lại độc lập và tự do cho dân tộc; nhân dân
được ấm no, hạnh phúc, ai ai cũng có cơm ăn áo mặc và mọi người đều được đến
trường học hành. Có thể tóm gọn một cách đơn giản và dễ hiểu về mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội của Người là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
12

Theo Người, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống nhân
dân. Nếu muốn đạt được thì chúng ta phải xây dựng và phát triển tiến lên xã hội
chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã áp dụng điều này qua các lĩnh vực của đời sống xã hội:

Mục tiêu về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do dân làm chủ, Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Người chỉ rõ con
đường và phương pháp thực hiện để nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức
chính trị – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Mục tiêu về kinh tế: Để chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội được vững chắc thì
phải có một nền kinh tế vững mạnh. Đó là một nền kinh tế công – nông nghiệp hiện
đại, khoa học – kĩ thuật tiên tiến. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nước ta cần được
hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp.

Mục tiêu văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội,
thậm chí là tiền đề cho cách mạng công nghiệp. Vì vậy, cán bộ phải lấy văn hóa
làm gốc, công nhân và nông dân phải biết văn hóa. Để có một nền văn hóa tốt đẹp,
nhân dân ta phải phát huy các truyền thống quý báu như: Uống nước nhớ nguồn, lá
lành đùm lá rách,… Và đồng thời học hỏi nền văn hóa của các nước bạn để phong
trào văn hóa có được bề rộng, bề sâu.

Mục tiêu xã hội: Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng xã hội là phát triển con người.
Cần phải xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Bác đã căn dặn:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Đó là kết quả của việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn để từ
đó nâng cao lòng yêu nước.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc trau dồi, rèn luyện đạo đức cách
mạng và luôn tạo điều kiện để mỗi người được đem tài năng cống hiến cho đất
nước. Người luôn gắn liền tài năng với đạo đức “ Có tài mà không có đức là người
13

vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”. Bác quan niệm rằng
“chính trị là tinh thần, chuyên môn là thể xác” gắn bó khăng khít không thể tách
rời. Vì vậy, nhân dân ta phải luôn trau dồi đạo đức và tài năng, vừa có tài vừa có
đức, vừa “hồng” vừa “chuyên”.

2.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội:

2.3.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết là cơ sở tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội

Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp:
phải giải phóng giai cấp trước thì mới giải phóng được dân tộc và vấn đề giải
phóng dân tộc phải phụ thuộc vào vấn đề giải phóng giai cấp.

Độc lập dân tộc gắn kiền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý
luận và hoạt dộng thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho
đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách
mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp
nhau của một tiến trình cách mạng. Giành độc lập dân tộc là mục tiêu của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc, dân
chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân chủ,
vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân
trí… Người từng nói: “Chỉ có thể giải phóng giai cấp vô sản thì mới có thể giải
phóng dân tộc”.

Qua Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5 – 1941), khi mâu thuẫn giữa nhân dân ta
với Nhật – Pháp ngày càng trở nên căng thẳng và nguyện vọng tha thiết của nhân
dân là đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập dân tộc. Đảng ta kiên quyết giương cao
hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
và cấp thiết hơn bao giờ hết.
14

Năm 1960, Hồ Chí Minh lại khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân
chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả
hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân
tộc phải thực hiện được các giá trị như tự do, thống nhất, dân chủ, công bằng, bình
đẳng đối với nhân dân chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.

Như vây, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định
con đường đi tới chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Độc lập
dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là con
đường giải phóng dân tộc một cách triệt để, con đường độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Đó là một nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, không lệ thuộc
vào bất cứ lực lượng nào.

2.3.2. Độc lập dân tộc là tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội

Việc giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp khác với các con đường
cứu nước của cha ông, những thế hệ đi trước gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến cuối thế kỷ XIX mà chưa có sự gắn bó với chủ nghĩa xã hội.

Để cho nhân dân có được độc lập tự do, hạnh phúc thì không có còn đường nào
khác ngoài con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.

Theo Hồ Chủ Tịch, độc lập dân tộc cũng phải là độc lập về chính trị. Nó phải gắn
liền với sự phồn thịnh về mọi mặt như: kinh tế, văn hóa, xã hội.

Về mặt kinh tế: Đã có những bước đầu xây dựng, hình thành đường lối kinh tế để
từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với
15

đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm
nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ.

Về mặt văn hóa – xã hội: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản đã đưa ra đường lối xây dựng nền văn hóa mới, khối quần chúng công -
nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được
hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định
con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

2.3.3. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển
độc lập dân tộc

Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới, các nước đấu tranh giành độc lập
dân tộc thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là con đường cách
mạng triệt để nhất, hợp với xu thế thời đại.

Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội,
còn chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân
chủ, là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân tộc khỏi
thân phận nô lệ, bất công xã hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải
phóng triệt để con người, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá
trình cách mạng. Lôgic lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt
16

là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu
cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt
để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân
tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã
hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để:
độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị
nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để
hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ
có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân
chính.

Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà
còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy. Người
nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á, ủng
hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp và
khẳng định: giúp bạn là tự giúp mình, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

Hồ Chí Minh đã thực hiện việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng
về kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Kết quả của cuộc cách mạng này là tạo ra
cơ sở vật chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của chủ nghĩa xã hội. Kết quả này là
một cơ sở - một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát triển
dân tộc.
17

Qua đó ta thấy được bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để nhân dân Việt
Nam xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa với sức mạnh kỳ diệu của nhân
dân là chủ và biết làm chủ xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này là cơ sở để nhân dân Việt
Nam củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát triển.

=> Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng và dân tộc
Việt Nam đã lựa chọn Thực tiễn Cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua cho
chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng chính là
con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng
người.

2.4. Điều kiện đảm bảo cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
cách mạng Việt Nam

2.4.1. Phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Hồ Chí Minh khẳng định vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là
điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo
cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của
các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh
đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn
chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của
thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
18

- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát
triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của mình.

- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công
tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc
lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Với Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một
nguyên tắc. Vì vậy, để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững
mạnh và thương xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ
trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng
Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ
cũng là vấn đề cốt tử.

(Nguồn: Google image)

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng của Đảng và việc vận dụng
trong tình hình hiện nay
19

2.4.2. Phải xây dựng, củng cố, tăng cường liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc

Theo Hồ Chí Minh cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là sự nghiệp của các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người xác định: công -
nông là gốc, là chủ lực của cách mạng; các tầng lớp, cá nhân yêu nước là bầu bạn
của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi
công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất. Bộ phận trung tâm trong lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là công
nhân, nông dân và khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Bên cạnh hai động lực chính của cách mạng là công – nông. Hồ Chí Minh hết sức
chú trọng đến việc liên minh với các giai cấp, các tầng lớp trong cộng đồng dân tộc
như tri thức, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, cả một bộ phận trung và tiểu địa chủ có tinh
thần yêu nước.

2.4.3.Cách mạng Việt Nam phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới

Khi đến với chủ nghĩa Lênin tìm thấy con đường cứu nước đúng dắn thì cũng là lúc
Hồ Chí Minh gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Người hết sức chú trọng đến
sự liên kết chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.

Cách mạng Việt Nam phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lập, tự cường, đồng
thời phải có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng
hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới; phải có
trách nhiệm với phong trào giải phóng dân tộc dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
20

Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta, việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc được bạn bè quốc tế hết lòng, hết sức
ủng hộ.

=> Qua ba nhân tố nêu trên ta thấy được sự gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức
mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng
và phát huy thêm mãi”

CHƯƠNG III: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI

3.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh cho rằng: Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội
còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu
tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều”. Từ những khó
khăn gian khổ ấy, Bác luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Bài học đầu tiên sau gần 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai
sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ
chặt chẽ với nhau”
21

Đại hội VI của Đảng đã mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Với tinh thần
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, đây là Đại hội kế
thừa, quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta và đã rút ra những bài học
lớn trong đó đầu tiên là: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta..

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt dân
tộc Việt Nam đi lên trong sự nghiệp đổi mới. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải nắm vững bối cảnh
mới của thế giới có nhiều yếu tố tác động tới quá trình thực hiện mục tiêu này.

Về kinh tế - chính trị, trên thế giới cách mạng khoa học và công nghệ đang đưa
nhân loại đến gần với nền văn minh mới – nên văn minh tin học. Bởi vậy, mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế thế giới là tất yếu, kinh tế thị trường mang tính toàn cầu.

Mặc dù chiến tranh lạnh kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế chung,
nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ
xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc,
sắc tộc, tôn giáo, nạn khủng bố, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất
ổn định nhiều khu vực.

Về văn hóa - xã hội, hiện nay giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc tăng lên.
Ta có thể dễ thấy các thông tin trên mạng Internet bùng nổ, bên cạnh mặt tích cực,
cũng có nhiều tiêu cực xâm nhập vào các quốc gia. Trong khi giao lưu văn hoá phát
triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm lăng văn
hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh như vậy, nhân dân ta càng phải kiên
định mục tiêu lý tưởng của Đảng, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
22

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.

3.2. Điều kiện mới của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hiện nay

Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong đổi mới như Đảng ta
khẳng định là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tình hình kinh tế, xã hội của đất nước có những chuyển biến tích cực, thế lực nước
ta được tăng cường để cũng cố niềm tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, làm
tăng thêm sự nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên, năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhiều vấn đề xã
hội bức xúc, nạn tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống còn nghiêm trọng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống
phá trên tất cả các lĩnh vực, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta,

Hiện nay, nền độc lập dân tộc của chúng ta đang đứng trước nhiều thử thách trên
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Hơn
thế nữa, tình hình thế giới giữa các khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường;
xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Kinh tế thế giới tiếp tục
tình trạng trì trệ, châu Á và các nước Đông Nam Á vẫn tiếp tục phát triển về kinh tế
nhưng cũng tiềm ẩn các nhân tố có thể gây bất ổn định. Điều đó, tác động nhiều
chiều đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Do đó, trong
giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn còn là con
đường duy nhất đúng đắn
23

CHƯƠNG IV: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI

- Phát triển chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, kết hợp với việc tăng cường
giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa tạo ra nguồn nội lực mới để xây dưng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước. Chỉ có giữ vững độc lập dân tộc mới có điều kiện để xây dựng, phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, mở mang dân trí, xây dựng nền quốc
phòng vững mạnh.

- Để thống nhất toàn viện lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển và hải đảo quốc
gia, chúng ta cần phải đảm bảo sự độc lập về chính trị, kiên định đường lối đổi mới
đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo; không dao động,
giáo điều, rập khuôn cũng như không vì bất kỳ lý do nào, sức ép nào mà thay đổi
mục đích, phương hướng, mục tiêu đã chọn. Chỉ có độc lập về chính trị mới bảo
đảm giữ cho dân tộc được độc lập một cách thật sự và đúng nghĩa của nó.

- Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường
lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn tổng hợp để
phát triển đất nước. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo hòa nhập nhưng không hòa tan,
hợp tác nhưng không lệ thuộc. Phải tăng cường sự ủng hộ giúp đỡ của các lực
lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát
triển.

- Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mục tiêu
độc lập dân tộc ngày càng cho thấy sự cần thiết và bức bách phải giữ gìn bản sắc
văn hóa dân được thấm đượm trong mọi lĩnh vực. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
24

loại không đánh mất giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Giao lưu, hòa nhập
nhưng không để hòa tan.

- Phải củng cố vững chắc hệ thống chính trị, trong đó Đảng Cộng sản là nhân tố
quan trọng hàng đầu. Đảng Cộng sản Việt Nam là người cầm lái con thuyền cách
mạng Việt Nam. Người cầm lái có vững thì cách mạng mới đi đúng hướng. Vì vậy,
phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự là đội
tiên phong, có bản lĩnh chính trị vững vàng.

- Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng, cần có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thật sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước phải đủ mạnh với hệ thống
luật pháp chặt chẽ, các cơ quan chức năng gọn nhẹ và có hiệu lực cao, với những
cán bộ, công chức có đủ đức, tài để quản lý xã hội, phục vụ nhân dân.
25

KẾT LUẬN
Quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang một nội dung toàn diện, sâu
sắc và triệt để; không chỉ bao hàm độc lập, tự do, thống nhất cho dân tộc, mà còn
chứa đựng cả con đường và điều kiện phát triển dân tộc. Đó là gắn độc lập dân tộc
với dân chủ của nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan
điểm đó trở thành mục tiêu, lý tưởng, thành khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân
Việt Nam làm nên kỳ tích oai hùng, đánh thắng mọi kẻ thù, đưa đến độc lập, thống
nhất cho đất nước; đồng thời cơ sở lý luận để hoạch định chính sách dân tộc đúng
đắn của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức
quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của
giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải
phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người.

“Tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là con
đường đúng đắn, là sự lựa chọn sáng suốt có ý nghĩa thời đại, thể hiện trí tuệ an
ninh, năng khiếu chính trị tuyệt vời, tình cảm giai cấp và dân tộc sâu sắc của Hồ
Chí Minh. Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 85 năm
qua là quá trình thực hiện và hoàn thiện dần mục tiêu và con đường mà Hồ Chí
Minh đã vạch ra. Đó cũng là mục tiêu của dân tộc Việt Nam, là con đường mà nhân
dân ta đã lựa chọn, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội
Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh.
26

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.

2. Tư tưởng Hồ Chí Min và Cách Mạng Việt Nam, Nxb, Chính trị quốc gia

Hà Nội 1997.

3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam do Thiếu tướng, GS.TS Bùi Quảng Bạ và Thiếu tá,
TS Trần Thị Thúy Hà biên soạn.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2000, t.11, tr.372.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng
lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, tr.7

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb.Chính trị quốc gia, H.1996, tr.14.

You might also like