You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TƯ TƯỞNG HCM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN


DO NHÂN DÂN VÌ NHÂN DÂN VÀ VẬN DỤNG
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

GVHD: Th.S Ngô Thị Thu Hoài


SVTH:
1. Thượng Hồng Thơ
2. Nguyễn Lê Minh Quang
3. Nguyễn Thanh Lê Hoàng
4. Lê Đình Hoàng Minh
5. Dương Duy Thoại

Thành phố Hồ Chí Minh, 2022


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ tiểu luận.................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................................5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN
DO NHÂN DÂN VÌ NHÂN DÂN
1.1 Nhà nước dân chủ....................................................................................................6
1.1.1 Bản chất giai cấp nhà nước...................................................................................6
1.1.2 Nhà nước của dân..................................................................................................7
1.1.3 Nhà nước do dân...................................................................................................8
1.1.4 Nhà nước vì dân....................................................................................................9
1.2 Nhà nước pháp quyền..............................................................................................9
1.2.1 Nhà nước hợp hiến hợp pháp................................................................................9
1.2.2 Nhà nước pháp thượng tôn pháp luật..................................................................10
1.2.3 Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa.......................................................................11
1.3 Nhà nước trong sạch vững mạnh............................................................................12
1.3.1 Kiểm soát quyền lực của nhà nước.....................................................................12
1.3.2 Phòng chống tiêu cực trong nhà nước.................................................................13
CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Thực trạng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay............................................................................................................... 15
2.1.1 Tích cực mang lại trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 15
2.1.2 Những hạn chế còn tồn tại trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa............................................................................................................................ 16
2.2 Vận dụng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn hiện nay............................................................................................................... 16

2
2.2.1. Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân trong giai đoạn mới...........................................................................................16
2.2.2 Những phương hướng cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước ta.................................................................................17
2.2.2.1 Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
xây dựng và quản lý nhà nước.....................................................................................17
2.2.2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức pháp hội........................19
2.2.2.3 Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước..............................................20
2.2.2.4 Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương............................22
2.2.2.5 Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ...............................................................23
2.2.2.6 Đẩy mạnh cải cách tư pháp..............................................................................23
2.2.2.7 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.......................................24
C. KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................27

3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chắc hẳn không ai là không biết về sự vĩ đại ,sự hi sinh cả một cuộc đời của
mình cho nhân dân cho nước nhà cả sự nghiệp của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh là chỉ muốn
được độc lập, tự do và hạnh phúc đến cho mỗi con dân Việt Nam. Chỉ lo cho nhân dân
lo cho đất nước mà quên đi bản thân những ước muốn những khát khao lớn nhất cũng
chỉ là cho mọi người có đầy đủ cuộc sống ấm no bình yên. Lý tưởng sự khát vọng
những ước mơ đó cháy trong xuyên suốt cả một cuộc đời cách mạng của người. Trong
cả từng những giấc ngủ hay những bữa ăn của người đều suy nghĩ về nhân dân.Và
cuối cùng vào khoảnh khắc lịch sử ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ,mở ra một trang sách mới đối với con dân trong hàng ngàn năm giữ và xây dựng
đất nước. Từ kiếp sống nô lệ trở thành những người làm chủ đất nước,từ một đất nước
thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền,có tự do. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và nhà nước đã lập nên những chiến thắng và giành quyền giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước và đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những chiến
thắng những công cuộc đổi mới thành công xây dựng đất nước thì cũng thừa nhận rằng
bộ máy nhà nước cũng có một số cán bộ chưa làm tròn trách nhiệm đối với nhân dân.
Nhân dân đòi hỏi phải có được sự tôn trọng và phát huy đầy đủ các quyền của nhân
dân lẽ ra phải được thực hiện. Để giữ vững nền độc lập dân tộc và phát triển kinh tế
với các cường quốc lớn mạnh thì Đảng ta cần vận dụng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Thể hiện được tư tưởng của chủ tịch với lý tưởng nhà nước của dân, do dân
và vì dân và vận dụng được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ tiểu luận
Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về lý
tưởng nhà nước của dân do dân và vì dân và vận dụng được trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Làm rõ được vấn đề tại sao nhà nước của dân do
dân và vì dân và làm thế nào để vân dụng được nó.
Trang bị cho sinh viên một số kiến thức cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về lý
tưởng nhà nước của dân do dân và vì dân.

4
Góp phần bồi dưỡng cho sinh viên kỹ năng phân tích một cách khoa học.
Góp phần làm cho sinh viên hiểu rõ những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu :Quan điểm,tư tưởng Hồ Chí Minh ,nhà nước của nhân
dân
Phạm vi nghiêm cứu: Lãnh thổ Việt Nam từ những năm 1945 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng nhà nước của
dân do dân và vì dân và vận dụng được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN
DO NHÂN DÂN VÌ NHÂN DÂN
1.1 Nhà nước dân chủ
1.1.1 Bản chất giai cấp của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất của một
giai cấp nhất định và cụ thể. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- nhà nước Việt Nam mới
theo quan điểm của Hồ Chí Minh đây là nhà nước mà bản chất của nó là giai cấp công
nhân. Bản chất ấy được thể hiện ở ba mặt sau:
Thứ nhất, bản chất giai cấp của nhà nước Việt Nam được biểu hiện thông qua
tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đưa đất nước phát triển. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là hai mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ
Chí Minh.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò cầm quyền. Đảng cộng sản Việt
Nam điều hành và lãnh đạo bằng các phương tiện rạch ròi sau:
- Thông qua hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan và bộ
máy nhà nước
- Thông qua công tác giám sát kiểm tra thường xuyên
- Thực hiện thông qua các chủ trương cùng với quan điểm và đường lối đưa
nhà nước đã được thể chế hóa thành luật pháp, chính sách và hoạch định
Thứ ba, bản chất của giai cấp công nhân dân tộc được thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nó được thể hiện ở nguyên tắc tập trung dân chủ: đề cao phát
huy tập trung, nhà nước phải tập trung và thống nhất quyền lực để mọi quyền lực đều
thuộc về tay nhân dân
Trong nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân nhất quán với tính
nhân dân và tính dân tộc. Tư tưởng của Người về nhà nước Việt Nam mới, sự thống
nhất nói trên được thể hiện một cách cụ thể như sau:
Trước hết, nhà nước Việt Nam là kết quả lao động cần cù lâu dài của các thế
hệ người Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, của tất cả các thế hệ và là của toàn
dân tộc. Từ giữa thế kỷ 19, khi giặc ngoại xâm xâm chiếm Tổ quốc, các thế hệ người
Việt Nam đã không quản ngại hy sinh xương máu cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

6
Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trở thành lực lượng lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của cả nước với sách lược đại đoàn kết đúng đắn, tập hợp sức mạnh
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh chiến thắng giặc ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Vì vậy, nó không thuộc về giai cấp nào, mà là của nhân dân
Thứ hai, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi thành lập đã dựa trên lợi ích quốc
gia, mục tiêu rõ ràng và nhất quán là vì lợi ích của nhân dân. Thực chất của vấn đề này
là Hồ Chí Minh đã thống nhất lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân với lợi ích của
nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Thứ ba, con đường để đi đến chủ nghĩa cộng sản và quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tâm huyết thực hiện đồng thời đây
cũng là sự nghiệp của chính của dân tộc ta. Trên thực tế Nhà nước Việt Nam mới đã
gánh vác sứ mệnh mà cả dân tộc giao phó là tổ chức nhân dân đấu tranh chống chiến
tranh, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và phồn vinh. Từ đó có những đóng góp tích cực cho sự
tiến bộ và phát triển của thế giới.
1.1.2 Nhà nước của nhân dân
Hồ Chí Minh cho rằng, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà mọi quyền lực
trong nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong một nước dân chủ thì nhân dân
có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Người khẳng định “Ở nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ta, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân”. Nhà nước
của nhân dân có nghĩa là "dân làm chủ". Nhân dân họ sẽ thực hiện quyền lực của mình
thông qua hai hình thức đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết định
mọi việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia, vận mệnh của dân tộc và lợi ích của
nhân dân. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo
đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa .Tất cả quyền binh
trong nhà nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Theo điều 32 Hiến pháp năm 1946 cũng đã khẳng định
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”.

7
Còn dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử dụng
rộng rãi để thực hiện quyền lực của nhân dân. Đó là một hình thức dân chủ trong đó
người dân thực thi quyền lực thông qua các đại diện do họ lựa chọn và bầu ra và thông
qua các thể chế chính quyền do họ thiết lập.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh ở hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là sự "thừa ủy quyền" của nhân dân, bản thân nhà nước
sẽ không có quyền lực mà quyền lực của của nước là do nhân dân ủy thác
- Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước đồng thời có quyền loại bỏ những
đại diện do họ lựa chọn và bầu ra, và giải tán các thể chế quyền lực mà họ đã tạo ra.
- Luật pháp mang tính dân chủ, là công cụ quyền lực của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, điểm khác biệt cơ bản giữa pháp luật của nhà nước Việt
Nam mới với pháp luật của các chế độ tư sản, phong kiến là ở chỗ phản ánh ý chí của
nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân là cách mà người dân kiểm soát được quyền lực
của nhà nước
1.1.3 Nhà nước do dân
Theo như tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước do nhân dân việc đầu tiên đó là nhà
nước do nhân dân thành lập chiến thắng của cuộc cách mạng toàn dân tộc dưới sự chỉ
huy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân dân tạo nên nhà nước dựa vào nền tảng luật
pháp của chế độ dân chủ đồng thời tuân theo các trình tự dân chủ với các quyền bầu
cử, biểu quyết...
Nhà nước do nhân nghĩa khác là dân làm chủ. Người đã khẳng định rõ: “Nước
ta là nước dân chủ nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ, nhân dân có quyền lợi làm
chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Ở
nhà nước do nhân dân làm chủ nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện
những quyền mà luật pháp và Hiến pháp đã quy định, được hưởng đầy đủ tất cả lợi ích
và hoàn thành bổn phận làm chủ của mình. Dân có bổn phận và nhiệm vụ đóng góp trí
tuệ, sức người, sức của để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Người yêu cầu
đảng viên và cán bộ phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước
nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ”. Không chỉ tuyên bố quyền
làm chủ của nhân dân cũng không chỉ đưa nhân dân tham gia vào các công việc nhà

8
nước mà Người còn cổ vũ người dân chuẩn bị tốt khả năng làm chủ của mình. Nhà
nước cần phải coi trọng việc giáo dục nhân dân và nhân dân cũng phải chủ động phấn
đấu để đáp ứng đủ khả năng thực hiện quyền làm chủ của mình.
1.1.4 Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước hết lòng vì quyền lợi và nguyện vọng của nhân
dân, không đặc quyền đặc lợi riêng, phải thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ
Chí Minh cho rằng: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích
duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ
cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có
hại cho dân thì phải tránh”.
Trong nhà nước vì dân cán bộ vừa là người phục vụ, nhưng đồng thời phải vừa
là người chỉ huy của nhân dân. Nên phải trung thành, tận tâm, liêm chính, chí công vô
tư, lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ vượt bậc,
thông minh, sáng suốt, nhìn xa trông rộng. gần gũi với nhân dân, trọng dụng nhân tài.
1.2 Nhà nước pháp quyền
1.2.1 Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Nhà nước hợp hiến, hợp pháp đây là nhà nước thành lập nên thông qua cuộc
tổng tuyển cử bằng chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nhà nước
hoàn toàn có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết các ván đề đối nội cũng như đối
ngoại của Việt Nam ta. Người sớm đã nhận thức được tầm quan trọng của Hiến pháp
và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội. Hồ Chí Minh luôn chú trọng việc xây
dựng cơ sở pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới. Việc này thể hiện rõ trong bản Yêu
sách của nhân dân An Nam của nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp do
Người thay mặt gửi tới Hội nghị Véc- xây (Pháp) năm 1919. Để dễ tuyên tuyền Người
đã chuyển bản Yêu sách thành Việt Nam yêu cầu ca. Trong đó có câu: “Bảy xin hiến
pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Hồ Chí Minh đã yêu cầu thực
dân Pháp phải thay thế chế độ ra sắc lệnh ở Đông Dương bằng chế độ ra các đạo luật,
loại bỏ triệt để các tòa án cái mà được dùng nhằm áp bức và khủng bố những bộ phận
trung thực nhất của nhân dân An Nam người bản xứ cũng có quyền được hưởng các
quyền luật pháp như người Âu.

9
Về sau khi trở thành người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh
càng quan tâm đặc biệt hơn việc làm cho tinh thần pháp quyền đi sâu và thay đổi mối
quan hệ và hoạt động trong Nhà nước và xã hội. Bảo đảm cho nhà nước được tổ chức
và vận hành đúng như pháp luật cũng như căn cứ vào pháp luật để điều hành xã hội.
Chính vì thế, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp
đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Hồ Chí Minh đã khẳng định lập nên
Quốc hội rồi dựa vào cơ sở đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến, thể
hiện quyền lực tối cao của nhân dân chỉ có vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý bền
vững để chiến đấu với quân Đồng Minh, mới có quan hệ quốc tế bình đẳng mới thiết
lập được một thể chế quyền lực hợp pháp như đúng thông lệ của một nhà nước pháp
quyền hiện đại, Người nêu rõ “Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu”
- Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam và Đông Nam Á, tất cả công dân Việt Nam
từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ, giàu, nghèo, dân tộc, tôn giáo, đảng phải,
đều đi bỏ phiếu, bầu những đại biểu của mình vào Quốc hội. Cuộc Tổng tuyển cử
được thực hiện thành công vào ngày 06/01/1946 với chế độ phổ thông đầu phiếu.
- Ngày 02/3/1946, Hồ Chí Minh được Quốc thống nhất bầu làm Chủ tịch
Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ
chức bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Đây là chính phủ hợp hiến đầu
tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải
quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước.
1.2.2 Nhà nước thượng tôn pháp luật
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước có thể được quản lý bằng bộ máy và
bằng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất là phải quản lý bằng Hiến
pháp và pháp luật. Muốn vậy đầu tiên cần phải thực hiện tốt công tác lập pháp. Ở
cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần tham gia tham gia vào quá trình lãnh
đạo xây dựng Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959), đã ký lệnh
công bố 16 đạo luật và 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức Nhà
nước và pháp luật và nhiều văn bản dưới luật khác. Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây
dựng hệ thống luật pháp dân chủ hiện đại

10
Hồ Chí Minh nói rằng: “công bố đạo luật này chưa phải là mọi việc đều xong,
mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện tốt”. Cùng với công tác lập
pháp Người cũng rất chú trọng đưa pháp luật vào trong đời sống nhằm bảo đảm cho
pháp luật được thực thi và có cơ chế giảm sát việc thi hành pháp luật.
Hồ Chí Minh cho rằng công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt
cho thế hệ trẻ trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp
quyền, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân được thi hành trong đời sống. Người
hết sức chú trọng việc tăng cường trình độ dân trí của nhân dân, Người chỉ rõ tầm quan
trọng của việc phải nâng cao trình độ và khả năng sử dụng luật pháp của người dân vì
pháp luật là công cụ quyền lực của nhân dân chính vì vậy điều quan trọng là phải “làm
sao cho nhân dân biết hướng quyền dân chủ biết dùng quyền dân chủ của mình, dám
nói, dám làm".
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật vì pháp luật phải
chính xác và phải tăng cường tuyên truyền pháp luật cho người dân thực thi pháp luật
phải hoàn toàn nghiêm minh và công tâm. Người tuyên bố: “Pháp luật Việt Nam tuy
khoan hồng với những người biết cải tả quy chính, nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những
tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân”.
Hồ Chí Minh không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải chấp
hành gưỡng mẫu pháp luật, đi đầu là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Đồng thời luôn khuyến khích nhân dân phê bình và giảm sát công việc của nhà nước,
giảm sát quá trình nhà nước thi hành pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn
quốc Người viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên
các bạn cần phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân
dân noi theo”. Người luôn tự giác khép mình vào việc gương mẫu chấp hành Hiến
pháp và pháp luật. Bản thân Người là một tấm gương sáng trong việc sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, việc đó từ lâu đã trở thành thành thói quen, nề nếp, lối
ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
1.2.3 Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa
“Pháp quyền nhân nghĩa” là trước hết Nhà nước phải tôn trọng đảm bảo thực
hiện đầy đủ các quyền con người cũng như chăm lo đến lợi ích của người dân, vận
dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền con người. Người chú trọng quyền của

11
công dân nói chung, đồng thời cũng chú trọng đến quyền của những nhóm người cụ
thể như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số... Người đề cập các quyền tất yếu của
con người, trong đó quyền cao nhất là quyền sống đồng thời cũng đề cập đến các
quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của con người. Nhà nước Việt
Nam ngay từ khi ra đời Hiến pháp Việt Nam đã ghi nhận một cách toàn diện quyền
con người ở nước ta. Đây là nền tảng pháp lý để đảm bảo việc thực thi các quyền con
người một cách triệt để. Do vậy mục tiêu giải phóng con người và làm cho mọi người
có được cuộc sống tự do được hưởng các quyền con người một cách đầy đủ nhất đã trở
thành mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trong pháp quyền nhân nghĩa tính nhân văn của hệ thống pháp luật thể hiện ở
chỗ ghi nhận đầy đủ bảo vệ quyền con người một cách nghiêm minh công bằng và
khách quan. Nên là ngay khi thành lập Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã ngay lập tức tuyên bố xóa bỏ tất cả luật pháp hà khắc của chính
quyền thực dân phản động. Tính nhân văn của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ ghi
nhận đầy đủ bảo vệ quyền con người một cách nghiêm minh công bằng và khách quan.
Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay trừng trị họ theo luật
pháp tùy theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ không có ai bị tàn sát”.
Tuyệt đối không đối xử với con người một cách dã man. Ngay cả với những kẻ phản
bội Tổ quốc. Đặc biệt hệ thống luật pháp đó có tính khuyến thiện, bảo vệ lẽ phải lấy
mục đích giáo dục để cảm hóa và thức tỉnh con người. Với Hồ Chí Minh, việc xây
dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo
đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người.
1.3 Nhà nước trong sạch, vững mạnh
1.3.1 Kiểm soát quyền lực nhà nước
Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có
hiệu quả, phòng chống thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Nhà nước, Hồ Chí
Minh rất chú trọng vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà
nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền lực trong tay. Nhưng một khi đã nắm giữ
quyền lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền. Vì

12
thế, để đảm bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về Nhân dân, cần kiểm soát quyền lực nhà
nước
Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, cần phát huy
vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, chính vì vậy, Đảng có quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực
Nhà nước. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh cách kiểm soát tốt cần hai điều kiện
- Việc kiểm soát phải có hệ thống
- Người đi kiểm soát phải là người có uy tín
Vấn để kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước và việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước.
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, Nhân dân có
quyền kiểm soát quyền lực Nhà nước. Đảng cầm quyền cần chú ý phát huy vai trò
kiểm soát quyền lực của nhân dân.
1.3.2 Phòng chống tiêu cực nhà nước
Những tiêu cực và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh
-“Đặc quyền, đặc lợi” Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi
phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền,
hách dịch với dân, lạm quyền.
“Tham ô, lãng phí, quan liêu” Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm, là
quốc
sách của mọi quốc gia. Quan liêu đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô,
lãng phí; muốn trừ sạch bệnh tham ô, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan
liêu.
“Tư túng”, “chia rẽ”, "kiêu ngạo” Những căn bệnh trên gây mất đoàn kết, gây
rối cho công tác.
Để tìm ra biện pháp phòng, chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, Hồ Chí
Minh đã dày công luận giải nguyên nhân nảy sinh tiêu cực. Các nguyên nhân này
không tồn tại biệt lập với nhau, mà có sự kết hợp với nhau, tiến công vào đội ngũ cán
bộ. Nếu Đảng và Nhà nước không có biện pháp phòng, chống tốt, không có chính sách
bảo vệ cán bộ một cách có hiệu quả, thì nguy cơ mất cán bộ là rất lớn.

13
Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn.Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiều biện pháp khác nhau:
- Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân đó là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.
- Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng, phải nghiêm minh. Công
tác kiểm tra phải thường xuyên.Cán bộ, đảng viên tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật.
- Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm. khắc, đúng người đúng tội là cần thiết.
- Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách
nhiệm nêu gương càng lớn
- Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến
chống lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và bộ máy Nhà nước.

14
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Thực trạng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay
2.1.1 Tích cực mang lại trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến
tích cực.
Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan
hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành
phần.
Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô,
tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển.
Cải cách hành chính, cải cách tư pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực.
Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ
quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động
được nâng lên.
Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa
bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
được tăng cường.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
từng bước được đổi mới.

15
2.1.2 Những hạn chế còn tồn tại trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và bao
biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn
Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền
lực chưa hoàn thiện
Vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội
và Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ
Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và
Nhân dân chưa nghiêm
Cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, quyền con người, quyền công
dân có mặt chưa được phát huy đầy đủ
Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước
2.2 Vận dụng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay
2.2.1 Các yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trong giai đoạn mới
Theo các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) đã nêu lên những quan điểm cơ bản và phương
hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các nghị quyết định đó luôn cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện. Để đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới, trong các
văn kiện của Đảng của các Đại hội VIII, IX, X, XI đã nhấn mạnh một số chủ trương,
nhiệm vụ với các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, luôn tích cực phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây

16
dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt
động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tận tuỵ phục vụ
nhân dân, cán bộ, công chức nhà nước thật sự là công bộc.
Thứ ba, chú trọng sự lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với việc kiểm kê, kiểm
soát trong quản lý kinh tế, tài chính tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với Nhà
nước; xây dựng và hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với
đặc điểm, tính chất của các cơ quan nhà nước ở từng cấp.
Dựa trên nền tảng chung là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân,ba yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau.Thực hiện đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2.2 Những phương hướng cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta
2.2.2.1 Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và quản lý nhà nước
Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh, có
hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của nhân dân mới xây dựng được chính quyền
trong sạch, giữ vững kỷ cương, an ninh, quốc phòng, tạo động lực to lớn phát triển
kinh tế - xã hội. Vì thế phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách hàng đầu lúc này là
giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng
suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy
nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Mở rộng dân chủ phải
đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ,
dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc
phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối.
Để thực hiện phương hướng trên, điều quan trọng hàng đầu là nâng cao chất
lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân
chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả. Để đạt được những điều
nêu trên trên cần thực hiện và triển khai các nhiệm vụ sau:

17
Thứ nhất, các cơ quan hành chính nhà nước phải nghiêm túc chấp hành các
quyết định của cơ quan dân cử trong trách nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy
định và chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử. Nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực
sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem
xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
trực tiếp liên quan đến đời sống nhân dân. Nhà nước giảm tối đa cơ chế xin phép - cho
phép trong từng vụ việc; rút kinh nghiệm về cơ chế “một cửa” đã thực hiện có hiệu
quả ở một số địa phương để chỉ đạo áp dụng rộng ở các ngành các cấp. Các nội dung
trên được đăng trên các phương tiện thông tin, công báo; niêm yết hoặc lưu trữ ở các
phòng thông tin, trụ sở, nơi tiếp dân.
Thứ ba, liên tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử, bảo đảm cho cử tri
tiếp xúc, đối thoại với ứng cử viên, có đủ thông tin để trao đổi, nhận xét, lựa chọn và
bầu cử đại biểu của mình thực sự dân chủ trên cơ sở có sự lãnh đạo, hướng dẫn về tiêu
chuẩn, cơ cấu. Cải tiến cách thức để nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến vào
các dự án luật, các dự thảo nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước thật sự thiết
thực và có hiệu quả; tránh làm hình thức, tràn lan, tốn kém.
Thứ tư, xử lý nghiêm minh các hành vi trì hoãn, chậm trễ, làm sai lệch, can
thiệp trái pháp luật hoặc lẩn tránh trách nhiệm đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của nhân dân Tăng cường công tác giám sát và kiểm tra của cấp trên đối với
công tác giải quyết khiếu tố của cấp dưới. Tiếp tục kiện toàn và phát huy vai trò của
toà án để xét xử các khiếu kiện hành chính. Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân
trình bày ý nguyện, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, ngăn chặn những hành
vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối.
Thứ năm, thanh tra nhà nước cùng Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn lao động các
cấp cần phối hợp và có biện pháp xây dựng, củng cố thanh tra nhân dân xã, phường,
thị trấn, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan để thanh tra nhân dân thực sự
trở thành công cụ sắc bén của nhân dân trong việc phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu
cực, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Không chấp nhận các tổ

18
chức thanh tra tự phát. các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, lập quy cần rà soát, sửa
đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật với các định chế cụ thể, rõ ràng về
quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, thu chi
ngân sách, tài chính, các chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí... trong các cơ quan,
đơn vị sản xuất kinh doanh, trường học, bệnh viện.
Thứ sáu, nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở
cấp cơ sở:
- Những quyết định quan trọng ở cấp cơ sở có quan hệ đến đông đảo nhân dân
(như chủ trương huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc
lợi...) cần đưa các phương án khác nhau và thông qua những hình thức phù hợp để
nhân dân thảo luận và biểu quyết. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chấp hành
theo kết quả biểu quyết đó. Ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, kinh doanh
cần có quy chế báo cáo công khai các công việc đã làm, vấn đề sử dụng tài sản, thu chi
tài chính và quy định những việc phải do đại hội đoàn thể cán bộ, công nhân trong đơn
vị xem xét và biểu quyết.
- Tổ chức và hướng dẫn các hình thức nhân dân tự quản ở cơ sở và khu vực
dân cư đối với những việc dân tự làm hoặc do Nhà nước uỷ thác do dân làm với sự hỗ
trợ của Nhà nước như: hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, bài trừ tệ
nạn xã hội, bảo vệ trật tự an ninh, quản lý giáo dục những đối tượng cải tạo tại chỗ,
chăm sóc người già, gia đình chính sách, việc quản lý các quỹ do dân đóng góp,...
Nhân dân ở xã, thôn, ấp, bản cùng bàn bạc xây dựng quy ước, hương ước về nếp sống
văn minh, gia đình văn hoá, về thủ tục cưới xin, ma chay,... phù hợp với nếp sống mới,
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và pháp luật Nhà nước.
- Định kỳ 6 tháng và một năm, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã,
phường phải báo cáo công khai với dân về các công việc đã làm, tình hình sử dụng tài
sản, tài chính, ngân sách, các khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây
dựng cơ bản.
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp hằng năm phải có báo cáo
tổng kết công tác và thông qua những hình thức phù hợp, thông qua mặt trận và các
đoàn thể để phê bình, tự phê bình trước nhân dân và đề nghị nhân dân nhận xét và
đánh giá.

19
2.2.2.2 Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức pháp hội
Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp
- Căn cứ vào định hướng phát triển đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và
điều kiện, khả năng thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong chương trình xây
dựng pháp luật dài hạn và hằng năm.
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định của các Uỷ ban của Quốc hội để các
kỳ họp của Quốc hội. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật,
đảm bảo quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân
hiểu và tự giác chấp hành.
- Giảm dần pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của
Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật.
- Nâng cao năng lực quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước
- Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngân sách
như Hiến pháp quy định, bảo đảm các điều kiện để Quốc hội xem xét quyết định một
cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các chương trình quốc gia, các
dự án đầu tư lớn cũng như các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước và nhân
sự.
Nâng cao chất lượng giám sát
- Đề cao vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ
quan, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước.
- Cơ quan kiểm toán báo cáo kết quả kiểm toán cho Quốc hội, Chính phủ và
công bố công khai cho dân biết.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
- Cần tăng thêm hợp lý số đại biểu nguyên trách cho các Uỷ ban trong Quốc
hội. Cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội và sinh hoạt của
Quốc hội. Có các hình thức thu hút các chuyên gia giỏi làm tư vấn cho các Uỷ ban của
Quốc hội trong các hoạt động thẩm định và giám sát. Nghiên cứu và thành lập thêm
một số Uỷ ban của Quốc hội.
2.2.2.3 Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước

20
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ: Cần thống nhất quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại
theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới, bao gồm:
- Quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội và
trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt,
bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao đời sống.
- Quản lý thị trường, điều tiết thu nhập kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các
vùng và các tầng lớp dân cư thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế
nhà nước.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hoá cùng với tăng cường an
ninh, quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này tác động hỗ trợ
nhau cùng phát triển.
- Sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu nhà
nước, khắc phục tình trạng vô chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường kiểm kê,
kiểm soát sản xuất và phân bố.
Đẩy mạnh phân cấp quản lý
- Phân định rõ hơn trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền.
- Cần tăng trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc
quyết định những vấn đề của địa phương, đặc biệt là về quy hoạch phát triển và kế
hoạch đầu tư cho khu vực công cộng, về thu chi ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành
chính địa phương, về xử lý các vụ việc hành chính.
- Việc phân quyền phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng ngành và
lĩnh vực hoạt động, với chức năng. Cụ thể hoá việc phân cấp theo hướng nào do cấp
nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó.

- Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng cường sự phối hợp quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ, được quy định thành thể chế; đặc biệt cần tăng cường trách
nhiệm kiểm tra, kiểm soát của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương.
Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra

21
- Đổi mới và tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là
công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ
cương xã hội.
- Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức
nhà nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới.
- Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc xử lý hành
chính tại chỗ các vi phạm pháp luật, phân định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan thanh
tra và toà án hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện.
2.2.2.4 Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Kiện toàn chính quyền cơ sở
- Phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn trong việc xem
xét, quyết định các nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đời sống nhân dân, về
ngân sách và giám sát việc điều hành của Uỷ ban nhân dân.
- Có chế độ thích hợp để chuyên nghiệp hoá một số cán bộ đảm nhiệm những
công việc cần được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.Quy định hợp lý số lượng cán bộ
chính quyền cơ sở có phân biệt theo đặc điểm và dân số của từng loại đơn vị cơ sở;
chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và chính sách đãi ngộ phù hợp với chức trách
của họ.Trưởng thôn (bản, ấp) do nhân dân trong thôn, bản, ấp bầu và chủ tịch nhân dân
xã phê chuẩn.
- Thực hiện hình thức, biện pháp bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở, đồng thời quy định một số trách nhiệm nhất định giao cho nhóm đại biểu
Hội đồng nhân dân xã theo từng thôn (làng, ấp, bản) như tổ chức việc xây dựng, thực
hiện hương ước, giám sát trưởng thôn (bản, ấp).
Đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp

- Kiện toàn và củng cố Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp để đảm
bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền đã được phân cấp; đồng thời, đề cao trách
nhiệm tham gia cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
- Nghiên cứu phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của chính quyền đô thị
với hoạt động của chính quyền ở nông thôn để đa dạng hoá mô hình tổ chức chính
quyền địa phương.

22
- Uỷ ban nhân dân các cấp cần được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt
số uỷ viên là thủ trưởng cơ quan chuyên môn; quy định rõ hơn trách nhiệm, thẩm
quyền của tập thể Uỷ ban nhân dân và chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai
trò là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực của nhà nước ở địa phương,
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp.
2.2.2.5 Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết
định chất lượng của bộ máy nhà nước. Vì thế trong Nghị quyết Trung ương tám (khoá
VII) đã các điểm bổ sung sau đây:
- Nghiên cứu bổ sung cơ chế chọn cử, điều động các chức danh cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp cho phù hợp Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức toàn diện, trước hết về đường lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế -
xã hội; được bố trí, điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước, có thể được luân
chuyển từ trung ương về địa phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa phương
này ra địa phương khác.
- Xúc tiến ban hành thể chế và tổ chức thực hiện việc kê khai về tài sản, trước
hết là về nhà, đất của cán bộ. Quy định chặt chẽ các chế độ, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành về sử dụng ô tô, trang bị nơi làm việc, nhà và đất ở... với tinh
thần tiết kiệm, công bằng, chống lãng phí, chống đặc quyền, đặc lợi.
2.2.2.6 Đẩy mạnh cải cách tư pháp
Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc,
chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của công dân. Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội
phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi
phạm quyền dân chủ của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong
hoạt động.
Nâng cao chất lượng hoạt động của viện kiểm sát theo chức năng quy định
trong Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công bố và kiểm soát hoạt động tư pháp.
Đổi mới hệ thống toà án nhân dân:

23
- Thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà
án nhân dân tối cao và Toà án dân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn
để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng.
- Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn và
nhanh chóng.Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng xét xử, hướng dẫn
các toà án áp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét xử.
- Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán toà án cấp tỉnh và toà
án cấp huyện căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay và điều chỉnh tiêu chuẩn
tuyển chọn cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ thẩm phán cho toà án cấp huyện và toà
án cấp tỉnh.
Kiện toàn các cơ quan điều tra, bổ trợ tư pháp
- Củng cố và tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp. Đổi mới quản lý nhà nước
đối với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp…; phù hợp với chủ
trương xã hội hoá; kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề
nghiệp
- Kiện toàn các tổ chức thi hành án, bảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các
bản án và quyết định của toà án, của tổ chức trọng tài; chấn chỉnh các trại giam để giáo
dục, cải tạo tốt phạm nhân.Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan
quản lý tập trung thống nhất công tác thi hành án
- Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa
trinh sát điều tra ban đầu với hoạt động của cơ quan điều tra nhằm bảo đảm sự thống
nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an
toàn của công dân
- Nghiên cứu việc thành lập cảnh sát tư pháp để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
phiên toà, phục vụ công tác thi hành án, dẫn giải bị can, bị cáo, quản lý các trại giam…
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất, đạo đức, có trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong tư vấn pháp luật, trong tố tụng.Xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có
năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp
theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể.

24
- Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động của cán
bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt cán bộ; xử lý nghiêm những cán bộ tham
nhũng, tiêu cực.
2.2.2.7 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
- Đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân
của nhà nước, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
- Phát huy trách nhiệm, tính chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành
của nhà nước, theo các quan điểm, mục tiêu và phương hướng được xác định tại Nghị
quyết Trung ương 5 khoá X, đồng thời Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của
Đảng nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có hiệu quả và chất
lượng cao hơn
- Phải nắm vững và thực hiện ba nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước trong tình hình mới:
Thứ nhất,lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng, nhất là chủ trương về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, về đổi
mới thể chế kinh tế, về xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
củng cố, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế hợp tác.
Thứ 2, tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân.
Thứ 3, tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp khác, các tổ chức sự nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước,
nhất là về quản lý kinh tế, tài chính, thu chi ngân sách, việc sử dụng, bảo quản vốn và
tài sản của nhà nước, không phân biệt đại diện chủ sở hữu thuộc ngành hoặc địa
phương.

Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ
quan nhà nước

25
- Phát huy vai trò của đảng uỷ, chi bộ trong các cơ quan nhà nước. Sắp xếp lại
đầu mối tổ chức đảng trong các khối cơ quan hành chính, doanh nghiệp theo đúng quy
định của điều lệ Đảng.
- Xây dựng quy chế, làm rõ mối quan hệ lãnh đạo của Bộ Chính trị với các
Ban cán sự, giữa Ban cán sự đảng ở các Bộ với Ban cán sự đảng Chính phủ cho phù
hợp với mối quan hệ về mặt nhà nước
- Đảng đoàn Quốc hội và các đảng đoàn Hội đồng nhân dân phải tiếp tục kiện
toàn về tổ chức, đề cao trách nhiệm trong việc chủ động đề xuất những vấn đề thuộc
lĩnh vực của mình, phản ánh đầy đủ ý kiến của đại biểu với cấp uỷ.Mặt khác cấp uỷ
đảng cần lắng nghe đầy đủ các ý kiến đó để kịp thời xem xét và điều chỉnh kỷ cương
khi thấy có cơ sở xác đáng. Khi cấp uỷ đã có quyết định thì đảng đoàn phải lãnh đạo
quán triệt và thực hiện nghiêm túc quyết định của Đảng. Mọi đảng viên phải nghiêm
chỉnh chấp hành các quyết định đó.
- Các cấp uỷ đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân; kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhằm
thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào việc quản lý nhà nước.

26
C. KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh là
một nhà nước do toàn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước hoàn toàn hợp hiến, hợp
pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác,
chứ không phải bắt nguồn từ lực lượng siêu nhiên chúa trời hay từ lý trí tối cao; là một
nhà nước lấy quyền và lợi của nhân dân, lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm
nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của mình. Nhà nước không có mục mục đích
tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển của xã
hội.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu như chính quyền làm hại đến dân, không
mưu cầu quyền lợi và hạnh phúc cho nhân dân thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc
loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới. Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước có phương thức tổ chức quyền lực
hợp lý, khoa học, đảm bảo quyền lực nhà nước luôn thống nhất thuộc về một chủ thể
duy nhất là nhân dân, có sự phân công, phối hợp trong bộ máy nhà nước, để đảm bảo
chính quyền luôn luôn mạnh mẽ, sáng suốt, hiệu quả, vì lợi ích của nhân dân. Đó là
một nhà nước có Quốc hội thể hiện tính dân chủ, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc;
có bộ máy hành pháp mạnh mẽ, sáng suốt, dám chịu trách nhiệm; có nền tư pháp độc
lập độc lập, mỗi thẩm phán chỉ trọng pháp luật, công lý và lương tâm, trách nhiệm của
mình; có đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là "công bộc" của nhân dân;
đó là nhà nước coi trọng tính "tự quản", tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của chính
quyền địa phương; đó là nhà nước kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong cả
quá trình xây dựng và thực thi pháp luật.
Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là nhà nước vĩnh cửu, bất
biến, trái lại đó là nhà nước luôn vận động và phát triển để phục vụ ngày càng tốt hơn

27
quyền và lợi ích của nhân dân. Luôn đấu tranh để khắc phục và loại trừ những thói hư,
tật xấu, những căn bệnh thường gặp như: tham nhũng, hối lộ, quan liêu, lãng phí, lạm
quyền... dẫn đến sự suy yếu và đánh mất bản chất cách mạng của nhà nước.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, quan điểm và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng tính pháp
quyền, và thực chất chính là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Điều có giá trị to lớn
và ý nghĩa sâu sắc là mô hình nhà nước đó không phải tồn tại ở dạng lý thuyết, quan
điểm, mà nó đã trở thành hiện thực sinh động; nhà nước ấy đã tập hợp, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức to lớn.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân có những
giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Chúng ta cần kế thừa,
vận dụng và phát triển những giá trị đó để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền
Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2021, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận Chính trị.

[2]. Mạch Quang Thắng và cộng sự, 2019, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành
cho Bậc đại học – không chuyên ngành Lý luận Chính trị).

[3]. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2018, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Dùng cho Hệ cao cấp lý luận chính trị).

[4]. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 2018, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.53-89.

[5]. Hồ Chí Minh, 2011, Toàn tập - tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.279-280-
281,284-289.

28
[6]. Hồ Chí Minh, 2011, Toàn tập - tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.1-7, 20-
22.

29

You might also like