You are on page 1of 39

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH




BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI 3
DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP DT07 --- NHÓM 12 --- HK 203
NGÀY NỘP: …/…/2021
Giảng viên hướng dẫn: Thầy Đoàn Văn Re

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Lê Cao Ngọc Anh 1910751
Nguyễn Quốc Bình 1910055
Nguyễn Tất Bình 1910842
Đỗ Thanh Bình 1912719
Võ Minh Chánh 1910057

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................6
CHƯƠNG 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................6
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ..................................................6
1.1.1. Quan niệm về dân chủ...................................................................................6
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ...............................................................8
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa................................................................................10
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.....................................10
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.................................................13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................18
2.1. Các chủ trương xây dựng dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta..............18
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong kinh tế............................18
2.1.2. Quan điểm của Đảng về thực hiện dân chủ trong kinh tế ở nước ta................19
2.2. Thực trạng phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian
qua............................................................................................................................... 22
2.2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay.........................................................22
2.2.2. Những mặt đạt được.......................................................................................27
2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân.................................................................................29
2.3. Giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian tới32
KẾT LUẬN................................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................36

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Lịch sử phát triển dân chủ trong xã hội nhân loại chứng minh, mỗi một quốc gia
có quyền lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết mô phỏng chế độ dân chủ
của quốc gia khác. Chế độ dân chủ của một quốc gia phù hợp với đặc điểm lịch sử,
văn hóa, thể chế chính trị, kinh tế... của từng nước, đồng thời cần không ngừng hoàn
thiện và phát triển. Một nền dân chủ ưu việt và đích thực chỉ khi nó do chính nhân dân
lựa chọn và quyền làm chủ của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được
tôn trọng và bảo vệ.

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, không xây dựng và phát triển nền dân
chủ và nhà nước xã hội chủ nghĩa thì không thể thực hiện quyền lực, quyền dân chủ,
quyền làm chủ và mọi lợi ích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chúng ta biết rằng chủ tịch Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò nhân dân, giác ngộ và
dựa vào dân, tin dân, trọng dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân
dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Tư tưởng nhân dân này chính là tư tưởng dân chủ. Nước ta là nước dân chủ -
câu nói mang ý nghĩa Tuyên ngôn của chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nói lên bản chất
nhà nước ta, phương châm hành động của Chính phủ và cán bộ ta. Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là nhận
thức nhất quán của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông
qua các kỳ đại hội cũng như hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước. Và từ lịch sử tổ chức, lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam ta thấy một trong những vấn đề có tính nguyên tắc mà Đảng luôn đặt lên hàng
đầu và nhất quán thực hiện trong mọi thời kỳ cách mạng là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy
dân chủ trong xã hội luôn được Đảng hết sức coi trọng thể hiện qua luận điểm mang
tính chỉ đạo là "Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh
vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,

2
được pháp luật bảo đảm" 1. Các năm qua, những nội dung này vẫn tiếp tục được triển
khai trong hoạt động thực tiễn, đồng thời luôn được bổ sung, hoàn thiện và điều chỉnh
phù hợp với đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử, tạo điều kiện để toàn dân phát huy
quyền làm chủ, và để việc thực hành dân chủ thật sự phát huy hiệu quả.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là một nội dung cơ bản, quan trọng cấu thành
hệ thống tư tưởng của Người. Nội dung căn bản của tư tưởng đó không những là dân
chủ về chính trị, xã hội, văn hóa,... mà cả về kinh tế - lĩnh vực giữ vai trò nền tảng của
sự phát triển xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế chứa đựng ý
nghĩa lý luận và khoa học, đồng thời có giá trị thực tiễn to lớn. Tư tưởng đó của Người
đã và đang được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp đổi mới đất nước nhằm hướng tới
mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đối với dân chủ trong kinh tế, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý
luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Quán triệt tư tưởng đó của Người, Đảng ta trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, đặc
biệt là trong sự nghiệp đổi mới đã kế thừa, vận dụng và không ngừng phát triển sáng
tạo tư tưởng đó nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế của nước ta ngày một biến chuyển
theo sự phát triển của xã hội. Trong thời đại kinh tế hội nhập, nhờ những nước đi sáng
suốt mà kinh tế nước ta ngày một phát triển hơn. Song, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế,
những lỗ hổng cần phải khắc phục. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, đại dịch Covid
– 19 gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia, hiện vẫn đang diễn biến vô
cùng phức tạp. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam là một quốc
gia có độ mở nền kinh tế lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng, cũng chịu nhiều tác động của
dịch bệnh Covid – 19.

Do đó việc nghiên cứu về thực hiện dân chủ trong kinh tế là hết sức cần thiết và
cấp bách nay lúc này. Trong bài tiểu luận này, ta sẽ phân tích những mặt đặt được và
hạn chế từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp để thực hiện tốt dân chủ trong
phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn sắp tới.
1
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - bổ sung, phát triển năm
2011
3
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:

Thứ nhất, dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, thực trạng và giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt
Nam hiện nay.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đề tài nghiên cứu về dân chủ, dân chủ xã hội trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam
hiện nay.

4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, đánh giá thực trạng việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam
trong thời gian tới.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu sử dụng
các phương pháp sau:

- Phương pháp kết hợp lịch sử - logic


- Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt chính trị - xã hội dựa trên điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thu thập tài liệu
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài mục lục, phẩn mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương:

- Chương 1: Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.

4
- Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.

5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ


1.1.1. Quan niệm về dân chủ

Thuật ngữ dân chủ là cách nói ngắn gọn cho khái niệm chế độ dân chủ hoặc
quyền dân chủ. Trong đó, chế độ dân chủ là chế độ chính trị mà toàn bộ quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do
nhân dân bầu ra.

Khái niệm dân chủ là đặc điểm đặc trưng của các chế độ dân chủ xuyên suốt quá
trình lịch sử. Dân chủ được thể hiện rõ ràng nhất ở chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
với mục tiêu tốt đẹp là để xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều
hơn các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để công bằng xã hội, dân chủ, văn minh,
công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc.

“Để thế giới không còn sự tham lam, hận thù và tàn nhẫn. Để những thành tựu khoa
học có thể làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn. Hỡi những người chiến sĩ, chúng
ta hãy cùng thống nhất như một nền dân chủ.”2

2
https://www.goodreads.com/quotes/tag/democracy, tham khảo ngày 23/06/2021
6
― Charlie Chaplin

Qua quá trình nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, dân
chủ là kết tinh, thành quả của toàn bộ quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị
tiến bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước và là một trong những nguyên
tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.

Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin có các nội dung cơ bản sau
đây:

Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân,
nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của nhân dân, quyền lợi căn
bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã
hội. Bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Chỉ khi mọi quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó mới có thể đảm bảo về căn bản việc nhân dân
được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi. Thái độ với chính quyền, mức
độ quan tâm, chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền là biểu hiện trực tiếp của sự giác
ngộ về dân chủ – dân là chủ và dân làm chủ.

Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là
một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Xét
dân chủ với tư cách là một chế độ nhà nước, thì đó là sự tổng hợp những hình thức và
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước. Dân chủ luôn gắn liền với phương thức phân
phối lợi ích trong xã hội, dân chủ không chỉ là nhu cầu khát vọng cá nhân với tư cách
là cái riêng, mà dân chủ trở thành khát vọng chung, cái chung phù hợp với hình thức tổ
chức quyền lực, văn hóa, chính trị của Nhà nước. Do đó, dân chủ là phạm trù lịch sử,
hình thành, phát triển và mất đi cùng với Nhà nước.

Thứ ba, về phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc.
Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.

Tại Việt Nam, trên cơ sở quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức

7
là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân” 3,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội nghĩa, mở rộng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đem lại công bằng, bình đẳng cho mọi
người, từ đó làm nền tảng để phát triển đất nước tốt đẹp.

1.1.2. Sự ra đời và phát triển của dân chủ

Dân chủ có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại. 4 Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại
Athena, Hy Lạp trong thế kỷ thứ V TCN với cụm từ “demoskratos”, được ghép từ chữ
demos, "nhân dân" và kratos, "quyền lực" vào khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thứ IV
trước Công nguyên để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy Lạp. Nổi
bật nhất là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN. 5 Cụ thể, hình
thức nhà nước này được Quốc vương Theseus - vị vua khai quốc của thành bang
Athena - áp dụng lần đầu tiên trong thời kỳ thượng cổ, chính phủ đó được xem là hệ
thống dân chủ đầu tiên.

Chế độ dân chủ đã được thành lập từ rất sớm từ thời chiếm hữu nô lệ ở nhà nước
Cộng hòa Aphia, đánh giá sự phát triển tiến bộ trong lịch sử xã hội loài người. Khi xã
hội chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô đã lập ra Nhà nước, và lấy tên là Nhà nước
dân chủ, tức là Nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp
nô lệ. Và khi đó thì Nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng từ “dân chủ”. Có nghĩa
là Nhà nước dân chủ chủ nô có “quyền lực của nhân dân”. Nhưng dân ở đây theo quy
địng của giai cấp chủ nô gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số tri thức và
người tự do, còn đại đa số nhân dân trở thành nô lệ thì không được gọi là dân. Thực
chất, đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra Nhà nước và Luật pháp của
Nhà nước để chiếm quyền lực thực sự của nhân dân lao động.

Chế độ dân chủ chủ nô tiếp tục tồn tại cho đến khi chế độ độc tài phong kiến
chuyên chế xuất hiện. Do ý thức về dân chủ và tự do của người dân thời kỷ này còn
kém, họ đã bị thống trị và cho rằng đó là bổn phận cùa mình theo ý nguyện của các thế
lực siêu nhiên, đấng tối cao.

3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. CTQG, H.1996, tập 6, tr.515.
4
John Dunn, Democracy: the unfinished journey 508 TCN - 1993 CN, Nxb. Oxford University Press,
1994
5
Kurt A. Raaflaub, Origin of Democracy in Ancient Greece, Nxb. University of California Press, 2007
8
Dưới chế độ phong kiến, nhà nước chuyên chế thi hành chính sách bóc lột bằng
thế quyền và thần quyền. Tuy người nông dân có khá hơn người nô lệ ở chỗ họ trở
thành thực thể tự do, không còn bị coi là vật sở hữu của riêng giai cấp địa chủ nữa,
nhưng vẫn là người có nghĩa vụ phục vụ vô điều kiện cho giai cấp địa chủ và nhà nước
phong kiến. Bởi vì họ không có tư liệu sản xuất trong tay và bị lệ thuộc về kinh tế,
chính trị, tư tưởng, xã hội vào nhà nước phong kiến. Đối với các nhà nước phong kiến
thì bộ máy nhà nước là công cụ phục vụ và bảo vệ quyền lợi của vua chú phong kiến
và địa chủ, đồng thời, là công cụ trấn áp giai cấp nông dân và những người lao động
khác trong xã hội.

Cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước châu Âu, chế độ
dân chủ tư sản ra đời – một bước tiến lớn của loài người mà từ đây góp phần xóa bỏ
chế độ phong kiến, tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển toàn diện của chủ nghĩa tư
bản. Đó cũng là thành quả chung của sự phát triển của loài người trên tất cả các lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa và sau nhiều thế kỷ tồn tại và phát triển, nền dân chủ tư sản đã
đạt tới một trình độ mới với những thành quả to lớn đó là xây dựng một xã hội công
dân và một thể chế xã hội thúc đẩy cho sản xuất hàng hóa – thị trường tư bản chủ
nghĩa phát triển. Tuy có vai trò lớn như vậy nhưng dân chủ tư sản vẫn là hình thức
thống trị chính trị của giai cấp tư sản, là chế độ dân chủ hình thức, bị cắt xén, chế độ
dân chủ dành cho thiểu số. Còn đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị hạn chế
trong thực thi các quyền dân chủ đã được tuyên bố trong các hiến pháp tư sản. Mặc dù
quyền lực “thuộc về nhân dân lao động” được tuyên bố mạnh mẽ và ghi nhận một cách
phổ biến trong Hiến pháp của các nước cộng hòa dân chủ tư sản nhưng trên thực tế nó
chỉ mang tính hình thức và được thực thi hạn chế, quyền lực chính trị thực sự thuộc về
giai cấp tư sản, mà đằng sau là các tập đoàn tư bản lớn.

Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mở ra. Sự ảnh hưởng của cách mạng
Tháng Mười Nga đã giúp nhân dân lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền làm
chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập nhà nước công – nông, thiết lập nền dân chủ vô
sản để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Bắt đầu hình thành nên nền dân chủ
thực sự.

9
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Ý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý
tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất
công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những giá
trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát
triển với tất cả mọi năng lực của mình. Những cuộc đấu tranh không ngừng của nhân
dân lao động trong lịch sử đã chứng minh cho điều đó.

Tuy nhiên, mãi đến cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, tư tưởng về chủ nghĩa xã
hội (mới là chủ nghĩa xã hội không tưởng) mới được hình thành rõ nét. Thomas More
(1478 - 1535), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong
tác phẩm nổi tiếng "Utôpia" (Xứ không tưởng) đã phê phán chế độ chính trị - xã hội
đương thời ở Anh, đồng thời phác họa một mô hình xã hội, ở đó chế độ nhà nước được
xây dựng dựa trên sự bình đẳng và tự do của mọi người, tất cả những nhà chức trách
đều do nhân dân bầu ra, phải báo cáo trước nhân dân và phải hoạt động vì lợi ích của
nhân dân. Trong xã hội như vậy, chế độ công hữu thống trị và lao động mang tính bắt
buộc. Sau Thomas More, Tomado Campanela (1568 - 1639), tác giả của tác phẩm
"Thành phố mặt trời" và "Luận về thể chế nhà nước tốt nhất", đã tiếp tục phát triển tư
tưởng của Th.More và đi đến kết luận rằng, chế độ chính trị - xã hội lý tưởng mang lại
quyền lợi cho những người lao động đó là chế độ dựa trên sở hữu xã hội. Những
nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của xã hội lý tưởng sẽ kéo theo cả sự thay đổi tính chất
của chế độ chính trị. T.Campanela cũng đã có tư tưởng về giáo dục trong xã hội lý
tưởng đó là, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất và đề cao vai trò của sự phát triển
khoa học.

Mặc dù thấm đượm tư tưởng tiến bộ, chủ nghĩa xã hội của Th.More và
T.Campannela còn nhiều điểm không tưởng. Cả hai ông cùng chưa hình dung được
một cách cụ thể và có căn cứ khoa học về việc tạo lập một xã hội mới tốt đẹp hơn,
chưa nhận thức được một cách đúng đắn vai trò của những tiền đề chính trị, kinh tế và
tư tưởng để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai ông còn lẫn lộn giữa pháp luật với đạo
đức, chưa đoạn tuyệt được hoàn toàn với hệ tư tưởng tôn giáo....

10
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn
đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách
quan của xã hội, đã đưa ra một lý thuyết khoa học về xã hội chủ nghĩa với lý tưởng dân
chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội đó.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước xã hội chủ nghĩa là
kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời, tồn tại và phát triển
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật vận
động và phát triển của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa là những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản
chủ nghĩa.

Thực tế lịch sử đã chứng minh, từ sau năm 1917 khi Cách mạng Tháng Mười
Nga thành công, nhà nước Xô Viết ra đời thì nền dân chủ xã hội mới chính thức được
thành lập. Sự xuất hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu bước đột phá
của nền dân chủ thế giới. Nó trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển
của xã hội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng trong nhiều
nước, trong đó có những nước dân tộc thuộc địa và các nước chế độ tư bản chủ nghĩa
chưa phát triển, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra trong nhiều nước và
giành được thắng lợi. Nhiều nước đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Nhưng cách mạng vô sản sẽ diễn ra với kết quả như thế nào còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân khách
quan dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa, còn cần phải nghiên cứu những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản, về việc tổ chức và
thực hiện chính quyền của giai cấp vô sản sau khi cách mạng thành công. Theo chủ
nghĩa Mác – Lênin: “Giai cấp vô sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu
tranh cho dân chủ. Và vì thế chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thắng lợi, nếu
không thực hiện đầy đủ tính dân chủ”6.

6
Lênin, Toàn tập, Nxb. CTQG – Sự thật (2005), Tập. 33, Tr. 34-35.
11
Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện; có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các nền dân chủ
trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những
người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Càng hoàn thiện bao nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại càng tự tiêu vong bấy
nhiêu. Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ
sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ
thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày
càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự quản).
Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã
hội... để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ, tức là mất
đi tính chính trị của nó.

Do đó, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so
với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Cũng cần lưu ý rằng, cho đến hiện tại, sự ra đời của nên dân xã hội chủ nghĩa mới
chỉ trong một thời gian ngắn, ở một số nưrớc có xuất phát điểm về kinh tế, xã hội rất
thấp, lại thường xuyên bị kẻ thù tấn công, gây chiến, do vậy, mức độ dân chủ được ở
những nước này hiện còn hạn chế ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược
lại, sự ra đời, phát triển của nền dân chủ tư sản có thời gian cả mấy trăm năm, lại ở hầu
hết các nước phát triển (do điều kiện khách quan chủ quan). Hơn nữa, trong thời gian
qua, để tồn tại và thích nghi, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều lần điều chỉnh về xã hội,
trong đó quyền con người đã được quan tâm ở một mức độ nhất định (tuy nhiên, bản
chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi). Nền dân chủ tư sản có nhiều tiến bộ, song
nó vẫn bị hạn chế bởi bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ tệ nạn người bóc lột
người và tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để công bằng xã hội, công
lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam với nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho
12
mọi công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc. Vì vậy, để xây dựng và ngày một hoàn
thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, xã
hội công dân, việc tạo dựng cơ chế pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm
chủ nhà nước và quyền tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện vật chất
để thực thi dân chủ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền dân chủ của xã hội loài người tiến bộ trong
tương lai.

1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Bản chất của dân chủ là một chế độ xã hội mà ở đó, dân chủ được hiểu là toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Từ đó trở thành mục tiêu của sự phát triển xã hội,
được thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Được thiết lập sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền về tay của
mình và nhân dân lao động thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Bản chất của dân chủ là mang bản chất giai cấp công nhân. Có sự thống nhất
giữa tính giai cấp công nhân với tính dân tộc, tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp
công nhân phù hợp với lợi ích của giai cấp dân tộc, cũng như của đại đa số nhân dân
lao động.

Do Đảng Cộng sản lãnh đạo – yếu tố quan trọng bảo đảm quyền lực thực sự
thuộc về nhân dân. Bởi vì đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của nhân dân
lao động, giai cấp công nhân và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa
mang tính nhất nguyên về mặt chính trị.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện toàn diện trên các lĩnh vực đời sống xã
hội để thể hiện bản chất của dân chủ:

Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng giai cấp công nhân
(đảng Mác – Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân
dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thoả mãn ngày càng
cao hơn các nhu cầu và lợi ích của nhân dân.

13
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với
toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp
công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân,
trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh
đạo – yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì, đảng
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính
trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng Cộng sản đối với toàn xã hội
về mọi mặt V.I.Lênin gọi là sự thống trị chính trị.

V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ mà nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa
vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là những người làm chủ
những quan hệ chính tị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu các đại biểu tham gia vào
bộ máy chính quyền từ trung ướng đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến và xây
dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, nhân viên nhà nước. Quyền
được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nội dung
dân chủ trên lĩnh vực chính trị. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: dân chủ xã hội chủ
nghĩa là là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những người lao động bị bóc lột,
là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc Nhà nước. Với ý nghĩa
đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã
hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”7

Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Người khẳng định: “Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính
7
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova. 1980, tập 35, tr.39
14
quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 8. Nhà nước ta
là nhà nước của dân; coi nhân dân là chủ thể quyền lực; nhà nước là công cụ của nhân
dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung
chứ nhà nước không phải là nơi để “thăng quan, phát tài”, chia nhau quyền lực, lợi ích
và bổng lộc.

Sau khi nước nhà giành độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách
mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người yêu cầu tổ chức càng sớm càng tốt cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhà nước do dân tức là dân phải tham
gia vào công việc của nhà nước. Quốc hội nước ta tuy ở vị trí cao nhất song không
phải là cơ quan tập trung tất cả quyền lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan
đến vận mệnh của quốc gia, thì sẽ được đưa ra toàn dân. Nhà nước vì dân, tức nhà
nước ta ngoài lợi ích phục vụ dân chúng không có lợi ích nào khác, đó là bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước ta.

Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công
nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp (giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa nguyên; một đảng hay
nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước
pháp quyền tư sản).

Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của
lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày
càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.

Bản chất kinh tế đó chỉ được bộ lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị,
phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng
Mác – Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước hết
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ

8
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr698.
15
trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của
người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.

Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù khác về bản chất kinh tế
của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công, nhưng cũng như toàn bộ nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa, nó không hình thành từ “hư vô” theo mong muốn của bất kỳ ai. Kinh
tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra
trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm hãm... của các chế
độ kinh tế trước đó, nhất là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột, bất công... đối với đa số
nhân dân.

Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thực hiện chế độ phân phối lợi
ích theo kết quả lao động là chủ yếu.

Bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi
hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ thuật, đạo đức, lối
sống, văn hoá, giáo dục, xã hội, tôn giáo v.v.) để thể hiện bản chất của dân chủ. Đồng
thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu những
giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả
các quốc gia, dân tộc.... Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát
triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng
tạo văn hóa, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa các
nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra sức động
viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới.

Do đó đời sống tư tưởng văn hóa của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa rất phong
phú, đa dạng, toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành
mục tiêu và động lực cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

16
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết và chủ yếu được
thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự giác của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, dân chủ xã hội chủ
nghĩa chỉ có được với điều kiện tiên quyết là đảm bảo vai trò lãnh đạo duy nhất của
đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng mang lại cho phong trào quần
chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; thông
qua công tác tuyên truyền, giáo dực của mình, Đảng nâng cao trình độ giác ngộ chính
trị, trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân để họ có khả năng thực hiện hữu hiệu những
yêu cầu dân chủ phản ánh đứng quy luật phát triển xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, nhân dân mới đấu tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng
dân chủ vì những động cơ đi ngược lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì những động cơ
đi ngược lại lợi ích của nhân dân.

Với những ý nghĩa như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhất nguyên về chính trị
bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ nhau mà ngược
lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn
tại và phát triển.

17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Các chủ trương xây dựng dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong kinh tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc kiến thiết nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta “có bốn vấn đề chú ý đến;
cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” 9. Để dân là chủ,
dân làm chủ trên thực tế cần phải có những cơ sở, điều kiện, môi trường và không gian
dân chủ tương ứng. Nói riêng về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở
nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải: 

Một là, tôn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều loại
hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong chế độ dân chủ mới có năm loại kinh tế
khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ
công nghệ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước 10. Có những hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất cơ bản như: sở hữu nhà nước (toàn dân); sở hữu của hợp tác xã (tập thể nhân dân
lao động); sở hữu của những người lao động riêng lẻ; sở hữu của nhà tư bản 11. Trong
đó, “kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và nhà nước phải đảm bảo cho
nó phát triển ưu tiên để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa”12. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Chế độ kinh tế xã hội của
chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội
chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột tư bản chủ nghĩa được xoá bỏ dần, đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện. Do đó, nhân dân ta
có điều kiện thực sự tham gia quản lý nhà nước” 13. Và như thế, nhân dân ta, “từ làm
chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân
phối sản phẩm lao động”14.

9
Hồ Chí Minh, Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, H.1981, Tr. 517.
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 279.
11
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 588.
12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 590.
13
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 592.
14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 568.
18
Hai là, chú trọng tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế để thoát đói nghèo và vươn
lên giàu có. Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nòng cốt là kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác.
Không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ xã hội
chủ nghĩa là làm cho nhân dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc
làm, được ấm no và sống cuộc đời hạnh phúc. Người nhấn mạnh, cùng với thực hành
tiết kiệm, tăng gia sản xuất, là hai việc cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ
nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội 15. Phải giải phóng sức sản xuất, phát triển sản
xuất, trong đó chú ý tăng cường các hình thức hợp tác phù hợp để mang lại no đủ, giàu
có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ, hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động.

Ba là, về mặt tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý sản xuất phải có kế hoạch thống
nhất, dân chủ và hợp lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “kế hoạch sản xuất và tiết kiệm
là kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, nghĩa là Chính phủ
trung ương có kế hoạch cho toàn quốc, địa phương căn cứ vào kế hoạch toàn quốc mà
đặt kế hoạch thích hợp với địa phương, cho đến mỗi ngành, mỗi gia đình, mỗi người
có kế hoạch riêng của mình, ăn khớp với kế hoạch chung” 16. Cán bộ phải biết lao động
và phải tham gia lao động; người lao động phải biết quản lý và tham gia quản lý.

Bốn là, thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý “làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, những người già yếu, tàn tật sẽ được
nhà nước giúp đỡ chăm nom”17. Các quan hệ lợi ích phải được giải quyết hài hòa, cá
nhân và tập thể, nhà nước và nhân dân… phải đều có lợi.
2.1.2. Quan điểm của Đảng về thực hiện dân chủ trong kinh tế ở nước ta
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), khi phân tích về tình trạng buông
lỏng trong quản lý kinh tế xã hội, tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, dân chủ biến thành
vô chủ, dân chủ hình thức... đã cho rằng, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ. Để khắc phục
khuyết điểm, xoay chuyển tình hình, Đảng phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy,
trong đó có đổi mới tư duy, nhận thức về vấn đề xây dựng các điều kiện để thực hiện

15
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 349.
16
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Sđd, Tr. 434.
17
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2000, Tr. 75.
19
dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là trên lĩnh vực kinh
tế. Muốn vậy, “phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh…”18, trong đó có tư tưởng, lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng dân chủ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đại hội VI đặt vấn đề giải phóng sức sản xuất; bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng, hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; khẳng định cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; xóa bỏ
những thành kiến thiên lệch trong đánh giá, đối xử với người lao động thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Đảng đưa ra chủ trương: đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên
cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang
nền kinh tế sản xuất hàng hóa; kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa... Theo đó, “cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán
đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính nguyên tắc phải trở thành pháp
luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn kinh doanh” 19. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI
(3/1989) khẳng định: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân
chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp”20.

Sau 5 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định sản xuất hàng
hóa là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, nó không những không đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà còn tất yếu cần thiết với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội khẳng định: “chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”21.

Với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X (01/2008) Về tiếp tục hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức lý luận của Đảng về
18
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 341.
19
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Sđd, Tr. 545.
20
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb. CTQG, H.2010, Tr. 595.
21
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb. CTQG, H.2010, Tr. 19.
20
cơ sở, điều kiện kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa có những bước tiến mới, mạnh
mẽ và sâu sắc hơn. Đảng ta nhấn mạnh: tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy
đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích
đất nước làm mục tiêu cao nhất; nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà
nước bằng sự đồng bộ của hệ thống pháp luật...

Tổng kết 25 năm đổi mới, văn kiện Đại hội XI tiếp tục bổ sung, điều chỉnh nhận
thức về cơ sở, điều kiện kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó,
đáng chú ý là: đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, phát triển kinh tế nhanh, bền vững; phát triển công nghiệp và xây
dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao
khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân,
nông thôn; phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương
mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; tập trung xây dựng, tạo bước đột
phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; phát
triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng, đô thị và nông thôn…

Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành một hệ thống quan điểm lý
luận mới về xây dựng điều kiện kinh tế để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
lĩnh vực kinh tế của đất nước. Đó là, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại thông
qua đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; thiết lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp bằng
cách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở, điều kiện,
nền tảng kinh tế, là cơ chế, phương thức cơ bản và là con đường tất yếu để thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đây chính là sự trở về, tiếp tục, vận dụng và phát triển lý luận dân chủ của chủ
nghĩa Mác – Lênin

21
(nhất là Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin) và tư tưởng dân chủ của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong điều kiện mới ở Việt Nam. Đây được xem là sáng tạo lý luận quan
trọng có ý nghĩa thực tiễn to lớn, sâu sắc của Đảng ta trong tiến trình đổi mới.

2.2. Thực trạng phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian
qua
Trong bài viết mới nhất của mình về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dực chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một
nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không
ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông
dân và tri thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền
làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có
cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội” 22. Từ đó chúng ta có thể thấy
được Đảng và nhân dân ta luôn cố gắng thực hiện dân chủ trong mọi vấn đề trong suốt
35 năm đổi mới. Công cuộc thực hiện dân chủ đó đã diễn ra trên toàn bộ hệ thống
không chỉ dân chủ trong chính trị, văn hóa, xã hội… mà còn đạt được nhiều thành tựu
to lớn cả trong kinh tế - lĩnh vực giữ vai trò nền tảng trong sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đó vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế tồn đọng trong lĩnh
vực kinh tế mà Đảng và Nhân dân ta cần phải đồng sức đồng lòng để tìm hướng giải
quyết trong thời gian tới để hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thành
công. Qua những gì tìm hiểu được, nhóm đã rút ra được những góc nhìn về thực trạng
thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế của nước ta trong thời gian qua.

2.2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay


Từ khi dành được độc lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức được dân
chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là nhận thức nhất quán của Đảng ta về
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán đấy được thể hiện rõ ràng và cụ thể ở
22
GS.TS Nguyễn Phú Trọng. (16/05/2021). Một số vấn đề lý luận thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ: https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-
cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html
22
các văn kiện, nghị quyết Đại hội Đảng và những hoạt động chỉ đạo trong công cuộc
xây dựng phát triển đất nước. Đại hội IV năm 1976 của Đảng đã khẳng định: “Để đưa
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” 23. Đại hội cũng đã chỉ rõ:
“Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội trong đó
người làm chủ là nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông,
do giai cấp công nhân lãnh đạo. Để xây dựng quyền làm chủ tập thể về kinh tế, Đảng
yêu cầu phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải tạo chế độ sở hữu cá thể,
xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: Sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể bằng những phương pháp và bước đi thích hợp”24.

Kỳ Đại hội tiếp theo năm 1982 cũng đã khẳng định một lần nữa: “Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa…”25. Đại hội V còn nhấn mạnh: “Đường lối chung và đường lối kinh tế
là một thể thống nhất hoàn chỉnh, trong đó có mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý là: Nắm
vững chuyên chính vô sản, xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa”26.

Tuy nhiên những chính sách đấy đã không thực sự đưa được vào thực tiễn đời
sống của nhân dân, trong khi nền kinh tế chưa đủ điều kiện cơ sở vật chất để tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì Nhà nước lại thực thi chế độ quan liêu bao cấp. Nhà nước loại bỏ
dần thành phần kinh tế tư nhân thay vào đó là nền kinh tế do Nhà nước chỉ huy. Việc
23
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1977, tr.18.
24
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1977, tr.22.
25
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1982, tr.47.
26
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1982, tr.49.
23
giao thương mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hóa từ địa phương
này đến địa phương khác bị hạn chế đến tối đa. Nhà nước có độc quyền phân phối
hàng hóa theo chế độ tem phiếu và hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Hậu quả là nước ta
đã lâm vào giai đoạn nghèo khổ cùng cực, nhân dân thiếu đói nặng nề, sức lao động
không được giải phóng. Và kinh tế là lĩnh vực đã bị thiệt hại nặng nề nhất. Để tổng kết
lại thực trạng của xã hội Việt Nam thời đó, Giáo sư Trần Văn Thọ có viết như
sau: "Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt
Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở
nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải
ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ
năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục
lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng
hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó
khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân
chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển,
trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa
trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực
khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong
việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng
phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó,
tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng
35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng
chỉ độ 1% (mỗi năm)"27.

Từ thực tiễn đói khổ, cùng cực trong đời sống của nhân dân trong suốt 10 năm
ròng rã. Đảng ta đã có những nhận định phù hợp với tình hình thực tế để điều chỉnh
chính xác và kịp thời để đưa đất nước ra khỏi tình cảnh lâm nguy. Bước ngoặc đã đến
vào năm 1986. Trên cơ sở là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực trạng của Việt
Nam thời bấy giờ, đại hội VI đặt vấn đề giải phóng sức sản xuất; bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư; xây dựng, hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới
27
Việt Nam 40 năm qua và những năm tới: Cần một nền kinh tế thị trường định hướng phát triển  ,
Trần Văn Thọ, tapchithoidai, số 33, tháng 7 năm 2015. Truy cập từ:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thời_bao_cấp
24
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; khẳng định cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xóa bỏ
những thành kiến lệch lạc trong đánh giá, đối xử với người lao động thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau. Những cải cách đó gọi chung là “Đổi mới” và được tiếp tục bổ
sung những cải cách mới vào các kỳ Đại hội tiếp theo để đưa ra định hướng phát triển
toàn diện cho đất nước về nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, những cải cách về
kinh tế là trọng tâm và chiếm vai trò quan trọng nhất. Nhà nước ta đã chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đảng đã bắt đầu chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều
thành phần kinh tế trong xã hội, sau này đại hội IX đã quy định có 6 thành phần kinh
tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; và có nhiều hình thức sở
hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Tuy vậy để
đảm bảo phát triển đúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì kinh tế nhà nước vẫn
phải đóng vai trò chủ đạo. Nhờ những chính sách đó mà tin thần dân chủ trong kinh tế
của nhân dân được thể hiện rõ nét hơn: “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và
thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo
luật pháp”28

Sau 5 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, với những chuyển biến bước đầu và
cho thấy sự hiệu quả đúng đắn của nước đi này, Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 đã
khẳng định lại sản xuất hàng hóa là thành tựu của văn minh nhân loại, không những nó
không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà còn là yếu tố cần thiết tất yếu trong công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Từ đó Đại hội đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng hoàn thiện cơ bản cở
sở của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị tư tưởng, văn hóa phù
hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Nhưng Cương
lĩnh cũng không quên nhấn mạnh: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá
trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông
28
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb CTQG, H.2010, tr.595.
25
qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển
nhanh ở chặng sau”29. Đến Đại hội XI năm 2011 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được bổ sung, phát triển thêm để phù hợp hơn
với tình hình thực tiễn cũng như đảm bảo được kịp với xu thế thay đổi của thế giới.
Nhiệm vụ cốt lõi của Cương lĩnh vẫn là soi đường, định hướng cho Đản, Nhà nước, cả
hệ thống chính trị và nhân dân ta cùng nhau tiến đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong những thập kỷ tiếp theo. Với hi
vọng nếu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước ta sẽ nhất định trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc. Dưới ngọn cờ của Cương lĩnh “chúng ta chủ
trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”30. Với những quyết sách đó nền kinh tế nước ta đã chuyển biến rõ rệt
về nhiều mặt, nhưng dễ nhận thấy nhất là về mặt kinh tế đã có những chuyển biến hết
sức tích cực: “Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những
nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng
nông sản, như: cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy
trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong
bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 khiến hoạt động thương mại và
đầu tư thế giới suy giảm, các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế
quan, bảo hộ trong nước gia tăng, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1
tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất
nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và
năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. Đây chính là bước
tạo đà, tạo lực bứt phá cho hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn tới” 31. Hơn hết
nhân dân đã được ấm no sung túc và tinh thần dân chủ trong kinh tế được thể hiện rõ
nét hơn.

29
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Truy cập từ:
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-
cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-
chu-nghia-xa-hoi-thong-qua-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vii-cua-dang-543514.html
30
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2010, tr.19
31
Theo Thông tấn xã Việt Nam. (22/01/2021). Truy cập từ: http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/nhung-
thanh-tuu-noi-bat-cua-dat-nuoc-sau-35-nam-doi-moi.html
26
2.2.2. Những mặt đạt được
Tính đến nay sau 35 năm Đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng nền
dân chủ xã hội trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu hết sức nổi
bật:

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ, tạo
ra môi trường thuận lợi để đảm bảo phát triển vừa đúng theo cơ chế thị trường vừa
được điều tiết bởi Nhà nước. Thể chế đó đảm bảo tính xã hội chủ nghĩa, tạo ra động
lực mạnh mẽ để kinh tế phát triển nhưng cũng không làm chệch đi định hướng ban
đầu. Ngoài ra, nó còn tạo ra nhiều sự thuận lợi trong hành lang pháp lý để chúng ta
phát triển kinh tế tư nhân và cả kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vốn là những thành
phần kinh tế đem lại nhiều lợi ích vô cùng to lớn cho nền kinh tế và đời sống của nhân
dân nhưng vì định kiến sai lầm mà trước đây chúng ta kiên quyết xóa bỏ. Từ đó, tính
dân chủ trong kinh tế đã thực sự thuộc về người dân và thực tế cũng cho thấy đây là
một thể chế đúng đắn mà Đảng và nhân dân ta đã chọn lựa.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã chính thức thừa nhận và
tôn trọng sự tồn tại đồng thời của nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu,
nhiều hình thức phân phối. Chính sự thừa nhận này đã đưa nước ta tiến lên một vị trí
khác hoàn toàn so với trước đây trong con mắt của bạn bè quốc tế. Thay vì thực hiện
chính sách giống như “bế quan tỏa cảng” thì với việc đất nước ta thực hiện nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần tạo nên một nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế. Sự hội nhập đó giúp chúng ta khoác lên màu áo tươi sáng
hơn hẳn so với một màu xám xịt trước khi Đổi mới. Từ một nước bị bao vây cấm vận
bởi Hoa Kỳ giờ đây nước ta đã phát triển hơn chính nhờ những khoản đầu tư ODA của
các chính phủ Nhật Bản, Hoa Kỳ,… Không chỉ thế, tiến trình Đổi mới đã làm cho
quyền tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tập thể lao động, các đơn
vị kinh tế, các doanh nghiệp được thực hiện ngày càng tốt hơn. Phát huy được quyền
làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong hội nhập kinh
tế. Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ
hội học tập, lập nghiệp. Thay vì trước đây sức lao động trì trệ không được giải phóng
và sử dụng hiệu quả thì giờ đây chúng ta có thể thỏa mái sáng tạo và phát huy hết khả
năng mà mình có. Nhân dân đã có quyền lựa chọn mình sẽ trở thành ai để đóng góp
27
sức mình cho việc xây dựng nền kinh tế của nước nhà. Giờ đây, chúng ta có thể chọn
giải pháp an toàn như làm công nhân cho công ty, xí nghiệp hoặc kinh doanh tại nhà
hoặc nếu đủ trình độ và tiềm lực thì chúng ta tiến hành khởi nghiệp. Và chính sách
Quốc gia Khởi nghiệp là một trong những chính sách đã làm cho thế hệ trẻ ở Việt Nam
hôm nay trở nên năng động hơn và tạo nên sự thúc đẩy nền kinh tế giàu tính cạnh
tranh và trở nên vô cùng hấp dẫn trong con mắt của các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế.
Cũng từ đó đời sống của người dân bây giờ không chỉ không còn nghèo đói mà thu
nhập cũng được cải thiện lên rất nhiều so với trước đây.

Quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế đã nhanh chóng đưa nền kinh tế của đất
nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng và đến nay đã ra khỏi trình trạng kém
phát triển, vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình; đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt; sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước phát triển. Với việc đã làm chủ được sức lao động của mình người dân cũng đã
làm chủ được kinh tế cho bản thân và hơn nữa cũng đã có đóng góp tích cực cho nên
kinh tế của nước nhà cùng với đó là nâng cao hơn hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội.
Và với sự điều tiết của Nhà nước thì khoảng cách chênh lệch giàu nghèo của nước ta
vẫn chưa phải ở mức quá lớn.

Như vậỵ với chính sách Đổi mới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, 35 năm qua chúng ta đã thực sự giải phóng sức sản xuất của con người;
phát huy được tính năng động, tích cực của mọi thành phần kinh tế; mọi người được tự
do, tự chủ sản xuất, kinh doanh. Người dân được tự do, dân chủ, bình đẳng hơn trong
việc sử dụng sức lao động của mình làm giàu cho bản thân, gia đình và góp phần làm
giàu cho đất nước, xã hội. Trên trường Quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã xây dựng nên một hình ảnh nước Việt Nam thân thiện và
có giàu sức hút đối với bạn bè quốc tế; là “sân chơi” dân chủ, bình đẳng cạnh tranh
lành mạnh cho mọi người, mọi nhà, mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phù hợp với
điều kiện đất nước và xu hướng vận động toàn cầu hóa phát triển tiến bộ của thế giới.

2.2.3. Hạn chế và nguyên nhân

Qua 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc xây dựng điều kiện kinh tế
để thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta về cơ

28
bản đã đạt được những thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, khách quan đánh giá, thẳng thắn
nhìn nhận, vấn đề này vẫn còn không ít hạn chế và nảy sinh những vấn đề phức tạp
cần giải quyết.

Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gây ra một số khó
khăn nhất định.

- Thể chế kinh tế thị trường gồm cả hệ thống pháp luật và các chính sách của Nhà
nước còn thiếu đồng bộ, nhất quán, có những điểm chưa phù hợp, nên cản trở hoặc ảnh
hưởng xấu đến sự vận hành của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
triển khai, thực thi đường lối, chính sách kinh tế có biểu hiện thiếu dân chủ, bất bình
đẳng trong đối xử với các chủ thể kinh tế, các thành phần kinh tế về thuế, vay vốn, lãi
suất cho vay, về thủ tục xuất nhập khẩu. Điều này ít nhiều tạo nên môi trường cạnh
tranh thiếu lành mạnh, động lực đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế bị tổn thương. Vì
vậy mà nhiều nguồn lực, tiềm năng về vật chất và tinh thần để phát triển kinh tế còn
dồi dào trong các tầng lớp nhân dân chưa được khai thác, phát huy một cách hiệu quả.
- Từ ngày nền kinh tế chuyển đổi sang hướng thị trường đến nay, người giàu tăng
nhanh dẫn đến giàu nghèo trong xã hội phân hóa. Bởi sự phát triển của kinh tế thị
trường không hoàn toàn phù hợp với tiền năng, cũng như năng lực của mỗi người, khả
năng của mỗi người cũng khác nhau, có người nắm bắt được cơ hội và xu thế trở nên
giàu có, cũng có người không bắt kịp thời đại mà dần thụt lùi rồi trở nên nghèo khổ.
Dần lâu họ lại càng có ít có cơ hội tiếp cận và hạn chế đảm bảo những điều kiện sống
cơ bản, tối thiểu. Từ đó bất công xã hội cũng từ từ tăng cao bởi nền kinh tế càng phát
triển các dịch vụ hay chi phí xã hội cũng chủ yếu đáp ứng các nhu cầu đời sống của
người giàu. TS. Phùng Đức Tùng – viện trưởng viện nghiên cứu phát triển Mekong đã
nhận định rằng:“ Tăng trưởng GDP mang lại lợi ích cho người giàu còn người nghèo
được hưởng lợi rất ít và ngày càng ít đi.
- Vì kinh tế thị trường là nền kinh tế hướng đến lợi nhuận là chủ yếu mà không
chú trọng quan tâm đến các vấn đề xã hội, điều này làm gia tăng nhanh những hành vi
vượt ngoài tầm kiểm soát của pháp luật, các tệ nạn diễn ra tràn lan và ngày một phổ
biến, tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lí, hành vi của một bộ phận nhân
dân, nhất là thanh thiếu niên. Môi trường đạo đức và văn hóa lành mạnh bị đe dọa

29
nghiêm trọng, có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn
các giá trị sống và làm mất niềm tin của một bộ phận công chúng.
- Từ thực tiễn của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam còn được thể hiện
qua tình trạng bóc lột sức lao động, bấp chấp lợi ích cửa người lao động. Mục đích
hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa vì đây là nền kinh tế hướng đến lợi
nhuận, vì lợi nhuận nên làm tất cả. Một quan điểm khó có thể chấp nhận là: Sức lao
động trở thành hàng hóa hay nói cách khác vì để thu lại được lợi nhuận cao hơn các
đối tượng lao động phải làm quá nhiều việc mà vượt quá số tiền mà họ nhận được. Bên
cạnh đó họ còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội
không được đảm bảo. Lượng chất thải (nước thải, khí thải) xả vào môi trường làm ô
nhiễm môi trường nước (đối với nước thải) và ô nhiễm không khí (đối với khí thải)
làm cho Trái Đất nóng dần lên, thủng tầng ozone gây hại đến sức khỏe con người và
các loài động thực vật trên Trái Đất.
- Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc giữ gìn và phát huy
các giá trị đạo đức truyền thống và xây dựng hệ thống giáo dục mới đã và đang đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết. Nền kinh tế hướng đến lợi nhuận càng phát triển con
người càng xem nhẹ các giá trị tinh thần, nền văn hóa của dân tộc. Khi nền kinh tế
muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc văn hóa của mỗi quốc gia
cũng sẽ có những đổi mới phù hợp với văn hóa thế giới. Tuy nhiên bản sắc văn hoá là
những yếu tố văn hoá đặc trưng cho từng cấp độ chủ thể văn hoá. Nó được coi là cốt
lõi của triết lý phát triển ở mỗi cộng đồng dân tộc nên vẫn cần phải giữ gìn và phát
huy.
- Kinh tế thị trường phát triển đồng nghĩa với xuất hiện nhiều hơn khuynh hướng
chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hay nguy cơ “thương mại hóa” (cái gì có tiền mới làm,
cái gì không có tiền, dù cần cũng không làm). Kinh tế thị trường cũng đã kéo theo lối
sống “tiền trao cháo múc”. Đã có không ít hiện tượng: từ chỗ coi trọng các giá
trị chính trị, xã hội sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh tế. Từ chỗ lấy con người
tập thể, con người xã hội làm mẫu mực (hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng) là đạo đức
cao nhất, sang tuyệt đối hóa con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, cá nhân
chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo

30
đức, phẩm giá; tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng
tiền, coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người.

Thứ hai, việc đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể còn nhiều hạn chế. Vai trò chủ đạo, nền tảng của những thành phần kinh tế
này trong nền kinh tế quốc dân chưa được thể hiện rõ nét. Tốc độ tăng trưởng và hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với sự đầu tư, ưu đãi của
Nhà nước và sự kỳ vọng của nhân dân. Kinh tế tập thể, nhất là trong khu vực nông
nghiệp gặp nhiều khó khăn, lúng túng, trong khi sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối
với loại hình kinh tế này vẫn chưa được đầu tư đúng mức còn nặng về khẩu hiệu.

Thứ ba, công tác quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều khuyết điểm. Tình trạng
quan liêu, quản lý lỏng lẻo, gây thất thoát, lãng phí ở nhiều công trình, nhiều cơ quan,
nhiều địa phương nhưng chưa được xử lý nghiêm, thiếu khách quan, thiếu trách
nhiệm. Việc tích tụ ruộng đất, đô thị hoá, công nghiệp hoá ở nhiều nơi không được
tiến hành bài bản, không thật sự lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất kiến
nghị chính đáng của nhân dân nên đã gây thất thoát, lãng phí nhiều tài nguyên đất đai
màu mỡ khiến nhân dân bất bình, lo lắng. Đặc biệt, việc thu hồi, đền bù đất, tái định cư
ở nhiều nơi thực hiện thiếu dân chủ, không công bằng, không bảo đảm cuộc sống ổn
định lâu dài của nhân dân nên đã gây bất bình, bức xúc, mất lòng tin của nhân dân.
Một bộ phận nhân dân, chủ yếu là nông dân, do tình trạng công nghiệp hoá thiếu kế
hoạch nên không còn tư liệu sản xuất, không có việc làm ổn định. Thất nghiệp, việc
làm không ổn định ở đô thị, thiếu việc làm ở nông thôn vẫn ở mức cao.

Thứ tư, tăng trưởng của nền kinh tế vẫn ở mức dưới tiềm năng, hiệu quả và chất
lượng tăng trưởng thấp, chưa bền vững, năng suất thấp và chất lượng sản phẩm chưa
tốt, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá chưa cao. Tính tự phát,
tuỳ tiện trong sản xuất, kinh doanh vẫn còn khá phổ biến. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn phân tán và lãng phí. Mức sống của nhân dân,
nhất là nông dân ở một số địa phương, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn quá thấp.
Chính sách tiền lương và phân phối thu nhập trong xã hội còn nhiều bất hợp lý. Một
bố phận nông dân, công nhân chưa được thụ hưởng một cách tương xứng với sự tăng
trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước. Trong xã hội xuất hiện không ít người giàu

31
lên bằng con đường làm ăn phi pháp. Hiện tượng lợi dụng chức quyền tham ô, tham
nhũng vẫn là vấn đề nhức nhối. Hiện tượng sản xuất vi phạm pháp luật, vi phạm đạo
đức kinh doanh vẫn diễn biến phức tạp gây tổn hại cho người sản xuất, kinh doanh,
người tiêu dùng, đến sự lành mạnh của nền kinh tế và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã
hội.

2.3. Giải pháp phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam thời gian tới
Nhận ra một số vấn đề cũng như thách thức mà nước ta đang đối mặt, điều cần thiết là
mau chóng đưa ra những giải pháp để khắc phục những thiếu sót. Phát huy dân chủ
trong kinh tế, lấy trọng tâm làm theo tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể áp
dụng một số giải pháp như sau:

Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù
hợp với điều kiện mới của đất nước và tình hình thế giới. Theo đó, cần nhận thức sâu
sắc và thực hiện tốt quan điểm dân là chủ, dân làm chủ; việc có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc có hại đến dân phải hết sức tránh; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn
năng để giải quyết mọi khó khăn; dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm dân chủ trong kinh tế gắn liền với dân chủ trong
chính trị, văn hóa, xã hội; xây dựng điều kiện kinh tế đồng bộ, hài hòa với các điều
kiện về chính trị, văn hóa, xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc Việt Nam.

Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm tốt vai trò kiến tạo phát
triển thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp. Trong đó, bảo đảm: 1)
Giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của các thành
phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa
chủ và thợ, giữa lợi ích của công nhân, nông dân, trí thức, doanh nghiệp và lợi ích của
nhà nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế; 2) Kinh tế nhà nước
thực sự “giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,

32
nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật” 32;
3) Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp
luật; trong đó, cần đa dạng hóa các hình thức hợp tác phù hợp để gia tăng sản xuất,
phát triển sản xuất nhằm mang lại no đủ, giàu có, thịnh vượng, công bằng, tiến bộ,
hạnh phúc cho đa số nhân dân lao động; 4) Các tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ
trợ nhà nước, khi cần thiết có thể đấu tranh với các thế lực tự phát của thị trường để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…

Ba là, tiếp tục tập trung đầu tư nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ về nhận
thức lý luận, hoàn thiện về mặt thể chế và quyết liệt, đồng bộ trong tổ chức thực thi để
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là những vấn đề hệ trọng của quốc gia nên việc tìm kiếm phương án tối ưu
cũng như việc thực thi các phương án đó nhất thiết phải huy động được sức mạnh tinh
thần và vật chất của toàn dân tộc. Không thể thực hiện thành công việc tái cấu trúc nền
kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để hướng đến tăng trưởng nhanh và phát triển
bền vững thực sự chỉ dựa vào tài năng, trí tuệ, tâm huyết của một số ít người và nếu
chỉ bảo đảm lợi ích của một số nhóm người nào đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói đại ý rằng: Trong một nước dân chủ thì ai ai cũng có quyền thảo luận, tranh luận
để cùng nhau tìm ra chân lý. Khi chân lý đã tìm thấy rồi thì quyền tự do tư tưởng hóa
ra quyền tự do phục tùng chân lý; và, chân lý thì rất giản dị, đó là tất cả những gì ích
quốc, lợi dân33. Dân ở đây là tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, trong đó công,
nông, trí thức là những bộ phận cơ bản, là gốc, nền tảng của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh đó, cần bảo đảm những điều kiện tốt nhất trong nghiên cứu lý luận,
trong đổi mới tư duy về kinh tế; bảo đảm dân chủ trong xây dựng và thực thi chính
sách, thể chế kinh tế vừa là mục tiêu, nhiệm vụ vừa là phương thức, động lực và là giải
pháp chiến lược cho vấn đề tạo lập cơ sở kinh tế để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay.

32
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb
CTQG, H.2005, Tr. 721.
33
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, Sđ d, Tr. 216.
33
KẾT LUẬN
Dân chủ là một thành tố cơ bản trong hệ đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang ra sức
xây dựng. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung quan trọng
trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm phát huy sức mạnh
của toàn dân tộc. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những
nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp, ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà còn là mục
tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vì vậy việc
nghiên cứu dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Đảng cầm quyền và
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là yêu cầu nghiêm túc và rất quan trọng đối với
nước ta hiện nay.

Mặt khác, qua bài tiểu luận ta nhận thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ gắn với
bản chất chính trị, tư tưởng – văn hóa – xã hội mà còn cả về kinh tế – lĩnh vực giữ vai
trò nền tảng của sự phát triển xã hội. Do đó, muốn kinh tế phát triển, ắt hẳn phải đi đôi
với phát huy dân chủ xã hội mà cụ thể là phải phát huy dân chủ xã hội trong lĩnh vực
kinh tế.

Dựa trên những tiền đề tiên quyết, Đảng và nhà nước ta lấy cơ sơ lý luận của Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm trọng tâm, đã xây dựng và phát triển một nền kinh
tế mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện phát triển cho kinh tế nước
ta. Thực tế chứng minh, Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ trên thị trường kinh tế
thế giới; quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế đã nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi
khủng hoảng, lạc hậu. Những chính sách sáng suốt của Đảng ta đã đem đến nhiều
thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế xã hội, ngày một nâng cao chất lượng đời
sống cho nhân dân.

Song, dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ mới xuất hiện trong thời gian ngắn, hiển nhiên mọi
sự tiếp cận đối với nó vẫn còn quá ít ỏi. Do đó, nước ta không tránh khỏi những sai sót
xảy ra trong quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế. Trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ, đảng viên cần có quy định

34
về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy nhất cầm quyền, một số cán bộ,
đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ đã dẫn đến lạm
quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng. Do đó Việc này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu dân chủ xã
hội chủ nghĩa một cách nghiêm túc và lâu dài.

Do đo, đây là vấn đề vô cùng cấp bách và thiết thực, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu
dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách nghiêm túc và lâu dài. Việc này không chỉ cần sự
quan tâm của những nhà cầm quyền mà còn là trách nhiệm chung của nhân dân, của
toàn xã hội. Cần phải phổ biến, tuyên truyền cho toàn dân và phải tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế nói riêng và trên tất cả
mọi mặt của đời sống xã hội nói chung.

Trong điều kiện mới, để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhân thức lý luận về dân
chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập
trung giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đặt ra trên cơ sở lý luận của các nhà chính
trị, chủ nghĩa khoa học xã hội. Ngày càng hoàn thiện và phát huy tối đa những thuận
lợi mà dân chủ xã hội chủ nghĩa mang lại sẽ giúp đất nước ta ngày một phát triển trên
thị trường thế giới.

35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đông Á và Quang Hà. (14/7/2020). Dân chủ là bản chất chế độ xã hội, là mục tiêu,
động lực của sự phát triển đất nước. Kỳ 2: Sử dụng "chiêu bài dân chủ" để phá
hoại dân chủ!. Truy cập từ https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/dan-chu-la-
ban-chat-che-do-xa-hoi-la-muc-tieu-dong-luc-cua-su-phat-trien-dat-nuoc-608540/
2. Hoàng Chí Bảo. (30/9/2015). Dân chủ xã hội chủ nghĩa - mục tiêu và động lực của
đổi mới. Truy cập từ https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-
dang/gioi-thieu-van-kien-dang/dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-muc-tieu-va-dong-luc-
cua-doi-moi-900
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2019). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB:
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(tập 1;2), NXB: Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. Hoặc truy cập từ
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-xiii
5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, các bộ môn khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. (2008). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học,
NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Mai Hải Oanh. (21/8/2020). Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Truy cập từ
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/817155/phat-huy-dan-
chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-nay.aspx
7. Đặng Hữu Toàn. (2002). Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
Sách tham khảo, NXB: Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Phú Trọng. (16/5/2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ
https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-
nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
9. ThS. Nguyễn Anh Tuấn. (20/10/2015). Thực hiện dân chủ về kinh tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Truy cập từ:

36
https://moha.gov.vn/hochiminh/nghien-cuu-trao-doi/thuc-hien-dan-chu-ve-kinh-te-
theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-thoi-ky-doi-moi-20120.html
10. GS. TS Phạm Văn Đức, PSG. TS Bùi Nguyên Khánh. (09/10/2019). Dân chủ và
thực trạng thực hiện dân chủ trong những năm qua. Truy cập từ:
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dan-chu-va-thuc-trang-thuc-hien-dan-chu-
nhung-nam-qua.html#_ftn4
11. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Truy cập từ:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_tế_thị_trường_định_hướng_xã_hội_chủ_nghĩa
12. Sự ra đời và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Truy cập từ
http://luatviet.co/su-ra-doi-va-ban-chat-cua-nha-nuoc-xa-hoi-chu-nghia/
n20170524045758469.html
13. Việt Nam 40 năm qua và những năm tới: Cần một nền kinh tế thị trường định
hướng phát triển  , Trần Văn Thọ, tapchithoidai, số 33, tháng 7 năm 2015. Truy cập
từ: https://vi.wikipedia.org/wiki/Thời_bao_cấp
14. Đưa nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn mới (16/6/2021). Truy cập từ: http://danvan.vn/Home/Huong-toi-Dai-hoi-
dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-XIII-cua-Dang/14089/Dua-nghi-quyet-Dai-hoi-XIII-
cua-Dang-vao-cuoc-song-Nhung-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-moi
15. Thực hiện dân chủ về kinh tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Truy cập từ https://moha.gov.vn/hochiminh/nghien-cuu-trao-doi/thuc-hien-dan-chu-
ve-kinh-te-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-thoi-ky-doi-moi-20120.html
16. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Truy cập
từ: https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-
nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/cuong-linh-xay-
dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-thong-qua-tai-dai-hoi-
dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vii-cua-dang-543514.html
17. Tài liệu từ danvan.vn (2019). Thực hiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay : Thực
trạng và giải pháp. Truy cập từ
http://danvan.vn/Home/Quy-che-dan-chu/10917/Thuc-hien-phat-huy-dan-chu-o-
nuoc-ta-hien-nay-Thuc-trang-va-giai-phap

37

You might also like