You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

BÀI TẬP LỚN

Đề bài : Thực trạng phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Họ và tên sinh viên : PHẠM THỊ VÂN ANH
Mã sinh viên : 11220561
Lớp tín chỉ : POHE QTKS 64_AEP(222)_04
Giảng viên hướng dẫn : TS. Mai Lan Hương

Hà Nội, 4/4023
Mục Lục
Lời nói đầu................................................................................................................................. 1
Phần nội dung............................................................................................................................ 2
I. Kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.........................................2
1. Khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................2
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam............................................................................................................................. 2
3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam...............................3
II. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................................. 5
1. Khái quát chung.............................................................................................................5
2. Những thành tựu đã đạt được........................................................................................6
3. Những hạn chế cần khắc phục......................................................................................9
3. Giải pháp được đưa ra..................................................................................................11
Phần kết luận........................................................................................................................... 13
Danh mục tài liệu tham khảo...................................................................................................14

Hà Nội, 4/4023
Lời nói đầu :
Giai đoạn 1975-1985 là thời kỳ đất nước ta vừa mới thống nhất nên phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn. Lúc này, nước ta xây dựng theo mô hình xã hội chủ nghĩa của
Liên Xô (cũ), áp dụng chính sách “bao cấp” , kiểm soát chặt chẽ các phương tiện sản
xuất. Nền kinh tế trở nên lạc hậu và đời sống của nhân dân cũng trở nên thiếu thốn.
Chính vì thế, năm 1986, nhà nước ta bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, chuyển từ
nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước chuyển
mình ấy đã giúp cho Việt Nam trở nên phát triển, đời sống nhân dân cũng dần được cải
thiện.

Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã ổn định được tương đối nền kinh tế vĩ
mô, hội nhập sâu rộng với thế giới về kinh tế, chính trị, văn hóa. Tuy nhiên, tồn tại song
song với chúng là những mâu thuẫn vì thế Đảng và nhà nước ta vẫn đang nghiên cứu,
xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một nhiệm vụ
chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững.”

Để làm được điều đó, trước hết ta cần phải nắm bắt được những vấn đề thực tiễn
mới, thực trạng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ
môn Kinh tế chính trị Mác-Lênin em đã quyết định chọn đề tài: “Thực trạng phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” để thực hiện nghiên
cứu và làm tiểu luận. Việc lựa chọn đề tài này có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn.

1
Phần nội dung

I. Kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1. Khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được
thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở
đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam vừa chứa đựng những đặc
điểm của kinh tế thị trường nói chung, vừa chứa đựng những đặc điểm của định hướng
XHCN.

2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu, phù
hợp với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.

Phát triển kinh tế hàng hóa tất yếu sẽ chuyển thành kinh tế thị trường, đây là một
quy luật khách quan không phụ thuộc vào suy nghĩ của con người. Mặc dù kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao, phồn thịnh nhưng không thể
khắc phục những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì vậy, việc xác lập mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng, văn minh là mong muốn chung của các quốc gia
trên thế giới. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN về thực chất là quá trình
“rút ngắn” chứ không phải là “đốt cháy” giai đoạn, quá trình này hoàn toàn phù hợp với
tình hình của Việt Nam.

2
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thúc đẩy
phát triển đối với Việt Nam.

Kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực linh hoạt, hợp lý, kích thích
cải thiện kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh và có hiệu quả. Sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn
với mục tiêu của CNXH; là lựa chọn cách làm, bước đi đúng với quy luật kinh tế khách
quan, là phương tiện cần thiêt để đi đến mục tiêu CNXH hiệu quả nhất. Kinh tế thị
trường không chỉ có ưu thế, mà còn có khuyết tật, vì vậy cần có sự can thiệp, điều tiết
kịp thời của nhà nước để sửa chữa những khuyết tật của thị trường.

Ba là, kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng, mong
muốn của người dân Việt Nam.

Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của
người dân Việt Nam. Kinh tế thị trường còn tồn tại lâu dài ở nước ta và cần thiết cho
công cuộc xây dựng và phát triển. Kinh tế thị trường sẽ phá vỡ tính chất tự túc, lạc hậu
của nền kinh tế, khuyến khích đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
3.1 Về mục tiêu
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Đây là sự khác biệt với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu đó bắt nguồn
từ: sự phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; phản ánh nhiệm vụ xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp với cơ sở kinh tế - xã hội ngày càng tiến bộ của chủ nghĩa xã hội.

3.2 Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

3
Về quan hệ sở hữu, ở nước ta hiện nay có hai loại hình sở hữu tư liệu sản xuất và
sản phẩm cơ bản là : sở hữu tư nhân và sở hữu công hữu. Sở hữu tư nhân có các hình
thức: sở hữu tư nhân hộ gia đình, sở hữu tư nhân cá thể tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Sở hữu công hữu tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
của người lao động. Các loại hình sở hữu trên tồn tại với quy mô và trình độ khác nhau,
đa dạng và phong phú. Đặc biệt chúng có sự đan xen vào nhau tạo thành những hình
thức sở hữu hỗ hợp tức là: vừa có sở hữu nhà nước, vừa có sở hữu tư nhân. Trong thời
kỳ quá độ, sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với sở hữu tập thể trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân, sở hữu tư nhân là một động lực quan trọng cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.

Xác định rõ các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất thì đây chính là cơ sở để xây
dựng các thành phần kinh tế. Hay nói cách khác thành phần kinh tế là sự biểu hiện bên
ngoài của quan hệ sở hữu. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư
nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập tự chủ. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.

3.3 Về quan hệ quản lý nền kinh tế


Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, sự can thiệp và điều tiết kịp thời của nhà
nước vào quá trình phát triển kinh tế nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết tật của thị
trường và định hướng thị trường theo mục tiêu đã định là một điều tất yếu khách quan,
và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó

Ở Việt Nam, nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị
trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì “ dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Sự can thiệp này có thể thông qua pháp luật, chính sách, chủ trương và đường lối
phát triển kinh tế của Đảng. Nhưng sự can thiệp này không áp đặt cực đoan mà vẫn phải
tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.

4
3.4 Về quan hệ phân phối
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân phối
công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của
mọi thể chế kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu
có, đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác thông qua hệ thống an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội.

3.5 Về quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội


Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện
các tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa – xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường.

Chúng ta không thực hiện tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà ngoài mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế còn phải đảm bảo tính công bằng xã hội. Đó chính là mục
tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều này khác với các nước tư bản chủ
nghĩa, vấn đề công bằng xã hội đối với các nước tư bản chủ nghĩa chỉ là phương tiện để
duy trì chế độ tư bản chứ không phải là mục tiêu của chế độ đó.

Như vậy, với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là sự kết hớp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với
bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại,
văn minh. Tuy nhiên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang
trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ còn bộc lộ những yếu kém cầm phải khắc
phục và hoàn thiện.

II. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.

1. Khái quát chung


Muốn phát triển đất nước giàu mạnh cần phải trải qua giai đoạn phát triển kinh tế
thị trương, đó là tính tất yếu và phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam,
sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã hình thành, phát

5
triển. Sự đổi mới tư duy kinh tế chuyến sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
xóa bỏ kế hoạch hóa tập trung đã đạt được những thành tựu nổi bật, đồng thời, cũng
không tránh khỏi những khuyết điểm, hạn chế và những thách thức chúng ta cũng cần
phải đối mặt. Dưới đây em sẽ trình bày những vẫn đề thực tiễn mới về phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN Việt Nam đồng thời đưa ra một số định hướng giải pháp
phát triển nền kinh tế ấy.

2. Những thành tựu đã đạt được


Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định đất nước đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay, trong đó có những đánh giá khách quan, khoa học thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trước hết, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang
tiếp tục phát triển, tăng trưởng một cách ổn định và nhanh chóng; quy mô và tiềm kực
kinh tế cũng tăng lên đáng kể.

Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019
đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao nhất khu vực, thế giới.

Ngoài ra, quy mô và tiềm lực kinh tế cũng tăng lên nhờ các chính sách và biện
pháp cải cách kinh tế, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đã có cơ hội để đầu tư
và kinh doanh tại Việt Nam. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm
1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu
nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

Hơn nữa, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cũng ngày càng đầy đủ hơn. Các chính sách và biện pháp mới được đưa ra để tăng

6
cường quản lý kinh tế, đảm bảo tính minh bạch và công khai trong hoạt động kinh
doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động kinh tế.

Các yếu tố thi trường và các loại thị trường đã phát triển đồng bộ, đi kèm với sự
phát triển của thị trường khu vực và thế giới nói chung. Nhờ vào những nỗ lực trong
việc ẩy mạnh cải cách và mở cửa thị trường, nhiều rào cản tham gia thị trường đã được
dỡ bỏ, từ đó tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi hơn.

Các thành phần kinh tế cũng phát huy tốt vai trò của mình. Doanh nghiệp nhà
nước được tổ chức lại và sắp xếp hiệu quả hơn, kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là
một động lực quan trọng của nền kinh tế, kinh tế tập thể được đổi mới gắn với cơ chế thị
trường và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển nhanh chóng.

Xuất, nhập khẩu cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tăng mạnh, đóng góp
tích cực vào sự phát triển của đất nước.

Xuất khẩu của Việt Nam bao gồm các mặt hàng như nông phẩm, điện tử, may
mặc, giày dép... đã tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là với các thị trường lớn như Mỹ, EU,
Nhật Bản... Bên cạnh đó, đầu tư cũng được thu hút nhiều hơn, Việt Nam đã thu hút được
nhiều khoản đầu tư từ các nước nước ngoài vào các ngành công nghiệp, dịch vụ, năng
lượng tái tạo...

Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục
được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính
riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt
2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao
nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam
vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD.
Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho
phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập
trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn
hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp...

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đang phát triển sâu rộng trên nhiều cấp độ, từ đó
tạo điều kiện cho Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương và đa

7
phương với các nước, đồng thời Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các tổ chức kinh
tế - xã hội.

Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực
xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam cũng là
thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam
đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực
và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng
quốc tế tôn trọng.

Hệ thống giao thông, năng lượng, viễn thông, nước uống...đã phát triển vượt bậc,
đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải và viễn thông, giúp cho sản xuất, kinh doanh trở
nên thuận lợi và hiệu quả hơn.

Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết
hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội.

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã
dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu -
nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói
giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn
tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005;
9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020. Quy mô giáo dục tiếp tục
được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng
yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được
đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ
2 trong khu vực ASEAN sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương
trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN. Năng lực của hệ
thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với

8
các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng
đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Bên cạnh đó, công tác
bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện
thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu
lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

Trên đây là những thành tựu đáng chú ý của Việt Nam trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu ấy chính là thành quả
lý luận qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới của Đảng ta.

3. Những hạn chế cần khắc phục


Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam vẫn còn tồn tại vô số những thách thức.

Trước hết, một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam khi xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đó là phải đối mặt với sự cạnh tranh từ
các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, mặc dù Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ trong thu hút vốn đầu tư,
song vẫn còn rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguòn lực để đầu tư vào các
ngành kinh tế mới.

Thứ ba, về mặt đổi mới công nghệ, nhìn chung trình độ công nghệ của ta vẫn còn
thấp. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp
ráp thiếu gắn kết và chuyển giao công nghệ. Nhiều sản phẩm công nghệ như máy móc
vẫn còn phải nhập khẩu từ khác nước khác, do chi phi sản xuất và giá thành còn cao.

Thứ tư, nguồn nhân lực và thị trường lao động vẫn có những điểm yếu nhất định.
Việt Nam có nguồn nhân lực tương đối dồi dào, có khả năng đáp ứng được yêu cầu về
số lượng nhân lực mà nền kinh tế đòi hỏi, thế nhưng con số đạt chất lượng cao, sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Lao động trong nước vẫn
chủ yếu là lao động phổ thông hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nông nghiệp và phi
nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, sự lựa chọn
9
đúng đắn về ngành nghề cùng với việc thiếu thông tin và kỹ năng làm việc khiến cho
một số người lao động khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm.

Thứ năm, về cơ sở hạ tầng, mặc dù Việt Nam đã có những bước đi tốt trong việc
cải thiện hạ tầng, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, bao gồm việc nâng
cao chất lượng và hiệu quả của hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin và viễn thông.

Thứ sáu, về mặt quản lý, việc quản lý giám sát hoạt động kinh doanh là vô cùng
quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tạo ra một hệ thống quản lý hiệu quả và
minh bạch vẫn còn rất nhiều khó khăn.

Cuối cùng, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội khác như môi
trường – tài nguyên, tăng cường quyền lợi của người lao động hay chính sách xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện mội trường chưa
thực sự hiệu quả, sự lạm dụng tài nguyên và ô nhiễm môi trường đã gây ra nhiều hệ lụy
nghiêm trọng đến sức khỏe của con người và động vật, gây thiệt hại đến sự phát triển
của kinh tế. Bên cạnh đó, trong khi Việt Nam đã có nhiều tiến bộ về việc tăng cường
quyền lợi của người lao động, song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như thiếu tính minh
bạch và công bằng trong các quan hệ lao động, sự chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp
trong xã hội. Ngoài ra chính sách xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội XII của Đảng cũng khách quan,
thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế, khuyết điểm: Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập; nhiều doanh nghiệp nhà nước chậm
thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản trị; phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy
mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu; nhiều doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn kết, chuyển
giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển; đổi mới và phát triển kinh
tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ;
thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ công còn lúng túng;
một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và
phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố
sản xuất; hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao… Những hạn chế, bất cập

10
này được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định cần kiên quyết khắc phục và giải quyết
trong thời gian tới.

Như vậy, để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Việt Nam cần phait có những chiến lược toàn diện và biện pháp cụ thể để thực
hiện.

3. Giải pháp được đưa ra


Trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thành công trong việc
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cũng
có những vấn đề mới cần được giải quyết để tiếp tục phát triển bền vững. Sau đây là một
số giải pháp để tiếp tục tăng cường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:

1. Nâng cao năng lực cạnh tranh: Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là một trong những yếu tố quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Để đạt được điều
này, chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ và khuyến khích cho các doanh
nghiệp và công ty phát triển năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng cường truyền thông và quảng bá thương hiệu.

2. Phát triển hạ tầng kinh tế: Để thu hút các nhà đầu tư, Việt Nam cần phát triển hạ
tầng kinh tế, bao gồm cả hạ tầng vận tải, viễn thông, điện năng và nước sạch. Điều
này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí vận chuyển sản phẩm, tăng
thời gian hoạt động hiệu quả và thu hút các nhà đầu tư.

3. Tăng cường đổi mới công nghệ: Việt Nam cần tăng cường đổi mới công nghệ và
nâng cao năng lực sản xuất để cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực.
Chính phủ cần có chính sách đầu tư vào khoa học và công nghệ, khuyến khích các
doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất, phát triển sản phẩm mới và
mở rộng thị trường.

4. Nâng cao năng lực quản lý và giám sát: Việt Nam cần nâng cao năng lực quản lý
và giám sát để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình kinh doanh.
Chính phủ cần áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa việc gian lận, tham nhũng
và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
11
5. Tiếp tục phát triển kinh tế gắn chặt với các vấn đề liên quan đến xã hội như đảm
bảo tài nguyên thiên nhiên giảm thiểu ô nhiễm môi trường, cùng với đó là các
chính sách bảo vệ quyền lợi, lợi ích của người dân và người lao động.

6. Đối với doanh nghiệp nhà nước: cần thúc đẩy quá trình cơ cấu lại và đổi mới cơ
chế quản trị, tạo điều kiện cho sự đột phá về sản phẩm và dịch vụ. Đồng thời, cần
tăng cường quản lý chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh và thiết
lập các chiến lược đầu tư phù hợp. Đối với doanh nghiệp tư nhân: cần đẩy mạnh
công tác đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, năng lực tài chính và quản trị,
giúp các doanh nghiệp tư nhân phát triển cả về quy mô và chất lượng. Đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Việt Nam cần có các chính sách thu hút
đầu tư hiệu quả, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến và
khuyến khích chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước.

12
Phần kết luận
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của
Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Có thể nói, việc kết hợp các lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh với các vấn đề thực tiễn của Việt Nam giúo cho Đảng ta có cái nhìn sâu sắc
hơn về tình hình kinh tế - xã hội để tiếp tục xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng cao đẹp của chủ tịch Hồ Chí Minh đều là những lý tưởng cao đẹp về
một xã hội công bằng, dân chủ, giàu mạnh và hạnh phúc. Tuy nhiên để áp dụng chúng
vào thực tế của Việt Nam, cần phải điều chỉnh các lý luận ấy sao cho phù hợp với tình
hình cụ thể của đất nước. Nhờ đó, mà trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của
xã hội. Đồng thời, việc áp dụng các lý luận, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn giúp cho
Đảng ta có được những định hướng, chiến lược phù hợp để khác phục những thách thứ
và phát triển đất nước trong tương lai.

13
Danh mục tài liệu tham khảo
PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa – Giáo trình triết học Mác – Lênin – NXB Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Ông Mai Trung Dũng – Trưởng Ban Tuyên giáo – Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh -
https://phutho.gov.vn/vi/mot-so-thanh-tuu-noi-bat-sau-35-nam-doi-moi-dat-nuoc

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

14

You might also like