You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH


- - - 🙞🕮🙜 - - -

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN


KINH TẾ CHÍNH TRỊ MARX-LENIN

Đề tài
Kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam

Mã học phần: 2301RLCP1211


Nhóm: 7
Giảng viên: Tống Thế Sơn
Hà Nội – 2023

NỘI DUNG
I Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..............................................................4
1.Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam................................................4
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.........................................................................................................................................................5
3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................7
3.1. Về mục tiêu:.................................................................................................................................7
3.2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:.....................................................................................8
3.3. Về quan hệ quản lý nền kinh tế:....................................................................................................9
3.4. Về quan hệ phân phối:..................................................................................................................9
3.5. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng với công bằng xã hội:.............................................................10
II. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam............................................11
1. Khái niệm thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................................11
2. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.................11
3. Phương hướng hoàn thiện và vai trò của công dân...........................................................................14
III, Thực trạng và sự tác động của nền kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...................................................................................................................16
1. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..............................16
2. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............................21
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi giành lại độc lập dân tộc, thống nhất hoàn toàn hai miền Nam – Bắc, nước ta
tiếp tục công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã áp dụng mô hình kinh tế bao
cấp hay còn được gọi là nền kinh tế kế tập trung để khôi phục lại nền kinh tế đang trong
tình trạng suy yếu của đất nước sau nhiều hậu quả của chiến tranh. Mô hình kinh tế này
kéo dài từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986. Như chúng ta đã thấy và tìm hiểu thì nền
kinh tế tập trung thể hiện nhiều yếu điểm tuy ban đầu giúp đất nước ta khôi phục khá tốt,
nhưng dần về sau mô hình này lại không còn đem lại hiệu quả như ban đầu mà còn khiến
cho nền kinh tế của Việt Nam chậm phát triển, thụt lùi so với thế giới.
Chính vì tính thế đó mà sau 1986 nước ta đã chuyển mô hình kinh tế từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là
một quá trình thể hiện sự đổi mới về tư duy và ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng
như thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây cũng là một quá trình
về sự nhận thức đúng hơn các quy luật khách quan, chuyển từ một nền kinh tế mang nặng
tính chất hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá với nhiều thành phần, khôi phục các thị
trường để từ đó các quy luật thị trường phát huy tác dụng điều tiết hành vi các tác nhân
trong nền kinh tế thay cho phương pháp quản lí bằng các công cụ kế hoạch hoá trực tiếp
mang tính pháp lệnh, xoá bỏ bao cấp tràn lan của nhà nước để các doanh nghiệp tự chủ,
tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện quản lí nền kinh tế
thông qua pháp luật và điều tiết thông qua các chính sách và các công cụ kinh tế vĩ mô.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển sang nền kinh tế năng động, có cơ chế điều
chỉnh linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các nguồn lực và các tác nhân của
nền kinh tế hoạt động hiệu quả.
Mặt khác sự chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề còn mới trong lịch sử kinh tế nước ta. Nên
việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường là sự cần thiết.
I Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mỗi một quốc gia có một mô hình kinh tế thị trường khác nhau phù hợp với điều kiện
của quốc gia đó, mỗi nền kinh tế thị trường vừa có những đặc trưng tất yếu không thể
thiếu của nền kinh tế thị trường nói chung vừa có những đặc trưng phản ánh điều kiện
lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội của quốc gia đó và nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu nền kinh tế thị trường phù hợp với Việt Nam, phản
ánh trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức sử dụng
trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng; theo đó, “Đảng và Nhà nước ta
chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là
bước đột phá dũng cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.
Từ góc độ lịch sử chúng ta thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, suốt một
thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã đem đối lập một cách tuyệt đối
và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những gì có trong chủ nghĩa tư
bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi hết và ngược lại, trong đó có kinh tế thị trường vốn
là thành quả phát triển của lịch sử loài người. Cần nhận thức rõ rằng, xã hội cộng sản
với tính cách một hình thái kinh tế – xã hội không thể có sẵn mọi thứ trong lòng xã hội tư
bản nhưng cũng đã có những tiền đề về nhiều mặt quan trọng cho sự ra đời của một hình
thái kinh tế – xã hội mới. Một trong những tiền đề ấy là nền kinh tế thị trường đã rất phát
triển nhờ sự phát triển hết sức cao và mạnh mẽ của lực lượng sản xuất.
Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi vào
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo,
độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất
nước tất cả đều vì con người và do con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn
trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường; nghĩa là sản xuất và
kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy phải tạo
được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải là động
lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển. Để đạt được hệ giá trị như vậy, nền kinh tế
thị trường Việt Nam cần có vai trò điều tiết của Nhà nước, đối với Việt Nam, Nhà nước
phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của kinh tế thị trường đồng thời góp phần từng bước xác lập một xã hội mà
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh, công bằng, có sự điều tiết của nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là tất yếu ở Việt Nam xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính
xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam. Theo tự nhiên, chúng ta thấy rằng, kinh tế
thị trường bản chất là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, hay nói cách khác,
kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, tất yếu sẽ chuyển sang kinh tế thị
trường. Nhìn lại lịch sử, Việt Nam chúng ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hóa từ
lâu, cuối thời phong kiến rồi sang thời Pháp thuộc và giai đoạn kháng chiến chống Mỹ,
nền kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Rõ ràng, vừa có nền tảng kinh tế hàng hóa,
vừa có điều kiện thuận lợi để phát triển nên việc hình thành kinh tế thị trường sẽ là vấn đề
tất yếu khách quan. Như vậy, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân
tộc.
Theo tình hình đất nước, từ năm 1986 nước ta chủ trương đổi mới toàn diện về kinh tế
và từ đây chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị
trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nghĩa là Nhà nước không can
thiệp trực tiếp vào vào các hoạt động ở tầm vi mô của các chủ thể kinh tế nữa, mà nhà
nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô như là nhà nước hoạch định chính sách, nhà nước ban
hành những các chính sách pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để các chủ thể trong nền
kinh tế có thể phát huy và mọi hoạt động của mình trong nền kinh tế phải tuân theo cơ
chế thị trường. Việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một xu hướng phát triển khách quan và tất yếu,
phù hợp với bối cảnh nước ta. Mặt khác, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư
bản chủ nghĩa, cho nên việc bỏ qua giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam.
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tính ưu việt trong việc thúc
đẩy kinh tế. Kinh tế thị trường là một trong những phương thức phân bổ nguồn lực tối ưu
và hiệu quả mà loài người ta đạt được so với các mô hình kinh tế trước đó. Kinh tế thị
trường luôn là động lực để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả
kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm và giá thành sản phẩm. Ngoài ra, so sánh nền kinh tế bao cấp trước kia với nền kinh
tế thị trường hiện nay thì kinh tế thị trường chất lượng hàng hóa tốt, số lượng hàng hóa
rất đa dạng, phong phú chính là tác động tích cực từ quy luật cạnh tranh, cung cầu mang
lại. Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt và là công cụ, phương tiện để thúc đẩy lực
lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Sự khác biệt cơ bản giữa nhà nước Việt Nam với các nhà nước tư bản chủ nghĩa là
nhà nước chúng ta được hình thành từ cuộc cách mạng vô sản do nhân dân thực hiện.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Với đặc điểm bản chất nhà
nước này, chúng ta lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động về một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự tồn tại của kinh tế thị trường ở nước
ta tạo ra một động lực quan trọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, là bước đi quan trọng và tất yếu cho sự phát
triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự
túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, tạo việc làm cho người
lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ
thuật công nghệ; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các
vùng … Những điều này phù hợp với khát vọng của người dân Việt Nam.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một điều tất yếu, một nhiệm vụ
kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào
sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản
xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.
3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1. Về mục tiêu:
Chúng ta biết rằng, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thường
hướng tới phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Đây là điều khác biệt căn bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nói chung, bởi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
mục tiêu đặt ra chủ yếu là hiệu quả kinh tế tối đa, gia tăng lợi nhuận cho một bộ phận giai
cấp tư sản, giai cấp cầm quyền.
Như vậy, phát triển Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đó là công cụ phương
thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ xã hội hóa đạt
được của lực lượng sản xuất.
3.2.Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
- Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất trên cơ sở chiếm hữu
nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản
xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể
sở hữu, đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu.
- Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý
+ Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ thể sở
hữu được thụ hưởng khi xác định đối tượng sở hữu đó thuộc về mình trước các quan hệ
với người khác.
+ Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về
quyền hạn hay nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.
Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu thống nhất biện chứng trong một chỉnh
thể. Khi không xét tới nội dung kinh tế, nội dung pháp lý của sở hữu chỉ mang giá trị về
mặt hình thức. Cho nên trong thực tế, việc thúc đẩy phát triển quan hệ sở hữu tất yếu cần
chú ý tới cả khía cạnh pháp lý cũng như khía cạnh kinh tế của sở hữu.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuát tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, có
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy
động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng
sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù
hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các
công cụ, chính sách, nguồn lực của nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Ví dụ trong lĩnh vực ngân hàng, có hệ thống ngân hàng Nhà nước (Agribank,
Viettinbank...) tồn tại song song với ngân hàng tư nhân (VP bank, Techcombank,
ACB...). các hệ thống này tồn tại song song vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, nhưng
đều bình đẳng trước pháp luật.
3.3. Về quan hệ quản lý nền kinh tế:
Kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc trưng là do Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sự
làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho CNXH vì “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” .
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính
sách và các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường và phù hợp với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt
Nam.
Ví dụ: về thị trường xăng dầu Việt Nam chẳng hạn, thị trường xăng dầu Việt Nam vẫn
vận động khách quan theo quy luật cung cầu và theo thị trường thế giới. Nhưng nếu giá
cả biến động lớn, gây sốc cho nền kinh tế thì Nhà nước sẽ sử dụng công cụ điều tiết thông
qua thuế xuất nhập khẩu xăng dầu hoặc thông qua quỹ bình ổn xăng dầu để điều hòa giá
xăng dầu trong nước, đảm bảo hạn chế tối đa nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
3.4. Về quan hệ phân phối:
Hiện nay, do nhiều hình thức sở hữu do vậy chúng ta đang thực hiện nhiều hình thức
phân phối khác nhau đối với các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất. Cụ thể chúng ta
có các hình thức phân phối để hình thành thu nhập cá nhân như sau:
+ Phân phối theo kết quả lao động: bản chất của hình thức này dựa trên kết quả về chất
lượng, số lượng lao động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng.
+ Phân phối theo hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn: ví dụ, như dựa trên kết quả
sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp lỗ hay lãi, hoặc dựa trên lợi tức đóng góp
vốn là nhiều hay ít.
+ Phân phối thông qua hệ thống phúc lợi tập thể và xã hội : như hệ thống quỹ phúc lợi
hưu trí, quỹ xóa đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa... các các công trình phúc lợi xã
hội mà nhân dân được hưởng.
Trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo phúc lợi là
những hình thức phân phối mang tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.5. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng với công bằng xã hội:
Các bạn nhớ lại rằng, mục tiêu cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”, cho nên, chúng ta không thực
hiện tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, mà ngoài mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
còn phải đảm bảo tính công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa -
xã hội.
Công bằng xã hội được biểu hiện ở các khía cạnh công bằng về thu nhập, lao động việc
làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách thu nhập, chính sách ưu đãi với người có
công… Chúng ta hình dung, nền kinh tế dù có chỉ số tăng trưởng cao, nhưng khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo quá lớn, thất nghiệp gia tăng, bất bình đẳng thu nhập… hậu quả sẽ
tệ nạn xã hội xuất hiện, đình công bãi công liên miên, vô hình chung, nó sẽ có tác động
tiêu cực trở lại tới nền kinh tế và kìm hãm nền kinh tế. Khi thực hiện các chính sách công
bằng xã hội, sẽ tạo điều kiện bảo đảm sự phát triển bền vững, nó cũng chính là mục tiêu
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Còn, đối với các nước tư bản chủ nghĩa, ngày nay cũng đặt ra vấn đề giải quyết công
bằng xã hội. Song nó chỉ được đặt ra khi những tác động tiêu cực đe dọa sự tồn vong của
chủ nghĩa tư bản, hay nói cách khác giải quyết vấn đề công bằng xã hội đối với các nước
tư bản chủ nghĩa chỉ là phương tiện để duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa chứ không phải là
mục tiêu của chế độ đó.

II. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
1. Khái niệm thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Thể chế kinh tế: là hệ thống quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành
nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các
quan hệ kinh tế.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: là hệ thống đường lối, chủ
trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế vận hành, điều
chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi ích của
các tổ chức, các chủ thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường,
các loại thị trường hiện đại theo hướng góp phần thúc đẩy dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
* Thực trạng:
Riêng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kể từ năm
1986 đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết chuyên đề về chủ đề
này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần
thứ Năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bản thân các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu, lượng vốn đầu
tư nước ngoài được thu hút hàng năm, cùng mỗi năm khoảng trên 100 ngàn doanh nghiệp
được thành lập mới là những con số biết nói minh chứng cho những thành tựu của việc
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian
qua.
Mặc dù vậy, khách quan mà nói, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa cần tiếp tục được cải cách và hoàn toàn có thể
được cải cách. Thực tế cho thấy, nhiều quy định về đất đai, đăng ký tài sản, giao dịch
điện tử, thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm an toàn thực
phẩm, bảo vệ dữ liệu cá nhân, các quy định điều chỉnh các mô hình kinh doanh mới trước
tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quy định về giải quyết tranh chấp
thương mại v.v. đang rất cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
- Một số lí do chưa hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, do thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đồng bộ.
Thứ hai, hệ thống thể chế chưa đầy đủ. Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà
nước, là nhân tố quyết định số lượng, chất lượng của thể chế.
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các yếu tố thị trường và các
loại thị trường
* Nội dung:
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp
Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành chính để
quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn
thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân
biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật.
Tạo điều kiện thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thực sự
trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm tính độc lâp, tự chủ của nền kinh tế.
- Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hoàn thiện pháp luật về phí và lệ phí. Đẩy mạnh
hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh
nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư.
Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ; phát triển cân bằng, đồng bộ thị
trường tài chính, đẩy mạnh hợp tác công - tư, điều hành lãi suất phù hợp; đổi mới phát
triển mạnh mẽ thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở
hữu trí tuệ; hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để phát triển và vận hành thông suốt
thị trường bất động sản; hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông
thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề.
- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội,
quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham gia
bình đẳng và thụ hưởng công bằng thành quả từ quá trình phát triển. Phát triển hệ thống
an sinh xã hội, huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực
hiện chính sách an sinh xã hội.
Hoàn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát
triển các khu kinh tế - quốc phòng. Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp quốc phòng, an
ninh với công nghiệp dân sinh trong tổng thể chính sách công nghiệp quốc gia. Phát triển
mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao
đời sống Nhân dân vùng biển.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và
phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội. Nâng cao năng
lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Nhà nước tập trung thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật; đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và thực thi pháp luật; tạo môi trường
thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội,
điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển. Thể chế hóa các
quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
- Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và các thiết chế, cơ chế liên quan đáp
ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Đổi mới công tác xúc tiến thương mại, đầu tư,
cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiêp phát triển thị trường, nhất là thị trường xuất
khẩu. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp tác kinh tế
quốc tế, không để lệ thuộc vào một số ít thị trường. Xây dựng và thực hiện các cơ chế
phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị
trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Tóm lại, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội là một
nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền
vững, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và vận hành đồng bộ, thông
suốt nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả
nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
3. Phương hướng hoàn thiện và vai trò của công dân
* Phương hướng hoàn thiện:
- Nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế chính trị định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
- Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
* Định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
- Đề ra nhiều chủ trương đối với thể chế về sở hữu và quyền tài sản, quyền tự do kinh
doanh, đối với thể chế về tự do kinh doanh, đầu tư và phát triển các thành phần kinh tế,
đối với thể chế về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm phát triển
bền vững
- Thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số và chính phủ số
phù hợp với bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- Coi trọng việc xử lý các khía cạnh pháp lý của quá trình hội nhập
- Đề cao yêu cầu dân chủ hóa trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ
chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và
giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước
Có thể nói, những chủ trương, định hướng kể trên sẽ chi phối công tác hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thập niên sắp tới.
Thực hiện được đầy đủ những chủ trương, định hướng này sẽ góp phần đặc biệt quan
trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước
ta trong tình hình mới.
* Vai trò của công dân nêu lên nhiệm vụ hoàn thành thể chế:
- Quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời tin tưởng
và thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
- Thực hiện tích cực và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ công dân (VD: tham gia rộng rãi và
thường xuyên vào các công việc quản lí kinh tế, quản lí xã hội)
- Tập trung giáo dục lịch sử, truyền thống đấu tranh, kiên cường bất khuất của nhân dân
ta, làm cho mỗi người tự hào về truyền thống lịch sử dân tộc, soi mình vào những tấm
gương ấy
- Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết thực, phù
hợp với khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, tham gia những hoạt động mang tính
xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên...
- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc

III, Thực trạng và sự tác động của nền kinh tế thị trường và thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Sau 30 năm đổi mới, nhận thức về nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) ngày càng sáng tỏ hơn. KTTT phát triển đã góp phần khẳng định: “Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế
phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo
tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong
thời gian tới”
Xuất phát từ việc cần kíp phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển sang
nền KTTT và hội nhập quốc tế. Chủ trương đó nhanh chóng được các nhà đầu tư trong,
ngoài nước và đông đảo người sản xuất, tiêu dùng hưởng ứng.
Tuy nhiên, các yếu tố XHCN hoặc xuất hiện nhưng không có hiệu quả, hoặc chưa rõ nét.
Cụ thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng
hiệu quả thấp. Thậm chí một số tập đoàn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng mất
vốn, phá sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số hơn 1 triệu
tỷ đồng). Hợp tác xã còn yếu kém hơn, đặc biệt là không hấp dẫn nông dân. Nhà nước
quản lý nền kinh tế chủ yếu theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các vấn
đề về lũng đoạn thị trường, gian lận, hàng giả… diễn ra phổ biến. Nhà nước làm mất dần
niềm tin ở nhân dân do quản lý nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả và công bằng, do “lợi
ích nhóm” chi phối nên nhiều chính sách kinh tế chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung
của quảng đại nhân dân lao động. Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, tệ nạn
quan liêu, lãng phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa hiệu quả. Số đông người dân
làm nông nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thoát nghèo.
Tất cả những vấn đề đó một lần nữa lại đặt ra câu hỏi: tính XHCN của nền KTTT ở đâu?
Mặc dù từ Đại hội XI đã nhấn mạnh, vấn đề đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, coi hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến
lược…, nhưng nhiều năm đã trôi qua mà chủ trương ấy vẫn chưa đem lại thành quả như
mong muốn:
 Kinh tế vĩ mô tuy cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, còn phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức:
 Kinh tế phục hồi còn chậm, việc thực hiện tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng gặp nhiều khó khăn và chưa đáp ứng được yêu cầu.
 Những kết quả bước đầu của việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đủ để tạo
ra sự chuyển biến về chất trong đổi mới mô hình tăng trưởng.
 Chất lượng tăng trưởng chưa thật sự được nâng cao và duy trì một cách bền vững.
 Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý tài
nguyên, môi trường còn nhiều bất cập.
 Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra là
ngăn chặn, từng bước đẩy lùi.
 An ninh chính trị vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định; bảo vệ
chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức; trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều
bức xúc.
Thực tiễn cũng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN có sự khác biệt với nền KTTT tư
bản chủ nghĩa, thể hiện chính là ở chỗ ai làm chủ sức mạnh kinh tế và sức mạnh chính trị
trong một nước. Trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa: đó là giới chủ; trong nền KTTT định
hướng XHCN: đó là đông đảo nhân dân lao động. Đó là sự khác biệt duy nhất. Các mặt
kỹ thuật và tổ chức còn lại của KTTT như nguyên tắc trao đổi hàng hóa, kỹ thuật kiểm
soát nền KTTT, kỹ thuật tổ chức quản lý để nền kinh tế quốc dân nói chung, mỗi tổ chức
kinh tế nói riêng hoạt động ở trạng thái hiệu quả đều có thể chung nhau giữa hai loại
nước (KKTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng XHCN) vì đó là thành quả tiến hóa
mang tính nhận thức và khoa học của loài người.
Vì thế, muốn xây dựng nền KTTT định hướng XHCN trong điều kiện hiện nay, nhất thiết
cần làm tốt một số công việc sau:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Phải thấy rõ,
KTTT là thành quả phát triển hàng nghìn năm của nhân loại và đạt được tốc độ phát triển
đột biến khi chuyển sang nền kinh tế dựa trên nền tảng công nghiệp cơ khí sản xuất hàng
loạt. Chỉ có phát triển KTTT ở trình độ cao, mới có thể hoàn thành quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với một cơ cấu kinh tế chuyên môn hóa sâu dựa trên lợi thế cạnh tranh.
Sự nỗ lực đó chính là nhằm tăng năng suất lao động và chuyên môn hóa sản xuất là con
đường tất yếu khách quan. Vấn đề là phải tìm được các ngành có lợi thế cạnh tranh.
Thứ hai, không ngừng tạo ra các quy chế đảm bảo tính tổ chức và văn minh của các giao
dịch trên thị trường, nhất là về phương diện giảm thiểu chi phí và rủi ro cho các chủ thể
kinh tế, trong đó chú ý tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cung cấp thông tin về sản phẩm,
kỷ luật hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt… Từng bước phát triển các phương
thức giao dịch phái sinh và hỗ trợ (giao dịch tương tác, bảo hiểm…).
Thứ ba, giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào giá cả để tăng cường điều tiết thông qua
các công cụ thị trường như doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các loại hình
doanh nghiệp khác; Nhà nước sử dụng chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế
để điều tiết phân bổ nguồn lực và phân phối của cải xã hội...
Thứ tư, tìm kiếm các mô hình kinh tế tập thể hấp dẫn hộ gia đình. Trong khi chưa thể có
kết luận rõ ràng về chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất thì các doanh nghiệp nhà
nước hiện tại cần thực hiện theo ba hướng:
1) Nếu là doanh nghiệp nhà nước sản xuất hàng hóa công cộng thì hoặc quản lý nó như
một đơn vị sự nghiệp, hoặc cho đấu thầu đơn hàng sản xuất theo gói hỗ trợ của Nhà nước.
2) Các doanh nghiệp còn lại phải định hướng theo tiêu chí hiệu quả kinh tế cá biệt trong
so sánh và cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác cùng ngành. Có thể
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phù hợp; hoặc có thể cho giải thể, phá sản doanh
nghiệp quá yếu kém đi đôi với xem xét trách nhiệm của cá nhân cán bộ quản lý.
3) Thiết lập cơ chế kiểm soát tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp theo một cách chặt
chẽ, phù hợp với thực tiễn.
Thứ năm, kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước trong sạch,
thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm phục vụ và giải trình
của công chức. Trọng trách của Đảng là phải lãnh đạo thành công công cuộc cải cách này
và phải thu hút, đào tạo được các công chức trong sạch, tài năng, thích hợp với chức trách
được giao. Tạo cơ chế để nhân dân tăng cường giám sát đảng viên, công chức (tổ chức các
kênh thông tin cung cấp bằng chứng sai trái của công chức, tổ chức bảo vệ có hiệu quả
nhân chứng, tăng cường trách nhiệm phản biện của công luận, nhất là báo chí, truyền
thông,…).
Thứ sáu, tăng cường vị thế của đất nước trên thị trường thế giới bằng chính sách đối
ngoại mềm dẻo, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề còn lại, như xây dựng kết cấu hạ tầng; đổi mới, nâng cao chất lượng đào
tạo nghề; nâng cao nhận thức lý luận của Đảng; nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh
đạo của Đảng; kiện toàn luật pháp và bộ máy quản lý nhà nước; hoàn thiện hệ thống
chính sách… là những vấn đề lâu dài, cần thiết kế những bước đi ngắn hạn tích cực,
nhưng biết lựa chọn mục tiêu đầu tư để đạt hiệu quả dài hạn lớn nhất. Không thể nóng vội
làm một lần là xong.
Thực tiễn đã kiểm nghiệm rằng, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, một cách
chuẩn tắc ở Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, nặng nề, lâu dài xét ở góc độ điểm xuất
phát từ một nước kém phát triển. Vì thế, cần và có thể xây dựng các kế hoạch đổi mới đất
nước và kiên định thực hiện nó để nâng dần trình độ phát triển của KTTT nước ta.
Tuy nhiên, cũng không thể coi nhẹ việc cải cách để cho các quan hệ trao đổi hàng - tiền
có điều kiện thuận lợi phát triển. Niềm tin của người dân vào tiền, với tư cách phương
tiện lưu thông và việc dùng tiền để đo lường giá cả của các hàng hóa đem ra trao đổi là
một thành quả của phát triển các quan hệ xã hội của con người. Nhờ trao đổi hàng hóa
mà hình thành thị trường. Đến lượt mình, thị trường, thông qua giá cả, cung - cầu có thể
điều tiết hành vi của hàng tỷ con người mà không cần một bộ máy đồ sộ với chi phí
không nhỏ của ủy ban kế hoạch nhà nước. Hơn nữa, dưới sự điều tiết của cơ chế thị
trường, mỗi người cảm nhận được quyền tự do lựa chọn của họ và tự nguyện nhận trách
nhiệm về các hành vi của mình thông qua thưởng phạt của các quan hệ thị trường.
Nhà nước phải đặt ra và đảm bảo sự tuân thủ các quy chế phòng ngừa gian lận, nhất là
gian lận trên thị trường tài chính, để duy trì cạnh tranh công bằng, để bảo vệ người tiêu
dùng, bảo vệ môi trường sống chung, bảo vệ lợi ích quốc gia…
Ở đây, tính hiệu quả và công tâm của Nhà nước có vai trò quan trọng. Chúng ta thấy, bản
chất XHCN của Nhà nước là bắt buộc trong nền KTTT định hướng XHCN. Bản chất ấy,
trước hết phụ thuộc vào bản chất XHCN của Đảng Cộng sản cầm quyền - Đảng đại diện
cho lợi ích của nhân dân lao động lãnh đạo Nhà nước. Một đảng mang bản chất XHCN
trong điều kiện quá độ ở Việt Nam không những phải ủng hộ các chính sách có lợi cho
người lao động, mà cao hơn, phải đủ sức đào tạo, giáo dục và dẫn đắt người lao động đi
lên CNXH. Vì thế, Đảng đó phải có lý luận dẫn đường, có đường lối phát triển kinh tế -
xã hội hiệu quả, có uy tín và khả năng thuyết phục dân chúng tin tưởng thực hiện đường
lối đó, có được sự ủng hộ của người lao động hậu thuẫn cho Đảng trong cuộc đấu tranh
với các hệ tư tưởng - đảng phái khác (cả ở trong và ngoài nước). Đảng mang bản chất
XHCN cũng phải tập hợp được giới quản lý ưu tú của dân tộc trong bộ máy nhà nước để
lãnh đạo thành công công cuộc phát triển triển đất nước. Nếu lòng tin của người lao
động với Đảng bị phai mờ, nếu công chức là đảng viên không vì sự nghiệp của người
lao động mà vì lợi ích có tính bè phái, nếu Đảng không thu phục được những người giỏi
nhất, thì sự lãnh đạo của Đảng đứng trước nhiều thách thức, và đương nhiên hiệu quả sẽ
không cao.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không có nghĩa Đảng làm thay Nhà nước. Nhà nước là
một thiết chế, một sản phẩm của nhân loại, có lẽ còn có lịch sử phát triển lâu đời hơn
KTTT và Đảng Cộng sản. Đặc biệt, trong chế độ dân chủ cộng hòa, Nhà nước có những
nguyên tắc và cơ chế vận hành của nó mà chúng ta phải tuân thủ. Nhưng nguyên tắc tối
cao là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực của Nhà nước. Các cơ quan của Nhà nước
phải kiểm soát lẫn nhau. Trên hết, Nhà nước phải hoạt động có hiệu lực và hiệu quả vì lợi
ích quốc gia, vì lợi ích của nhân dân lao động.
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN là con đường hiện thực và tối ưu đối với dân tộc
Việt Nam. Tuy nhiên, những thiết kế cụ thể để mô hình đó hoạt động hiệu quả còn là
thách thức trước Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Song, trên góc độ nhận thức luận,
không còn nghi ngờ gì về con đường đã chọn. Vấn đề là kiên định mục đích, linh hoạt
trong phương thức thực hiện, coi mục tiêu phát triển bền vững và ưu tiên lợi ích của nhân
dân lao động là những tiêu chuẩn tối cao cho các lựa chọn chính sách của Đảng.
2. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng
bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”. “Thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng
bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải
phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt
bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới, chúng ta
đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào
kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế.
* Thành tựu:
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập
trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng
GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình
quân đã đạt 8,2%/năm. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai
đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt
Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế
mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức
tăng trưởng âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh
tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 - 2020)
tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và
thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì
đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về
vật chất và tinh thần, năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các
cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương
thực, lao động - việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng
kinh tế vĩ mô. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm
1990 xuống còn dưới 6% năm 2018; hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ
năm 2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được
xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về
phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao
hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
* Hạn chế
Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn
còn nhiều hạn chế, yếu kém. Cụ thể là:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những
bất cập trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được
tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực
lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh
tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa công
bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ
nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân
cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng
lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố
tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của
chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động
xấu tới đời sống xã hội.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng,
hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”. “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng
và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường
đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động,
quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính;
đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám
sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII).
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII). Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực
kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập
trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khuôn khổ pháp luật,
môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới,
mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản
trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy
quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách
nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành.
Xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế thúc đẩy quá trình chuyển
đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo
“Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền
sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động
kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị
trường”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII ). Xây dựng, hoàn thiện khung
khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số,
kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ
công, quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và
quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực
theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh,
thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể
chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã
hội và bảo vệ môi trường.
Có thể khẳng định, lý luận và thực tiễn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Mới đây, trong bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan
trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Điều này không chỉ tạo tiền đề xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam mà còn góp phần bổ sung, phát triển
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới.
KẾT LUẬN
Sau năm 1986 nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi mô hình kinh tế này là tất
yếu khách quan. Nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đồng thời nó cũng phù
hợp với thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Chủ nghĩa tư bản đã biết vận dụng vai trò to lớn của kinh tế thị trường để phát triển kinh
tế thì chúng ta cũng phải biết vận dụng vai trò to lớn đó để phát triển niền kinh tế của
chính mình.
Cũng giống với các nước tư bản chủ nghĩa khác nước ta cũng sử dụng sự điều tiết của cơ
chế thị trường cùng với sự điều tiết của nhà nước. Nhưng khác với các nước đó là chúng
ta phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Chính vì vậy vai trò của nhà nước ngoài vai trò điều tiết nền kinh tế nhằm sửa
chữa những khuyết tật của cơ chế thị trường cùng với vai trò tạo môi trường ổn định cho
cơ chế thị trường phát triển thì nhà nước còn phải đảm bảo nền kinh tế phát triển đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa chủ biên, cùng tập thể tác giả là những nhà nghiên cứu, nhà
giáo dục có nhiều kinh nghiệm tổ chức biên soạn “Giáo trình kinh tế chính trị Mác-
Lennin”
[2] Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và
định hướng xây dựng... (moj.gov.vn)
Nội dung chủ yếu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam (baclieu.gov.vn)
[3] Copyright(c) 2019 Acomm(http://www.acomm.com.vn). (n.d.). Thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta | Tạp chí Tuyên giáo.
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/thuc-tien-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-
huong-xhcn-o-nuoc-ta-125313
[4] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823673/mot-so-van-de-
ly-luan-va-thuc-tien-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-
nam.aspx

You might also like