You are on page 1of 69

Câu 1: Phân tích những đặc điểm cơ bản của mô hình kinh tế tổng quát suốt thời kỳ quá

độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Ý nghĩa của mô hình đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay?
1. Mô hình kinh tế tổng quát:
Trong kinh tế học, mô hình là một cấu trúc lý thuyết đại diện cho các quá trình kinh tế bằng một tập hợp
các biến và một tập hợp các mối quan hệ logic và/hoặc định lượng giữa chúng. Mô hình kinh tế tổng quát
là cấu trúc kinh tế tổng quát cho cả nền kinh tế.
2. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện từ xã
hội cũ sang xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nó diễn ra trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra
các tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết, được chia làm nhiều bước quá độ nhỏ, bao nhiêu bước là tùy
thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Song đối với các nước càng lạc hậu mà đi lên CNXH thì thời kỳ
quá độ càng kéo dài và càng chia làm nhiều bước quá độ nhỏ. Thời kỳ quá độ bắt đầu từ khi giai cấp vô
sản giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội.
Đấu tranh giai cấp quyết liệt trong tương quan mới, với những nội dung mới và những phương pháp mới,
nhằm cải tạo triệt để, toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội mới CNXH về căn bản trong tất cả các lĩnh vực.
Do đó, thời kỳ quá độ lên CNXH đương nhiên gặp khó khăn, phức tạp và phải lâu dài. Tuy vậy, khó khăn
trong thời kỳ quá độ là khó khăn trong sự trưởng thành, khó khăn nhất định sẽ vượt qua được.
Trước năm 1986, giống nhiều nước khác trong khối xã hội chủ nghĩa chúng ta áp dụng mô hình chủ
nghĩa xã hội kiểu Xô Viết. Với những đặc trưng chủ yếu là: Xây dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng
sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, thực hiện cơ chế kế
hoạch hóa tập trung và bao cấp, coi kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa.
=> Mô hình đã giải quyết được những nhu cầu cần thiết trong thời kỳ có chiến tranh, nhưng cũng dần bộc
lộ nhiều khuyết điểm, tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn.
Nhận thấy Cuối năm 1986, tại Đại hội VI, với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật", Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm
được; phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra một bước
ngoặt có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đảng đã quyết định chuyển từ mô hình xã hội tập trung bao cấp sang một mô hình kinh tế xã hội mới,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và mô hình ấy vẫn được áp dụng cho nền kinh hiện nay.
II. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Sau khi thấy được tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, trong khoảng
thời gian chưa thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ được diễn ra trước tiên ở Miền Bắc. Tiến trình này
bắt đầu từ năm 1954 ngay sau khi miền Bắc được giải phóng.
Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền Nam Bắc. Khi đó, sự thống nhất trong
vai trò lãnh đạo của Đảng đã đặt ra mục tiêu tập trung phát triển đất nước về mọi mặt. Trước tiên là khôi
phục kinh tế, xã hội và tiến hành đi lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy đến năm 1975, cả nước ta cùng tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội, diễn ra với các chính
sách cần thiết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ
Sau 15 năm đổi mới, nghiên cứu tìm tòi, tổng kết lý luận và thực tiễn, đồng thời đạt được nhiều
kết quả, Đại hội lần thứ IX (4/2001), chính thức đưa ra khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. M ô hình kinh tế thị trường định hướng theo XHCN là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, nó phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của Việt Nam;
là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Động lực để phát triển đất nước chính là đại đoàn kết toàn
dân tộc, coi trọng khuyến khích cả vật chất và tinh thần, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, tập thể và
toàn xã hội.
Thứ nhất, đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị
trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển.
Như vậy, chúng ta không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội
phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc người có công, người có hoàn cảnh khó khăn. Nền kinh tế độc lập tự
chủ trước hết phải độc lập tự chủ về chính sách, đường lối, đồng thời tiềm lực kinh tế phải đủ mạnh và có
sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc để đảm bảo sự phát triển
lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa là, chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm
giá con người. Nhà nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho
phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công
khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương, các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của
kinh tế thị trường. Nhà nước còn hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội quan trọng; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước quản lý kinh tế bằng hệ thống pháp luật, tác động vào thị
trường thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường
trong nước khi cần thiết, không trái với các cam kết hội nhập. Nhà nước còn thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ
trợ phát triển, không phân biệt hình thức sở hữu, đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối với một số
mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt sẽ được Nhà nước quan tâm bồi dưỡng, đào tạo và tuyên
dương.
Thứ hai, chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền
văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là một nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây
dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
Thứ ba, xã hội định hướng Xã hội Chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên
nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so
với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều
kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Các chính sách xã hội và chính
sách ưu đãi xã hội được thực hiện để bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng, hỗ
trợ lúc khó khăn.
Thứ tư, đây là nền kinh tế thị trường có sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà
nước pháp quyền XHCN, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng; không phải là sự gán ghép
khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và tự giác vận dụng
sáng tạo xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp thu có chọn lọc
thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai trò tích cực của nền kinh tế thị
trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát trong nền kinh tế thị trường, nhằm thực
hiện có kết quả mục tiêu từng bước quá độ lên XHCN chủ nghĩa xã hội.
Thứ năm, quan hệ sản xuất là một yếu tố không ngừng được đổi mới và hoàn thiện trong nền kinh tế
này. QHSX không ngừng được thay đổi để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nhằm giải phóng triệt để và thúc đẩy mạnh toàn bộ lực lượng sản xuất. Qua đó cải thiện được đời
sống của nhân dân, nâng cao đồng thuận trong xã hội, tạo động lực thu hút nguồn đầu tư cả trong và ngoài
nước cho phát triển và giữ vững được ổn định chính trị - xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất chính là
động lực chính để không ngừng hoàn thiện và đổi mới QHSX.
Thứ sáu, về chủ thể và chủ đạo trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần phải thực hiện chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trên cơ sở đa dạng hóa các quan
hệ sở hữu. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Thứ bảy, về thị trường, cần phải hình thành và phát triển hệ thống thị trường Việt Nam, như thị
trường hàng hóa – dịch vụ, thị trường đất đai, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ…
Thứ tám, nền kinh tế được xây dựng một cách độc lập tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực và ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới thành nguồn lực tổng hợp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh và bền
vững. Trong đó, nội lực là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, ngoại lực hay các nguồn lực bên ngoài
thì giúp phát huy nội lực mạnh mẽ hơn. Hội nhập và hợp tác quốc tế dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi;
giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc
IV. Ý NGHĨA MÔ HÌNH KINH TẾ TỔNG QUÁT ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Về lý luận, kinh tế thị trường là sản phẩm của nhân loại, được hình thành, phát triển gắn liền với
quá trình xã hội hóa sản xuất. Với những đặc trưng riêng, kinh tế thị trường có những ưu thế hơn hẳn so với
kinh tế tự nhiên và cơ chế quản lý hành chính, bao cấp. Cơ chế thị trường rất năng động, đáp ứng nhanh
nhất, tốt nhất các nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất
lượng sống của con người. Kinh tế thị trường sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả; duy trì động lực
mạnh mẽ cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.
Tiếp theo đó, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phục vụ mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Việc "can thiệp" của nhà nước đối với nền kinh tế là cần
thiết, tất yếu nhằm khắc phục các khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường, đồng thời tạo môi trường thuận
lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, định hướng nền kinh tế.

Về thực tiễn, từ năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, tạo động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Sau 35 năm thực hiện cơ chế kinh tế mới, nền kinh tế - xã hội nước ta đã
phát triển năng động, năng suất lao động tăng trưởng nhanh hơn, lợi ích của các chủ thể được đáp ứng, đời
sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Cụ thể là, Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên
thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7 lần,
đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ hơn 70%
xuống còn dưới 6%. Số hộ nghèo hiện nay chủ yếu tập trung ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một bằng chứng sinh động và thuyết phục là, năm 2020 là năm "bóng tối" bao phủ nền kinh tế
thế giới, kể cả những nền kinh tế lớn, song nền kinh tế Việt Nam vẫn nổi lên như một điểm sáng đáng tự
hào. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề, nền kinh tế nước ta không những
không bị suy thoái, mà tổng sản phẩm (GDP) trong nước vẫn tăng 2,91%, đưa Việt Nam vào nhóm nước
có tăng trưởng cao nhất thế giới.
Như vậy, việc can thiệp, định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường những năm
qua đã mang lại những lợi ích rất thiết thực, cụ thể, hiệu quả, giúp cho nền kinh tế tránh được những rủi
ro và tăng trưởng trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức. Những con số biết nói, sự tiến bộ trên mọi
mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục, y tế… chính là một hiện thực không thể phủ nhận.

Câu 2: Tại sao nói chủ trương “Kháng chiến, kiến quốc” của Đảng những năm 1945-
1946 lại là tư tưởng chiến lược mới, giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chỉ
đạo chiến lược, sách lược của CMVN?
1. Hoàn cảnh lịch sử:
a) Hoàn cảnh lịch sử thế giới:
- Sau CTTGII, tình hình TG có nhiều thay đổi. Uy tin và địa vị của Liên Xô ngày càng lớn mạnh và nâng
cao trên trường quốc tế
- Phong trảo cách mạng giải phóng dân tôc có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Đồng thời, phong trào dân
chủ va hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ, tạo điều kiện cho phong trào GPDT trên TG
b) Hoàn cảnh lịch sử tại VN:
- CMT8 thành công tốt đẹp, nước VNDCCH ra đời qua sự kiện Chủ tịch HCM đọc bản Tuyên ngôn độc
lập vào ngày 02/09-1945 tại Quảng trường Ba Đình
- Thắng lợi của CMT8 cũng đồng thời giúp nước ta có thêm vị thể mới, Đảng ta từ một Đảng hoạt động
bất hợp pháp trở thành Đảng cầm quyền. Nhân dân được giải phóng khỏi ách nô lệ và đứng lên làm chủ
đất nước
- Song song, nước ta vẫn còn đứng trước những khó khăn nhất định về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Đồng thời là sự thách thức của “thù trong giặc ngoài”
 Một nền kinh tế xơ xác, nghèo nàn cùng với nhiều tàn dư của chế độ phong kiến
 95% dân số thất học cùng với nạn đói năm 1945 khiến hơn 2 triệu người dân VN bỏ mạng
 Âm mưu quay trở lại xâm chiếm VN một lần nữa của thực dân Pháp
 Tại miền Bắc: 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là “Việt quốc, Việt cách”.
Chúng thành lập chính quyền ở khắp nới, cướp bóc giết người và chống phá chính quyền CM
 Tại miền Nam: quân Anh dưới danh nghĩa quân Đồng minh kéo vào nước ta tiếp tay cho Pháp
trở lại xâm lược VN
 Trước tình thế cấp bách đó, 25/11/1945, Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” của ĐCS Đông
Dương được thông qua, kịp thời giải quyết những vấn đề quan trọng về chỉ đạo chiến lược,
sách lược của Cách mạng VN.
2. Phân tích
Sau khi phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước. TW Đảng nêu rõ nhiệm vụ
chủ yếu trước mắt của nhân dân ta là củng cố chính quyền, chống TD Pháp xâm lược, bài trừ nội phản và
cải thiện đời sống người dân.
Về chính trị:
 Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, chống TD Pháp xâm lược và xây dựng Đất nước, củng cố chính
quyền nhân dân
 Tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp
 Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng
 Xây dựng và cải tạo bộ máy chính quyền trong sách, dân chủ, gạt bỏ các thói hư, tật xấu như tư tùng,
cậy thế, hù hóa..
Về quân sự:
 Động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức các cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích
kết hợp với phương pháp hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng
 Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng nằm tăng cường thực lực cách mạng
 Tăng cường hỗ trợ, chi viện miền Nam từ tiền tuyến, hậu phương miền Bắc
Về ngoại giao:
 Kiêm trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc ”bình đẳng, tương trợ”
 Chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên
tắc” với quân Tưởng
 Chủ trương độc lập về chính trị và nhân nhược về kinh tế với Pháp
Về kinh tế:
 Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói thông qua việc thúc đẩy nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm,
lập Hũ gạo tiết kiệm
 Bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ
 Mở lại các nhà áy, công xưởng, hầm mỏ. Đồng thời cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các
nhà máy, công xưởng đó
 Việc sửa chữa đê điều được khuyến khích.
 Lập ngân hàng, phát hành giấy bạc….
Về văn hóa:
 Phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt
 Vận dụng người dân xây dựng nếp sống mới, đẩy lùi các tệ nạn xã hội tồn dư cũ..
 Có thể nói, chỉ thị là bước đi hợp lý và sảng suốt, cần thiết cho nước ta sau khi giành chính quyền nhằm
củng cố bộ máy chính quyền, giải quyết các vấn đề khó khăn của quần chúng nhân dân và đồng thời là
tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng
 Nhìn chung, chỉ thị đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, sách lược của Đảng ra và nó thực sự trở thành ảnh
sáng soi đường của toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc.

Câu 3: So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với con đường cứu nước
trước đó? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc lại lựa chọn con đường CM vô sản?
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Hoàn cảnh lịch sử thế giới
CN tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền
Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước TBCN, phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh chung chống tư
bản, thực dân
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và có
tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước VN
Thắng lợi của CM10 Nga và những hoạt động cách mạng của Quốc tế cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ
và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong đó có nước ta.
b) Hoàn cảnh lịch sử nước ta
1858, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta tại Đà Nẵng và từ đó từng bước thôn tính Việt Nam
Đó cũng là thời điểm chế độc phong kiến VN lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng
VN chính thức trở thành thuộc địa của Pháp sau khi triều đình nhà Nguyễn ký kết hiệp ước Patonot năm
1884.
Thực dân Pháp tiến hành xây dựng bộ máy chính quyền nhưng vẫn song song duy trì chính quyền phong
kiến => Xã hội VN lúc bấy giờ là xã hội thuộc địa nửa phong kiến
Các chính sách, chế độ cai trị bóc lột dã man của thực dân Pháp đã dẫn đến sự thay đổi về chính trị, kinh
tế, xã hội. Các giai cấp bị phân hóa và một số tầng lớp mới ra đời. Kéo theo đó là mâu thuẫn giữa toàn dân
VN và thực dân Pháp ngày càng trở nên gay gắt.
Sự xuất hiện của những luồng tư tưởng bên ngoài đã góp phần hình thành nên các cuộc đấu tranh của
nước ta. Hầu hết các phong trào đấu tranh đều diễn ra mạnh mẽ song vẫn thất bại.
2. So sánh con đường cứu nước
Thứ nhất, về tư tưởng cách mạng:
Các phong trào đấu tranh của nước ta trước khi có Đảng nổ ra với sự mạnh mẽ, tiêu biểu trong số đó là
khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu; xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức và xu
hướng cải cách của Phan Châu Trinh.
Trước hết, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thá, lựa chọn con đường lập trường phong kiến. Xu
hướng bạo động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đi theo con đường dân chủ tư sản, chịu tác động
bởi Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và dân chủ tư sản trên thế giới.
Trong khi Bác lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản thông qua sự kiện năm 1920, Bác đã đọc sơ
hảo bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.Lenin
Thứ hai, mục tiêu đấu tranh
Trong khi mục tiêu của khởi nghĩa Yên Thế là chống chính sách cướp bóc, bình định của thực dân Pháp,
giữ đất giữ làng; mục tiêu của xu hướng bạo động PBC là giải phóng dân tộc (cứu nước rồi mới cứu dân) và
xu hướng cải cách PCT là tiến hành cải cách xã hội (cứu dân rồi mới cứu nước) thì mục tiêu của Hồ Chủ
Tịch chính là tiến hành song song vừa cứu nước vừa cứu dân
Thứ ba, hướng ra đi tìm đường cứu nước
Trong khi Phan Bội Châu chọn đi sang phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản) và lựa chọn dựa vào Nhật
để kháng chiến chống Pháp. Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng biện pháp cải cách, dựa vào Pháp
để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại. Hoàng Hoa Thám thực tê hơn khi trực tiếp đấu tranh chống
Pháp.
Bác đã hướng sang phương Tây, đi qua các nước Pháp- Anh- Mỹ và một số nước châu Âu khác để thấu
hiểu sâu sắc, cặn kẽ bản chất của chủ nghĩa thực dân để rồi tìm ra được con đường cứu nước cho nước ta.
 Như vậy, có thể thấy được rằng, dựa trên hoàn cảnh thực tiễn lịch sử đất nước lúc bấy giờ cùng với thực
tiễn các cuộc đấu tranh của các bậc tiền bối đi trước đã khiến cho Bác có những suy nghĩa khác biệt và
tìm ra con đường cứu nước thông qua con đường cách mạng vô sản.
3. Lý do Bác chọn con đường cách mạng vô sản
Thứ nhất, do hoàn cảnh thực tiễn nước ta lúc bấy giờ
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách độ của thực dân Pháp; người dân bị chèn ép, bóc lột sức lao
động một cách nặng nề. Cuộc sống của nhân dân ta lâm vào cảnh tù túng, túng quẫn, sự sụp đổ và dột nát
của chế độ và ách đô hộ của thực dân Pháp ngày càng gay gắt. Xã hội phân hóa sâu sắc và mâu thuẫn của
toàn thể nhân dân ta với bọn thực dân Pháp và tay sai đang ngày càng gay gắt. Các cuộc đấu tranh, khởi
nghĩa nổ ra mạnh mẽ song đều kết thúc trong sự thất bại. Chính điều này đã tác động đến Người trong quá
trình tìm ra con đường cứu nước cho nhân dân ta.
Thứ hai, bài học thực tiễn từ các bậc tiền bối
Khởi nghĩa Yên Thế do HHT lãnh đạo với tư tưởng nặng cốt cách phong kiến, mặc dù thành công nhưng
lại bất lực trước chính hệ tư tưởng phong kiến mà thất bại thảm hai. Hay xu hướng bạo động của PBC, PCT
mặc dù đi theo con đường dân chủ tư sản song tư tưởng đó đã lỗi thời và không còn hữu hiệu đối với nước
ta. Cộng thêm việc thiếu đường lối chính trị đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một giai cấp tiên tiến
đã dẫn đến sự thất bại cho các cuộc đấu tranh đó.
 Như vậy, thực tế cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ
lịch sử đặ ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc
 Đây cũng chính là khoảng thời gian CMVN khủng hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo. Đặt ra bài
toán đâu mới là con đường cứu nước đúng đắn nhất cho nước ta.
Thứ ba, tác động của Cách mạng tháng 10 Nga
Người đã khẳng định CMT10 Nga là tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức, nó
như “một tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỳ nay”. Đồng thời, những chính
sách tiến bộ của nó thực ự đem lại lợi ích cho đông đâỏ quần chúng nhân dân, nó chứng tỏ được sự tiến bộ
của hình thức này.
Thứ tư, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, NAQ bỏ phiếu tán thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia
thành lập ĐCS Pháp. Đây được coi là sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
người- từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Thứ năm, xuất phát từ tấm long yêu nước thương dân
Đa phần người dân VN lúc bấy giới là nông dân và họ thuộc giai cấp vô sản. Trong giai đoạn đó, có hơn
90% người dân VN là nông dân. Họ có phần lớn cuộc sống vât vả, chịu nhiều sự áp bức, bóc lột từ địa chủ,
thực dân… Và họ cũng đồng thời là tầng lớp có ý chí chiến đấu kiên cường nhất. Cộng hòa với những thành
quả, thành công mà CMT10 Nga đem lại cho đồng bào Nga, Bác lại càng kiên định với con đường cứu
nước của mình và niềm tin vào ý chí chiến đấu của nhân dân, đồng bào mình.
Như vậy, NAQ đã kiên định, bỏ qua cái nhìn hoài nghi của tất cả mọi người về con đường này mà từng
bước chứng minh, đem lại thành quả cho đất nước và đồng bào thông qua năm 1930, ĐCS Việt Nam thành
lập- đánh dấu sự thắng lợi của khuynh hướng CM vô sản. CMT8 thành công đã đem lại mục tiêu ban đầu
mà Bác hướng đến đó là giành lại độc lập dân tộc, giành lại ruộng đất cho nhân dân và một lần nữa khẳng
định tính đúng đắn của con đường cách mạng vô sản.

Câu 4: Tại sao chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước của ĐCS Đông Dương
tại Hội nghị TW8 (05-1941) lại trở thành một trong những động lực thúc đẩy công cuộc giải phóng
dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
1. Hoàn cảnh lịch sử
a) Hoàn cảnh lịch sử thế giới
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, tiến công vào phong trào hòa bình, dân chủ, tiến bộ.
Chiến tranh thế giới 2 bùng nổ bằng sự kiện phát xít Đức tấn công Ba Lan kéo theo 72 nước tham gia
vào cuộc chiến tranh trong đó có đế quốc Pháp. Tại Pháp, mặt trận bình dân Pháp tan vỡ, ĐCS Pháp bị đặt
ra ngoài vòng pháp luật. Những chính sách của mặt trận bình dân Pháp ban bố trước đó bị phế bỏ kéo theo
đời sống của nhân dân các nước thuộc địa bị kìm kẹp
b) Hoàn cảnh lịch sử Đông Dương và Việt Nam bấy giờ
Tại Đông Dương, Pháp thi hành chính sách thời chiến trắng trợn, tăng cường đàn áp, đặt ĐCS Đông
Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó.
Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22 tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ
vào Hải Phòng. Ngày 23 tháng 9 năm 1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật, mọi hoạt động
kinh tế ở Đông Dương đều bị chiến tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hoá. Từ đó, nhân dân ta
chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật.
Các chính sách phản động của thực dân Pháp và đế quốc Nhật đã đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than,
ngột ngạt về chính trị và bần hàn về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc ra với đế quốc, phát xít Pháp- Nhật trở
nên gay gắt hơn bao giờ hết.
2. Nội dung Hội nghị TW Đảng lần thứ 8
Như vậy, trước tình hình trong nước và quốc tế đang diễn ra, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định trở về nước
và chủ trì Hội nghị Lần thứ 8 BCHTW Đảng.
Có thể tóm lược nội dung của Hội nghị như sau:
Thứ nhất, Hội nghị đã xác định amau thuẫn cấp bách và cần được giải quyết tại thời điểm bấy giờ là
mâu thuẫn giữa dân tộc ra và đế quốc phát xít Pháp- Nhật.
Thứ hai, Xác định nhiệm vụ đánh đuổi Pháp- Nhật là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông
Dương. Vì lẽ đó mà tính chất cuộc CM ở Đông Dương lúc đó là cuộc cách mạng giải pháp dân tộc. Và đó
là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu. Ngoài ra, chủ trương đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày, thay
bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
công, giảm tô, giảm tức.
Thứ ba, Hội nghị thông qua và quyết định thành lập mỗi mặt trận riêng ở ba nước Đông Dương đó là
VN, Ai Lao và Cao Miên độc lập đồng minh. Từ đó nhấn mạnh rằng, các dân tộc trên bán đảo Đông Dương
đều phải thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung Pháp- Nhật khỏi bờ cõi Đông Dương.
Thứ tư, Hội nghị đưa ra quyết định các dân tộc ở Đông Dương có thể thành lập Liên bang Cộng hòa
Dân chủ Đông Dương hoặc thành các quốc gia riêng trên tinh thần “tự quyết dân tộc” sau khi đánh đuổi
Pháp- Nhật thành công.
Thứ năm, Hội nghị đã xúc tiến ngay công tác chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm của Đảng và nhân dân. Hinh thái khởi nghĩa chính là khởi nghĩa từng phần đi đến tổng khởi nghĩa
trong cả nước nếu muốn đưa cuộc KN vũ trang đến thắng lợi.
Thứ sáu, Hội nghị đặc biệt đề cao công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo để lấy
đó làm tiền đề cho việc lãnh đạo sự nghiệp Cách mạng và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng nhân
dân.
Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông Dương là động lực thúc đẩy công
cuộc giải phóng dân tộc trên bán đảo Đông Dương vì 4 lý do như sau:
Thứ nhất, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng từng nước
Trong Hội nghị đã nêu rõ và khẳng định tầm quan trọng của việc thi hành đúng quyền tự quyết dân tộc đối
với các nước trong khuôn khổ Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một măt trận dân
tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam mặt trận này lấy tên gọi là “Việt Nam độc lập đồng minh” hay còn gọi là
Mặt trận Việt Minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh và
Campuchia xây dựng Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Điều này cho thấy sự toàn quyền thành lập và
tiến hành cai quản mặt trận dân tộc tại từng nước. Nó phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của từng nước khi
có cho mình từng mặt trận riêng và đoàn kết, liên hợp với toàn thể nhân dân, xây dựng khối đoàn kết dân
tộc, tăng cường sức mạnh nội tại để đấu tranh vì quyền lợi, độc lập, tự do cho người dân và đất nước.
Thứ hai, phù hợp với bối cảnh chung của thế giới
Năm 1939, khi CTTGII bùng nổ, phát xít Đức lần lượt chiếm các nước Tây Âu, ở châu Á, phát xít Nhật
đánh chiếm Trung Quốc. Chủ nghĩa phát xít đang đe dọa đến sự tồn vong của loài người. Trong bối cảnh
đó, Quốc tế Cộng sản họp tìm cách đối phó với CN phát xít, kêu gọi đứng lên chống chủ nghĩa phá xít.
Đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc có những chuyển biến mới, phong trào cách mạng chống chủ
nghĩa phát xít trên toàn thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ đặc biệt dân tộc nào có sự chuẩn bị tốt, nắm
bắt đúng thời cơ sẽ giành đợc chính quyền. Nhìn thấy sự chuyển biến mau lẹ đó, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh
chóng về nước và chuẩn bị mọi tiền đề cho cuộc kháng chiến và chuẩn bị đứng lên tiến hành tổng khởi
nghĩa trên cả nước giành chính quyền, giải phóng dân tộc.
Thứ ba, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử từng nước
Thực tiễn cho thấy, trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, nhân dân ba nước trên bán đảo Đông
Dương luôn phải sống trong sự đối đầu và đứng lên bảo vệ đất nước từ những thế lực bên ngoài. Trong lúc
bấy giờ chính là sự đấu tranh lại hai tròng “đế quốc, phát xít Pháp- Nhật”. Việc hội nghị đi tới quyết định
giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương là cốt yếu muốn làm sao hoặc bằng cách
nào đó để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước. Muốn đấu tranh giành lại độc lập tự do thì tất yếu
phải có cách mạng giải phóng dân tộc. Để từ đó mà các nước nhận thức được hoàn cảnh đang diễn ra một
cách khắc nghiệt tại nước mình mà đứng lên đấu tranh, giành lại độc lập dân tộc.
Thứ tư, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc chính là việc thoát ra khỏi tình trạng nô lệ, bị áp bức
đọa đầy bởi thực dân đế quốc và phong kiến. Nhân dân ta, đồng bào ta không sống sung sướng được ngày
nào, không được hưởng những quyền lợi mà họ vốn có được. Họ sống trong ngục tù tối tăm của sự đàn áp,
bức bách, bóc lột từ nhân quyền đến dân quyền, thậm chí là bỏ mạng ngay chính trên quê hương mình và tại
xa xứ. Đất nước ta đã phải chịu ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít; “một cổ hai tròng”
mà không biết bao giờ mới có thể thoát ra được “hai cái tròng” đó. Cũng theo Người “muốn cứu dân trước
hết phải cứu nước và cứu nước để cứu dân và giải phóng dân tộc để giành lại quyền làm chủ của nhân
dân”, “Nhân dân là gốc, là chủ của quyền lực nhà nước”. Và nhân dân các nước trong khuôn khổ Đông
Dương cũng như vậy.
Như vậy, muốn đạt được những quyền lợi đó, đòi hỏi chính bản thân nhân dân, đồng bào - là lực lượng khát
khao hạnh phúc, ý chí tự tôn độc lập và cũng là nguồn lực mạnh mẽ nhất để đứng lên đấu tranh. Và có thể
nói rằng, với chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước phù hợp với tâm tư nguyện
vọng nhân dân từng nước, kêu gọi ý chí kiên cường đấu tranh và sự dũng cảm đứng lên giành lại những
quyền lợi cho bản thân mình và cho đất nước.
Câu 5: So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước
trước đó? Tại sao trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc lại lựa chọn con đường cách mạng vô sản?

Phần 1: So sánh con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước đó
1. Giống nhau:
 Cả Hồ Chí Minh và các vị tiền bối như Phan Bội Châu đều có tư tưởng hướng ra nước ngoài để tìm
đường cứu nước .
 Đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước để tìm con đường giải phóng dân tộc
 Liên hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới

2. Khác nhau :
Bác đã từng đưa ra lời nhận định rằng “Khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan
Châu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào...”. Người
đã nhận ra những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời trong việc xác định mục tiêu, đối tượng, nhiệm
vụ cách mạng; về phương thức, phương pháp đấu tranh; về nhận thức “bạn - thù” của cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ ở Việt Nam để từ đó tìm ra con đường cứu nước hoàn toàn mới , phù hợp và đúng đắn cho dân
tộc Việt Nam.
1. Bối cảnh lịch sử đất nước
Bối cảnh lịch sử đất nước của các vị tiền bối
Trong nước: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến. Sự thống trị của
thực dân Pháp làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Từ đó, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ. Đầu thế kỷ XX, Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt
Nam , dẹp yên các cuộc nội dậy đòi độc lập trong nước . Các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến như Phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi lãnh đạo hay phong trào nông dân
Yên Thế của Hoàng Hoa Thám ,…đều bị đàn áp và thất bại hoàn toàn . Mọi quyền hành đều nằm trong tay
thực dân Pháp , chính quyền nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn. Từ thực tế nếu trên chúng ta có thể thấy rõ hệ tư
tưởng phong kiến bấy giờ đã lạc hậu, không thể lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong tình tình mới.
Ngoài nước : Thế giới có nhiều biến cố, tác động mạnh đến cách mạng Việt Nam. Đặc biệt là
Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản (1868), cuộc vận động biến pháp ở Trung Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi
(1911) và phong trào “châu Á thức tỉnh”. Bên cạnh đó Nhật Bản trước năm 1868, Nhật cũng là nước phong
kiến “khép kín” như Việt Nam ta, cũng rơi vào trường hợp bị các nước phương Tây đòi mở cửa. Nhưng
Nhật Bản sớm thức thời, kịp thời cải cách và phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa nhờ đó Nhật giữ được
độc lập và sớm cường thịnh. Nhật Bản đã có sự tác động lớn đến các nước châu Á.

2. Bối cảnh lịch sử đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh :
Trong nước: Sang đầu thế kỷ XX, đời sống các tầng lớp nhân dân càng bị bần cùng hoá khiến cho
phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Trong nước xảy ra hai loại mâu
thuẫn gay gắt là mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và tầng lớp địa chủ phong kiến và mâu thuẫn dân tộc
giữa nhân dân ta và thực dân Pháp Rất nhiều cuộc đấu tranh nổ ra và đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu
nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa tìm được
đường lối kháng chiến rõ ràng.,sự bất lực của hệ tư tưởng tư sản trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo
toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc cụ thể là các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận
dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Cách mạng Việt Nam rơi vào thời kỳ khủng hoảng
về đường lối trầm trọng điểu này là nền tảng cơ sở thôi thúc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Người cũng đã có cơ hội được chứng kiến và để từ đó rút ra kinh nghiệm từ những sai lầm của các vị tiền
bối đi trước
Ngoài nước: Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, đã xác
lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của
các dân tộc thuộc địa.Bên cạnh đó cách mạng tháng Mười Nga thành công năm 1917 đã lật đổ nhà nước tư
sản, thiết lập Chính quyền Xô viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. Với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân
tộc tự quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô viết (1922).
Có thể dễ dàng nhận thấy sự khác nhau về bối cảnh sống của chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị tiền bối đi
trước là một yếu tố quan trọng giúp Người tìm ra con đường cứu nước khác với những nhà yêu nước trước
đó .
2. Hướng ra đi tìm đường cứu nước
Các bậc tiền bối là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh thì hướng sang phương Đông tìm đường cứu
nước . Cụ thể là Phan Bội Châu lựa chọn dựa vào Nhật để kháng chiến chống Pháp , tuy nhiên Nhật cũng
là một nước đế quốc nên việc Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp chẳng khác gì “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau”. Về phần Phan Châu Trinh ông chủ trương cứu nước bằng cách dựa vào Pháp
để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến hủ bại, giành độc lập dân tộc, thực chất con đường cứu nước này
“chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, đã trực tiếp đấu tranh chống
Pháp, “nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến” mà con đường theo lập trường
phong kiến thì đã hết thời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mục đích ra đi tìm đường cứu nước hoàn toàn khác: tìm một con đường
cứu nước mới để dân tộc Việt Nam được hưởng độc lập thật sự trong đó chủ yếu phải là “đem sức ta mà
giải phóng cho ta”. Rút kinh nghiệm các vị tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh , Bác hướng sang
phương Tây và nước đầu tiên Người chọn là Pháp ,bởi vì Pháp lúc này là trung tâm của châu Âu và quan
trọng hơn đây là nước đang thống trị chúng ta, điều này thể hiện triết lý nhân sinh của người phương Đông
“Muốn bắt hổ phải vào tận hang”, muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp trước đã, Bên cạnh đó Người có trải
nghiệm thực tế phong phú để đến với con đường cách mạng vô sản. Bác có con đường trải nghiệm thực tế ở
nhiều quốc gia trên thế giới, với 30 năm bôn ba ở nước ngoài (1911-1941), bàn chân của Người đã từng in
dấu trên 3 đại dương, 4 châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ) và khoảng ba chục quốc gia. Người có cơ hội tiếp xúc
với nhiều nền văn hóa , chính trị khác nhau từ đó Người dần hiểu rõ thực chất của nền văn minh tư sản, nền
dân chủ tư sản dưới các hình thức khác nhau của nó. Mục đích sang phương Tây của Hồ Chí Minh cũng
khác và thể hiện tầm nhìn vượt trội so với những nhà cách mạng tiền bối. Phan Châu Trinh nhiều năm sống
ở Paris (Pháp) nhưng không phát hiện được bản chất của chủ nghĩa thực dân, mà còn đặt niềm tin vào con
đường “ỷ Pháp cầu tiến”. Còn Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây là để khảo sát, nghiên cứu, “xem người ta
làm thế nào”, chứ không phải đi cầu ngoại viện. Người đã hiểu rất sâu sắc bản chất của chủ nghĩa thực dân
và rút ra những nhận xét sâu sắc: xã hội thì đâu đâu cũng có cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp
bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Người đau nỗi đau chung của nhân loại và nỗi đau riêng
của người dân Việt Nam bị mất nước. Đây là điểm khác biệt lớn của Hồ Chí Minh so với những nhà yêu
nước Việt Nam tiền bối và đương thời trong việc tìm con đường giải phóng dân tộc.

3. Tư tưởng cách mạng


Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đi theo con đường dân chủ tư sản do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tam
Dân của Tôn Trung Sơn và tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản trên thế giới. Còn Hoàng Hoa Thám thì lựa
chọn con đường đi theo lập trường phong kiến.
Còn về phía Hồ Chủ Tịch người lựa chọn đi theo con đường cách mạng vô sản . Người là người đầu tiên
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng vô sản vào thực tế Việt Nam, xây dựng học thuyết giải
phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.Hồ chí
Minh đã mở đường để giải quyết tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước trầm trọng Việt Nam đầu
thế kỷ XX, đồng thời khởi động tiến trình đưa cách mạng Việt Nam hội nhập vào trào lưu cách mạng thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

4. Cách thức tiếp cận cách mạng


Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thành) đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người đề cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản
tiêu biểu nhưng Người cũng nhận thức rõ và phê phán bản chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư
sản. Nguyễn Ái Quốc nhận xét: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh
đổ phong kiến. Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc
địa”. Đây là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc khẳng định một cách dứt khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản
không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói
riêng ⟹ Người bắt gặp chân lý cứu nước của chủ nghĩa Mác-Lênin và xác định con đường cứu nước theo
con đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là con đường đi từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản.“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Phần 2: Lý do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản trong quá trình tìm đường cứu
nước giải phóng dân tộc
1. Cách mạng vô sản:
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản tiến hành, đồng
thời là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Bản chất của cách mạng là do bản chất công nhân của giai cấp đó quy
định. Cách mạng vô sản có nguyên nhân sâu xa là do lực lượng sản xuất trong xã hội đã mang tính chất xã
hội hóa cao độ không còn thích ứng với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Giai cấp vô sản còn là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội đó. Đó là giai cấp lao động trong nền sản xuất
đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn khi phát triển tới đỉnh cao đã chuyển hóa về mặt xã hội
thành cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, đưa tới cuộc cách mạng vô
sản, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, thực hiện lợi ích của giai cấp vô sản. Cách mạng vô sản khác hẳn
với những cuộc cách mạng trước đó là những cuộc cách mạng chỉ thay thế chế độ sở hữu tư nhân, chế độ
người bóc lột người này bằng một chế độ người bóc lột người khác, trong khi đó cách mạng vô sản nhờ
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất tạo ra cơ sở để giải phóng toàn thể xã hội, xóa bỏ giai cấp, xóa
bỏ chế độ người bóc lột người, biến tất cả những người lao động thành người chủ xã hội thật sự.
Việt Nam là một đất nước đất không rộng, người không đông nhưng lại ở một vị trí địa chính trị, địa chiến
lược quan trọng. Đó là cửa ngõ ra biển Đông, có đường bộ từ phương Bắc xuống các quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á. Biển Đông không chỉ giàu có, phong phú về hải sản, mà còn là tuyến đường biển sầm
uất bậc nhất thế giới. Đó là con đường đi từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương tới Ấn Độ Dương.
Chính vì vậy, trong lịch sử hàng ngàn năm dân tộc ta dường như luôn phải đương đầu với nhiều cuộc chiến
tranh xâm lược từ phương Bắc và nhiều cuộc chiến tranh, cạnh tranh giữa các nước nước lớn, phát triển cao
về địa chính trị khu vực.
Đầu Công nguyên, đó là các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 sau Công nguyên) chống lại sự thống
trị của nhà Hán; cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lược của Lý Thường Kiệt (1075-1077); cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông (1258-1288) của nhà Trần; khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) đánh đuổi
quân Minh của Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ); cuộc khởi nghĩa Quang Trung (1778-1802) đập tan quân xâm lược
nhà Thanh và Xiêm, v.v. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống quân xâm lược trước thế
kỳ XIX đầu thế kỷ XX của dân tộc ta chỉ đương đầu với những thế lực xâm lược có cùng một trình độ phát
triển nếu xét về hình thái kinh tế - xã hội (cùng ở hình thái kinh tế - xã hội phong kiến). Bước sang thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc ta đã phải đương đầu với những thế lực xâm lược phương Tây, là những nước
tư bản chủ nghĩa, có trình độ phát triển cao (xét về hình thái kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ). Năm
1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, sau nhiều lần nhượng đất, cuối cùng triều đình nhà Nguyễn
đã đầu hàng, chấp nhận sự thống trị của Pháp đối với Việt Nam và 2 nước Lào, Cam-pu-chia. Với truyền
thống anh hùng, bất khuất và sức sống mãnh liệt trong suốt giai đoạn bị thực dân Pháp đô hộ (1885-1945),
dân tộc ta đã nhiều lần đứng lên tiến hành các cuộc khởi nghĩa hướng đến mục tiêu giành lại độc lập dân
tộc. Đó là phong trào Cần Vương (1885-1888) do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Thế
(1884-1913) do Hoàng Hoa Thám tổ chức, lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1927) do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo, v.v. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa ấy đều thất bại, chỉ đến khi người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5-6-1911 ở bến cảng Nhà Rồng, bôn ba
hàng năm trời bên Phương tây thì khi ấy con đường cứu nước đúng đắn nhất mới xuất hiện. Người đã từng
trả lời nhà văn Mỹ, Anxa Lu-y Xtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này
thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì nghĩ là Anh,
có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao tôi sẽ
trở về giúp đồng bào tôi”. Vậy đâu là những lý do khiến Hồ chủ tịch quyết định chọn con đường vô sản chứ
không phải con đường khác?

2. Lý do khiến Hồ chủ tịch quyết định chọn con đường vô sản


1. Từ thực tiễn đất nước:
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than nô lệ, Việt Nam là nước thuộc địa nửa
phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời
cấu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc
dù nền kinh tế có những chuyển biến nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, lệ thuộc vào
Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ, xã hội phân
hóa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai lên
đến đỉnh điểm. Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: Nhiệm vụ
dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ
chế độ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện được cả
hai nhiệm vụ đó. Vì thế, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm đã nung nấu quyết tâm ra đi tìm đường
cứu nước, cứu dân. Tuy nhiên, cứu nước bằng con đường nào vẫn là một câu hỏi lớn chưa có lời đáp. Trong
quá trình bôn ba hải ngoại, Hồ Chí Minh để tâm nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp, Mĩ... và nhanh chóng
đi đến kết luận con đường này không phù hợp với nước ta. Vì:
 Ở các nước tư bản, họ tự đấu tranh chống lại chế độ cũ – chế độ phong kiến và họ không phải nước
thuộc địa như chúng ta. Người dân ở các nước đều thấy rõ sự lỗi thời của phong kiến và sự tiến bộ của
tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách Mạng tư sản thắng lợi, quyền lực rơi vào tay thiểu số giai cấp tư sản.
 Còn ở Việt Nam, nước ta đang bị đô hộ, mục tiêu hàng đầu của chúng ta là giải phóng dân tộc, muốn
giải phóng thành công, thì toàn dân phải đoàn kết lại, không phân biệt giai cấp. Nếu chỉ có giai cấp tư
sản đứng lên chống Pháp thì sẽ bị đàn áp như Nguyễn Thái Học. Vì vậy chỉ có cuộc Cách Mạng vô sản
mới có thể giải phóng Việt Nam ra khỏi ách thực dân Pháp.

2. Bài học từ những vị tiền bối đi trước:


Mặc dù lúc đó Nguyễn Tất Thành chưa gặp được chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Người đã thể hiện tầm vóc
vượt trước quan điểm cứu nước của các trí sĩ yêu nước đương thời. Hồ Chủ Tịch lớn lên trong khi nước ta
đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Các cuộc đấu tranh của nhân dân ta liên tục nổ ra nhưng đều thất
bại, cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối. Hồ Chí Minh, tuy khâm phục tinh
thần và dũng khí của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu... nhưng không tán thành cách
làm của họ, do đó Người quyết tâm đi tìm con đường mới cho bản thân và dân tộc. Sự bế tắc trong con
đường cứu nước lúc đó chủ yếu là chưa quy tụ được sức mạnh của toàn dân, chưa có một giai cấp tiên tiến
với hệ tư tưởng tiến bộ lãnh đạo và không định hình được mô hình xã hội tương lai, một xã hội mà mọi
quyền lợi đều thuộc về nhân dân lao động. Chính vì vậy Bác quyết định sang phương tây và cụ thể là nước
Pháp để tìm hiểu thực hư cái “dân chủ” mà chúng rao giảng khắp nơi.
3. Cách Mạng tháng 10 Nga thành công:
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực,
đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách
mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc
khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế
kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó
thực sự đem lại lợi ích cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách
mạng này. Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề.
Loài người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hòa bình
tự do cho con người. Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười Nga. Người rút ra kết luận: “ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành
công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
4. Gửi bản yêu sách 8 điểm đến hội nghị Vecxai và bị từ chối:
Năm 1918, khi các nước thắng trận trong Đệ nhất thế chiến họp tại Vecxay để chia quyền lợi, Hồ Chí Minh,
dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam nhưng không được
chấp nhận. Người thực sự thất vọng và nhận ra rằng độc lập tự do thì phải do mình tự giành lấy, không thể
cầu xin sự ban ơn của người khác.

5. Đọc được bản bản “sơ thảo về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin:
Năm 1920, Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, cùng năm này, Người đọc được bản “ sơ thảo về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin và tìm thấy ở đây cái mình cần. Từ đó, Hồ Chí Minh hoàn
toàn tin theo Lênin và chủ nghĩa Cộng Sản. Mặc dù Bác không có cơ hội gặp trực tiếp vị lãnh tụ vĩ đại
Lenin nhưng trên mặt trận tư tưởng, Bác đã thực sự gặp được Lênin. Như vậy, nhờ có học thuyết của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy con đường rõ rệt để giải phóng các dân tộc thuộc địa, trong đó có dân tộc
Việt Nam. “Cuộc gặp” này thực sự mang tính bước ngoặt lịch sử trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, cũng có thể nói là một bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Chính “cuộc
gặp” đó đã đưa Nguyễn Ái Quốc từ một nhà yêu nước thành một nhà cộng sản.
Câu 6: Phân tích quá trình nhận thức và chỉ đạo thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ của Đảng những năm 1930 – 1945? Ảnh hưởng của vấn đề đó đến việc tập hợp lực lượng
cách mạng thời kỳ này?
I. Bối cảnh Việt Nam những năm 1930-1945.
Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm , nhưng trải qua bao biến cố, gồm bao sự kiện quan trọng, tác động
mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của con người:
 Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03-02-1930
 Khủng hoảng kinh tế 1929-1933
 Cách mạng Tư sản thất bại, ngày 09-02-1930
 Cách mạng Vô Sản khi cao trào lúc thoái trào
Một xã hội rối ren, đen tối về kinh tế cũng như về kiến trúc thượng tầng:
 Nền kinh tế kiệt quệ dưới ách thực dân phong kiến
 Những thế lực thống trị mâu thuẫn nhau
 Những lực lượng đối kháng giao tranh, có những chiến tuyến rõ rệt như cách mạng, phản cách mạng; có
người yêu nước nhưng hoang mang, có người lơ láo, bàng quang, lẩn trốn...
Chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa vô cùng xảo quyệt của thực dân ngày càng nhào nặn xã hội Việt Nam
vào cái khuôn khổ có lợi cho chúng.
Một ý thức mới, một tâm lý mới lan tràn.
 Ý thức tâm lý tư sản và tiểu tư sản
 Giai cấp tư sản Việt Nam thất bại về mặt kinh tế và chính trị hoang mang, dao động, xoay ra đấu tranh
về mặt văn hóa chống giáo lý phong kiến để đòi tự do cá nhân
I. Tư tưởng về “Nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ trong năm 1930-1945”
Tư tưởng về nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ (1930-1945)
Sau khi xâm lược Việt Nam năm 1858, thực dân Pháp tiến hành đầu tư vào Việt Nam để kinh doanh lấy lợi,
chủ nghĩa tư bản phát sinh. Chúng ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam, thuê nguồn nhân công rẻ mạt để phục
vụ cho quá trình khai thác thuộc địa. Chúng đặt ra đủ loại thuế để bóc lột như: thuế ruộng đất, thuế thân,
thuế rượu, thuế muối, thuế thuốc phiện và hàng trăm loại thuế khác… Chính điều đó đã làm cho nhân dân ta
ngày càng khốn đốn, mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Sự bóc lột của
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam phân hoá sâu sắc; giai cấp nông dân chiếm 90% dân số bị bóc
lột nặng nề bằng thủ đoạn sưu cao, thuế nặng, tô tức, phu phen, tạp dịch… lâm vào cảnh mất ruộng đất phải
đi làm công – Giai cấp công nhân ra đời sớm nhưng cũng bị Pháp đàn áp. Giai cấp tư sản bị Pháp chèn ép
đến mức không ngóc đầu lên được. Giữa Pháp và phong kiến Việt Nam có sự câu kết chặt chẽ với nhau.
Pháp dựa vào phong kiến lấy cớ bóc lột nhân dân, phong kiến dựa vào thực dân Pháp để duy trì địa vị của
mình. Những hình thức áp bức bóc lột dã man tàn nhẫn của phong kiến không những không xóa bỏ mà còn
bị thực dân Pháp lợi dụng gây nặng nề thêm. Thực trạng Việt Nam lúc này vô cùng khó khăn. Trong xã hội
Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần được giải quyết:
- Mâu thuẫn dân tộc của nhân dân Việt Nam với đế quốc thực dân Pháp.
- Mâu thuẫn giai cấp giữa quần chúng nhân dân với địa chủ phong kiến.
Giải quyết được hai mâu thuẫn trên, chính là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ ở Việt Nam. Hai
nhiệm vụ đó không phải đến khi Đảng ra đời mới xuất hiện mà nó đã bắt đầu có từ khi thực dân Pháp nổ
súng xâm lược Việt Nam, bằng chứng là hàng loạt các phong trào yêu nước đã nổ ra và phát triển mạnh mẽ.
Nhưng các phong trào ấy đều đi đến thất bại. Nguyên nhân thất bại là do họ chưa xác định được kẻ thù
( Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh Pháp, Phan Châu Trinh lại chủ trương đổi mới theo Pháp). Từ đó
không thể nhìn rõ được nhiệm vụ cần thiết. Đến tận thế kỉ XX nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng
đường lối. Cho đến khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tìm ra con đường cứu nước, nhờ quá trình tìm tòi, học hỏi
và khảo cứu tình trạng nước ngoài kết hợp với việc phân tích tình hình trong nước. Vào ngày 03.02.1930, tại
Hương Cảng, Trung Quốc, Người đã chủ trì buổi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra “cương lĩnh
vắn tắt và sách lược vắn tắt”, trong đó người nêu ra cách mạng Việt Nam phải trải qua các giai đoạn: “làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy người đã chỉ ra con
đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa.
Đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân- một cuộc cách mạng của nhân dân cả nước, do giai cấp
công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh công nông, nhằm mục đích đánh đổ đế quốc, phong kiến, giải
phóng dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, thành lập nhà nước do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện cho
nhà nước Việt Nam không qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa. Trong đó, tiến hành
cuộc cách mạng dân chủ chính là tiến tới đánh đuổi đế quốc thực dân làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập.
Còn giải quyết nhiệm vụ dân chủ là đánh đổ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nhân dân. Đó là nhiệm vụ cơ
bản xuyên suốt của cách mạng Việt Nam nhưng không phải lúc nào cũng diễn ra cùng một lúc. Tuỳ vào
từng thời kỳ, từng giai đoạn mà có sự vận dụng hợp lý.
Trong giai đoạn cách mạng 1930 – 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải quyết linh hoạt, sáng tạo
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến nhằm thực hiện hai mục tiêu là dân tộc
và dân chủ, đưa đến sự thành công của cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ nhằm đi đến mục tiêu cuối cùng là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Vấn đề dân tộc và dân chủ có tác động chi phối toàn
bộ vấn đề khác: lực lượng cách mạng, khẩu hiệu đấu tranh, hình thức tổ chức tập hợp lực lượng đấu tranh,
hình thức đấu tranh và quyết định đến sự thành, bại của cách mạng.
III. Quá trình nhận thức mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ của Đảng những năm
1930 - 1945
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và
mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của dân tộc Việt Nam lúc này là phải tìm ra con đường giải quyết một
cách triệt để đồng thời hai mâu thuẫn đó nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho CNXH từ lý
luận trở thành hiện thực, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi
thế giới. Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong
phú, thấm nhuần tri thức lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã khẳng định: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (1). Cương
lĩnh chính trị đầu tiên (2) được hoạch định tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2-1930) xác định đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”(3). Cương lĩnh khẳng định sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
là con đường cách mạng vô sản, gắn kết độc lập dân tộc và CNXH, đưa cách mạng Việt Nam hòa vào dòng
chảy chung của cách mạng thế giới. Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam được tiếp tục phát triển
trong Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10-1930).
_ Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn,
mang tính đặc thù Việt Nam, đã được Đảng ta khẳng định. Chủ trương chiến lược cách mạng đó được tiếp
tục phát triển thêm một bước tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề giải phóng giai cấp, xã hội và con người để đi
tới CNXH. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại mới. Ngay sau khi giành
được độc lập, bắt tay vào xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng đã đồng thời lãnh đạo toàn dân tộc
tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trước sự trở lại xâm lược của thực dân Pháp (ngày 23-9-
1945), Việt Nam chưa có điều kiện trực tiếp tiến lên CNXH. Củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc vừa
giành lại được là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của toàn dân tộc.
IV. Chỉ đạo thực hiện giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ của Đảng những
năm 1930 - 1945
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
- Những sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc giải quyết nhiệm vụ ruộng đất trong cách mạng Việt Nam đã bị
Quốc tế Cộng sản phản ứng và chưa được Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 10 năm 1930 thừa nhận.
- Sách lược phân hoá, lôi kéo tầng lớp tư sản hạng vừa và nhỏ lại trở thành điều mà Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ nhất họp ở Hồng Kông (Trung Quốc) tháng 10 năm 1930, phê phán gay gắt là sai lầm và nguy
hiểm
- Vấn đề thổ địa. Không rõ ràng và có chỗ không đúng, như chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ. Đối
với đại địa chủ thì tịch ký đất ruộng, mà đối với tiểu, trung địa chủ thì chủ trương lợi dụng họ, ít ra cũng
làm cho họ đứng trung lập”.
- Nguyên nhân:
· Nhận thức chưa chính xác, giáo điều
· Hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm giai cấp, xã hội
· Chưa đánh giá hết động lực to lớn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
· Ảnh hưởng; khuynh hướng "tả", của Quốc tế Cộng sản ở thời kì này.
Đó là sự khác nhau trong chỉ đạo chiến lược đấu tranh.
Đấu tranh tư tưởng trong nội bộ những người cộng để tìm hướng đi hướng đến mục tiêu chung.
2. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh (18-
11-1930)
- Văn kiện đầu tiên Đảng tiếp thu và sửa chữa những yếu tố “tả” tháng 10 năm 1930
- Chỉ ra Đảng “...thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng để hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư
sản dân tộc (...) và cho tới cả những người địa chủ, có oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia,
để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp"
- Chỉ thị này chưa lược thực hiện trong toàn Đảng vào thời gian đó.
3. Chỉ thị của Trung ương gửi xứ uỷ Trung Kỳ về vấn đề thanh đảng Trung Kỳ (20/5/1931)
- Phê phán chủ trương sai lầm, tả khuynh của Đảng bộ Trung Kỳ.
- Phản ánh đúng về đường lối xây dựng Đảng ở một nước nông nghiệp
· Giai cấp công nhân tủy sống tập trung nhưng chưa đông đảo
· Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp tuy gắn bó, thống nhất nhưng trước hết phải giành
độc lập dân tộc.
- Những thành công và tổn thất trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đã là sự thể nghiệm sâu sắc cho đường
lối chủ trương của Đảng. Đặc biệt trước nguy cơ của cuộc chiến tranh phát xít, trước nhu cầu đòi hỏi của
việc lập một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để chống lại kẻ thù của loài người
Từng bước trở lại với quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc - dân chủ, và vấn đề ruộng đất trong cách mạng
dân tộc dân chủ của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
4. Sự trở lại đánh dấu bằng văn kiện: Chung quanh vấn đề chính sách mới (10/1936)
- Phân tích việc giải quyết hai nhiệm vụ chống đế quốc và giải quyết vấn đề điền địa, nhiệm vụ nào cần
kíp thì giải quyết trước, làm sao cho giải quyết việc này không ngăn trở giải quyết việc kia
- Phê phán tính không chính xác của Luận Cương tháng 10 năm 1930 trong việc đề cao quá mức nhiệm
vụ ruộng đất. Văn kiện viết: "Nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì
phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm
nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
- Dự đoán trước thời cuộc sẽ đến lúc đẩy mạnh công cuộc cách mạng ruộng đất: "Cuộc phản đế đã phát
triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thòi vì muôn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế
quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa".
Thể hiện sự kiên trì tìm tòi phương thức thực hiện nhiệm vụ dân tộc - dân chửi, trong đó có vấn đề ruộng
đất của những người cộng sản Việt Nam.
5. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 11
năm 1939 tại Bà Điểm (Gia Định),
- Phân tích sâu sắc tính chất và đặc điểm của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai
- Đánh giá chính xác ảnh hưởng của cuộc đại chiến này với cách mạng Đông Dương
- Nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là giải phóng dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương viết: "Cách mệnh phản đế và cách mệnh điền địa là hai cái mấu chốt của
cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách
mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền
địa - Cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo
thế nào dể thực hiện đưỢc nhiệm vụ chính cốt của cách Mệnh là đánh đổ đế quốc"
- Chỉ rõ việc phải thay đổi chính sách, yêu cầu "công nông phải đưa cao cây cò dân tộc lên, vì quyền lợi
sinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư sản bổn xứ, trung tiểu địa chủ
còn có căm tức đế quốc.
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam chứng tỏ uy tín của lãnh đạo và tầm cao trí tuệ
của Trung ương
1. Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945
1. Những năm 1936-1939
- Độc lập dân tộc là mục tiêu chủ yếu của cách mạng Việt Nam: trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, nhưng trong bối cảnh quốc tế đang cần tập trung lực lượng để chông nguy cơ chiến tranh phát xít, thì
mục tiêu này cũng phải tạm thời gác lụi.
Từ Trung Quốc, theo dõi cuộc đấu tranh ở Việt Nam với xu thế quốc tế lúc đó
- Không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện, V.V sẽ rơi vào cạm bẫy của phát
xít Nhật" mà chỉ nên đòi những quyền dân chủ tối thiểu: tự do tổ chức; tự do hội họp, báo chí, ngôn luận
- Quan tâm đến việc thành lập mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi.
Theo Người, mặt trận ấy không chỉ có người Đông Dương mà cần có cả người Pháp tiến bộ chống phát xít,
không chỉ có nhân dân lao động, mà bao gồm cả tư sản dân tộc. quan điểm đại đoàn kết rộng rãi của Người,
đoàn kết vừa tạo ra sức mạnh, vừa tránh đẩy về phía phản cách mạng những lực lượng mà lẽ ra có thể trung
lập hoặc lôi kéo được.
2. Những năm 1940 - 1941
Ngay sau khi nghe tin nước Pháp đã đầu hàng phát xít Đức Người cho ) rằng đây chính là lúc thuận lợi để
Đảng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, tiến tới giành chính quyền. Với cương vỊ đại diện của Quốc tế
Cộng sản, Người đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 5 năm 1941 tại Pác Bó
- Nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, phân tích tình hình và dự báo:
"Nếu chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến
tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công".
Đối vối nước ta, Hội nghị chỉ rõ dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp - Nhật, thì "quyền lợi của tất cả
các giai cấp đều bị cướp 73 giật, vận mệnh dân tộc” nguy vong không lúc nào bằng",
Đảng chủ trương phải đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân
tộc. Hội nghị khẳng định: "Trong lúc này nếu không giải quyết đưỢc vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp (đến vạn năm cũng không đòi lại được".
Hội nghị cho rằng, do phải tập trung toàn bộ lực lượng cho nhiệm vụ chống đế quốc, tạm gác nhiệm vụ dân
chủ, nêu tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương cũng thay đổi cách mạng để giải quyết một vấn đề cần
kíp: "dân tộc giải phóng”,
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hỢp đông đảo khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam
thay cho các hình thức mặt trận Đông Dương trước đây. 75 Tổ chức Việt Minh ra đời' cũng là một bước
nhảy vọt về chính sách mặt trận của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Phân tích sâu sắc mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến lược dân tộc và dân chủ. chủ trương tập trung lực
ludng cho cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng như thế không phải là bỏ cách mạng điền địa. Lúc này
chưa đưa ra nhiệm vụ thứ hai là nhiệm vụ ruộng đất, vì "chưa cần thiết với toàn thể nhân dân", trái lại còn
làm hại cho nhiệm vụ thứ nhất.
Hội nghị cũng đánh giá, lúc này tuv chưa đề ra nhiệm vụ ruộng đất, nhưng cũng không sỢ nông dân sẽ
giảm bớt sự hăng hái chiến đấu, bởi lẽ, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nông dân cũng được hưởng
nhiều quyền lợi. Hội nghị chỉ ra các quyền lợi ây như sau:
a) Đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, đó là lật được một cái ách áp bức bóc lột nặng nề nhất của họ.
b) Đánh đuổi Pháp - Nhật, thủ tiêu thuế đinh, điền và các thứ thuế khác, đó là cái lợi thứ hai.
c) Được chia công điền lại một cách công bằng hơn, giảm địa tô, sửa đổi nền chính trị hương thôn cho họ
hưởng nhiều quyền lợi hơn, lại đưỢc hưởng nhiều ruộng đất tịch thu của Việt gian phản quốc và một phần
của đế quốc tư bản, đó là quyền lợi thứ ba.
d) Được hưởng quyền lợi kinh tế, chính trị mà toàn thể nhân dân đều được hưởng...".
Chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, huy động tối đa sức mạnh dân tộc cho sự nghiệp giải đã mở
đường cho việc Đảng hoạch định hàng loạt chính sách, kế hoạch tổ chức và tuyên truyền có hiệu quả.
Thông qua Mặt trận Việt Minh, đường lối của Đảng đã thâm nhập sâu sắc vào quần chúng nhân dân. Các tổ
chức quần chúng cứu quốc được tổ chức rộng rãi và hoạt động trên thực tế chứ không chỉ dừng lại ở các
nghị quyết, đã tạo ra một nền tảng vững chắc cho ơ khắp các vùng, nhất là ở căn cứ địa Cao Bằng, nông
thôn miền Bắc và miền Trung.
Lịch sử đã chứng minh dù nhiều lần Đảng phải tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, xong nhiệm vụ đưa ruộng đất
về cho nông dân, luôn luôn là mục tiêu bất di bất dịch của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể của năm 1941, vấn đề ruộng đất chỉ có thể đưỢc nêu lên như một phương
hướng chung. Lúc này chưa thể đáp ứng ngay mục tiêu "người cày có ruộng", nhưng thấu hiểu nguyện vọng
của bà con nông dân, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ rõ cách mạng sẽ thực hiện bằng được mục tiêu đó.
Bản Chương trình Việt Minh được công bố ngày 25 tháng 10 năm 1941
Chủ trương "liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân" để làm cuộc đấu tranh đánh đổ đế quốc, giành quyền
độc lập, lập nên chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ do quốc dân cử lên
sẽ thi hành những chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục... phục vụ lợi ích nhân dân. Chính phủ
bỏ thuế thân và các thứ thuế do Pháp - Nhật đặt ra, thay vào đó sẽ "lập một thứ thuế rất nhẹ nhàng và công
bình".
- Nhà nước sẽ khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, như "mỏ mang
dẫn thủy nhập điền, bồi đắp đê điều làm cho nông nghiệp đưỢc pllồn lliịnh.
- Nhân dân tự do khai khẩn đất ruộng do Chính phủ giúp đỡ", Tới khi đó: "Nông dân ai cũng có 77
ruộng cày. Giảm địa tô, cứu tế nóng dân trong những năm mất mùa".
- Chương trình Việt Minh khẳng (định rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập cho dân tộc,
tự do cho đồng bào; "Bản chương trình trên dây cột thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào mong ước:
- Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
- Làm cho dân Việt Nam được “sung sướng, tự do”.
3. Năm 1945
Tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật làm đảo chính, hất bỏ thực dân Pháp, một mình độc chiếm Đông Dương.
Ngay trong khi tiếng súng Nhật Pháp bắn nhau còn nổ, Thường vụ Trung ương Đảng đã họp khẩn cấp ở
Đình Bảng, Bắc Ninh.
Hội nghị đã sáng suốt và nhạy bén nhận định tình hình, kịp thời ra chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta", trong đó xác định rõ quyết tâm phát động Tổng khởi nghĩa để giành chính quyền khi
thời cơ tới.
Thay đổi chiến thuật, đem khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật -
Pháp" có thể bắt tay cả với những người Pháp "thành thực chông Nhật đến cùng và hiện đang bắn nhau với
Nhật; và ta hô hào họ giúp khí giới cho ta để cùng ta đánh Nhật trước đã".
Việc sẵn sàng bắt tay cả với những người Pháp chống Nhật là chủ trương rất táo bạo và nhanh nhạy của
Thường vụ Trung ương Đảng. Vì thực hiện điều này là góp phần phân hóa kẻ thù, táng cường lực lượng
cho công cuộc giải phóng đất nước
Ngày 14 tháng 4 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc
Kỳ, họp tại Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp chủ trì hội nghị. Trong khi tập
trung giải quyết nhiệm vụ chính là chuẩn bị mọi mặt để tiến tới tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ, như phát
triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa..., Hội nghị càng đã quyết định về vấn đề ruộng đất sẽ giải
quyết theo hai nguyên tắc:
- Chính sách nông dân có ruộng cày cấy.
- Điều hòa quyền lợi giữa dân cày nghèo và phú nông, địa chủ làm cho mặt trận thống nhất chặt chẽ. Vấn đề
ruộng đất sẽ giải quyết bằng cách chủ ruộng đất của Việt gian cho dân hoặc cho dân khai hang, tổ chức
cuộc khai hoang tập thể.
Trước phát triển thuận lợi của phe đồng mi.ih chông 80 phát xít, Hồ Chí Minh nhận định thời cơ Tổng khởi
nghĩa giành chính quyên của ta ngày một tới gần. Với một tinh thần chủ cách mạng cao độ, Người đã hưống
mọi quyết tâm, mọi hoạt động của toàn Đảng và Mặt trận Việt Minh cho việc giành độc lập. Từ việc quan
hệ với phái bộ Đồng Minh, nhận viện trợ và giúp đỡ các sĩ quan Mỹ... đến việc gấp rút tổ chức Hội nghị
toàn quốc của Đảng, Đại hội Quốc dân ở Tân Trào, đều phục vụ cho quyết tâm sắt đá của Người: "Lúc này
thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập
Đảng ta đã tạo lược thế và lực cần thiết, hoàn toàn nhờ vào sức mạnh nội lực, chủ động tạo dựng và đón
nhận thời cơ thuận lợi để phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền nhanh chóng trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Bản chất của sự chuyển hướng ấy là sự trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh từ đầu năm 1930 trong việc xử lý
1. Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra mỏi quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và n^Líời ạ cày có
ruộng, có nghĩa là trong khi nhiệm vụ dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy thì phải tạm hoãn cách mạng
ruộng đất". Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đặt cách mạng Việt Nam vào trong quỹ đạo của cách
mạng vô sản thế giới. Nhưng là người hiểu rõ, nắm chắc tình hình, đặc điểm xã hội, sự phân hoá giai cấp ở
Việt Nam, nên Người đã hết sức chú trọng khi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Từ đó đã
đặt ra và giải quyết rất đúng mối quan hệ giữa mâu thuẫn dân tộc với mâu thuẫn giai cấp, chủ trương coi
nhiệm vụ giành độc lập dân tộc là chủ yếu, còn nhiệm vụ đem lại ruộng đất cho nông dân phải làm từng
bước hoặc có khi )hải tạm thời gác lại. Có nghĩa là khi chưa giành được độc lập dân tộc, thì nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất phải phục vụ nhiệm vụ dân tộc.
V. Ảnh hưởng của vấn đề đó đến việc tập hợp lực lượng cách mạng thời kỳ này
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó là đánh đổ chế độ thống trị của thực dân giành lại quyền độc lập cho
dân tộc, xóa bỏ mọi tàn tích của chế độ phong kiến (và tiền phong kiến) đem lại ruộng đất cho nông dân,
thực hiện quyền tự do dân chủ cho nhân dân, xây dựng chế độ cộng hoà dân chủ, mở đường cho xã hội phát
triển. Lực lượng của cuộc cách mạng đó là nhân dân được tập hợp trong một mặt trận dân tộc thống nhất.
Tương quan lực lượng của các giai cấp và đảng phái chính trị của từng nước quy định cuộc cách mạng đó
có thể do giai cấp tư sản hoặc do giai cấp công nhân, thông qua các đảng chính trị của giai cấp đó, nắm
quyền lãnh đạo. Điều này quyết định mức độ triệt để cách mạng và xu thế phát triển tiếp theo sau khi cuộc
cách mạng đó đã thắng lợi. Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo thắng lợi sẽ mở
đường đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; nó thuộc phạm trù cách mạng dân chủ tư
sản kiểu cũ. Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện triệt để
các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, dựa vào các lực lượng cách mạng của mặt trận dân tộc thống nhất rộng
rãi, lấy liên minh công nhân, nông dân và tiểu tư sản làm động lực, xây dựng và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, mở đường đưa đất nước tiến dần từng bước theo con đường xã hội chủ nghĩa – đó chính là
CMDTDCND. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam tiến hành từ 1930 dưới ngọn cờ "độc lập tự do"
của Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một cuộc CMDTDCND. Cuộc cách mạng đó đã
kết thúc thắng lợi vào mùa xuân 1975, mở ra một kỉ nguyên mới - cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
-Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ chống đế
quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong
đó, chống đế quốc, giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Về lực lượng cách mạng, Cương
lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, cá nhân yêu nước để tập trung chống
đế quốc và tay sai. Về phương pháp cách mạng, Cương lĩnh khẳng định, phải bằng con đường bạo lực, kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chứ không thể là con đường cải lương thỏa hiệp. Để đưa
cách mạng đi đến thành công, phải phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời, tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới,…
-Trong giai đoạn 1936 - 1939, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi, Đảng đã kịp thời chuyển hướng
đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh,…Để thực hiện
nhiệm vụ đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ, liên hiệp rộng rãi với các giai cấp, tầng lớp,
đảng phái yêu nước, dân chủ chống chủ nghĩa phát xít. Qua thực tiễn đấu tranh đã xây dựng được đạo quân
chính trị rộng gồm có công nhân, nông dân và các giai tầng khác với hàng triệu quần chúng tham gia.
-Đến giai đoạn 1939 - 1945, để tập hợp, đoàn kết các giai tầng thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, Hội
nghị Trung ương 6 (11-1939) đã chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
với các Hội phản đế và Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh
(gọi tắt là Việt Minh). Thực hiện chủ trương Hội nghị Trung ương 8, ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh
được thành lập. Các đoàn thể cứu quốc với các Hội cứu quốc như Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu
quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc…đã phát triển rộng
khắp cả nước. Mặt trận Việt Minh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết dân tộc, thu hút hết thảy các giai cấp, tầng
lớp, đảng phái yêu nước làm nhiệm chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Thành lập Mặt trận Việt Minh là
một sáng tạo của Đảng, là mốc lịch sử quan trọng đã tạo cho cách mạng nước ta có một đội quân chính trị
hùng mạnh áp đảo các thế lực phản động, là nhân tố làm nên Cách mạng Tháng Tám.
-Tháng 6 năm 1944, Đảng thành lập Đảng dân chủ Việt Nam với thành phần chủ yếu là trí thức yêu nước.
Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời và tham gia Mặt trận Việt Minh làm cho mặt trận dân tộc chống đế quốc,
phát xít thêm sâu rộng, mặt khác, làm thất bại âm mưu của địch tìm mọi cách lôi kéo trí thức và tư sản dân
tộc chống phá cách mạng.
-Để tạo lực, tạo thế cho sức mạnh của toàn dân tộc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, trên cơ
sở Đội du kích Bắc Sơn ra đời năm 1940, các đội Cứu quốc năm 1941, các đội Tự vệ năm 1943, đến cuối
năm 1944, Đảng thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân đã thống nhất với các lực lượng vũ trang khác thành Việt Nam giải phóng
quân là bước phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng nước ta.

Câu 7: Hệ thống quan điểm về cách mạng GP dân tộc của Nguyễn Ái Quốc được hình
thành trong những năm 1920-1930
PHẦN 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Tình hình thế giới
Các nước đế quốc thắng trận phân chia lại thế giới, thiết lập một trật tự thế giới mới dựa theo hệ thống
Vécxai – Oasinhtơn. Chiến tranh thế giới đã tàn phá, làm cho các nước tư bản gặp nhiều khó khăn, nước
Pháp tổn thất nặng nề. Chủ nghĩa Mác-Lêni ra đời cùng với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã
có tác động gắn kết phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông với phong trào công nhân ở các
nước
phương Tây cùng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh
mẽ: từ cách mạng vô sản ở các nước chính quốc (Đức, Anh, Pháp,...) đến cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc (Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á, Mỹ Latinh..). Bên cạnh đấy, sự thành
lập Quốc tế Cộng sản (3-1919) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của phong trào cách mạng
thế giới. Những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của
Nguyễn Ái Quốc. Sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản như: Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng
sản Trung Quốc (1921)...
1.2. Tình hình trong nước
Nguyễn Ái Quốc sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, dân tộc Việt Nam phải chịu hai tầng
áp bức, bóc lột: thực dân và phong kiến. Cách mạng Việt Nam cũng có nhiều bước phát triển trong xu thế
chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, nhiều phong trào cứu nước dù theo khuynh hướng phong kiến,
tiểu tư sản hay tư sản đều bị thất bại dưới sự đàn áp của thực dân Pháp. Sự bất lực của phong trào minh
chứng cho sự bế tắc của đường lối và sự lãnh đạo cách mạng. Đất nước cần khẩn trương tìm ra một con
đường cứu nước phù hợp với thực tế Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã có những bước đi đúng đắn để tìm ra con đường cứu nước cho
dân tộc. Tình hình thế giới và những sự kiện nóng trong nước là nhân tố quan trọng tác động đến sự hình
thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.

PHẦN 2: HOẠT ĐỘNG VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1920-1930
2.1. Nguyễn Ái Quốc và công cuộc xây dựng tổ chức
Tháng 7 năm 1920, Bác đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của V.I Lênin. Tháng 12 năm 1920, Bác ủng hộ việc gia nhập Quốc tế cộng sản tại đại hội lần thứ XVIII
của Đảng Xã hội Pháp ở TP. Tours, tán thành Quốc tế III. Bác cùng một số đảng viên cộng sản các nước
bạn thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là Đảng cộng sản Pháp. Bác đã đặt nền móng về tư
tưởng, chính trị và tổ chức chuẩn bị cho việc “khai sinh” Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1924, Nguyễn Ái
Quốc tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Sau đó Người tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên,
Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế Cộng hộ đỏ. Tham gia các hội nghị quốc tế lớn, nghiên cứu lý luận trong trường
học và quan sát thực tiễn cách mạng Liên Xô đã có tác động lớn đến việc hình thành quan điểm cách mạng
của Hồ Chí Minh.
Sau khi xác định con đường cách mạng vô sản là con đường giải phóng dân tộc Người đã khẳng định “đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập tự
do”. Chính bởi lý do đó, tháng 11 năm 1924, Người tới Quảng Châu – nơi tụ họp nhiều thanh niên yêu nước
để xúc tiến việc thành lập Đảng Cộng sản. Đến tháng 2 năm 1925, Người lựa một vài thanh niên ưu tú
trong Tâm tâm xã, thành lập Cộng sản đoàn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc) và cùng Hội cho xuất bản tờ Thanh niên – tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam
Sau sự biến chính ở Quảng Châu (4/1927) trở lại Matxcơva và sau đó được Quốc tế cộng sản cử đi công tác
nhiều nước châu Âu. Năm 1928, Người quay lại châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan), xuất bản tác
phẩm “Đường Kách Mệnh” – tác phẩm xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu
tranh của Cách mạng Ngày 23 tháng 12 năm 1929, Nguyễn Ái Quốc với tư cách phái viên của Quốc tế
Cộng sản đến Hongkong triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
đến họp tạ Cửu Long (Hongkong) nhằm mục đích hợp nhất các đảng.
Tới ngày 24 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc sau khi giải quyết mâu thuẫn của cá Đảng, hoàn thành
thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính Đảng duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Hội nghị,
Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Mở đầu, Người có viết: “ Nhận định chỉ thị của
Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi hoàn thành nhiệm vụ.”
2.2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
Trên mặt trận tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc tố cáo, lên án bản chất áp bức bóc lột,
nô dịch của chủ nghĩa thực dân; thức tỉnh nhân dân thuộc địa và kêu gọi đấu tranh giải
phóng ở các nước bị áp bức, bóc lột. Đồng thời Người cũng tích cực thiết lập mối quan
hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc
địa và phụ thuộc.
Trên vũ đài chính trị, Nguyễn Ái Quốc cho rằng con đường giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định
rằng cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa phải gắn chặt cách mạng vô sản thế
giới, đặc biệt là Cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Đồng thời Bác cũng khẳng định tính
cấp thiết của việc hình thành liên minh công - nông đối với các dân tộc thuộc địa. Về
việc xây dựng Đảng, Người yêu cầu vấn đề tiên quyết là phải có Đảng cách mệnh để
tiện cho việc liên kết các dân tộc áp bức.
PHẦN 3: HỆ THỐNG QUAN ĐIỂM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
3.1. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới
Nguyễn Ái Quốc đã đặt chân đến nhiều nước và chứng kiến cảnh lầm than, khốn
khổ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ sự xa hoa của giai cấp
tư sản. Từ đó Người rút ra một kết luận quan trọng: ở khắp mọi nơi, dù ở các nước thuộc
địa, phụ thuộc hay chính quốc, người lao động đều bị bóc lột và áp bức nặng nề, và ở
đâu cũng bị bọn đế quốc thực dân tàn phá bằng bạo lực dã man. Kết luận trên có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, đây là sự khởi đầu cho những tư tưởng đoàn kết quốc tế của Nguyễn
Ái Quốc - đoàn kết công nhân thế giới. Từ những kết luận trước đó, Người đã phân biệt
rõ ràng thực dân đế quốc và nhân dân lao động ở chính quốc. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa
thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Vì vậy, cần phải có sự liên minh của nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc để
chống lại kẻ thù chung. Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng
thế giới.

3.2. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có mối quan hệ mật thiết với
cách mạng ở chính quốc
Vào đầu thế kỷ XX, có ý kiến trong phong trào Cộng sản quốc tế cho rằng thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Cách nhìn này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (6-1924),
Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của
giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”; Ứng dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của
giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh
đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Nhận thấy thuộc địa là một mắt xích yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc
và đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, Hồ Chí Minh
năm 1924 cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
Như vậy, Người đã khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc
trong mối quan hệ với cách mạng ở chính quốc: “trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
3.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân
dân
Ngay từ năm 1924, trong báo cáo về Bắc Kỳ, Nam kỳ và Trung kỳ, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến khả năng có một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người,
cuộc khởi nghĩa vũ trang này phải có tính chất của một cuộc nổi dậy của quần chúng
chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Luận điểm trên của Hồ Chí Minh xuất phát từ việc
phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực
dân Pháp, và những bài học kinh nghiệm từ cuộc Cách mạng Nga, từ dân tộc Việt Nam
và từ thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
Để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh đã cùng với Trung ương Đảng
lãnh đạo xây dựng căn cứ địa, huấn luyện và đào tạo cán bộ, thành lập các tổ chức chính
trị quần chúng, thành lập các đội du kích vũ trang, chủ động chớp thời cơ, phát động
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Như vậy chỉ trong vòng 10 ngày, ta đã giành chính quyền
trên phạm vi cả nước.
3.4. Cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên xã hội chủ nghĩa
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai
đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách,
nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc tạo
tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no,
hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ đồng thời Bác cũng khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.

3.5. Xác định giai cấp lãnh đạo là công nhân


Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai
trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân. Lực lượng tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh
công - nông - trí thức.
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của giai
cấp công nhân thế giới, cũng có vai trò sứ mệnh lịch sử, trước hết đối với dân tộc của
mình: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc
mới thành công”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Nhà máy xe lửa Gia Lâm (ngày 19-5-1955), Người nhắc nhở cán bộ, công
nhân phát huy truyền thống cách mạng của nhà máy, ra sức xây dựng mB ủng hộ MN. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam được thể hiện ngay từ Luận cương Chính trị của Đảng năm 1930: Giai cấp
công nhân Việt Nam thông qua Đảng của mình lãnh đạo toàn dân làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền là
thời kỳ dự bị của xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội. Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương, chính đảng của giai cấp công nhân thành lập, đã vạch rõ cách
mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lần đầu
tiên cách mạng Việt Nam có một Cương lĩnh chính trị toàn diện do Đảng của giai cấp công nhân đề ra.
Cách mạng Việt Nam từ đó được giai cấp công nhân và chính đảng của nó thống nhất lãnh đạo, đã phát
triển nhanh chóng và vững chắc.
Sắc lệnh số 22c NV/CC ngày 18/2/1946 quy định ngày 1/5 là một trong những ngày Lễ chính thức của
nước ta. Trong khối liên minh đó, giai cấp công nhân Việt Nam phải nắm quyền lãnh đạo, kể cả họ chưa
phải là lực lượng đông đảo nhất. Theo Người, đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là kiên quyết, triệt
để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ
chế độ tư bản và đế quốc để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng
cách mạng nhất. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy về
mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước, là lực lượng nòng cốt trong
khối liên minh công - nông - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định đến sự thành công của cách mạng giải phóng dân tộc. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công
nhân Việt Nam chính là ngọn cờ lý luận chỉ đạo toàn diện sự nghiệp xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam, xứng đáng là một bộ phận trong gia đình xã hội chủ nghĩa như điều mong mỏi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.

3.6. Sự lãnh đạo của Đảng


Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Hồ Chí Minh khẳng định Đảng
“như người cầm lái” cho con thuyền Cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Đảng có
vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng
phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hợp với quy luật phát triển của
thời đại, vừa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và
đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Cũng từ đó, cách mạng Việt Nam trải qua nhiều thăng
trầm, vượt qua bao nhiêu sóng gió, ngày càng tỏ rõ là lực lượng lãnh đạo tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Qua thực tế lãnh đạo các
phong trào cách mạng, Đảng càng tỏ rõ phẩm chất, năng lực, uy tín cầm quyền. Đó cũng
là minh chứng cho luận điểm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng muốn thắng
lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo.
PHẦN 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀO KHO TÀNG LÝ
LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và đã có được hướng đi cho cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam - đó là cách mạng vô sản. Trong 10 năm tiếp theo bôn ba
ở hầu khắp các nước tư bản phương Tây, Người nhận ra được một chân lý đó là giai cấp
công nhân ở bất kỳ đâu, dù là thuộc địa hãy chính quốc thì cũng đều là giai cấp chịu áp
bức, bóc lột. Từ đó, Bác đã vạch trần bản chất, thủ đoạn đàn áp, bóc lột của thực dân
Pháp với dân tộc thuộc địa, đồng thời nêu rõ nguyện vọng được giải phóng và những
cuộc đấu tranh của dân tộc thuộc địa thông qua “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đây
công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”.
Trong quá trình tiếp thu và truyền tải chủ nghĩa Mác, Nguyễn Ái Quốc đã sáng
tạo và bổ sung chủ nghĩa Mác cho phù hợp với hoàn cảnh thời bấy giờ. Bác khẳng định
rằng cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng ở
chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào chính quốc. Và để có thể đánh bại
hoàn toàn được chủ nghĩa đế quốc thì cách mạng dân tộc ở thuộc địa phải đồng hành
cùng với các mạng chính quốc.“Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động cả hai
nơi. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi, tức
là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng
dân tộc ở thuộc địa”. Tuy nhiên, Bác cũng đồng thời khẳng định rằng cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa có thể diễn ra trước cách mạng ở chính quốc, từ đó thúc đẩy
cách mạng ở chính quốc phát triển và nhanh chóng giành được thắng lợi hơn.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng Việt Nam phải gắn với cách mạng thế giới,
gắn cách mạng vô sản Việt Nam vào cách mạng vô sản thế giới. Chỉ có như vậy, Việt
Nam mới không phải là một cá thể riêng lẻ, độc lập. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới có
thể tìm được sự cộng hưởng đến từ các cuộc cách mạng khác trên thế giới. Chỉ có như
vậy, Việt Nam mới có thể nhận được những sự hỗ trợ đến từ các quốc gia khác. Chỉ có
như vậy, cách mạng Việt Nam mới có thể chiến thắng. Đây cũng là quan điểm quan
trọng nhất, góp phần làm phong phú hơn chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi lẽ, quan điểm của
Mác-Lênin chỉ dừng lại ở việc đưa vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại. Nghĩa là vẫn còn một rào cản, một bức tường mỏng vô hình xếp giữa các dân
tộc, các quốc gia. Nhưng khi gắn cách mạng Việt Nam vào cách mạng thế giới thì nó lại
hoàn toàn khác. Điều này đồng nghĩa với việc cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới đang cùng tiến, cùng lùi, ăn nhập với nhau, cùng tiến về một chiến thắng, một xã
hội xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có những đặc điểm riêng, những phương
thức khác để giảnh lại độc lập chủ quyền cho dân tộc. Do vậy, gắn cách mạng vô sản
Việt Nam vào cách mạng vô sản thế giới là một quan điểm tiến bộ hơn so với quan điểm
chỉ đoàn kết vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức lại.
. Bối cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng tháng Tám
Sau sự thành công của cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp
phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Về thuận lợi, năm 1945 phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi, cùng với đó, tình
hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế
giới và hệ thống xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam. Ở trong
nước, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bây giờ đã chính thức đứng lên làm chủ vận mệnh của mình,
làm chủ vận mệnh của đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chuyển trạng thái hoạt động bí mật, điều này
đã làm cho việc chỉ đạo và phối hợp, quản lý, và điều hành công việc rất khó khăn. Hiện nay, khi đất nước
được giải phóng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam hứa
hẹn mang lại nhiều thành tựu to lớn cho dân tộc sau này.
Về khó khăn, Việt Nam phải đối mặt với sự bao vây từ các thế lực quân đội nước ngoài. Từ vĩ tuyến 16 trở
ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa là giải pháp quân đội Nhật nhưng âm mưu
chính là lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn phản động Việt Nam Quốc Dân đảng và Việt Nam
Cách Mạng đảng tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: quân Anh
cũng với danh nghĩa là giải giáp quân Nhật nhưng âm mưu lại là giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo
điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm lược miền Nam.
Ngoài ra, trên cả nước ta có 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp, một bộ phận quân Nhật đã cố tình gây ra
nhiều tội ác cho nhân dân ta. Không những thế, đất nước ta lúc đó còn bị các tổ chức phản động, các thế lực
thù địch luôn tìm mọi cách để chống phá chính quyền cách mạng.
Về kinh tế, nước ta vốn có nền kinh tế nông ngiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, hậu quả của
nạn đói cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Tiếp theo đó là nạn lũ lụt lớn, làm vỡ đê ở
chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng số ruộng đất không canh tác được. Ngân sách nhà
nước cũng trống rỗng vì chính quyền còn non trẻ, mới thành lập. Chính quyền cách mạng chưa quản lý
được Ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa dân quốc lại tung ra thị trường các loại tiền
Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền kinh tế nước ta thêm rối loạn. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa kịp
phục hồi sản xuất, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh nạn đói, khó khăn về nạn dốt của ta lúc bấy giờ cũng hết sức cấp bách. Tàn dư văn hóa lạc hậu
của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ. Hơn nữa, chính
quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực lượng vũ trang còn non yếu, chưa có kinh
nghiệm quản lý Nhà nước.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có nước nào
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc
như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy!
Trước tình thế vô cùng cấp bách đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và sáng suốt
phân tích tình thế đất nước với hai khả năng:
 Đánh mất chính quyền và quay về kiếp sống nô lệ
 Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ
Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đã vươn lên mạnh mẽ ở Việt Nam, nhân dân được làm chủ vận mệnh
của đất nước, lực lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Việt Minh, chủ tịch Hồ Chí Minh được toàn dân
tin tưởng. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của chủ tịch Hồ Chí Minh – toàn dân, toàn quân đoàn kết
một lòng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập 02/09/1945, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách nhằm thực hiện
ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giắc ngoại xâm. Tới ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành
Trung ương đã ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.
2. Nội dung chỉ thị “ Kháng chiến kiến quốc” năm 1945
2.1. Khái quát về chỉ thị “ Kháng chiến kiến quốc”
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc". Chỉ thị nhận định những thay đổi
căn bản của tình hình thế giới và trong nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, nêu rõ những thuận lợi căn bản
và những thử thách lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà nhân dân ta đang tiến hành.
2.2. Nội dung chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng 25/11/1945
2.2.1. Nội dung cơ bản của chỉ thị
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của ta và địch, Chỉ thị chỉ rõ:
Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng . Cuộc cách mạng ấy đang
tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước chưa được hoàn toàn độc lập.
 Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn
thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết – Tổ quốc trên hết” nhưng không
phải giành độc lập mà là giữ vững và phát triển nền độc lập.
 Chỉ thị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Chiến thuật của ta lúc này là thành lập Mặt trận Dân tộc Thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Mở rộng Việt Minh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân (chú trọng vận
động địa chủ phong kiến và đồng bào công giáo,...).
 Có 4 nhiệm vụ cấp bách và quan trọng cần thực hiện ngay: củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó xây dựng và bảo vệ chính quyền là
quan trọng nhất.
 Chỉ thị chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “ Hoa – Việt thân thiện”
đối với quân đội Trung Hoa Dân Quốc và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
2.2.2. Thực hiện chỉ thị
Trong những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính quyền cách mạng,
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn diện
và cơ bản để thực hiện.
 Về nội chính: Một mặt xúc tiến việc đi đến thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ
chính thức.
 Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến
lâu dài; phối hợp chiến thuật du kích với phương pháp bất hợp tác đến triệt để.
 Về ngoại giao:
 Nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các
nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”.
 Đối với Tưởng Giới Thạch, vẫn chủ trương “Hoa – Việt thân thiện”, coi Trung Hoa kiều như dân tối
huệ quốc.
 Đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
 Về tuyên truyền:
 Kêu gọi đoàn kết, chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược.
 Phản đối chia rẽ nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với thế lực phản quốc; chống mọi mưu mô
phá hoại, chia rẽ của phái Tờ-rốt-xki, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng và nâng cao sự tin tưởng của
quốc dân vào thắng lợi cuối cùng, khêu gợi chí căm hờn chống thực dân Pháp nhưng tránh khuynh
hướng “vị chủng”.
 Chống thực dân Pháp xâm lược.
 Không công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.
 Về kinh tế và tài chính:
 Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ; khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các
nhà máy và mỏ ấy; khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia
kiến thiết lại nước nhà.
 Thực hiện khuyến nông, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch
thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh.
 Về cứu tế:
 Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức
“bữa cháo cầm hơi”…
 Động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn “cứu đói”, và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng
trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên cho các quỹ cứu tế, tổ chức việc tiếp tế, mua gạo
nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu…
 Về văn hoá: Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học,
cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi nhét, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến
thiết nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: Khoa học hoá, đại chúng hóa, dân tộc hoá.
2.3. Chỉ thị quan trọng trong công cuộc “Kháng chiến kiến quốc”
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được
củng cố và phát triển.
Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, phát triển thêm đảng viên, đặc
biệt chú trọng gây cơ sở xí nghiệp của Đảng cho thật rộng, làm sao cho sự phát triển của Đảng ăn nhịp với
sự phát triển của công nhân cứu quốc; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập đảng đoàn trong các cơ quan
hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội…
Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ,
toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt
trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ
ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam – Lào –
Campuchia chống Pháp xâm lược.
Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ,
về chống và đề phòng nạn đói, về tổng tuyển cử…. Cụ thể:
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói được xác định là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ.
Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng lớp
nhân dân tham gia với các phong trào lớn, các cuộc vận động lớn trong toàn quốc được phát động như: tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức tuần lễ vàng, quỹ độc lập, quỹ đảm phụ quốc
phòng, quỹ nam bộ kháng chiến,... Bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính
sách giảm tô 25%. Sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt, khuyến khích việc sửa chữa đê điều, tổ
chức khuyến nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian, đất hoang hoá chia cho nông dân nghèo; Chính
phủ khuyến khích tư nhân đầu tư khôi phục hoạt động trở lại; phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.
Chống giặc dốt, xoá nạn mù chữ được coi là “một giải pháp quan trọng” để xây dựng hệ thống chính quyền
cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào
“Bình dân học vụ”, toàn dân học quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động toàn dân xây dựng đời
sống mới, nền văn hoá mới. Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới. Ngày
10/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 45/SL thành lập thêm trường Đại học Văn khoa Hà Nội.
Về tổng tuyển cử, Với tinh thần làm chủ và khẳng định Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự do có chủ
quyền, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phải tiến hành ngay một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình
thức phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập chính phủ chính thức. Ngày 06/01/1946, toàn dân
Việt Nam nô nức tham gia cuộc bầu cử, có hơn 89% số cử tri đã đi bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên, đồng bào
nam bộ và một số nơi đi bỏ phiếu dưới làn đạn của giặc pháp, nhưng tất cả đều thể hiện rõ tinh thần “mỗi lá
phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”, là một đòn đánh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ, xâm lược của các kẻ
thù. Cuộc bầu cử thành công rực rỡ đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
gồm 333 đại biểu. Chính phủ chính thức được thành lập gồm 10 bộ và kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ
do Hồ Chí Minh làm chủ tịch; tạm thời quyết định Quốc kỳ, Quốc ca của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Về xây dựng bộ máy chính quyền, Đảng quan tâm xây dựng bộ máy chính quyền mới dân chủ, trong sạch
luôn đi đôi với chấn chỉnh, sửa chữa, khắc phục các khuyết điểm trong bộ máy chính quyền nhà nước. Ngày
17/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ rõ: “Các cơ quan của chính phủ
từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” và nhấn mạnh: “Nước độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Về lực lượng, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt)
do Huỳnh Thúc Kháng làm hội trưởng, Tôn Đức Thắng làm hội phó; thành lập một số đoàn thể xã hội mới,
tiếp tục củng cố các tổ chức đoàn thể của Mặt trận Việt Minh; tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ
Nhất tại Hà Nội và hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam ở Tây Nguyên v.v.
Lực lượng vũ trang cách mạng được củng cố và tổ chức lại, tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực,
thuốc men, củng cố các cơ sở và căn cứ địa cách mạng ở cả miền Bắc, miền Nam.
Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ những ngày đầu diễn ra trong so sánh lực lượng quá chênh lệch
giữa ta và địch, nhân dân ta chưa có nhiều thời gian vật chất để chuẩn bị cho cuộc đối đầu quân sự. Nhưng
với lòng yêu nước sâu sắc, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và nhận được sự
lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ uỷ Nam bộ, của trung ương, của chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Nam
bộ đã đứng lên chiến đấu và chiến thắng vô cùng vẻ vang.
2.4. Kết quả
Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố
cấu thành cần thiết. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến
pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính quyền từ Trung ương đến
làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ chuyên chính như vệ quốc đoàn, Công an nhân dân
được thiết lập và tăng cường. Các đoàn thể nhân dân như mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt
Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng. Đảng dân
chủ Việt Nam, Đảng xã hội Việt Nam được thành lập.

Về kinh tế, văn hoá: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xoá bỏ các thứ thuế vô lý của
chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục.
Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện.
Tháng 11/1946, giấy bạc "Cụ Hồ" được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức khai giảng năm học
mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới đã bước đầu xoá bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và
tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt, bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước đã có
thêm 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng
phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam bộ, Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến
và phát động phong trào Nam tiến chi viện Nam bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở miền
Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược
nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chống
Pháp ở miền Nam. Khi Pháp - Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28/02/1946), thỏa thuận mua bán quyền
lợi với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với
Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước. Hiệp định Sơ bộ 06/03/1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở
Phôngtennơblô (Phongtenblo, Pháp). Tạm ước 14/09/1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta có thêm thời
gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
3. Ý nghĩa của Chỉ thị
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì
kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”. Kháng chiến
phải được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ phải được quan tâm trước nhất mỗi khi đất nước bị xâm lược. Tuy
nhiên, bên cạnh kháng chiến bảo vệ đất nước cũng cần phải thực hiện công cuộc xây dựng đất nước, củng
cố chính quyền, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chủ động xây dựng và phát triển đất nước mới có tiền
đề để phát huy quyền làm chủ của Chính phủ cách mạng và nhân dân. Bên cạnh đó, việc kiến thiết đất nước
còn là cơ sở để đưa sự nghiệp cách mạng ngày một đi lên giai đoạn hậu kháng chiến. Hai nhiệm vụ kháng
chiến và kiến quốc phải được liên kết bền lâu với nhau trong suốt quá trình chống chiến tranh xâm lược.
Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc của Đảng những năm 1945 - 1946 đã kịp thời đáp ứng những nhu cầu cấp
bách của cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Không chỉ có tác dụng định hướng tư tưởng, vạch ra con đường
kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, chỉ thị ấy đã giúp xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn đầy gian nan, phức tạp này.
3.1. Giải quyết giặc đói
Nhờ vào chủ trương kiến quốc, Đảng ta đã giải quyết được vấn đề cấp bách nhất của nhân dân:
nhu cầu sinh hoạt hay nói cách khác: “giặc đói”. Ông cha ta có câu “có thực mới vực được đạo”, “có ăn thì
mới có sức để làm” để đấu tranh và giành thắng lợi. Đồng thời, nước ta là một nước nhỏ yếu, kháng chiến
bắt buộc phải lâu dài và để có thể làm được như vậy, trước hết phải có đủ lương ăn, vật tư. Từ đó tạo cơ sở
vững chắc, chi viện cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, thống nhất đất nước.
Nắm bắt được nhu cầu cấp bách ấy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ trước tiên là làm cho dân giàu, nước mạnh, phát triển công nghiệp, nông nghiệp hay chính là kiến quốc.
Bởi lẽ, mục đích cuối cùng của đấu tranh chung quy cũng để đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Và
thực tế đã chứng minh đó là một chủ trương vô cùng đúng đắn.
Thêm vào đó, ngay khi nước ta vừa giành được độc lập, chính phủ non trẻ đã phải đối mặt với tình trạng
kiệt quệ sau chiến tranh, ngân khố quốc gia trống rỗng, tàn dư đổ nát do chế độ cũ để lại. Quân địch lại mưu
mẹo, xảo trá, dã tâm to lớn. Tình hình đó càng thêm nhấn mạnh tính cấp bách của việc tập trung phát triển
nền kinh tế, cũng như tính đúng đắn của chủ trương kiến quốc. Đồng thời tạo thêm thời gian hòa bình, tranh
thủ xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra lời kêu gọi, tổ chức các phong trào: “hũ gạo cứu đói” - mỗi tuần nhịn ăn
một bữa và “tuần lễ vàng”; hay tổ chức “ngày đồng tâm”, thực hiện các cuộc vận động cứu đói và tăng gia
sản xuất,... Nhờ đó, chỉ trong thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được đã giải quyết được nhu cầu bức
thiết ngắn hạn của nhân dân lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, để giải quyết gốc rẽ vấn đề trong dài hạn, Đảng đã
nêu cao khẩu hiệu “tăng gia sản xuất”, “tấc đất tấc vàng”, khuyến khích, đốc thúc nhân dân tăng gia sản
xuất, trồng trọt, đắp đê.
3.2. Giải quyết giặc dốt
Đảng ta đã giải quyết được vấn đề vô cùng cấp thiết, khẩn trương thứ hai của nhân dân đó là “giặc dốt”.
Bác đã từng khẳng định giặc dốt chính là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để
cai trị chúng ta. Chính vì thế, để có thể giành được độc lập chúng ta cần phải học chữ. Một cách dễ hiểu,
nếu không biết chữ, nhân dân ta sẽ khó nắm bắt được thông tin cách mạng, khó nhận ra chiêu trò của thực
dân Pháp,… từ đó, khó để tập trung sức mạnh nhân dân và khó đạt được thắng lợi cách mạng.
Hiện thực hóa chủ trương ấy, ngày 08/09/1945, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học
vụ, kêu gọi toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa. Với phương châm “người biết
chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt “giặc dốt” được lan tỏa và thu hút đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia học tập. Khẩu hiệu “Đi học là yêu nước” đã trở thành phong trào ở khắp ngõ xóm, thôn làng.
Cùng với đó, Ban Bình dân học vụ đã sáng tạo thêm nhiều biện pháp như “đón đường hỏi chữ”, dựng 2
cổng “vinh quang” và “cổng mù” để thúc đẩy tinh thần học tập của người dân. Việc nâng cao dân chí cũng
góp phần không nhỏ trong việc củng cố chính quyền nhà nước, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội, xóa
bỏ tàn tích phong kiến.
3.3. Giải quyết giặc ngoại xâm
Nhờ vào chủ trương kháng chiến của Đảng, nước ta đã đẩy lùi dã tâm, đánh tan âm mưu, hành động quay
lại xâm lược một lần nữa của thực dân Pháp. Với tâm thế chủ trương kháng chiến, nước ta đã có thể vạch
trần, làm thất bại mọi âm mưu, các hoạt động chống phá của địch; tạo cơ sở củng cố, giữ gìn và bảo vệ bộ
máy chính quyền cách mạng hiện thời.
Điển hình, vì luôn trong trạng thái sẵn sàng, phòng bị, Đảng ta hay cụ thể là do cụ Huỳnh Thúc Kháng chỉ
huy cùng lực lượng công an đã vô cùng mưu trí, quyết đoán tổ chức một cuộc tấn công bất ngờ vào trụ sở
của Đại Việt – Quốc dân đảng ở số nhà 132 Duvigneau (Đuyvinhô nay là phố Bùi Thị Xuân - Hà Nội), từ
đó lật đổ hoàn toàn mưu đồ thâm độc lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai thực dân.
Chủ trương này được lan truyền và hưởng ứng đã nâng cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm bảo vệ nền độc
lập, tự do của nhân dân. Tăng cường khối đại đoàn kết, phát triển lực lượng cách mạng.
3.4. Xây dựng đất nước
Chủ trương kháng chiến, kiến quốc đã đem lại nhiều giá trị lâu dài. Không chỉ có giá trị lý luận, chỉ đạo
công cuộc kháng chiến, bảo vệ thành quả cách mạng mà tư tưởng đó còn có giá trị to lớn trong công cuộc
đổi mới đất nước, xây dựng độc lập dân tộc cũng như chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là trong việc đổi mới nhận
thức, giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ
quốc trong giai đoạn mới.
Trong thực tế thời điểm đó, ngay sau khi tuyên bố độc lập ngày 02/09/1945, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ đã nhận định cần ngay lập tức thực hiện củng cố chính quyền với nhiệm vụ đầu tiên là tổ chức
càng sớm một cuộc tổng tuyển cử. Tiếp sau đó, đối mặt với quốc khố cạn kiệt sau một thời gian dài bị thực
dân Pháp vơ vét, bóc lột, chính quyền đã tổ chức những “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập” và nhận được sự ủng
hộ nhiệt tình từ nhân dân nhất là các nhà tư sản dân tộc yêu nước. Từ đó tạo cơ sở để nước ta có thể phát
hành và xây dựng một nền tiền tệ độc lập, góp phần không nhỏ và chiến thắng cách mạng, giải phóng dân
tộc và phát triển đất nước về lâu dài.
4. Liên hệ với Việt Nam trong giai đoạn phòng chống dịch bệnh Covid – 19
4.1. Bối cảnh của Việt Nam
Giai đoạn dịch bệnh Covid – 19 bùng phát mạnh từ năm 2020 – 2021 đã khiến cho nền kinh tế - xã hội ở
Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của nền kinh
tế - xã hội các quốc gia trên thế giới. Sau đợt bùng phát dịch bắt đầu từ tháng 04/2021, dẫn đến phải thực
hiện giãn cách kéo dài và gây ra những tổn thất nặng nề về kinh tế. Nước ta phải vật lộn với những đợt giãn
cách kéo dài tại các trung tâm kinh tế của đất nước như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các vùng lân
cận.
Tuy nhiên khi dịch bệnh lan ra toàn thế giới, vùng lãnh số với số người tử vong vì Covid – 19 ngày càng
tăng thì Việt Nam đã hạn chế mức thấp nhất về ca nhiễm bệnh và dịch bệnh vẫn trong tầm kiểm soát. Đợt
bùng phát dịch bắt đầu từ tháng 04/2021 đã gây thiệt hại đáng kể cho người lao động, hộ gia đình và doanh
nghiệp vì nó diễn biến phức tạp hơn.
Trước tình hình đó, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa
phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp vừa phòng chống dịch, đảm bảo sức khỏe người dân, vừa
phòng chống suy giảm kinh tế và giữ vững ổn định xã hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất để thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
4.2. Việt Nam “chống dịch như chống giặc”
4.2.1. “Chống dịch như chống giặc”
“Chống dịch như chống giặc” được hiểu là sự nguy hiểm của dịch bệnh tương đương vơi sự nguy hiểm
của giặc ngoại xâm.
Đối với Việt Nam, “trong dịch có giặc”: Đó là các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị thường xuyên
lợi dụng việc phòng chống dịch COVID – 19 để chống phá cách mạng Việt Nam. Đó là những kẻ “nối giáo
cho giặc”, là những người giấu bệnh, khai báo y tế không trung thực, chống và trốn cách ly, không chấp
hành lệnh cấm tụ tập, tiếp xúc đông người… làm lây lan dịch bệnh. Đó là những kẻ lợi dụng dịch bệnh để
đầu cơ trục lợi, nâng giá, bắt chẹt người mua, sản xuất hàng giả buôn lậu hàng hóa y tế ra nước ngoài; lợi
dụng dịch bệnh để phạm tội. Đó là những kẻ lợi dụng dịch bệnh để phao tin đồn nhảm, làm rối lòng quân,
gây hoang mang trong dân gây ảnh hưởng xấu đến công tác phòng, chống dịch của Việt Nam…
Các loại giặc trên đều nguy hiểm như nhau và là đối tượng phải tiêu diệt. Dịch Covid – 19 là “giặc vô
hình”, mắt thường không thể thấy được làm người ta mắc bệnh và tử vong; đó là các thế lực thù địch và bọn
cơ hội chính trị; do đó, chống giặc dịch được hiểu là chống “giặc COVID-19” để cứu người, bảo vệ Tổ
quốc. Thứ “giặc” còn lại cũng nguy hiểm không kém nên đặt ra tính cấp bách và là “đối tượng” phải phòng,
chống nhanh chóng và kịp thời.
4.2.2. Mục tiêu và phương hương nhà nước đưa ra phòng chống dịch bệnh Covid – 19
Đảng và nhà nước Việt Nam, đã đề ra mục tiêu trước mắt cần đẩy lùi, tiến tới công bố hết dịch về thời
gian sớm; về lâu dài cần nhanh chóng khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của dịch; đồng thời ra sức phát
triển đất nước nhanh và bền vững.
Quan điểm và phương châm cũng được nêu cao, tính mạng con người và lợi ích quốc gia, dân tộc là trên
hết, “Không để ai bị bỏ lại phía sau”. Đặc biệt, phải phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo đó, việc phòng,
chống dịch Covid – 19 hiện nay điều kiện tiên quyết là phải đề cao các biện pháp phòng dịch là chính; thậm
chí “phải hy sinh lợi ích kinh tế để bảo vệ sức khỏe nhân dân” như tinh thần chỉ đạo của Ban Bí thư và
Chính phủ.
Về sức mạnh và lực lượng, Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó, ngành y tế, quân đội và công an là lực lượng nòng cốt; phát huy tối
đa nội lực đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác từ các nước trong khu vực và trên thế giới vì đây là vấn
đề toàn cầu.
4.2.3. Phương thức phòng chống
Trong các chỉ thị, quyết định và hướng về phòng, chống dịch COVID – 19 của Đảng, Nhà nước ta đều
chỉ rõ: “Chủ động ngăn ngừa; phát hiện sớm, xử lý kịp thời, hiệu quả”. Đặc biệt, phải “cách ly kịp thời,
khoanh vùng gọn, dập dịch triệt để, điều trị khỏi bệnh”. Trong đó, việc phát hiện sớm, tăng cường ngăn
chặn là vô cùng quan trọng; bởi vì, nếu chúng ta không kịp thời, không nhanh chóng thì dịch bệnh sẽ lây
lan theo cấp số nhân, lũy thừa. Đối với những người “nối giáo cho giặc” cần kịp thời phát hiện, ngăn chặn
xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật; còn đối với các thế lực thù địch và bọn cơ hội chính trị thường
xuyên lợi dụng việc phòng chống dịch Covid – 19 để chống phá cách mạng Việt Nam thì kiên quyết tiêu
diệt.
Không được chủ quan khinh địch, vì diễn biến dịch hết sức phức tạp và hậu quả xảy ra trên diện rộng do
đó phải hết sức chủ động phòng, chống kịp thời và hiệu quả. Mỗi người dân là một chiến sỹ trên mặt trận
phòng, chống dịch bệnh. Đó chính là tinh thần chủ đạo chống dịch như chống giặc hiện nay.
Cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức các cấp tích cực tuyên truyền
giáo dục cho mọi đối tượng, nhất là bà con nhân dân vùng có dịch hiểu rõ tác hại của dịch và tích cực, chủ
động tham gia phòng, chống dịch với nhiều hình thức và phương tiện tuyên truyền khác nhau hiệu quả.
Phải kết hợp việc tiêu diệt giặc Covid – 19 với thực hiện các nhiệm vụ chính trị khác. Đây là giải pháp
căn cơ nhất bởi vì dịch bệnh có thể kéo dài, nếu chỉ tập trung mọi nguồn lực cho một nhiệm vụ sẽ dẫn tới
nguy cơ đình trệ cho cả nền kinh tế, gây mất ổn định chính trị, mất trật tự an toàn – xã hội…
Tiếp tục tăng cường hợp tác với các nước, triển khai đồng bộ các biện pháp để ngăn chặn nguồn dịch lây
lan từ bên ngoài vào trong nước trên tinh thần vừa mềm dẻo, vừa cương quyết; sẵn sàng nhận hỗ trợ và chia
sẻ về kinh nghiệm xử lý dịch, chữa trị người nhiễm với cộng đồng quốc tế.

Câu 8: Hãy chứng minh rằng, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phản ánh đúng quy luật vận động của cách mạng ở từng miền và của chung cả nước giai
đoạn 1954-1975?
I. Tổng quan về cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1954-1975
 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve được ký kết. Cuộc chiến tranh kết thúc. Quân Pháp
rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Geneve, sau 2 năm sẽ tổ
chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu,
đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy nguỵ quyền, nguỵ quân tay sai, viện trợ kinh
tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào
chiến đấu chống xâm lược mới.
1. Nguyên nhân Mĩ tham gia chiến tranh Việt Nam
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đế quốc Mỹ đã phát huy hết lợi thế của mình (về tài nguyên, nhân lực
dồi dào, hàm lượng kỹ thuật cao, tổn thất ít hơn so với nhiều nước khác. Các quốc gia khác, trong khi sử
dụng chiến tranh để làm giàu và kiếm lợi từ việc buôn bán vũ khí ...) vươn lên trở thành đế quốc giàu có và
hùng mạnh nhất trên thế giới. Mỹ bước lên “đóng vai” bông sen quốc tế, bảo vệ và cứu nguy cho toàn bộ hệ
thống nhà nước tư bản chủ nghĩa nhanh chóng. Các cuộc tấn công của các phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới, các phong trào lao động ở các nước tư bản.
Để hiện thực hóa tham vọng của mình, chủ nghĩa đế quốc Mỹ đã tăng cường chạy đua vũ trang từ năm
1949, thành lập khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO, tháng 9 năm 1949), đẩy mạnh Chiến tranh Lạnh
và kích động các lực lượng đế quốc khác phát động chiến tranh xâm lược thuộc địa và trực tiếp nhảy vào
tham gia cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên.
Tháng 5-1950, Tổng thống Mĩ Truman chính thức viện trợ cho Cộng hòa Pháp trong cuộc chiến tranh xâm
lược Đông Dương, ủng hộ Chính phủ “quốc gia” Bảo Đại.
Tháng 12-1950, Mĩ và Pháp cùng các chính phủ “quốc gia” Việt, Miên, Lào ký kết bản Hiệp định phòng
thủ chung Đông Dương. Theo đó, Mĩ cam kết sẽ viện trợ quân sự cho chính phủ các nước này đối phó với
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 9 và tháng 12-1951, Mĩ trực tiếp ký với Bảo Đại hai bản
hiệp ước tay đôi: Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mỹ và Hiệp ước an ninh chung.
Bên cạnh đó, chính quyền Mỹ không ngừng gia tăng viện trợ quân sự cho thực dân Pháp. Cụ thể, nếu năm
1952 ngân sách viện trợ của Mỹ mới chỉ chiếm 35%, năm 1953 lên 43% thì đến năm 1954 đã tăng vọt đến
73% trong tổng ngân sách dành cho cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp.
Được Mỹ tiếp tay, Pháp bằng nhiều biện pháp chính trị và quân sự, bắt đầu kéo dài cuộc chiến tranh xâm
lược Đông Dương; dù vậy, mọi nỗ lực đều không thể xoay chuyển cục diện cuộc chiến, và các chính phủ
“quốc dân” bản xứ được Mỹ hậu thuẫn. Kỳ liên tiếp sụp đổ.
Tại Việt Nam, trước sức ép của Hoa Kỳ, ngày 12 tháng 1 năm 1954, Bảo Đại buộc phải đưa ra Bửu Lộc lập
nội các mới thay thế nội các Nguyễn Văn Tâm (thành lập tháng 6 năm 1952), nhưng nội các Bửu Lộc cũng
chỉ kéo dài trong sáu tháng.
Đầu tháng 7 năm 1954, Mỹ đã chuẩn bị kỹ lưỡng để đưa Diệm vào miền Nam Việt Nam và gây áp lực để
Pháp cai trị Diệm. Baodai, "nguyên thủ quốc gia" vào thời điểm đó, tỏ ra không hài lòng, nhưng phản ứng
của ông không có kết quả. Sự kiện này đánh dấu một giai đoạn mới trong quá trình chuyển giao giữa Pháp
và Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam. Mỹ bắt đầu đánh đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương và đơn phương thao túng
thế cờ của Việt Nam.
Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới đối với miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ âm mưu
biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự, dùng miền Nam làm bàn đạp tiến công miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, ngăn chặn phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc tại khu vực
Đông Nam Á.

2. Các giai đoạn chiến lược của cuộc kháng chiến


Giai đoạn 1 (7/1954 - 12/1960):
Thời kỳ giữ gìn lực lượng chuyển sang khởi nghĩa từng phần - phong trào Đồng Khởi.

Miền Bắc ra sức củng cố, xây dựng theo hướng XHCN làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước;
miền Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa
từng phần, đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ.

Phong trào “Đồng Khởi” đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực
lượng chuyển sang thế tiến công, từ hình thức đấu tranh chính trị là chính có lực lượng vũ trang hỗ trợ,
chuyển sang kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự, từ đấu tranh quân sự từng bước lên ngang
hàng đấu tranh chính trị.

Từ cao trào đồng khởi của nhân dân, Lực Lượng Vũ Trang cách mạng miền Nam phát triển nhanh chóng;
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) ra đời (20.11.1960). Từ miền Bắc, tuyến vận tải
chiến lược vào miền Nam bằng đường bộ, đường biển hình thành và phát triển. Cách mạng miền Nam từ
thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công

Giai đoạn 2 (1/1961 – 6/1965):


Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.

Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại cuộc chiến “chiến tranh một phía” của Eisenhower,
đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên. Trước nguy cơ sụp đổ của chính
quyền tay sai, Mỹ phải đối phó bằng chiến lược chiến tranh đặc biệt, ra sức củng cố và phát triển QĐ Sài
Gòn, tăng cường viện trợ, cố vấn và lực lượng yểm trợ của Mỹ; mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân,
lập ấp chiến lược theo kế hoạch Stanley-Taylor.

Chính quyền Kennedy công bố học thuyết chiến tranh mới: Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và chọn miền
Nam Việt Nam làm nơi thí điểm. Nội dung chủ yếu của “Chiến tranh đặc biệt” là: củng cố ngụy quyền, tăng
cường khả năng chiến đấu của ngụy quân bằng chỉ huy, trang bị vũ khí, yểm trợ kỹ thuật Mỹ, tăng cường
phá hoại miền Bắc, chống miền Nam thâm nhập, bình định dồn dân vào “ấp chiến lược” để thực hiện “tát
nước bắt cá”, cô lập, đi đến tiêu diệt cách mạng miền Nam. Ngụy quyền, ngụy quân và “ấp chiến lược”
được coi là xương sống của “Chiến tranh đặc biệt”.
Giai đoạn 3 ( 7/1965 – 12/1968 ):
Phát triển thế tiến công chiến lược, đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh
phá hoại lần 1 (7.2.1965-1.11.1968) của Mỹ ở miền Bắc.

Chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Kennedy đề ra 3 hình thức chiến tranh: đặc biệt, cục bộ,
tổng lực. Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ bị động chuyển sang tiến hành chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh, cuộc “Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến
tranh xâm lược thực dân mới, nhưng sử dụng mức độ hạn chế quân Mỹ cùng với quân chư hầu trong khu
vực và quân ngụy, trong đó quân Mỹ giữ vai trò tác chiến chủ yếu trên chiến trường. Mục tiêu “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam là nhanh chóng tạo ra ưu thế binh lực, hỏa lực “tìm diệt” chủ lực ta, giành lại thế chủ
động trên chiến trường, mở rộng và củng cố vùng kiểm soát, giành lại dân; đồng thời gây chiến tranh phá
hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc,
làm lung lay ý chí giải phóng miền Nam của Đảng ta và nhân dân ta.
Bị thất bại nặng nề ở VN, trước làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam trên thế giới và ngay
trong nước Mỹ ngày càng mạnh mẽ, ngày 1.11.1968, chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom
bắn phá miền Bắc và phải ngồi vào bàn thương lượng ở Hội nghị Paris (1968-1973). “Chiến tranh cục bộ”
của Mỹ bị phá sản

Giai đoạn 4 ( 1/1969 - 1/1973):


Đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và chiến tranh phá hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của Mỹ ở
miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước.
Chiến lược chiến tranh cục bộ bị phá sản, Nixon chuyển sang thực hiện chiến lược "VN hóa chiến tranh", ra
sức phát triển và hiện đại hoá QĐ Sài Gòn để từng bước thay thế quân Mỹ rút dần về nước; đẩy mạnh bình
định ở miền Nam VN và mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.
Trước thất bại nặng nề của QĐ Sài Gòn, Mỹ cho không quân và hải quân trở lại đánh phá ác liệt ở miền
Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Cuộc tập kích đường không chiến lược
bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối 12.1972 (chiến dịch Linebacker II) bị đập tan
(xem chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng, 18-29.12.1972) và là một “Điện Biên Phủ trên không”
đối với đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973), rút hết quân Mỹ và quân
các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam VN, cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của VN. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thất bại

Giai đoạn 5 (12.1973-30.4.1975):


Tạo thế, tạo lực và thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam
kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến chống Mỹ.

Tuy rút hết quân đội, nhưng Mỹ vẫn để lại 2 vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, để lại vũ khí, trang bị chiến
tranh và tiếp tục viện trợ quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Quân ngụy lên đến 1.100.000 tên và
ra sức lấn chiếm phá hoại Hiệp định Paris. Quân dân miền Nam kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân
“tràn ngập lãnh thổ” của địch, cả nước khẩn trương tạo thế, tạo lực để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Được Mỹ tiếp sức, chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại hiệp định Paris, liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn. Nhân dân VN đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới với quy mô lớn quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt nhất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ
hai. Đây cũng là cuộc chiến bại chưa từng có trong lịch sử 200 năm của nước Mỹ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo
dài hơn 100 năm, mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc - cả nước VN hoàn toàn độc lập, thống nhất
và đi lên CNXH; đồng thời tạo điều kiện cho cách mạng Lào và cách mạng Campuchia giành thắng lợi
quyết định, góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
I. Đường lối kháng chiến chống Mỹ của Đảng cộng sản Việt Nam phản ánh được quy
luật vận động cách mạng của 2 miền Nam-Bắc:

Giai đoạn 1954- 1960 :


Đảng cộng sản chủ trương khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công

1.Ở miền Bắc:


Tình hình phức tạp sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết
là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình
mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại.

Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc được giải phóng, Trung
ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới: kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, mở đầu cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến
tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội,
ổn định, đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế...để sớm đưa miền Bắc trở
lại bình thường sau 9 năm kháng chiến.

Ngay sau khi hoà bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút
quân khỏi miền Bắc. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng
mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân,
như kích động, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di cư vào Nam, …

Để ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước đã ban hành kịp thời nhiều chính sách chỉ đạo các địa phương thực
hiện, như: chính sách đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch;
chính sách đối với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp
đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch, cưỡng ép di cư. Nhờ đó, Ngày
10-10-1954, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh
Pháp và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát triển sản xuất nông
nghiệp làm trọng tâm, kết hợp với cải cách ruộng đất và xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông
vận tải cũng hoàn thành. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Đảng chủ trương dựa hẳn vào
bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia đều cho
dân nghèo
tuy nhiên, Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, ta đã phạm phải một số sai
lầm nghiêm trọng,trong chỉ đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông
thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình
tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn,, từ đó dẫn đến xử lý oan nhiều cán bộ, đảng viên tốt.
Về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đối với giai
cấp tư sản.
Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc
Về kinh tế, không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công
tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, cải tạo họ thành người lao động.
Kết quả:
 Ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960) đã tạo nên những chuyển
biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta.
 Miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương ổn định, vững
mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

2. Ở miền Nam:

Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ tháng 7-1954, Đảng quyết định thay đổi phương thức
đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi đối phương phải thi hành
Hiệp định, tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 9-1954, nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là: đấu tranh
đòi thi hành Hiệp định; chuyển hướng công tác cho phù hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân tộc,
dân chủ, hòa bình, thống nhất, đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ, hoàn thành thống nhất
Tổ quốc. Đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị nêu rõ chế độ thống trị của Mỹ Diệm ở miền Nam là một
chế độ độc tài, phát xít. Để chống đế quốc Mỹ và tay sai, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước
và tự cứu mình là con đường cách mạng.
Theo chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm tổ chức quần chúng công khai, trong đó có các ủy ban
đấu tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam. Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử,
chống bầu cử lừa bịp, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn dân, đòi công ăn việc làm, chống khủng bố, chống sa
thải, chống bắt lính... được phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị với hàng triệu lượt người tham gia.

Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã man, các đảng bộ ở miền
Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều địa phương đã chủ trương “điều” và “lắng”2
cán bộ để bám dân, bám đất lãnh đạo phong trào. Nhiều nơi quần chúng đã lấy vũ khí chôn giấu khi có Hiệp
định đình chiến, cướp súng địch, dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những tên phản
động. Nhiều khu căn cứ được củng cố lại, nhiều đội vũ trang được thành lập.
tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam với tinh thần cơ
bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng
chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền về tay nhân dân... Nghị quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam,
tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã mở đường chi
viện cách mạng miền Nam. Các tỉnh miền Bắc đã chủ động kết nghĩa với các tỉnh miền Nam để phối hợp
đấu tranh cách mạng vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Từ giữa năm 1959, một số cuộc khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh vũ trang đã bùng nổ ở Bình Định, Ninh
THuận, Quảng Ngãi… Ngày 17/1/1960 ở Bến Tre, hình thức khởi nghĩa đồng loạt (đồng khởi) bắt đầu
bùng nổ. Do đó, hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng lớn. Đến cuối năm 1960,
phong trào Đồng khởi đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn.

Giai đoạn 1961-1965:


Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thảo luận
và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ
và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch
5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,…
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:
 đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
 tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành
độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung:
cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể
riêng, song, trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất
nước.
Về vai trò, nhiệm vụ cụ thể của chiến lược ở mỗi miền:
 Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà
 cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
Về hòa bình thống nhất Tổ Quốc:
Đại hội chủ trương kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà. Song ta phải luôn
luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội:
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá
trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế
chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta
và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, song thành công to lớn nhất
của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,
đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện
mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đó chính là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp
với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, do đó tạo ra được
sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.

Như vậy, Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của Đảng thể hiện tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn
Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

II. Tìm hiểu đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cả
nước

Bối cảnh lịch sử


Sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn,
phức tạp.
Thuận lợi:
Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học- kỹ thuật, nhất là của Liên
Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh; phong trào
hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ
địa vững chắc cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí
độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn:
Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn
cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và
Trung Quốc; đất nước ta bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.

Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng cộng sản Việt Nam đối với cả nước:
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng
hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đi
đến quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị khẳng định đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang và cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu
tranh vũ trang. Miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng
miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của
địch.
Trước những cuộc chiến ở miền Nam “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc
Mỹ, Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) đã nếu ra đường lối kháng chiến
chống Mỹ cứu nước như sau:
 Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “
Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
 Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc “Chiến tranh cục bộ”
mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi
trong thế thua, thế thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn chiến lược. Từ sự phân tích
và nhận định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
trong toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam ra Bắc.
 Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục
bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở
miền Bắc, thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa và sức chính mình, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến
mức độ cao.
 Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước,
miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì
xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
 Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền Nam được tiến hành cụ thể là dựa trên phương châm giữ
vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương
châm: Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công”, đánh địch
trên cả 03 vùng chiến lược.
 Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc tiến hành cụ thể là dựa trên phương trâm chuyển hướng sang mục
tiêu phấn đấu để xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc
phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn chiếm và phá hoại Hiệp định.
Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 21, khoá III họp và ra Nghị quyết lịch sử:
"Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới”; Hội nghị xác định: “con đường của cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực,
bất kể trong tình huống nào phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”.
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam (10 - 1974), và Hội nghị
Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1 - 1975), chỉ rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở
nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt
quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) là
quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954
đến năm 1975. Đó là đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận dụng
sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng với
truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật
chỉ đạo chiến tranh của các nước xã hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định
trực tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX. Qua
đó có thể thấy được ý nghĩa của những bài học kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có giá
trị trường tồn và là cơ sở để Đảng ta có những chủ trương và quyết sách phù hợp, từng bước làm thất bại
mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
đưa đất nước ta tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Câu 9 : PHÂN TÍCH CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM
NHỮNG NĂM 1975-1979
ĐÚC RÚT MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐÓ.
I . Chiến tranh biên giới Tây Nam ( Việt Nam - Campuchia)
Bối cảnh sau khi Việt Nam hoàn thành cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước
1. Hoàn cảnh lịch sử chiến tranh biên giới Tây Nam
1.2 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh
 Nguyên nhân trực tiếp
Được sự tiếp tay của các thế lực phản động nước ngoài, bọn phản động Pol Pot đã thực hiện hàng loạt vụ vi
phạm biên giới, gây thương vong cho dân thường.

Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1973, quân Pol Pot đã gây ra 102 vụ, giết và bị thương 103 bộ đội Việt Nam,
cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí.

Tại quê nhà, chúng đã phạm sai lầm đặc biệt nghiêm trọng, thực hiện chính sách diệt chủng dã man, cưỡng
bức lao động, tra tấn dã man nhân dân Campuchia; biến trường học, chùa chiền thành nhà tù, mồ chôn tập
thể khắp nơi ...
 Nguyên nhân sâu xa
Do sự kích động, lợi dụng của các thế lực thù địch phản động nước ngoài(Mỹ với mong muốn quay lại
Việt Nam,Trung Quốc).
Năm 1975, ngay sau khi đất nước Việt Nam thống nhất, Pol Pot đã cho quân đánh chiếm các đảo và biên
giới lục địa phía Tây Nam nước ta.
Cuối năm 1976, chúng tăng cường hoạt động khiêu khích, đánh chiếm vùng biên giới Tây Nam nước ta.
Cùng với hành động xâm lược, bọn Pol Pot còn ra sức truyền bá, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam .
Trong hai tháng 3 và 4 năm 1977, quân Pol Pot liên tục thực hiện nhiều cuộc diễn tập dọc biên giới với
nước ta
Đêm 30-4-1977, bọn Pol Pot mở cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu
cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.

2. Diễn biến cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam


2.1 Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978) của chiến tranh biên giới Tây Nam
.Ngày 30 tháng 4 năm 1977, chúng tấn công 14 trong số 16 thị trấn biên giới của tỉnh An Giang. Bộ
đội Việt Nam và tiểu đoàn địa phương An Giang phản công, tiêu diệt 300 tên và buộc quân Pol Pot
phải rút chạy qua biên giới .

Từ ngày 25-9-1977, quân Pol Pot tập hợp 9 sư đoàn chủ lực mở cuộc tấn công lớn thứ hai diễn ra tại các
tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An và Đồng Tháp về phía Tây Ninh
Với âm mưu thâm độc, tập đoàn Pol Pot đã đưa cuộc chiến tranh biên giới ra khiến dư luận thế giới chú ý:
Ngày 31/12/1977, chúng ra tuyên bố vu khống Quân đội Việt Nam “tiến công xâm lược Campuchia dân
chủ” nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Trước những lời vu khống trên, ngày 31 tháng 12 năm 1977, Chính phủ Việt Nam ra thông cáo về vấn đề
biên giới Việt Nam - Campuchia vạch trần âm mưu, thủ đoạn và tội ác man rợ của tập đoàn Pol Pot đối
với đồng bào ta ở các tỉnh biên giới Tây Nam.
2.2 Giai đoạn 2 (từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979) của chiến tranh biên giới Tây Nam
Tháng 1/1978, Pol Pot điều thêm Sư đoàn Biên giới 2, tiếp tục gây xung đột, liên tục tấn công xâm lược, nã
pháo vào những nơi đông dân cư
Đảng và Nhà nước tiến hành các cuộc đấu tranh chính trị, ngoại giao, tuyên bố ba điểm:
Đầu tiên, ngừng mọi hoạt động quân sự, rút các lực lượng vũ trang cách biên giới đến 5 km;
Thứ hai, đàm phán ký hiệp ước hữu nghị không xâm lược và ký hiệp ước biên giới;
Cuối cùng, thỏa thuận về một hình thức phù hợp để đảm bảo thông lệ quốc tế và sự giám sát quốc tế.
Bỏ qua thiện chí của ta, quân Pol Pot tiếp tục điều động lực lượng ra sát biên giới và cho quân tiến công,
xâm nhập nhiều điểm trên lãnh thổ ta. Lực lượng của ta đã kiên quyết phản công và chiếm lại các khu vực
bị tấn công. .Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu miền Đông ngày
26/5/1978, quân Pol Pot không chỉ thanh trừng nội bộ mà còn phải đối phó với lực lượng cách mạng
Campuchia vẫn tiếp tục hoạt động ở nhiều nơi trên thế giới. .Từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1978, Việt Nam
đã hỗ trợ các đơn vị cách mạng Campuchia phát triển và thành lập tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt
trận và cơ quan lãnh đạo.
Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tuyên chiến ngày
23/12/1978. tổng phản công - một cuộc tấn công trên toàn bộ biên giới.

Ngày 8/1/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập .Ngày 17/1/979, toàn bộ đất
nước Campuchia được giải phóng
-ngày 7/1/1979 chiến tranh biên giới Tây Nam đã kết thúc.
3. Kết quả cuộc chiến tranh Tây Nam
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã làm tan vỡ những âm mưu của
Pol Pot Ieng Sary và các thế lực phản động quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. ; xóa bỏ chính quyền phản động Pol Pot Ieng Sary, cứu nhân dân Campuchia
thoát khỏi bờ vực diệt chủng, ngăn chặn âm mưu chia rẽ truyền thống đoàn kết lâu đời giữa ba nước Đông
Dương.

bài học kinh nghiệm đáng giá trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay.
Một là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, nắm chắc diễn biến, kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ
đoạn xâm lược.

Hai là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh, nhất là ở những trọng điểm, biên giới,
hải đảo có nhiều diễn biến phức tạp.
Ba là, chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng
hợp và sức chiến đấu ngày càng cao.Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nhờ phát
huy cao ý chí, quyết tâm chiến đấu, sáng tạo trong tổ chức lực lượng, xây dựng thế trận và cách đánh, Quân
đội nhân dân đã đánh bại các cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Bốn là, nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới, khu vực, tăng cường hợp tác, đối ngoại quốc phòng với các
nước, nhất là các nước láng giềng, đẩy mạnh hợp tác cả trên bình diện song phương và đa phương. Tránh
xung đột, đối đầu hoặc để bị cô lập, phụ thuộc.
II. Chiến tranh biên giới phía Bắc ( Việt Nam - Trung Quốc)
1. Hoàn cảnh lịch sử của chiến tranh biên giới phía Bắc
1.1 Bối cảnh lịch sử
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh nhân dân Việt Nam vừa kết thúc
30 năm chiến tranh giải phóng đất nước không lâu (1975), hậu quả chiến tranh để lại rất nặng nề. Chưa kể,
nhân dân Việt Nam lại vừa phải trải qua cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam chống lại tập đoàn
phản động Pôn Pốt – Iêng Xary. Do đó, đây là thử thách rất lớn đối với nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh
lịch sử lúc bấy giờ.
1.2 Nguyên nhân lịch sử
 Nguyên nhân trực tiếp
Sau khi Pol Pot thất bại Trung Quốc tăng thêm viện trợ để tạo vòng vây bao quanh Việt Nam.
Tháng 8/1978, Trung Quốc tăng cường quân đội, điều lệnh vô số xe cơ giới, xe tăng, xe bọc thép, súng,
pháo, hạm đội tấn công Việt Nam. Chiếm đóng nhiều huyện lỵ ở các tỉnh phía Bắc của nước Việt Nam.
Nguyên nhân sâu xa
Thứ nhất, xuất phát từ chủ nghĩa dân tộc nước lớn của Trung Quốc, họ luôn luôn muốn Việt Nam suy yếu,
làm đệm an toàn ở phía Nam Trung Quốc. Khi thấy Việt Nam ngày càng lớn mạnh thì Trung Quốc cảm
thấy bị ngăn cản
Thứ hai, do Việt Nam thể hiện quan điểm ngả về phía Liên Xô
Thứ ba, lấy cớ Việt Nam xua đuổi người Hoa về nước, nhưng thực chất Trung Quốc đã sử dụng vấn đề đó
để ép Việt Nam làm theo các chính sách của mình và đã kích động người Hoa về nước nhằm tạo cớ gây sự
với Việt Nam.
2. Diễn biến cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (17/2/1979 – 16/3/1979)
Rạng sáng ngày 17/2/1979, Trung Quốc đưa 600.000 quân tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam đã bất
ngờ mở cuộc tấn công xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam với 6 điểm chính từ Phong
Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) dài hơn 1000 km.
17/2/1979 - 3/3/1979, nhân dân Việt Nam anh dũng chiến đấu chống lại Trung Quốc. Ngày 4/3/1979, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi quân và dân cả nước quyết tâm “giữ vững biên cương của Tổ
quốc”.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên trong cả nước để bảo vệ Tổ quốc.
Trên mặt trận Lạng Sơn (Quân khu 1)

Mở đầu cuộc tiến công, quân xâm lược Trung Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đình Lập), Chi
Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng.Các đơn vị chủ
lực Quân khu 1 và lực lượng vũ trang địa phương đánh chặn quyết liệt, gây cho đối phương nhiều thiệt hại.
 Trên mặt trận Cao Bằng (Quân khu 1)
Sáng ngày 17/2/1979, quân xâm lược Trung Quốc chia làm hai cánh: Một cánh tiến công vào Thông Nông,
Hà Quảng và một cánh tiến công Phục Hòa, Đông Khê
Cao Bằng trở thành chiến trường đánh giặc khắp nơi,các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương phối hợp
với dân quân tự vệ liên tục chiến đấu, gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho đối phương.
 Trên mặt trận Lai Châu
Trên mặt trận Lai Châu, quân Trung Quốc chia thành hai mũi tiến công.
Bị quân và dân ta đánh trả, buộc phải rút quân.
 Trên mặt trận Quảng Ninh
Quảng Ninh quân Trung Quốc chia hai mũi: Một mũi tiến công vào Thán Phán (huyện Móng Cái) và một
mũi tiến công vào Cao Ba Lanh (huyện Bình Liêu)
 Trên mặt trận Hà Tuyên
Phía Trung Quốc chia làm 3 mũi tiến công vào các khu vực Thanh Thủy, Đồng Văn và Mèo Vạc (nay thuộc
tỉnh Hà Giang).
 Trên mặt trận Hoàng Liên Sơn
Hoàng Liên Sơn là trọng điểm tiến công chính của quân Trung Quốc trên tuyến biên giới Tây Bắc. Tại đây
địch tổ chức tiến công quy mô lớn theo hai trục: từ Quang Kim (Bát Xát) đánh xuống Cam Đường, Bến
Đền và từ Nà Lốc vào Bản Phiệt (Bảo Thắng) theo quốc lộ 70 đánh xuống Phong Hải, Phố Lu.

Ngày 5-3, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố rút quân.
3. Kết quả của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
Sau hàng loạt diễn biến của cuộc chiến mà vẫn không đạt được mục tiêu đề ra và bị dư luận thế giới lên án
mạnh mẽ, tối 5/3/1979, chính quyền Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước. Đến ngày 18/3/1979, Trung
Quốc hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam.
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Cuộc chiến đặc biệt để lại
nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam, đặc biệt là nền kinh tế. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất
cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến.
4. Ý nghĩa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
Sau thắng lợi của cuộc chiến, Đảng và nhân dân Việt Nam thêm một lần nữa khẳng định được chủ quyền
của quốc gia là bất khả xâm phạm, cho mọi kẻ thù thấy được ý chí, sức mạnh bền bỉ, tinh thần đoàn kết của
toàn dân và quân đội Việt Nam sẵn sàng và quyết tâm vượt qua mọi thử thách để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc
Thứ hai, cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc khẳng định đường lối chính trị và quân sự đúng đắn,
sáng suốt, sự chỉ đạo chiến lược tác chiến tài tình, tinh tế và sắc bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương
Việt Nam .
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA

 Bài học từ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.


Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Việt Nam để lại cho chúng ta ý nghĩa to lớn nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu.
Một là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính xác âm mưu và hành
động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước lớn, trên cơ sở đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để
bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, quân sự với đấu
ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp trong nước, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng
nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô lập.
Ba là, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân địa
phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ (bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương
tỉnh, huyện, dân quân du kích) kết hợp với sức mạnh hậu phương cả nước tạo thành những “trường thành
thép” sẵn sàng đánh trả có hiệu quả mọi cuộc tiến công từ bên ngoài ngay thời gian đầu.
Bốn là, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”
với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương thức tác chiến chính quy), đồng thời biết khai thác, phát huy tư
tưởng nhân văn “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của cha ông thuở trước kết hợp
với chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Câu 10: Làm rõ sự khác biệt căn bản trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trước
và sau Đổi mới (1986)? Phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong đường lối đối ngoại trước
Đổi mới?
Chương 1. Bối cảnh lịch sử giai đoạn trước và sau 1986
1.1 Trước đổi mới
1.1.1 Tình hình thế giới.
Tình hình chính trị trên thế giới có sự thay đổi lớn
Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng. Năm 1985, Liên Xô
phát động công cuộc cải tổ, hòa hoãn với Mỹ và chạy đua kinh tế thế giới. Phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế gặp khó khăn lớn.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) diễn ra những thay đổi to lớn do tác động của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ: xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống quốc tế, sự hợp tác – phân công giữa các nước,
các nền kinh tế, hình thành thị trườngquốc tế và khu vực; sự thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới theo hướng
mở, sự thay bậc đổi ngôi giữa các ngành kinh tế; xu thế rút ngắn con đường phát triển với sự nổi lên của
những nước công nghiệp mới ở Châu Á.
Các nước xã hội chủ nghĩa đã từng gây những ảnh hưởng tích cực, đa chiều đến sự thay đổi của chủ nghĩa
tư bản thì giờ đây, những đổi thay ở các nước TBCN dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ
đang tác động ngày càng rõ rệt đến các nước chủ nghĩa xã hội.
1.1.2 Tình hình trong nước
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với
khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được
một số thành tựu quan trọng. Đây là những thuận lợi rất cơ bản của cách mạng nước ta.
Mặc dù có được những điều kiện thuận lợi nhưng nước ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Nước ta vừa phải tập
trung khắc phục hậu quả nặng nề của ba mươi năm chiến tranh vừa phải đối phó với chiến tranh biên giới
Tây Nam và biên giới phía Bắc. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc chống
phá cách mạng Việt Nam. Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) nhận định “nước ta đang ở trong tình
thế vừa có hoà bình vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt”. Ngoài ra, do tư
tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, đã dẫn đến
những khó khăn về kinh tế – xã hội.
Những thuận lợi, khó khăn từ tình hình thế giới và trong nước ở giai đoạn này đã ảnh hưởng to lớn đến
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và tác động tới việc hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng.
1.2 Sau đổi mới
1.2.1 Tình hình thế giới
Từ giữa những năm 1980, Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục
phát triển mạnh mẽ. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu những năm 1990,
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.
Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung
của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển. Xu thế toàn cầu hóa trở nên phổ biến ở các nước trên thế giới,
nó vừa mang lại tác động tích cực đồng thời cũng tiềm ẩn những tiêu cực.
Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương, từ những năm 1990, có nhiều chuyển biến mới: Trước hết
trong khu vực tuy vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng
biển Đông và việc một số nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á - Thái Bình Dương vẫn
được đánh giá là khu vực ổn định
1.2.2 Tình hình trong nước
Sau đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy sinh cần tiếp tục thử nghiệm và hoàn thiện, song con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục
tăng trưởng, kết cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của
đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, khoa học và sáng
tạo
Chương 2: Sự khác biệt căn bản trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và sau
đổi mới năm 1986.
Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng và Chính phủ đã có rất nhiều cơ hội, đồng thời cũng đối mặt mới những thách
thức mới. Những điều này vô hình chung đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đường lối đối ngoại của Đảng. Cụ thể,
đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước được chia làm 2 giai đoạn chính: Trước và sau đổi mới 1986.
2.1 Trước Đổi mới 1986:
Trong bối cảnh hòa bình được lập lại, nước ta vừa hoàn thành giải phóng Miền Nam, Đảng ta đã có nhiều
thuận lợi cơ bản để có thể phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đồng thời phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ và
thách thức mới, đã ảnh hưởng rất nhiều tới các chính sách, hoạch định đối ngoại của nước ta thời kỳ đó.
Trong kỳ Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976):
Nhiệm vụ đối ngoại được đề ra hàng đầu là “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh
chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước
ta”. Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và
quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào – Campuchia; sẵn sàng, thiết lập phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực;
thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập
chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương, chính sách
đối ngoại như:
 Chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam;
 Nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt – Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia
đang diễn biến phức tạp;
 Chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hoà bình, tự do, trung lập và ổn định;
 Đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đại hội lần thứ V (3/1982) của đảng xác định:
Công tác đối ngọi phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính
sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta. Về quan hệ với các nước, Đảng ta
tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là
hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào –
Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các
nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại, nhằm xây dựng Đông Nam Á
thành khu vực hoà bình và ổn định; chủ chương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên cơ sở
các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình; chủ trương thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà
nước, về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thực tế
cho thấy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975 - 1986) là xây dựng quan hệ hợp
tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; cũng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và
Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh
với sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch.
2.2 Thời kỳ Sau Đổi mới năm 1986:
Trong Giai đoạn 1986-1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế.
Kỳ Đại hội VI của Đảng (12 /1986) trên cơ sở nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng
khoa - học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta
nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế – xã hội
khác nhau,cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”
Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Đây
là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam –
mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiếtbị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh và phục vụ công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Đảng và nhân
dân ta là phải củng cố và giư vững hoà bình để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Bộ chính trị đề
ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác
trong cùng tồn tại hoà bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và xu thế toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đảng chủ trương xoá bỏ tình trạng độc
quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị – xã hôi khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, với
phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”.
=> Quan điểm chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội lần thứ VI, sau đó được các nghị quyết
trung ương từ khoá VI đến khoá VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
Giai đoạn 1996-2008: Bổ sung và phát triển đương lối đối ngoại theo phương châm chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với
các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế
mở và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng (4/2001), Đảng nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ” “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng
thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn
lực tổng hợp phát triển đất nước”
Phương châm của Đại Hội VII là: “Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006) nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hoà bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Như
vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế được xác
lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1996), đến Đại hội X (năm 2006) được bổ sung, phát
triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dang hoá các quan
hệ quốc tế.
2.3 kết luận
Trước đổi mới, đất nước ta còn nhiều khó khăn như hậu quả chiến tranh nặng nề, đối phó với các lệnh cấm
vận, chiến tranh biên giới,... Vì vậy, đường lối đối ngoại của Đảng đề ra xoay quanh việc hàn gắn vết
thương chiến tranh, củng cố quan hệ và coi Liên Xô và khối XHCN là đối tác toàn diện.
Sau đổi mới, Đảng ta bắt đầu nhìn ra xu hướng mới của thế giới. Từ đó, đường lối đối ngoại bắt đầu mở
rộng hợp tác, chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển”, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
Chương 3: Hạn chế và nguyên nhân
3.1 Hạn chế của đường lối đối ngoại của Đảng trước thời kỳ đổi mới:
Trước hết, Việt Nam chưa có nhìn nhận thấu đáo về Mỹ và sức mạnh của Mỹ trong khu vực, còn dè chừng
trong quan hệ đối ngoại với Mỹ. Việt Nam cho rằng, chiến tranh mùa Xuân 1975 đã đẩy Mỹ vào tình thế
khó khăn, đánh dấu bước ngoặt đi xuống của Mỹ, làm Mỹ suy yếu nghiêm trọng và buộc phải rút lui khỏi
một số địa bàn ở Châu Á. Song trên thực tế, mặc dù uy tín của Mỹ có giảm sút nhưng Mỹ chưa hề đánh mất
vị trí siêu cường và khi cần thiết Mỹ có thể sử dụng sức mạnh đó để liên kết với các nước khác thực hiện
các chính sách chống phá Việt Nam.
Việt Nam cũng chưa nắm bắt được những tính toán của Mỹ trong mối bang giao với các nước cùng khu
vực. Việt Nam cho rằng Mỹ còn đang tìm cách gắn chặt với các nước Đông Nam Á nhằm tranh thủ lực
lượng để ngăn Liên Xô ở phía Đông; đồng thời, phối hợp với các thế lực phản động chống phá ba nước
Đông Dương. Chính vì vậy, Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, tiếp tục đẩy quan
hệ Việt – Mỹ rơi vào tình trạng đối đầu căng thẳng.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa nắm bắt chuẩn xác về sự thay đổi trong tam giác chiến lược Mỹ - Liên
Xô- Trung Quốc nên Việt Nam cũng chưa có những đối sách phù hợp, nhất là với Trung Quốc.
Việt Nam vẫn chưa thiết lập được quan hệ đối ngoại với các nước tư bản Tây Âu. Xuất phát từ tư duy giáo
điều, cách nhìn xơ cứng về xã hội chủ nghĩa hiện thực, đánh giá quá cao sức mạnh của hệ thống XHCN,
nên Việt Nam đã không lường hết những khó khăn và dấu hiệu khủng hoảng trong nội bộ hệ thống xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, Việt Nam vẫn tin rằng: “Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh
không ngừng”, có khả năng phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Hơn nữa, do bị chế định bởi tư duy ý thức hệ
và không khí Chiến tranh lạnh nên Việt Nam vẫn còn nhận thức cứng nhắc về các nước tư bản Tây Âu,
chưa đánh giá đúng về chiều hướng đối ngoại của các nước này, do đó chưa thiết lập được quan hệ đối
ngoại với họ.
Việt Nam vẫn còn chậm trễ trong nhận thức về các vấn đề của khu vực, nhất là những thay đổi trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong ASEAN. Vì thế, chưa thực sự nỗ lực thúc đẩy,
phát triển quan hệ hợp tác song phương, đa phương.
Thêm nữa, do ảnh hưởng từ sự kiện Campuchia nên chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam
với các nước trong khu vực và thế giới chưa được hiện thực hoá một cách trọn vẹn, dẫn đến những khó
khăn, vướng mắc trong việc xác lập mối quan hệ quốc tế. Từ đó, các nước ASEAN và một số nước khác đã
lấy cớ sự kiện Campuchia để thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam, đặc biệt cuối thập kỷ 70 của thế kỷ
XX.
Với những nhận thức chưa chuẩn xác về thế và lực của đất nước, đánh giá chưa đúng những chuyển động
của tình hình thế giới mà Việt Nam đã quá chú trọng, đề cao Liên Xô và coi Liên Xô như “hòn đá tảng”
trong chính sách đối ngoại của mình. Những năm 1976-1986, do tác động, chi phối bởi những yếu tố chủ
quan, khách quan khác nhau nên Việt Nam nghiêng hẳn về phía Liên Xô và đối đầu với nước láng giềng
lớn Trung Quốc. Đồng thời, nhấn mạnh thắt chặt tình đoàn kết với Liên Xô là vấn đề cần thiết và quan
trọng.
3.2 Nguyên nhân của những hạn chế
Trong những năm 1976-1986, Việt Nam chưa làm tốt công tác dự báo tình hình, nhận diện chưa đúng về
các mối quan hệ phức tạp giữa các nước lớn nên đã không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp
với tình hình thực tế.
Ngoài ra, do chính sách đối ngoại còn mang tính cứng nhắc, giáo điều và có cách nhìn xơ cứng về xã hội
chủ nghĩa hiện thực nên Việt Nam chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua
kinh tế trên thế giới. Do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế để phục vụ
cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 suy cho cùng đều xuất phát từ nguyên nhân
cơ bản đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ là "bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan". Do sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, uy tín và vị
thế của Việt Nam đã được nâng cao, song với tư thế là người chiến thắng, Việt Nam đã thiếu tỉnh táo, đánh
giá quá cao thời kỳ sau Việt Nam, đồng thời, thỏa mãn với nhận định của một số học giả nước ngoài và tự
nhận thấy đánh được Mỹ thì không có gì không làm được. Từ đó, Việt Nam đã đánh giá thiếu chính xác về
thế và lực của đất nước.

Kết luận: Bên cạnh những kết quả nêu trên, nhìn tổng quát, từ năm 1975 đến năm 1986, quan hệ quốc tế của
Việt Nam gặp những khó khăn trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cô lập, trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ
70 thế kỷ XX, lấy cớ “Sự kiện Campuchia” các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm
vận Việt Nam ... Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trên, là do trong quan hệ đối ngoại giai đoạn này
chúng ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hoà hoãn và chạy đua kinh tế trên thế giới. Do
đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục
và phát triển kinh tế sau chiên tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình
hình.Những hạn chế về đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-1986) suy cho cùng đều xuất phát từ
nguyên nhân cơ bản đã được Đại hội lần thứ VI của Đảng chỉ ra là “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”..

You might also like