You are on page 1of 3

1.4.

Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở


Việt Nam.
Thứ nhất: Phát triển lực lượng sản xuất, cải cách công nghiệp và đất nước: Đây được
coi là hoạt động chủ yếu của cả thời kỳ quá độ: xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội
và phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình quan trọng và
toàn diện của các hoạt động kinh tế - xã hội, từ việc sử dụng cơ bản lao động chân tay đến
việc sử dụng những kiến thức, kỹ năng hiện đại, tiến bộ. Công nghiệp hóa và quốc hữu hóa là
nhiệm vụ chung trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước kém phát triển về
kinh tế, có chủ nghĩa tư bản kém phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, cơ cấu, nhịp độ,
tốc độ và chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của bất kỳ nước nào đi vào chủ nghĩa xã
hội đều phải xuất phát từ lịch sử đặc thù của mỗi nước và quốc tế trong từng thời kỳ. Chỉ sau
khi hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa và cải cách đất nước, chúng ta mới có thể tạo ra cơ
sở vật chất kỹ thuật của xã hội mới, nâng năng suất lao động lên mức chưa từng có, từ đó làm
cho nhiều thứ trở nên phổ biến hơn, từ đó đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Xây dựng quan hệ mới theo tầm nhìn xã hội chủ nghĩa: Chúng ta phải từng
bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất mới. Tuy nhiên, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn; Những quy luật thực tiễn liên quan đến mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ xã hội phải được tuân thủ. Theo quan điểm cho rằng mọi thay đổi trong quan hệ thực
tế đều phải là hệ quả tất yếu của việc hình thành lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây
dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta cần phải từng bước phát triển theo tầm nhìn xã hội chủ
nghĩa. 97 Kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng, kinh tế nhà nước và kinh tế tổng hợp trở
thành một nền kinh tế thống nhất . Quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa
lâu dài, có tác động lớn đến việc tích lũy mọi nguồn lực cả bên trong và bên ngoài, coi nội lực
là động lực chủ yếu của xây dựng kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế. Các quan hệ sở hữu
hiện tại chỉ có thể được sắp xếp lại dần dần, vì không thể nâng ngay lực lượng sản xuất lên
mức cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế chung. Vì quan hệ sở hữu là khác nhau nên phải có
nhiều hình thức phân phối, nhiều hình thức quản lý hiệu quả, việc tạo dựng cơ cấu lao động
trong nền kinh tế quốc tế đều phải được thực hiện từng bước, bằng nhiều hình thức, từ dưới
lên.
Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Trước sự phát triển của nền
kinh tế thế giới và hệ quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nền kinh tế nước ta không
thể là nền kinh tế khép kín mà quan hệ kinh tế quốc tế cần được mở rộng. . Đây là xu hướng
tất yếu, một vấn đề phổ biến trên thế giới hiện nay. Chúng ta đang “mở cửa” nền kinh tế, đa
dạng hóa và hội nhập các quan hệ kinh tế hai mặt nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ
nước ngoài và phát huy lợi ích của nền kinh tế trong nước, nhằm đạt được những thay đổi
đáng kể về công nghệ, cơ cấu công nghiệp và sản phẩm. ..Mở rộng phân công lao động quốc
tế, tăng cường các doanh nghiệp liên doanh, công đoàn, hợp tác là cơ sở tạo điều kiện cho sự
phát triển và phát triển sản xuất trong nước đạt trình độ thế giới. Việc mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của mọi
người và không can thiệp vào công việc nội bộ. Để đạt được điều này chúng ta phải từng
bước nâng cao năng lực quản lý nền kinh tế; sử dụng nhiều hơn các thị trường toàn cầu; điều
kiện xuất - nhập khẩu dễ dàng; Tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống thương
mại đa phương; Xem xét mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với việc giữ
vững độc lập, tự chủ và an ninh kinh tế quốc gia.

1.5. Một số đặc điểm cơ bản của thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, Việt Nam buộc
phải tạm thời chia cắt Việt Nam thành hai miền: miền Nam tiếp tục đấu tranh cho cách mạng ,
miền Bắc bắt đầu đi vào tuyến trung chuyển, là hậu phương của Tổ quốc. miền Nam được yêu
thích. Phong trào xã hội chủ nghĩa bắt đầu ở Bắc Kỳ năm 1954 và trên toàn quốc năm 1975.
Đảng giải thích rõ mục đích : Đặc điểm kinh tế chủ yếu của miền Bắc là nông nghiệp lạc hậu,
năng suất thấp, quá độ lên chủ nghĩa xã hội và coi thường sự phát triển của các nước tư bản.
Căn cứ vững chắc của miền Nam, giải phóng đất nước chống Mỹ năm , thực sự đã đóng vai
trò quan trọng trong hai hành động chiến lược của Cách mạng Việt Nam: giải phóng vùng ,
thống nhất đất nước, tái thiết đất nước. Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nếu áp dụng “Học
thuyết kinh tế xã hội ” của Karl Marx vào đặc điểm của thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa ở
“các nước tiểu nông ” thì quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn hợp
pháp. sự phát triển của lịch sử loài người. Hơn nữa, đây là đường dây , nói về cương lĩnh, mục
tiêu của cách mạng Việt Nam và khát vọng thứ của nhân dân Việt Nam. Đảng và nhân dân ta
luôn có thành tích xuất sắc trong xây dựng, phát triển chủ nghĩa xã hội và bảo vệ độc lập, tự
do của người dân.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường cách mạng tất yếu, khách quan, con
đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng, khoa học, phản
ánh đúng qui luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Cương lĩnh năm 1930 của Đảng đã chỉ rõ: Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng,
đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc, nhân dân, phán ánh xu thế phát triển của thời đại,
phù hợp với quan điểm khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Kế thừa những thành tựu của nhân loại thông qua chủ nghĩa tư bản để phát triển xã hội,
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Năm này cũng là một giai
đoạn khó khăn, khó khăn, lâu dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều hình thức chuyển đổi kinh tế,
xã hội; Nó đòi hỏi ý chí chính trị và ý chí kiên cường của toàn Đảng và toàn dân.
Việt Nam chuyển từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa thực dân phong kiến, quyền lực
hạn hẹp, chiến tranh kéo dài, thế lực thù địch không ngừng tìm cách tiêu diệt. Việt Nam đang
tiến tới chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng
quốc tế ngày càng gia tăng tạo ra nhiều cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển. Thời
kỳ vẫn là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. quốc gia với các chế độ
chính trị khác nhau cùng chung sống, hợp tác, đấu tranh và cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích
quốc gia.

KẾT LUẬN
Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lenin về chủ nghĩa xã hội là một hệ thống lý luận khoa học
và quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng, chính sách của Nhà
nước Việt Nam là hai quan điểm mà toàn thể sinh viên nói riêng và toàn thể nhân dân ta nói
chung muốn hướng tới bởi đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn của
Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội có những biến đổi rất lớn trong cơ cấu kinh tế; cũng như cơ cấu
xã hội - giai cấp khiến cho nền kinh tế nước ta trở nên rất đa dạng và năng động. Đảng và Nhà
nước ta cũng đã đề ra và ban hành rất nhiều các chính sách, chủ trương nhắm thúc đẩy nền
kinh tế đất nước đi lên để trở thành một đất nước phát triển. Nhưng để làm được điều đó thì
không thể thiếu được những đóng góp của người dân. Việc quan trọng nhất đó chính là chúng
ta luôn phải có những nhận thức đúng đắn và đi theo các chủ trương chính sách mà Đảng và
Nhà nước đã đề ra, không để những quan điểm sai trái, những tư tưởng lệch lạc ảnh hưởng
đến nhận thức của bản thân. Không những phải có những nhận thức đúng đắn mà chúng ta
phải luôn trau dồi các kiến thức, kĩ năng để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển
thịnh vượng, hội nhập quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ những quan điểm lí
luận chặt chẽ và những chính sách thiết thực ấy, chúng ta đã được lĩnh hội những nhận thức
đúng đắn về sự cần thiết phải giải quyết vấn đề còn tồn tại trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; trên cơ sở đó ta đã làm sáng tỏ và có cái nhìn toàn diện hơn về quan điểm, phương
hướng giải quyết vấn đề này của chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng, nhà nước ta hiện nay. Từ
đó em đã rút ra được nhưng kinh nghiệm và bài học quý báu cho bản thân, hình thành quyết
tâm thực hiện những mục tiêu lâu dài đưa đất nước phát triển bền vững, trở thành một quốc
gia dân tộc vượt lên tất cả những thách thức và sự đe dọa của mọi thế lực thù địch giống như
cha ông ta đã cống hiến biết bao xương máu để gây dựng và bảo vệ dân tộc Việt Nam ta - một
dân tộc bình đẳng, văn minh và vững chãi 4000 năm lịch sử. Bản thân mỗi sinh viên chúng ta
cần phải suy ngẫm một chính xác nhất về vấn đề, để thể hiện vai trò và trách nhiệm của mình
một cách tốt nhất, cùng thế hệ trẻ mai sau xây dựng một đất nước không xung đột dù lớn hay
nhỏ, đem đất nước ta vươn tầm thế giới.

You might also like