You are on page 1of 14

Câu 1

Đảng CSVN đã luôn coi bối cảnh quốc tế là một yếu tố quan trọng trong việc xác định
chiến lược và định hướng phát triển của Việt Nam. Đảng CSVN coi bối cảnh quốc tế là
cơ hội và thách thức đối với quốc gia, và đưa ra các chính sách và biện pháp phù hợp để
phát triển quan hệ đối ngoại và thúc đẩy hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững trong
khu vực và trên thế giới.

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi
to lớn và sâu sắc.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn
hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã
hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát
triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát
triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với
những nước lạc hậu về kinh tế.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong
trào hoà bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ
của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ, nhiều
nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. ở một số nước, đảng
cộng sản và công nhân không còn nắm vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay
đổi. Các thế lực đế quốc lợi dụng những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc
phản kích quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt.

Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng
những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý,
thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội.
Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu
thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp
tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các
trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát
triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất
cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ
quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản.
Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu
tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu, chống chủ nghĩa
thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ
nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc.

Nhân dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên
quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự
hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc.

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp
và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn,
thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người
cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch
sử.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững
những phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện
đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm
nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức
sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá
làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày
càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn
kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách
mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về
cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về
chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa phồn vinh.
Căn cứ vào bối cảnh, tình hình chung thế giới và trong nước, đặc biệt là những
thành tựu to lớn, toàn diện trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Báo
cáo chính trị cũng như các văn kiện của Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu
tổng quát phát triển đất nước là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(1). Từ mục tiêu tổng
quát đó, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao.
- Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII
của Đảng xác định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030. Định
hướng phát triển đất nước trong giai đoạn mới kế tục nhất quán những quan
điểm, chủ trương cốt lõi trong 12 định hướng tổng quát về các lĩnh vực của đời
sống xã hội đã xác định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng, nhưng
có nhiều nhận thức mới về cách tiếp cận, mục đích và nội dung.
Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng thứ nhất là: “Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động
lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(2). Đây là lần đầu tiên,
vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một văn kiện đại hội
Đảng. Trước đó, tại Đại hội XII, vấn đề thể chế chỉ được nhắc đến trong nhiệm
vụ tổng quát thứ hai là “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”(3); nói cách khác, tức là mới chỉ đề cập đến hoàn
thiện thể chế phát triển của lĩnh vực kinh tế. Báo cáo chính trị của Đại hội XIII đề
cập “thể chế phát triển bền vững”, tức là thể chế bảo đảm cho sự vận hành đồng
bộ, thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của các lĩnh vực trong đời sống, từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập
quốc tế, hướng tới thực hiện yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Trong thể chế phát triển, thể chế chính trị là yếu tố trung tâm, quyết định, chi
phối đối với thể chế của các lĩnh vực còn lại.
Tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh
Báo cáo chính trị của Đại hội XIII cũng yêu cầu “hoàn thiện thể chế phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” như Báo cáo chính trị của Đại
hội XII, nhưng với nội dung và mục đích mới. Nếu ở Đại hội XII, việc hoàn thiện
thể chế nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế,
thì Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích “tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh
doanh”(4). Từ thực tế huy động và sử dụng nguồn lực đất đai vừa qua, có thể
thấy, thể chế hiện tại có nhiều vấn đề cần hoàn thiện, nếu không sẽ không chỉ
ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, mà còn là nguyên nhân của những mâu thuẫn,
xung đột dẫn đến bất ổn về an ninh, trật tự xã hội. Trên thực tế, thể chế quản lý,
phân bổ nguồn lực tài nguyên khoáng sản, nguồn lực tài chính, nhất là ngân
sách nhà nước và các nguồn lực khác trong xã hội đều chưa thật chặt chẽ, hợp
lý và hiệu quả theo yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đúng
như đánh giá trong Báo cáo chính trị, chúng ta vẫn “chưa tạo được đột phá trong
huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”(5); hay
đánh giá trong Báo cáo Kinh tế - xã hội: “Cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, quản
lý ngân sách nhà nước và đầu tư được đẩy mạnh nhưng trong thực hiện còn
thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế giám sát hiệu quả...”(6). Như vậy, việc hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm “tạo môi trường thuận
lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực” chính là một
cách tiếp cận vấn đề mới, rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực nhằm
phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền vững.

Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, yêu cầu mới đặt ra trong văn kiện Đại hội
XIII của Đảng là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân
tài”(7). Việc nhấn mạnh yêu cầu tạo đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo,
lĩnh vực quốc sách hàng đầu của đất nước, xuất phát từ tình hình thực tế của
lĩnh vực này trong nhiệm kỳ vừa qua, như đánh giá trong Báo cáo chính trị: “Đổi
mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(8). Một mặt, sự hạn chế đó thể
hiện trên các bình diện, như từ tư duy, chính sách, giải pháp, tổ chức hệ thống,
công tác tổ chức, cán bộ, đến chất lượng, hiệu quả giáo dục; vấn đề giáo dục
con người, đạo đức, kỹ năng sống, giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng thực hành,
giáo dục kết hợp nghiên cứu khoa học,... Mặt khác, sự phát triển nhanh chóng
của khoa học, công nghệ, sự tích lũy kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại,
đòi hỏi không được chậm trễ trong việc đổi mới cách tiếp cận, nội dung, phương
pháp trong giáo dục, đào tạo. Từ thực tiễn ấy, tạo đột phá là yêu cầu bức thiết,
khách quan và hợp lý nhằm không chỉ bảo đảm những mục tiêu về giáo dục, mà
còn là yêu cầu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trọng dụng nhân tài.
Phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ: Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Báo cáo chính trị của Đại hội XIII không chỉ dừng lại ở đó, mà còn
nhấn mạnh yêu cầu về phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây chính là một bước
nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ giữa văn hóa và con
người, nhấn mạnh hơn đến vai trò của con người với tính chất là chủ thể và
cũng là mục đích của phát triển nền văn hóa. Phát triển nền văn hóa chính là
phát triển con người và ngược lại. Cùng với chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, sự tăng cường và
gắn kết xây dựng con người và nền văn hóa trong một thể thống nhất sẽ là cơ
sở vững chắc để “khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm
tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, không chỉ làm cho văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, mà còn trở thành động lực mạnh mẽ
cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, không ngừng cải
thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Đối với lĩnh vực quản lý phát triển xã hội, cùng với những nội dung nhất quán
trong đường lối của Đảng về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chính sách người có
công, lao động, việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân, định hướng trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện nhận thức mới, nhất quán của Đảng về xây
dựng chế độ xã hội tốt đẹp, bảo đảm tự do, công bằng, tiến bộ xã hội, môi
trường sống lành mạnh, điều kiện phát triển toàn diện, tốt đẹp cho mỗi người
dân; trong đó, chú trọng đến việc xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội
lành mạnh, không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Đây là sự tiếp nối nhất quán đường lối về chính sách xã hội được đề
ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011): Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển và từng chính sách. Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng, một mặt,
cũng nhấn mạnh, làm rõ hơn yêu cầu về xây dựng một môi trường xã hội có đạo
đức lành mạnh, nhấn mạnh vấn đề cải thiện toàn diện đời sống nhân dân, một
đòi hỏi chính đáng theo đúng mục đích của công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước là vì con người; mặt khác, nhấn mạnh đến việc xây dựng nền đạo đức
lành mạnh trong môi trường sống.
Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đưa nội dung “Khai thác, sử
dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường” đã được
đặt ra từ Đại hội XII là một trong những định hướng phát triển, nhưng có đổi mới
về cách tiếp cận. Nếu Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đặt ra định
hướng “chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”, thì Đại
hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh, đặt lên hàng đầu và diễn đạt mới về yêu cầu
này: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh”(9). Nhận thức mới của Đảng về vấn đề này xuất
phát từ những nghiên cứu, dự báo về tình hình biến đổi khí hậu, nước biển dâng
ngày càng có chiều hướng tăng lên, những diễn biến phức tạp ngày càng khắc
nghiệt của thời tiết, dịch bệnh đối với con người và cây trồng, vật nuôi trong thời
gian gần đây. Đặc biệt, vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng là một nguy cơ
lớn đối với nước ta, đe dọa đến an ninh lương thực của cả nước, vấn đề định cư
và an ninh con người đối với hàng chục triệu người dân ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long và một số khu vực ven biển ở miền Bắc, miền Trung.
Về định hướng quốc phòng, an ninh
Trên cơ sở định hướng về quốc phòng, an ninh đã được khẳng định tại Đại hội
XII của Đảng; trong đó, coi tăng cường quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ “trọng
yếu, thường xuyên”, mục tiêu đặt ra cho công tác quốc phòng và an ninh của đất
nước là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa”; Báo cáo chính trị của Đại hội XIII đã cụ thể hóa hơn
một bước, nhấn mạnh yêu cầu về “Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã
hội trật tự, kỷ cương”(11). Đồng thời, văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn
mạnh một số khía cạnh cụ thể trong định hướng về quốc phòng, an ninh. Đó là:
“Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát
hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ
gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch...”(12). Việc nhấn mạnh yêu cầu giữ vững an ninh
quốc gia nói chung và an ninh, trật tự trên một số lĩnh vực cụ thể là kết quả của
sự nhận thức mới của Đảng, xuất phát từ những diễn biến phức tạp của tình
hình an ninh thế giới vừa qua, từ những nghiên cứu dự báo về các yếu tố có thể
tác động đến tình hình an ninh của nước ta trong thời gian tới, nhất là những vấn
đề an ninh phi truyền thống, an ninh trên Biển Đông và an ninh tư tưởng trong
đời sống xã hội.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả
Về định hướng công tác đối ngoại, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục khẳng định những quan điểm đã được xác định tại Đại hội XII là: “Thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín
của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(13). Đồng thời, Báo cáo chính trị
cũng nhấn mạnh thêm yêu cầu “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, có hiệu quả”. Đây là nội dung yêu cầu mới mà Đại hội XIII của Đảng
đặt ra trong điều kiện sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã
mở cửa, kết nối và thiết lập các mối quan hệ rộng lớn, toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực với thế giới. Chúng ta đã là thành viên có uy tín của Liên hợp quốc với 2
lần tham gia vào Hội đồng Bảo an; đồng thời, là thành viên của nhiều tổ chức
quốc tế có quy mô toàn cầu và khu vực. Nước ta có quan hệ ngoại giao với 188
trong tổng số 193 thành viên của Liên hợp quốc. Nền kinh tế nước ta có quan hệ
thương mại với hơn 220 nền kinh tế trên toàn cầu. Chúng ta đã ký kết rất nhiều
hiệp định thương mại với các đối tác trên thế giới; trong đó, có những hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới có tầm ảnh hưởng to lớn, như Hiệp định Đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự
do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Trong điều kiện “hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, chủ động và tích cực là
đòi hỏi mới, không chỉ là điều kiện cho chúng ta bảo đảm hiệu quả quá trình hội
nhập, mà hơn thế, còn bảo đảm cho sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế, sự ổn
định và phát triển bền vững của đất nước, của chế độ.
Định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Về định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII
của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình,
kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà
nước và của cán bộ, công chức, viên chức”(14). Đây không chỉ là định hướng,
mà còn chính là những giải pháp hợp lý, những yêu cầu mới đặt ra giúp cho việc
xây dựng, củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu, giải pháp này không chỉ xuất phát
từ tính quy luật chung của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, mà còn xuất
phát từ tình hình thực tế vừa qua, như Báo cáo chính trị đã đánh giá: “Cơ chế
kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân chưa được
phát huy mạnh mẽ”(15). Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
buông lỏng kỷ luật, kỷ cương; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan
chính quyền còn thấp; quyền và lợi ích của người dân có nơi chưa được quan
tâm bảo vệ và bảo đảm.
Về các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng, phát triển
đất nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định 8 mối quan hệ lớn cần phải giải quyết trong
quá trình xây dựng, phát triển đất nước là: 1- Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và
phát triển; 2- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; 5- Giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 6-
Giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; 7- Giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 8- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ.
Tại Đại hội XII, Đảng ta bổ sung mối quan hệ lớn thứ 9: “quan hệ giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội”. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII bổ sung mối quan
hệ lớn thứ 10, đó là: Quan hệ giữa “thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế,
bảo đảm kỷ cương xã hội”. Một mặt, việc bổ sung mối quan hệ lớn giữa “thực
hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” xuất phát từ
một vấn đề có tính quy luật trong quản lý xã hội, đó là dân chủ phải đi liền với kỷ
cương, tự do không thể tách rời trách nhiệm. Mặt khác, đây cũng là một yêu cầu
xuất phát từ kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn quản lý xã hội trong thời gian
vừa qua. Thực tế đã chỉ ra rằng, những hạn chế và các vấn đề phức tạp nảy
sinh trong đời sống xã hội đều có chung một nguyên nhân quan trọng là không
thực hành đồng bộ giữa dân chủ với pháp chế, kỷ cương./.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng
đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội
đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.

Câu 2:
. Nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ khi ra đời Đảng ta đã luôn kiên định nắm vững ngọn cở độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhờ vậy mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân đi hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Đảng luôn kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng đã rút ra được những bài học
quý giá trong việc xác định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Vai trò lãnh đạo của Đảng
được thực hiện qua các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương. Các tổ chức
Đảng các cấp giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Chủ trương của Đảng là xây dựng Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì
dân, đây là chủ trương lớn, có tính chất quyết định đối với công cuộc đổi mới đất
nước.
Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hóa chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật của nhà nước. Tổ chức thực hiện thông qua bộ máy Nhà
nước, đảm bảo chủ trương, chính sách của Đảng đi vào đời sống, thiết thực và gần
gũi với quần chúng nhân dân.
Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đủ trình độ, kiến thức,
kỹ năng và phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng giao cho, tậm tâm, hết
lòng với công việc.
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước được Đảng lãnh đạo kiểm tra, thanh tra,
giám sát thường xuyên.
2. Nhiệm vụ của Người Đảng viên
Trung thành tuyệt đối với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng. Hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi có sự phân công, điều động của Đảng
thì phải phục tùng tuyệt đối.
Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, học tập, nâng cao trình độ kiến
thức, có lối sống lành mạnh. Tích cực tham gia phòng chống tham nhũng, chống
chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tôn trọng và gần gũi nhân dân. Tham gia
công tác quần chúng, công tác xã hội, vận động quần chúng nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tham gia công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt Đảng, giữ kỷ luật, đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
3. Điều kiện để kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về tư tưởng và tổ chức,
không ngừng nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
xây dựng tổ chức Đảng ở các cấp trong sạch, vững mạnh.
Điều lệ Đảng quy định những tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng như sau:
Thứ nhất: Người xin vào Đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đặt lợi ích của
Tổ quốc lên trên lợi ích của cá nhân, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng, lợi ích của dân tộc.
Có đạo đức và lối sống lành mạnh, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng.
Thứ hai: Đảng viên là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên, thừa nhận và
tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, hoạt động trong một tổ
chức cơ sở Đảng. Là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đủ tiêu chuẩn của
Đảng viên.
4. Hướng phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu trong công cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là vinh dự và
niềm tự hào của mỗi Đảng viên. Bản thân tôi càng nhận thức sâu sắc hơn nữa và
quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất: tôi xác định động cơ vào Đảng xuất phát từ nguyện vọng trong sáng và
tự nguyện của bản thân. Đi theo con đường của Đảng là con đường lý tưởng của
toàn dân tộc. Tôi không đến với Đảng vì những mục đích cá nhân vì dù ở vị trí nào
tôi vẫn luôn làm việc và cố gắng trở thành một công dân có ích. Được đứng vào
trong hàng ngũ của Đảng không chỉ là mục tiêu phấn đấu của tôi mà trong quá
trình phấn đấu đó tôi được học hỏi, rèn luyện để trưởng thành và sống có trách
nhiệm hơn với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả là lãnh đạo nhân dân giành độc lập
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đứng trong một tập thể những người cùng chí
hướng để xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh là niềm vinh hạnh to lớn của bản thân tôi. Tôi sẽ được đem hết trí tuệ, sức lực
của mình để cống hiến, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, góp sức xây dựng
đất nước ngày càng tốt đẹp và phát triển hơn.
Phấn đấu vào Đảng là để cống hiến nhiều hơn cho quốc gia dân tộc. Khi có động
cơ đúng đắn thì sẽ dẫn đến hành động đúng đắn, nhận thức một cách toàn diện và
sâu sắc lý tưởng của Đảng, là động lực hướng dẫn cho hành động.
Giữ vững phẩm chất của một đảng viên, không lùi bước trước những khó khăn,
thách thức, trước cám dỗ của tiền bạc, chức quyền. Vào Đảng để phục vụ lý tưởng
cách mạng của Đảng, hy sinh, phấn đấu đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân đã lựa chọn. Xây dựng được niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước.
Xác định động cơ vào Đảng, tôi sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, giữ vững niềm tin với Đảng, Nhà nước. Trở thành đảng
viên không chỉ là vinh dự mà còn trách nhiệm, trách nhiệm đối với nhân dân, với
Đảng, Nhà nước, trách nhiệm rèn luyện nâng cao kiên thức cho bản thân, chiếm
lĩnh tri thức.
Thứ hai: Để trở thành một đảng viên tôi luôn cố gắng trau dổi bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức cách mạng. Kiên định với mục tiêu, lý tưởng đã chọn, không
giảm sút niềm tin, ý chí chiến đấu. Nỗ lực học tập, nâng cao hiểu biết và nhận thức
về lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tu
dưỡng rèn luyện suốt đời để có được phẩm chất cách mạng trong sáng đi đôi với
chống chủ nghĩa cá nhân.
Tôi nhận thức trong bối cảnh hiện nay, phải quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh.
Thể hiện bản lĩnh chính trị, nhận thức đúng đắn, không vì tiền bạc, giàu sang mà
đánh mất đi phẩm chất đáng quý của người đảng viên. Đứng trên lập trường của
giai cấp công nhân, không mờ nhạt phương hướng chính trị, có thái độ, chính kiến
rõ ràng.
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định lợi ích của cá nhân mà
là chống các biểu hiện ích kỷ, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể,
trái với lợi ích chung của cộng đồng. Việc gì có lợi cho cách mạng, cho nhân dân
thì hết sức làm, việc gì có hại thì hết sức tránh.
Trong quá trình xây dựng Đảng, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là tư
cách, phẩm chất của người cán bộ cách mạng. Mỗi người cán bộ cách mạng phải
thực sự thấm nhuần tư cách đạo đức cách mạng, chí công vô tư, liên chính trong
thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
Trở thành Đảng viên là giác ngộ lý tưởng cộng sản, trung thành với sự nghiệp độc
lập dân tộc, tự do của nhân dân, xứng đáng với phẩm chất hàng đầu mà Người đặt
ra cho mỗi đảng viên cộng sản.
Ghi nhớ lời căn dặn của Người, không được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn
đấu cho Tổ quốc, cho lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, luôn đặt lợi ích chung của
Đảng lên trên lợi ích cá nhân.
Thứ ba: Luôn rèn luyện, nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phấn đấu học tập thật tốt, khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì nhiệm vụ học tập là
nhiệm vụ trọng tâm. Tích cực tham gia học tập chính trị, tham gia các buổi sinh
hoạt chính trị công dân sinh viên, lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng.
Trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi, không ngừng nâng
cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực công tác, học tập văn hóa, kỹ thuật và
nghiệp vụ.
Thứ tư: Gắn bó mật thiết và máu thịt với nhân dân, phát huy truyền thống quý báu
của Đảng Cộng sản việt Nam là tình cảm quân dân, tình cảm giữa người lãnh đạo
với quần chúng nhân dân. Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, công tác xã hội,
các hoạt động ngoại khóa, tình nguyện, gắn bó với tập thể, với nhân dân.
Tôn trọng, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau giữa bạn bè, đồng nghiệp trong môi trường
học tập, đơn vị công tác, với bà con làng xóm. Thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh
đạo, tập hợp quần chúng, gương mẫu để xứng đáng trở thành đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Mở rộng các mối quan hệ xã hội, vận động gia đình, người thân tham gia vào các
phong trào ở địa phương, làm cho quần chúng phấn khởi và tin tưởng và sự lãnh
đạo của Đảng. Hết lòng phục vụ nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Hiểu rõ và nắm vững quan điểm giai cấp, đường lối của Đảng, dựa vào quần chúng
nhân dân, giáo dục và phát động quần chúng thực hiện đúng chính sách pháp luật
của Nhà nước. Khiêm tốn, gần gũi nhân dân, thật thà, ngay thẳng, luôn chăm lo
đến đời sống của nhân dân.
Tăng cường tính kỷ luật, tự giác của bản thân, góp phần xây dựng sự đoàn kết, nhất
trí trong Đảng. Đoàn kết là sức mạnh, do đó phải đoàn kết, nhất trí để làm tròn
nhiệm vụ mà Đảng giao cho. Giữ vững sự đoàn kết, nhất trí và kỷ luật của mỗi cá
nhân đảng viên là then chốt của thành công.
Thứ năm: Tích cực tham gia vào công tác xây dựng Đảng, các cấp ủy Đảng từ
Trung ương đến địa phương. Tôi nhận thức được rằng, bằng kiến thức, kinh
nghiệm của bản thân mình cần tham gia vào việc góp ý kiến, xây dựng chi bộ,
đảng bộ. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở Đảng bằng những việc làm cụ thể như
tham gia các phòng trào, hoạt động của đảng bộ, chi bộ với tinh thần trách nhiệm
cao trong công việc, chủ động, sáng tạo, góp phần đưa chủ trương của Đảng vào
cuộc sống. Kịp thời phản ánh những tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân với Đảng. Kiên quyết đấu tranh giữa vững ổn định chính trị – xã
hội ở cơ sở, đơn vị.
Tham gia đóng góp ý kiến, giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ
chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú đủ điểu
kiện, tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét kết nạp.
Thứ sáu: Không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật, vận động
nhân dân sống và học tập theo pháp luật góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh,
văn minh. Quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn đến mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, tự nguyện dấn thân theo lý tưởng cách mạng.
Thứ bảy: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng mà
Người để lại là vô giá. Học tập và làm theo tấm gương của người là nhiệm vụ rất
quan trọng, đồng thời cũng là niềm vinh dự của mỗi đảng viên.
Tinh thần của Người là tinh thần yêu nước, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân,
phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp
thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Học tập tư tưởng của Người, tôi nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn những hy sinh to
lớn của các thế hệ cha ông vì sự nghiệp thống nhất đất nước, trọn vẹn non sông.
Phát huy truyền thống anh hùng dân tộc bất khuất và lương tâm, trách nhiệm của
mỗi thế hệ người Việt Nam sau này.
Trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng của Đảng, có ý chí vươn lên,
quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu. Đoàn kết trong Đảng, đấu tranh với mọi
hành vi chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Có tinh thần trách nhiệm đối với công việc, lương tâm nghề nghiệp trong sáng.
Phát huy tình thần hiếu học, vận dụng những kiến thức khoa học kĩ thuật vào sản
xuất và đời sống. Ngăn chặn những biểu hiện trì trệ, lười học tập, lười lao động.
Biết quý trọng công sức lao động của tập thể, của nhân dân. Phải liêm chính,
không xa hoa, lãng phí, không chạy theo danh vọng, địa vị mà không màng đến lợi
ích của nhân dân. Bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải, không bao che, giấu giếm khuyết
điểm. Có thái độ lên án, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Trở thành Đảng viên là trăn trở khi thấy nhân dân còn gặp nhiều khó khăn do đó
phải biết chủ động lắng nghe, động viên, lãnh đạo nhân dân ra sức học tập, xây
dựng, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Có ý thức phê bình và tự phê bình,
nghiêm khắc với bản thân, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và
lối sống.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Người trong việc nêu cao phẩm giá con người
Việt Nam trong thời kỳ mới. Giữ gìn chuẩn mực đạo đức, truyền thống dân tộc
trong quần chúng nhân dân. Lao động, học tập, công tác với tinh thần hăng say, có
chất lượng và hiệu quả cao.
Chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, chạy theo danh vọng, lạm dụng
quyền hạn, giành giật lợi ích cho mình. Bảo vệ chân lý và quan điểm của Đảng,
chân thành, khiêm tốn, nói đi đôi với làm. Không thờ ơ, lãnh đạm với những khó
khăn của nhân dân. Không làm ẩu, bòn rút của công, loại bỏ những tiêu cực, bất
chính, tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội.
Mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng nhân dân, gắn bó với người dân, phê phán
những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng nhân dân, vi phạm kỷ cương, kỷ
luật của Đảng.
Tất cả vì nhân dân, dù bất cứ ở cương vị nào cũng phải gần dân, học dân, không xa
rời nhân dân, chia sẻ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, phát huy những ưu điểm,
sửa chữa những sai lầm, yếu kém.
Mở rộng tình đoàn kết quốc tế, chống áp bức, bất công. Tích cực, chủ động hội
nhập khu vực và quốc tế, hợp tác, cùng có lợi. Đa dạng hóa, đa phương hóa, có
tinh thần hữu nghị, đoàn kết quốc tế. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ, chống chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

You might also like