You are on page 1of 16

2.

Nội dung cơ bản, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Sau 5 năm kể từ ngày Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam được tổ chức, Đại hội đã gặt hái không ít những thành tựu đáng quý trong
suốt quá trình lâu dài xây dựng đất nước, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những yếu kém
khuyết điểm. Chính vì thế Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng mang theo
sự kỳ vọng tiếp tục phát huy những điều tốt đẹp đã đạt được trước đó, đồng thời có cái
nhìn khách quan về những sai sót, lỗi lầm từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
thông qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010), tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựung đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đây, Đại hội đưa ra quyết định bổ sung, phát
triển cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2011 - 2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm tiếp theo (2011 -
2015).
Điểm nhấn nổi bật trong kỳ Đại hội đại biểu lần thứ XI là việc bổ sung, phát triển
năm 2011 của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa, gọi
tắt là Cương lĩnh năm 2011. Tương tự như Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm
2011 có kết cấu bốn phần cơ bản được bổ sung và phát triển ở mọi mặt xuyên suốt quá
trình cách mạng, xây dựng Đảng và Nhà nước.
2.1. Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm
Cách mạng thành công với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ
Tổ quốc. Những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam kể trên qua diễn đạt mới
của Cương lĩnh năm 2011 đảm bảo tính lịch sử và trung thực, điều này phần nào khích
lệ niềm tự hào dân tộc và phù hợp với quan hệ đối ngoại trong tình hình mới. Bên
cạnh đó, Đảng nhìn nhận những khuyết điểm, nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong quá
khứ từ đó rút ra những bài học xương máu, chính vì thế Cương lĩnh như lời khẳng
định chắc nịch của Đảng và Nhà nước:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Qua năm khẳng định trên đã phần nào cho thấy Đảng và Nhà nước luôn luôn
hướng đến sự thật, nhìn mọi việc dưới góc nhìn đa chiều, không bao giờ ngủ quên trên
chiến thắng, mọi sự thành công đều xuất phát từ việc khắc phục những sai lầm, khuyết
điểm. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước đã coi những mất mát, tổn thương trong cuộc
chiến đấu ngoan cường trong quá khứ là bài học kinh nghiệm và từ đó củng cố, cải
thiện, phát triển và xây dựng đất nước.
2.2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến phức
tạp.
Nhận thấy về tình hình thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri
thức và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Xu thế hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển ngày một phổ biến nhưng vẫn còn tồn tại cạnh đó là
những mâu thuẫn như đấu tranh vũ trang, tranh chấp chủ quyền biển đảo, canh tranh
quyết liệt về kinh tế diễn ra ngày càng phức tạp và khó kiểm soát.
Ở một góc nhìn khác, các nước đang phát triển hoặc chưa phát triển buộc phải tiến
hành cuộc đấu tranh đầy khó khăn để chống lại các thế lực tư bản trong mọi mặt như
kinh tế, giai cấp, chủ quyền, tự do,...Sự mâu thuẫn lâu dài này khiến nhiều khu vực
đầy tiềm năng như Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương bị cản trở về mặt phát
triển và hội nhập quốc tế. Dù đó có là khó khăn, chướng ngại thì nó đã phần nào nói
lên đặc điểm nổi bật nhất của thời đại hiện nay là: “các nước có chế độ chính trị và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay
gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.”1
Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh năm 2011 đã nêu rõ:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền

1
Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, tr.339
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”2.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời mục tiêu đến giữa thê kỷ XXI là xây dựng
nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đây, Cương lĩnh năm 2011 đã chỉ roc tám phương hướng cơ bản xáy dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đồng thời Cương lĩnh năm 2011 yêu cầu giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn:
Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2.3. Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại.
a) Kinh tế
“Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối”3 là một trong những định hướng lớn của Đại hội đang hướng tới thực hiện và
phát triển. Bằng việc nhìn nhận sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế trong thời đại mới,
Cương lĩnh năm 2011 nhận định: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển”4. Phát triển kinh tế là một trong những
nhiệm vụ trung tâm, mang tầm ảnh hưởng lớn, để bắt kịp với tình hình và xu hướng
kinh tế thế giới thì việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình phát
triển lâu dài. Bên cạnh đó cần bảo vệ tài nguyên, môi trường, xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý, điều chỉnh cân bằng và gắn kết chặt chẽ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ.
Coi trọng và đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền
tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông lâm ngư nghiệp ngày càng
đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn liền với ngàng công nghiệp chế biến từ
đây phát triển và xây dựng nông thôn mới. Đồng thời phát triển hài hòa giữa các vùng,
miền xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế.
b) Giáo dục
Đối với định hướng lớn trong giáo dục, con người được xem là trung tâm của
chiến lược phát triển, là nhân tố chủ quan quyết định thành công của chiến lược. Xây
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.73
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.74
dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức, sức khỏe, lao động giỏi;
sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc là tế bào của toàn xã hội, là môi trường trực tiếp ảnh hưởng
đến việc giáo dục và hình thành phẩm chất của từng cá nhân.
Bên cạnh đó, việc coi phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học
và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
hội; nâng cao chất lượng yêu cầu theo chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế. Chiến lược nêu rõ quan điểm đảy mạnh xây dựng một xã hội
tri thức, tạo điều kiện và cơ hội cho toàn dân được học tập suốt đời. Đồng thời nâng
cao trình độ dân trí, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học hiện
đại trên thế giới.
c) Văn hóa - xã hội
Tiếp tục và duy trì xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiêns bộ, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của nhân loại. Từ đây xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn hệ thống chính trị, xã hội
và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, phòng ngừa và khắc phục ô
nhiễm.
Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ; khích lệ tăng thu nhập và làm giàu dựa
vào lao động; thiết lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội. Qua
đây tránh xuất hiện và tồn tại các tội phạm và tệ nạn xã hội. Sử dụng tốt các chính
sách dân số đảm bảo sự cân bằng giới tính và quy mô.
Xây dựng một cộng đồng văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư
đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông
dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy
mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài
cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi,
có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực
hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi
ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở
nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước
sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước
d) Quốc phòng - an ninh
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển
đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân
dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng
vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường
sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh,
quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
Xây dựng các tổ chức như Quân đội nhân dân và Công an nhân dân với lực lượng
tinh nhuệ, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần
phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong
điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực
lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập
trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự
nghiệp quốc phòng - an ninh.
e) Đối ngoại
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến
bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ
với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích
quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân
dân các nước trên thế giới.
Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng
Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
3. Các hội nghị Trung ương Đảng bổ sung phát triển đường lối mới trong
nhiệm kỳ Đại hội
Từ ngày 04 đến ngày 10/7/2011, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ hai.
Hội nghị đã thảo luận và quyết định về: Quy chế làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư; Chương trình làm việc của Ban Chấp hành
Trung ương; Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI; chủ trương
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; giới thiệu nhân sự lãnh đạo cấp
cao của các cơ quan Nhà nước nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII và một số vấn đề quan
trọng khác.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương diễn ra từ ngày 06 đến ngày
10/10/2011, tại Thủ đô Hà Nội.
Hội nghị đã tập trung thảo luận và cho ý kiến về tình hình kinh tế - xã hội năm
2011; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011-2015; xem xét, quyết định việc ban hành Quy
định thi hành Điều lệ Đảng; Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định những điều đảng viên không được làm và một
số vấn đề quan trọng khác.
Từ ngày 26 đến ngày 31/12/2011, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ tư.
Về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã thẳng
thắn thảo luận với tinh thần trách nhiệm rất cao và thống nhất về sự cần thiết phải ban
hành Nghị quyết của Trung ương “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” với 3 nội dung trọng yếu:
(1) Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp.
(2) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp trung ương, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
(3) Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp uỷ, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Ba nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nội dung thứ nhất là
trọng tâm, xuyên suốt và cũng là vấn đề cấp bách nhất. Về xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2011-2020, Ban
Chấp hành Trung ương xác định đây là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần
quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và quyết định ban
hành Nghị quyết “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” để lãnh đạo, chỉ
đạo phát triển kết cấu hạ tầng từ nay đến năm 2020.
Từ ngày 07 đến 15/5/2012, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
họp tại Thủ đô Hà Nội.
Hội nghị đã thông qua nội dung bốn Kết luận và một Nghị quyết. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã quyết định ban hành Kết luận về tổng kết việc thi hành
Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992; Kết luận về tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về tiếp tục
đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; Kết luận về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3
(khoá X) “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí”.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư
làm Trưởng ban. Không thành lập ban chỉ đạo tỉnh, thành phố về phòng, chống tham
nhũng; tỉnh uỷ, thành uỷ trực tiếp lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Lập lại
Ban Nội chính Trung ương, thực hiện chức năng một ban đảng và là cơ quan thường
trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; lập ban nội chính ở
các tỉnh uỷ, thành uỷ, giao Bộ Chính trị quyết định cụ thể.
Ban Chấp hành Trung ương cũng quyết định ban hành Nghị quyết “Một số vấn
đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” và Kết luận về một số vấn đề về tiền
lương và định hướng cải cách tiền lương đến năm 2020.
Từ ngày 01/10 đến ngày 15/10/2012, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu.
Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và ra Kết luận về tiếp
tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết về tiếp
tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; Nghị quyết “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Sau khi xem xét, thảo luận về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, Ban Chấp hành Trung
ương cho rằng đây là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp, còn nhiều ý kiến khác nhau, do
đó cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bàn bạc một cách thấu đáo, cẩn trọng, tạo sự
thống nhất cao để ban hành nghị quyết vào một thời điểm thích hợp.
Cùng với việc xem xét, thảo luận, cho ý kiến về kết quả kiểm điểm tự phê bình
và phê bình tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Ban
Chấp hành Trung ương cũng tự kiểm điểm và nhận thấy phần trách nhiệm của mình
trong việc để xảy ra và chưa ngăn chặn được những khuyết điểm, yếu kém trong thời
gian qua. Ban Chấp hành Trung ương đã nghiêm túc tự phê bình và thành thật nhận lỗi
trước toàn Đảng, toàn dân và cố gắng sẽ làm hết sức mình để từng bước khắc phục.
Từ ngày 02/5 đến ngày 11/5/2013, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy.
Sau khi xem xét, thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí thông qua Kết
luận “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương
đến cơ sở”; Nghị quyết về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”; Kết luận “Một số vấn đề về cải cách chính sách
tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, định hướng cải cách đến năm
2020”.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám diễn ra từ ngày 30/9 đến ngày 9/10/2013, tại
Thủ đô Hà Nội.
Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận và ra Kết luận
về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013 và mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
năm 2014; tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội, trọng tâm là thực hiện ba khâu đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu
nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và nhiệm vụ, giải pháp sắp tới; Nghị quyết
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992. Trong đó đã tập trung thảo luận, cho ý kiến đối với một số nội dung quan
trọng của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: về vai trò lãnh đạo của Đảng; về vị trí của
Công đoàn Việt Nam; về thành phần kinh tế; về thu hồi đất; về quy định bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; về chính quyền địa
phương; về Hội đồng Hiến pháp; và một số nội dung quan trọng khác. Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Kết luận về việc hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 để Quốc hội Khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 6; ban hành Nghị quyết về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Từ ngày 08/5 đến ngày 14/5/2014, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung
ương họp Hội nghị lần thứ chín.
Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá và
ban hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”:
Ban Chấp hành Trung ương nhận định về những kết quả nổi bật sau 15 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và
các mục tiêu cụ thể, Ban Chấp hành Trung ương xác định một số nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu để tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đả bản
sắc dân tộc.
Về chuẩn bị đề cương các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng: Ban Chấp hành
Trung ương đã giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung
ương, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ Chính trị, chỉ đạo Tiểu ban Văn kiện và Tiểu
ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XII nghiên cứu, tiếp thu, xây dựng dự thảo Báo cáo
chính trị và dự thảo Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2016-2020 trình Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thông qua Quy chế bầu cử trong
Đảng và giao Bộ Chính trị, căn cứ kết quả biểu quyết, ý kiến thảo luận của Ban Chấp
hành Trung ương, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ Chính trị, chỉ đạo hoàn chỉnh,
ban hành Quy chế và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định: Tiếp tục thực hiện chủ trương lấy
phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” đối với thành viên lãnh
đạo cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội, với sự điều chỉnh sau: Việc lấy phiếu tín nhiệm được
tiến hành định kỳ vào năm thứ 3 (năm giữa nhiệm kỳ đại hội) và khi có yêu cầu của
cấp có thẩm quyền. Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị, căn cứ kết quả
biểu quyết và ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo tiếp thu, giải
trình của Bộ Chính trị, để sửa đổi, bổ sung Quy định số 165-QĐ/TW, ngày
18/02/2013 của Bộ Chính trị về lấy phiếu tín nhiệm để triển khai thực hiện chủ
trương. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và cho ý kiến về Báo cáo của Ban
cán sự đảng Chính phủ về tổng kết thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân
dân huyện, quận, phường. Ban Chấp hành Trung ương đã giao Bộ Chính trị, căn cứ ý
kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Bộ
Chính trị, chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ hoàn chỉnh Báo cáo tổng kết và chuẩn
bị Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Từ ngày 04 đến ngày 07/5/2015, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương
đã họp Hội nghị lần thứ mười một.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tán thành Báo cáo của Bộ Chính trị về
phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; giao Bộ Chính
trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương, kết quả biểu quyết tại Hội
nghị và Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, hoàn chỉnh để ban hành phương
hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XII; chỉ đạo Tiểu ban Nhân
sự và các cơ quan có liên quan chuẩn bị dự kiến nhân sự giới thiệu tham gia Ban Chấp
hành Trung ương khoá XII để trình Hội nghị Trung ương 12 thảo luận, cho ý kiến.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành với Tờ trình của Bộ Chính trị về số
lượng đại biểu và việc phân bổ đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, kết quả biểu quyết tại Hội nghị và Báo cáo tiếp
thu, giải trình của Bộ Chính trị, quyết định chính thức phân bổ số lượng đại biểu của
các đảng bộ trực thuộc Trung ương dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tán thành với Tờ trình của Bộ Chính trị về mô
hình tổ chức chính quyền địa phương, theo đó: “Tất cả các đơn vị hành chính quy định
tại khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đều tổ chức cấp chính quyền địa phương
gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân”. Ban Chấp hành Trung ương Đảng
giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị và
Báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị để chỉ đạo Ban cán sự đảng Chính phủ,
Đảng đoàn Quốc hội hoàn chỉnh Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII. Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp
tục khẳng định sự cần thiết, đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng
không trung chuyển quốc tế Long Thành đã được Hội nghị Trung ương 4 khoá XI
(tháng 12/2011) đề ra, coi đây là Dự án đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị chỉ đạo Ban cán sự đảng
Chính phủ tiếp thu ý kiến Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị này để hoàn
chỉnh Dự án và trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá
XIII.
Từ ngày 5 đến ngày 11/10/2015, Hội nghị lần thứ mười hai diễn ra tại Thủ đô Hà
Nội.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và kết luận về tình hình kinh tế - xã hội,
ngân sách nhà nước năm 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân
sách nhà nước năm 2016.
Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua một số chủ trương về việc chuẩn bị bầu
cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021
về Hội đồng bầu cử quốc gia, thời gian bầu cử, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu đại
biểu; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải
trình của Bộ Chính trị, chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội hoàn chỉnh Đề án bầu cử đại biểu
Quốc hội khoá XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 để tổ chức
thực hiện; lãnh đạo công tác chuẩn bị và tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội
khoá XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận, tán thành Tờ trình của Bộ Chính trị về
tình hình, kết quả giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XII và Báo cáo
của Bộ Chính trị về công tác chuẩn bị nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức
danh lãnh đạo chủ chốt từ Đại hội VI đến trước Đại hội XII và đề xuất một số vấn đề
trong việc chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và
các chức danh lãnh đạo chủ chốt khoá XII từ nay đến Hội nghị Trung ương 14 khoá
XI. Ban Chấp hành Trung ương biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu lần đầu các
đồng chí ứng cử viên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương (chính thức và dự khuyết)
khoá XII. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự Đại hội
XII, căn cứ ý kiến của Trung ương, báo cáo tiếp thu, giải trình của Bộ Chính trị, để
tiếp tục xem xét, hoàn thiện các phương án nhân sự theo đúng Phương hướng công tác
nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XII đã được Ban Chấp hành Trung ương
thông qua và Quy trình công tác nhân sự để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem
xét, quyết định tại các hội nghị Trung ương khoá XI tiếp theo.
Từ ngày 14 đến ngày 21/12/2015, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ mười ba.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận tán thành, nhất trí cao với Báo cáo của
Bộ Chính trị về việc tiếp thu ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp, của đại
biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, của cán bộ, đảng viên và
nhân dân góp ý vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng; thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng; giao Bộ Chính trị, căn cứ ý kiến thảo luận của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị và ý kiến góp ý trực tiếp vào văn
bản của các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng để hoàn chỉnh lần cuối các văn kiện
trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, gồm: Báo cáo kiểm điểm sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; Báo cáo tổng kết
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay”; Dự thảo Quy chế làm việc của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII; Dự thảo Quy chế bầu cử tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII; dự kiến nội
dung và Chương trình làm việc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng từ ngày 20/1/2016 đến ngày 28/1/2016 tại Thủ đô Hà Nội, trong
đó phiên trù bị tổ chức vào ngày 20/1/2016, khai mạc chính thức vào ngày 21/1/2016.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thảo luận dân chủ, cân nhắc kỹ lưỡng,
thông qua danh sách các đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
nhất trí giới thiệu ứng cử Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy
viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII để trình Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng xem xét, quyết định; Danh sách các đồng chí đủ điều
kiện, trong độ tuổi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nhất trí giới thiệu
ứng cử Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XII;
đồng thời giao Bộ Chính trị tiếp tục chuẩn bị nhân sự trường hợp đặc biệt là Ủy viên
Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI quá tuổi, tái cử, để đảm nhiệm
chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, trình Hội nghị Trung ương 14
xem xét, quyết định.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét cho ý kiến về: Báo cáo tổng kết
thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và
Ban Bí thư khóa XI; Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng nhiệm kỳ Đại hội XI; Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương khóa XI. Ban Chấp hành Trung ương Đảng giao Bộ Chính trị và
Ủy ban Kiểm tra Trung ương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, hoàn chỉnh các Báo cáo này và chuyển giao Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XII xem xét, quyết định khi sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
khóa XII.
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13/01/2016, tại Thủ
đô Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận Báo cáo của Bộ Chính trị về kết quả
đàm phán và xin chủ trương về ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP); tán thành, đồng ý để Chính phủ cùng chính phủ các nước ký Hiệp định TPP
vào đầu tháng 02/2016; giao Bộ Chính trị chỉ đạo công tác chuẩn bị trình Quốc hội
xem xét, phê chuẩn Hiệp định theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng đề án trình
Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết về thực hiện hiệu quả tiến trình hội
nhập quốc tế trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới, trong đó có Hiệp định TPP.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại hội XI của Đảng: Các kỳ Hội nghị Trung ương | Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đại hội XIII (dangcongsan.vn)
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam | Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (dangcongsan.vn)
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) | Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(dangcongsan.vn)

You might also like