You are on page 1of 10

--------o0o--------

Họ và tên : Nguyễn Thị Thanh

Mã sinh viên :19061334

Lớp : K64A

Bộ môn : Chủ nghĩa xã hội khoa học

Giảng viên : Phạm Công Nhất


Hà Nội , ngày 24 tháng 12 năm 2021

1|Page
Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội đối với việc xác định mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ với trách nhiệm của bản thân đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?

I, Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội

Triết học Mác Lênin đã chỉ rõ: "Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy". Hình thái
kinh tế - xã hội là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một
quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
C.Mác đã nghiên cứu sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử: từ nguyên
thủy đến nô lệ, phong kiến, tư bản, cộng sản chủ nghĩa, trong đó C.Mác đã nghiên cứu rất kỹ mô
hình xã hội tư bản, vạch ra các quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất yếu của nó, đồng
thời dự báo về sự ra đời của một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn – hình thái cộng sản chủ nghĩa
mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt 85 năm qua, Đảng ta luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa, luôn kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội- là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt đường lối cách
mạng Việt Nam. Trong những năm cuối thế kỉ XX, mặc dù thế giới của chủ nghĩa xã hội đang
trong giai đoạn đổ vỡ, khủng hoảng, Đang Cộng sản Việt Nam vẫn luôn khẳng định: “Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và đã được khẳng định tại Đại hội toàn
quốc lần thứ XI (tháng 1-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
1, Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chắc chắn
phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị. “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”1- C.Mác khẳng định và V.Lênin: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ
quá độ nhất định”2
Quá độ lên CNXH ở VN hoàn toàn là phù hợp với quy luật phát triển biện chứng vì Lênin đã
từng nói: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH. Đó là điều không thể tránh khỏi. Sự quá độ
đó còn phù hợp với xu hướng chung của thời đại ngày nauy- thời đại mà nói chung chủ yếu là
sự quá độ từ CNTB lên CNXH”
Nước ta quá độ lên CNXH không qua giai đoạn chế độ TBCN là sự lựa chọn hợp lý vì phù hợp
với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ, mặc dù vừa có thuận lợi và khó khăn:
Việt Nam có nền kinh tế kém phát triển: thuộc địa, nửa phong kiến; nông nghiệp lạc hậu, lực
lượng sản xuất thấp; chiến tranh tàn phá kéo dài, nặng nề; những tàn dư thực dân, phong tục tập
quán lạc hậu.
1
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1983, tập 19, tr. 47.
2
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva. 1977, tập 39, tr. 309-310
Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển mạnh mẽ, từ ấy
cũng tạo ra những thời cơ và thách thức cho Việt Nam
Xu hướng chung trên thế giới, thời đại quá độ từ TBCN lên CNXH trên phạm vi toàn cầu, bắt
đầu từ cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
2, Động lực của sự phát triển con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hệ động lực, bao gồm các loại động lực vật
chất và tinh thần, các động lực bên trong (nội lực và nội sinh) và các động lực bên ngoài (ngoại
lực và ngoại sinh). Trong hệ thống động lực phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,
trước hết là ba động lực quan trọng sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân,nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là nguồn sức
mạnh và là động lực quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với thành công của sự
nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta hiện nay, điểm tương đồng chung là:
Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi
mới nhằm khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, tính tích cực, chủ động,
năng động của nhân dân được tăng lên.
Thứ ba, kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể, cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người
vì mỗi người sẽ quan tâm đến lợi ích chính đáng của họ, từ đó lấy làm động lực trực tiếp, thúc
đẩy mạnh mẽ tới quá trình xây dựng xã hooijmowis.
II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam
1, Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định: “Trước đây, khi còn Liên Xô và
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định”3. Nhưng Đảng ta
đã nhanh chóng nhận ra đất nước ta phải xây dựng mô hình CNXH Việt Nam. Trên cơ sở
đó Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) ra đời và đề
ra mô hình CNXH Việt Nam gồm sáu đặc trưng4. Tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) đã bổ sung, phát triển thành tám đặc trưng
CNXH Việt Nam: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới"5. Với
tám đặc trưng này, chứng tỏ CNXH mà nhân dân ta xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu xây
dựng "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận
mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người . Mô hình CNXH này cũng chính "là xã hội
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa
với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm

3
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NxbST, H.1991;
tr10-11
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu (ĐHĐB) toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.70.
đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm". Thực tiễn 35 năm đổi mới ở Việt Nam đã
chứng tỏ rất rõ điều này.
2, Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Cương lĩnh 1991 đề ra bảy phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam6 tổng kết 10 năm thực
hiện Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 hoàn thiện, bổ sung thành tám phương hướng: Đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường;
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường
lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng Mặt trận thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh7. Những phương hướng này vừa là kết quả
tổng kết thực tiễn vừa là kết quả nghiên cứu lý luận, học hỏi kinh nghiệm quốc tế của Đảng ta.
3, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam- hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân
dân
Quan điểm của Đảng về Nhà nước trong Cương lĩnh 1991 đã nhấn mạnh đến những vấn đề có
tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước trong một chế độ dân chủ-
pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật;
thống nhất quyền lực ( thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) với sự phân công
rành mạch ba quyền đó. Thực tiễn cho thấy, 35 năm đổi mới đến nay đã chứng tỏ nhà nước pháp
quyền là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân.
Đổi mới về nhận thức chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng tới sự phát triển dân tộc,
phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là sự đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở một quốc gia đa tộc như
người Việt Nam. Một trong những nét mới trong tư duy đổi mới là, Đảng khẳng định đường lối
đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là
một xã hội có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Phát triển
tư tưởng đó, từ sau Đại hội VII, Đảng ta nhất quán với chủ trương đoàn kết, hợp tác, hữu nghị
và hòa bình để phát triển, Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác
song phương và đa phương…
4, Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thứ nhất, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta
là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”8 ; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là nhân dân là chủ”9. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ
quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Tư tưởng về một
nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định ngay trong
bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng
một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc
điểm này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và
1992 và cho đến ngày nay.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NxbST, H.1991;
tr11-13.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG, H.2011; tr.72.
8
Sđd, tập 6, tr.515
9
Sđd, tập 7, tr.499.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến
pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến
pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân
dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không
hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính
trị, tính chất xã hội.
Thứ ba, nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng
của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự
thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật
của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân
Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà
nước và xã hội. vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công 20 dân, mở rộng quyền dân chủ,
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước, … luôn
được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt
Thứ năm, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền:
lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà
nước

5, Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có
tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội 2011 - 202010.
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta
trong suốt mấy chục năm qua ( đặc biệt trong những năm đổi mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích
cực như:
Thứ nhất, sáng tỏ các giá trị cốt lõi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
“Tam giác trụ cột” trong mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam gồm có: kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa về cơ bản bao quát hết những vấn đề căn cốt, cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đây là mô hình và con đường phát triển riêng của Việt Nam, bởi vậy cùng với việc
học hỏi kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu tinh hoa và những giá trị phát triển của nhân loại, không
nơi đâu có thể tổng kết, nghiên cứu tốt hơn là ngay chính từ thực tiễn Việt Nam. Đất nước đã đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Quy mô, trình
độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ
rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta,
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
xu thế phát triển của thời đại
Thứ hai, xây dựng Đảng bộ thành phố và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.. Đến năm
2025, xây dựng Đảng bộ thành phố có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu; phát triển nhanh và bền vững Thủ đô theo hướng đô thị
10
Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG, H.2011, tr.91,148
xanh, thành phố thông minh, hiện đại… Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng được các cấp ủy đảng của Đảng bộ thành phố đặc biệt quan tâm. Do bám sát thực tiễn,
tiến hành một cách khoa học, sáng tạo, công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng đã giúp
các cấp ủy, các cán bộ, đảng viên Đảng bộ Hà Nội nâng cao nhận thức về bản lĩnh chính trị, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bên cạnh đó, Thành ủy Hà Nội luôn xác định công tác cán bộ giữ vị trí then chốt của then chốt,
là khâu đột phá và tập trung chỉ đạo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có bước đổi mới, vừa
bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các
cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang bộc lộ nhiều yếu kém:
Thứ nhất, Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ
cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
Thứ hai, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ
mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản
nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng.
Thứ ba, tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa phương còn một số mặt chưa cụ
thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...),
làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục. - Sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn còn tình trạng buông lỏng và bao biện, chống chéo nên
chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước
6, Đảm bảo sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo phù hợp thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

a, Kiên định coi lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước kiểu mới là kim chỉ nam trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Với quan điểm chung về kiên trì vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong công
cuộc đổi mới đất nước, coi chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho mọi hành động như vậy,
việc tiếp tục vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt Nam hiện
nay cần quán triệt đầy đủ tinh thần quan điểm đó.
Nội dung cụ thể giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước bao gồm: quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân; nhà nước tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc pháp chế XHCN; nhà nước
có cách thức tổ chức quyền lực và kiểm soát quyền lực hợp lý; nhà nước XHCN do Đảng Cộng
sản lãnh đạo... cần được tiếp tục coi là kim chỉ nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. “Đây không chỉ là một trong những giá trị bền
vững của chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn thể hiện những phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh,
đặc biệt là tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ của Người” 11

11
Hội đồng Lý luận Trung ương, PGS, TS Tô Huy Rứa, GS, TS Hoàng Chí Bảo (đồng chủ biên): Nghiên cứu chủ
thuyết phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017,
tr.353, 353, 347-354.
b, Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm tính biện
chứng, toàn diện và đặt trong mối quan hệ với việc vận dụng giá trị khác của chủ nghĩa Mác –
Lênin
Việc tách ra vận dụng giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về từng vấn đề, từng nội dung chỉ là
một sự vận dụng giản đơn, phiến diện. Do đó, việc vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác -
Lênin về nhà nước phải bảo đảm tính biện chứng, toàn diện. Nói cách khác, chúng ta không chỉ
thuần túy, giản đơn vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, mà phải gắn
chặt việc vận dụng đó với vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản,
về con đường đi lên CNXH, về dân chủ XHCN, về pháp luật, pháp chế XHCN, về quyền con
người, quyền công dân...
Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm đồng bộ với vận
dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, về sứ
mệnh của giai cấp công nhân, về giá trị thặng dư, về giải phóng và phát triển con người, về văn
hóa, về môi trường sinh thái, về xây dựng Đảng12... Điều đó đòi hỏi sự tương thích giữa vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Đảng, xây
dựng nền dân chủ XHCN, xây dựng nền văn hóa XHCN, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.
c, Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm phát huy những
thành tựu, đồng thời khắc phục những thất bại, sai lầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực và rút ra
những kết luận, bài học phù hợp cho Việt Nam
Muốn vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt Nam một cách hiệu
quả, cần nghiên cứu chỉ ra những thành công của các nhà nước XHCN trên thế giới, chỉ rõ
những nhà nước đó đã vận dụng đúng đắn những nội dung gì trong quan điểm của các nhà kinh
điển Mác - Lênin về nhà nước. Đồng thời, cần chỉ ra những sự vận dụng sai lầm, giáo điều, chủ
quan, duy ý chí của các nhà nước đó để có thể khắc phục.
Trong bài viết “Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội hiện thực: Giá trị lịch sử và ý
nghĩa thời đại”, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng khẳng định: “Thành tựu nổi bật của một thế kỷ xây
dựng CNXH là sự lớn mạnh nhanh chóng, sức hấp dẫn của CNXH và sự xuất hiện nhiều mô
hình XHCN trên thế giới... Nhiều thành tựu trong tổ chức quản lý xã hội của CNXH đã khiến
cho các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải thừa nhận và học tập. Thế giới đã phát triển bình đẳng
hơn, công bằng hơn. Sự lựa chọn con đường XHCN đã trở thành một xu thế lớn”13
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay cần tránh những sai lầm trong nhận thức lý luận và vận dụng
quan điểm của các nhà kinh điển Mác- Lênin về nhà nước của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và một
số nước Đông Âu. Chẳng hạn đã không tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà
nước pháp quyền XHCN, nên đã biến Đảng dần trở thành tổ chức chính trị độc tôn quyền lực,
đứng trên pháp luật. Đồng thời, cần khắc phục căn bệnh hình thức về tính dân chủ của nhà nước
kiểu mới. “Việc hạn chế dân chủ như một thứ rào cản, hạn chế sự sáng tạo trong xã hội, hạn chế
vai trò của nhân dân trong giám sát quyền lực, phản biện các chính sách xã hội... Đó cũng chính
là mảnh đất tốt cho chủ nghĩa quan liêu, là môi trường thuận lợi cho sự chuyên chế, độc đoán, là

12
Hội đồng Lý luận Trung ương, PGS, TS Tô Huy Rứa, GS, TS Hoàng Chí Bảo (đồng chủ biên): Nghiên cứu chủ
thuyết phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017,
tr.353, 353, 347-354.
13
Nguyễn Xuân Thắng: Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội hiện thực: Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại,
hcma.vn, ngày 14-12-2017.
căn bệnh làm cho Đảng, Nhà nước xa rời nhân dân, nhân dân mất dần niềm tin vào Đảng và Nhà
nước”14
d, Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước phải bảo đảm phát triển
những giá trị đó sao cho phù hợp với thực tiễn phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang được hình thành với xu hướng phát triển dựa trên nền
tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học. “Cuộc cách mạng sản xuất
mới này được dự đoán sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp và
người dân khắp toàn cầu, cũng như làm thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và sản xuất” 15
Vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước ở Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ
thực tiễn của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đối với nhà
nước. Đồng thời, cần phải nghiên cứu những yêu cầu mới đang đặt ra đối với nhà nước trong bối
cảnh hiện nay, bảo đảm sao cho sự vận dụng những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước thực sự tương thích và đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu và đối phó với những
thách thức do Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra.

II, Liên hệ với trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn đánh giá rất cao vai trò của thanh niên trong công cuộc góp phần xây dựng, phát huy
truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ thanh niên tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tuy nhiên để xây dựng thì biện pháp, vai trò từ các cấp,các ngành, các tổ chức, cơ quan
thôi chưa đủ mà còn phải xuất phát từ nhận thức của thế hệ trẻ.
Thứ nhất, trách nhiệm của bản thân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
 Chúng ta cần phải chăm chỉ, sáng tạo trong các hoạt động lao động hay học tập; quan tâm
đến đời sống xã hội- chính trị trong và ngoài nước
 Rèn luyện đạo đức, lối sống lành mạnh và tránh xa những lối sống thực dụng, tai hại; tích
cực tham gia đóng góp xây dựng quê hương; phê phán và đấu tranh những cái xấu, ảnh
hưởng đến xã hội, lợi ích quốc gia
….
Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, nhưng hơn tất cả, sứ
mệnh chung của chúng ta đặc biệt là giới trẻ thì trách nhiệm đối với đất nước là một sứ
mệnh vô cùng quan trọng. Vậy trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương đất nước là gì?
Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước là trách nhiệm giữ gìn nền độc lập,
tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính vì
vậy chúng ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh, có thể
chống lại mọi kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một cuộc sống
tốt đẹp cũng chính là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, mỗi chúng ta cần phải yêu

14
GS, TS Tạ Ngọc Tấn: Những sai lầm về nhận thức lý luận đẫn đến sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên bang Xô viết, http://m.tapchikhxh.vass.gov.vn/nhung-sai-lam-ve-nhan-thuc-ly-luan-dan-den-su-sup-do-mo-hinh-
chu-nghia-xa-hoi-hien-thuc-o-lien-bang-xo-viet-n50115.html, ngày 1-3-2018.
15
PGS, TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS, TS Ngô Huy Cương (đồng chủ biên): Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
những vấn đề đặt ra đối với cải cách pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tr.388.
thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết với mọi người vì điều đó không chỉ giúp cho chúng
ta được yêu thương, trân trọng mà còn thể hiện sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

KẾT LUẬN

You might also like