You are on page 1of 34

ÔN TẬP

CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Câu 1: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về điều hiện
ra đời và đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội:
- Sự phát triển của LLSX và sự trưởng thành thực sự của GCCN.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã tạo nên sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất càng được hiện đại hóa, xã hội hóa cao thì càng mâu thuẫn với giai cấp tư bản.
Chính sự mâu thuẫn này đã tạo động lực để giai cấp công nhân thực sự trưởng thành, đánh dấu
bằng sự ra đời của Đảng cộng sản.
- Cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng của GCCN – Đảng Cộng sản.  
Do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trước đó, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa không tự nhiên ra đời, nó chỉ được hình thành thông qua cách mạng vô sản
dưới sự lãnh đạo của đảng của giai cấp công nhân – Đảng Cộng sản.
- CMVS thường được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng. 
Nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, thực hiện sự
nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:  
Một là, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều
kiện để con người phát triển toàn diện;  
- Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: để con người làm chủ được bản thân mình, trở thành con người tự
do thì cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.
Hai là, do nhân dân lao động làm chủ;  
- Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: bước thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến
thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về TLSX chủ
yếu;  
Theo Lênin:
- Từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội, là chế độ công hữu về các
tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người
- Để thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, là nâng cao năng suất lao động, phải
tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn
Bốn là, có nhà nước kiểu mới mang bản chất GCCN, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của
NDLĐ;  
Theo Lênin:
- Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được
và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản.
- Nhà nước vô sản phải là một công cụ, một phương tiện, một biểu hiện tập trung trình độ dân
chủ của nhân dân lao động, phản ánh trình độ nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà
nước 
Năm là, có nền văn hoá phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá trị của văn hoá dân tộc và
tinh hoa văn hoá nhân loại;  
Theo Lênin:
- Chỉ có xây dựng được nền văn hóa vô sản mới giải quyết được mọi vấn đề từ kinh tế, chính trị
đến xã hội, con người
- Những người cộng sản sẽ làm giàu tri thức của mình bằng tổng hợp các tri thức, văn hóa mà
loài người tạo ra
Sáu là, bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các
nước trên thế giới. 
Theo Lênin:
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết
- Để đảm bảo thắng lợi đối với chủ nghĩa tư bản và tiêu diệt được ách áp bức dân tộc và sự bất
bình đẳng, cần có sự liên minh và thống nhất của giai cấp vô sản và toàn thể quần chúng thuộc
tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới

Câu 2: Phân tích đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở việt nam.
Những thuận lợi và khó khăn trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở việt nam hiện nay:
- Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến, LLSX phát triển rất thấp, trải qua
chiến tranh.
- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm các phá hoại chế độ XHCN và nền ĐLDT.
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước với
mức độ khác nhau.
+ Nền SXVC và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến
nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống của dân tộc.
+ Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ tử CNTB lên CNXH. Các nước vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, vừa cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc.
+ Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến
bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bỏ qua chế độ TBCN:
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước
ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại”. Tư tưởng này được hiểu như sau:
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường cách mạng tất yếu khách quan, con
đường xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN đòi hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế.
Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề bỏ qua chế độ TBCN:
-Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán suốt hơn
73 năm qua của Đảng ta. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của gần 17
năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
-Tại Đại hội IX – Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15
năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, có
thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con
đường phát triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là
bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
-Hiện nay, vấn đề nhận thức về sự lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, kiên trì phấn đấu theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội của các tầng
lớp nhân dân còn chưa được đầy đủ. Vấn đề này cũng đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đó là sự phát triển tất yếu
ở Việt Nam, được Đảng và Hồ Chủ Tịch vạch ra từ năm 1930 (trong Chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt trong luận cương chính trị của Đảng ) và ngày càng hoàn thiện hơn trong các ký Đại
hội Đảng gần đây. Vì vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước hiện nay,
việc nhận thức về tính tất yếu con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang tính
cấp thiết

Câu 3: Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những
đặc trưng cơ bản và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những những đặc trưng cơ bản chủ nghĩa xã
hội mà Việt Nam đang xây dựng:
Đại hội Đảng toàn quốc lần XI năm 2011 đã xác định những đặc trưng cơ bản của CNXH mà
Việt Nam xây dựng:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp;
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến
bộ;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những những phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, gắn với bảo vệ tài nguyên môi
trường;
- Phát triển KTTT định hướng XHCN;
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội;
- Bảo vệ vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, đồng thời chăm lo trật tự, an toàn xã hội;
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế;
- Xây dựng một nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt
trận dân tộc thống nhất;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Câu 4: Phân tích tính tất yếu lên CNXH bỏ qua TBCN ở VN.
Phân tích bối cảnh XH VN để chỉ ra chế độ phong kiến và chế độ TBCN không phù hợp với
VN.
Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở
Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
 Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và
đối ngoại của chính quyền phong kiến Nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng; Thực dân Pháp câu kết
với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với Nhân dân Việt Nam.
 Về kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn
điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
 Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti,
khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của Nhân dân ta đều bị
cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ
trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với
mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta dưới
sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân,
Nguyễn Trung Trực… Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi “Cần Vương” của Phan Đình
Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám…; các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa
thục, Duy Tân… Là cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam quốc dân đảng do
Nguyễn Thái Học lãnh đạo… Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống
thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại.
Tiêu biểu các cuộc khởi nghĩa như:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào cần Vương
diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 - 1896); cuộc
khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng tổ chức (1885 - 1886); cuộc khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo dài và quyết liệt nhất là phong
trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 — 1913) v.v...
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu nước Việt
Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào Đông Du
(1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra gần hai năm, Pháp -
Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt Nam. Phong trào Đông Du thất
bại.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức. Những năm 1906 -
1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện đời sống nhân
dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn hưng văn hóa, công nghệ,
chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà
Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908); phong trào đấu tranh của Đảng
Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong trào của Việt Nam quốc dân
Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước,
bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối
đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước . Tóm lại, cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng hoàng, bế tắc về đường lối
cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam ví như “trong đêm tối không có đường ra”.
Bối cảnh quốc tế:
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao
động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của
chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở các nước thuộc địa.
Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này gây ra những hậu
quả đau thương cho nhân dân các nước đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và
mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho
phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã
trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân
tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò
quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuộc cách mạng Tân Hợi (10/1911) ở Trung Quốc, công cuộc Canh tân đất nước của Nhật Bản
cuối thế kỷ XIX; phong trào “bất bạo động“ của Đảng Quốc Đại ở Ấn Độ lãnh đạo những năm
đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng đến tư tưởng, thu hút sự quan tâm của nhiều người yêu nước Việt
Nam.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc tìm ra còn đường giải phóng dân tộc:
Sau 30 năm bôn ba, ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc
đấu tranh cách mạng. Người chỉ ra rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, con đường duy
nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, thể hiện
tính quy luật của sự phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam, trở thành quan điểm xuyên suốt trong
toàn bộ tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đó chính là
"Đường cách mệnh" cho dân tộc ta mà Người đã chọn. Thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa
chọn đó là sự lựa chọn lịch sử, sự lựa chọn duy nhất đúng, không thể có sự lựa chọn thứ hai.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con
đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường
mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công
cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển, từng
bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(1). Xác định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật chung
đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, phù hợp với điều kiện lịch sử
của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một tất yếu khách quan, được thể hiện ở cả phương
diện lý luận và phương diện thực tiễn.
Về mặt lý luận: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một kiểu
quá độ gián tiếp (loại hình quá độ đặc biệt của đặc biệt). Khi nghiên cứu về sự phát triển của lịch
sử, C. Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định, lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự,
vừa phát triển theo con đường nhảy vọt.
 Năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng sự tồn tại đồng thời của nền kinh
tế phương Tây đang thống trị trên thị trường thế giới, cho phép nước Nga có thể áp dụng những
thành tựu mà chế độ tư bản đã đạt được mà không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. 
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là từ sau cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (1917),
kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định tính tất yếu quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản
chủ nghĩa hoặc thuộc địa và phụ thuộc. Ông viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước
tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn phát triển nhất
định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(2).
Với quan điểm đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn trong việc xác định và lựa chọn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đã có nhiều sĩ phu yêu nước như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã tìm đường cứu nước. Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn, do con đường mà họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội và lịch sử Việt Nam. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa” của Lênin, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân
tộc mới đem lại kết quả – giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công. Vì vậy, vận dụng đúng đắn
chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam là tất yếu và phù hợp. Chủ nghĩa tư bản tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải
quyết có hiệu quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất của
chế độ áp bức, bóc lột thì không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân biệt màu da, chủng tộc
chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là
vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài
người muốn đạt tới.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân
tố quan trọng hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở nước ta; Nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
đã được thiết lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự
ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên
minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được thiết lập,
phát huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sẽ tiếp tục được phát huy vai trò
nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ mà trước
hết là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

CHƯƠNG 4: DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Câu 5: Phân tích sự ra đời và phát triển của dân chủ qua các chế độ
xã hội
Khái niệm: Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII – VI trước công nguyên.
Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người; là một phạm trù
chính trị gán với các hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền; là một phạm trù lịch sử
gắn với quá trình ra đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại.
Sự ra đời và phát triển của dân chủ qua các chế độ xã hội
Trong xã hội Công xã nguyên thuỷ:
- Cuối xã hội CSNT đã xuất hiện hình thức manh nha (mầm móng) của dân chủ.
- Trong hình thức dân chủ này, thông qua “đại hội nhân dân”, nhân dân bầu ra thủ lĩnh quân sự
và quyết định mọi vấn đề của thị tộc, bộ lạc. Trong xã hội Chiếm hữu nô lệ: - Nền dân chủ này
được tổ chức thành nhà nước với đặc trưng là dân tham gia bầu ra Nhà nước.
- Trong nền dân chủ chủ nô, giai cấp cầm quyền quy định “dân” gồm: chủ nô và các công dân tư
do. Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ” - không được tham gia vào công việc nhà
nước.
Như vậy, về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực của
dân đã bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực hiện lợi ích của “dân” mà thôi.
Trong xã hội Phong kiến:
- Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này được khoát lên chiếc áo thần bí của thế lực siêu
nhiên. Họ xem việc tuân thủ ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của mình trước sức mạnh
của đấng tối cao.
- Ý thức về dân chủ, và đấu tranh để thực hiện quyền làm chủ của người dân đã không có bước
tiến đáng kể nào.
Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa:
- Giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra
đời của nền dân chủ tư sản.
- Nền dân chủ này là một bước tiến lớn của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự do,
bình đẳng, dân chủ.
- Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên trên
thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của thiểu số.
Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa:
- Khi cách mạng XHCN Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), nhân dân lao động nhiều quốc gia
giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thiết lập nhà nước XHCN, thiết lập nền dân
chủ vô sản (nền dân chủ XHCN).
- Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN là thực hiện quyền lực của nhân dân – tức là xây
dựng nhà nước dân chủ thật sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đa số nhân
dân.

Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử nhân loại,
cho đến nay có ba nền (chế độ) dân chủ. Nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ;
nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế
độ xã hội chủ nghĩa.

Câu 6: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ
và bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ nhân của nhà nước: Dân chủ là quyền lợi của nhân dân - quyền dân chủ được hiểu theo
nghĩa rộng. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của
nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì nhân dân, vì xã hội mà phục vụ. Và do vậy, chỉ
khi mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì khi đó, mới có thể đảm bảo về căn bản việc
nhân dân được hưởng quyền làm chủ với tư cách một quyền lợi.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình
thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ: Dân chủ với tư cách
một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, nó là một phạm
trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong. Song,
dân chủ với tư cách một giá trị xã hội, nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người. Chừng nào con người và xã hội
loài người còn tồn tại, chừng nào mà nền văn minh nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân
chủ vẫn còn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát triển dân chủ theo hướng (1) Dân chủ trước hết là một giá trị nhân loại chung. Và, khi coi
dân chủ là một giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại, Người đã khẳng định: Dân chủ là dân là
chủ và dân làm chủ. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
(2) Khi coi dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội, Người khẳng định: “Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Rằng, “chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ”; và một
khi nước ta đã trở thành một nước dân chủ, “chúng ta là dân chủ” thì dân chủ là “dân làm chủ”
và “dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác... làm đầy tớ. Làm đầy tớ
cho nhân dân, chứ không phải là quan cách mạng”.
Thứ ba, trên phương diện quản lý và tổ chức xã hội: dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc
dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và quản lý xã hội. Chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh, dân chủ với những nội
dung nêu trên phải được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là phương tiện để vươn đến tự do,
giải phóng con người, giải phóng giai cấp và xã hội. Dân chủ với tư cách một hình thức hay hình
thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, nó là một phạm trù lịch
sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong. Song, dân chủ
với tư cách một giá trị nhân loại chung, nó là một phạm trù vĩnh viễn tồn tại và phát triển cùng
với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
Thứ tư, dân chủ mang tính giai cấp sâu sắc: dân chủ có nghĩa là mọi quyền hạn đều thuộc về
nhân dân. Dân phải thực sự làm chủ một cách toàn diện: làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội và
làm chủ chính bản thân, làm chủ và sở hữu mọi năng lực sáng tạo của mình với tư cách chủ thể
đích thực của xã hội.
Thứ năm, dân chủ là một giá trị nhân văn, mang tính nhân loại: Dân chủ với tư cách một giá
trị xã hội, nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của
con người, của xã hội loài người. Chừng nào con người và xã hội loài người còn tồn tại, chừng
nào mà nền văn minh nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân chủ vẫn còn tồn tại với tư
cách một giá trị nhân loại chung.
Thứ sáu, dân chủ bao quát tất cả các lĩnh vực chính trị - xã hội:. Mặt khác, dân chủ phải bao
quát tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, từ dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong
chính trị đến dân chủ trong xã hội và dân chủ trong đời sống văn hóa - tinh thần, tư tưởng, trong
đó hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu và nổi bật nhất là dân chủ trong kinh tế và dân chủ trong
chính trị. Dân chủ trong hai lĩnh vực này quy định và quyết định dân chủ trong xã hội và dân chủ
trong đời sống văn hóa – tinh thần, tư tưởng. Không chỉ thế, dân chủ trong kinh tế và dân chủ
trong chính trị còn thể hiện trực tiếp quyền con người (nhân quyền) và quyền công dân (dân
quyền) của người dân, khi dân thực sự là chủ thể xã hội và làm chủ xã hội một cách đích thực.

Câu 7: Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
hãy nêu sự ra đời, phát triển và bản chất của nền dân chủ xã hội hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự ra đời và phát triển của nền dân chủ XHCN
Các nhà sáng lập chủ nghĩa nghĩa cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức
tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một
nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi là
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được phôi thai từ thực tiễn năm 1871, tuy nhiên chỉ đến khi Cách
mạng tháng 10 Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới
(1917), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được thành lập. Sự ra đời của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ, quá trình phát triển của nền
dân chủ bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, trong đó, có sự kế thừa
những giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời được bổ sung và làm sâu sắc thêm.
Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ nâng cao
mức độ giải phóng ảnh cho những người lao động, ảnh thu hút họ tham gia tự giác vào công việc
quản lý nhà nước, xã hội. Tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng
dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản
lý xã hội.
Từ đó có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ có
trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và
dân làm chủ; Dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; tính được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. 
Bản chất của nền dân chủ XHCN
Dân chủ vô sản không phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người; khi nó chỉ là dân chủ đối với
quần chúng lao động và bị bóc lột; dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của đa số. Dân chủ
càng hoàn thiện bao nhiêu, càng nhanh tới ngày tiêu vong bấy nhiêu.
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một Đảng Của giai cấp công nhân mà trên
mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân.Bản chất chính trị của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị thông qua đảng đối với toàn xã hội nhưng không phải chỉ
để để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân. Đảng Cộng Sản lãnh đạo là
yếu tố quan trọng ảnh để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. 
Bản chất về kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội và những tư
liệu sản xuất chất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản
xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một
quá trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Mác – Lenin và sự quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong
lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kiềm hãm…  của các chế độ kinh tế
trước đó. Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
Bản chất tư tưởng - văn hóa- hóa xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác -
Lênin hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác
trong xã hội mới, đồng thời nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc;
tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ra sức động viên, nên thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân dân trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới. 
Câu 8: Phân tích quan niệm nhà nước pháp quyền và những đặc
điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan niệm về nhà nước pháp quyền: theo chủ nghĩa chung, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Theo quan niệm chung: là nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn phát luật nhà nước
hướng tới những vấn đền về phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cả nhân dân được tự do,
bình đẳng, phát huy biết năng lực của chính mình.
Nhà nước pháp quyền được hiểu mà ở đó tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật và
hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật đảm bảo tính nghiêm minh;
trong hoạt động của nhà nước phải có sự sự kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân
dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến nhà nước pháp quyền.
 Đề cao vai trò tối thượng của hiến pháp và pháp luật
 Đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền của con người
 Tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công giữ các nhánh
quyền lực, phân cấp quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm đảm bảo
quyền dân chủ của nhân dân tránh lạm phát.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật;
đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người; tổ chức bộ máy vừa đảm
bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công giữa các nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn và
trách nhiệm giữa các cấp chính quyền nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, tránh lạm
quyền.
Tóm lại, có thể hiểu Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời
sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dần chủ,
công bằng và các nguyên tắc chủ quyên nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước
nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân, công bằng, bình đắng trong xã hội.
Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta:
Thứ nhất, Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực
chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực
tiếp; dân chủ đại diện.
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Trong tất
cả các hoạt động của xã hội, Pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh những mối quan hệ cơ bản đối với toàn bộ
hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống
pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ
thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước
và xã hội.
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có thể phối hợp nhịp nhàng
và kiểm soát giữ các cơ quan: lập pháp, hiến pháp và tư pháp.
Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc vào
chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là quyền lực nhà nước
không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm
soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, phù hợp với điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của nhà nước được giám sát bởi
nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức,
các cá nhân được nhân dân ủy nhiệm.
Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công
bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần
thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm
minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác
nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp,
loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các
hành vi này.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con người, con
người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của nhân dân được thực hành
một cách rộng rãi; “Nhân dân có quyền bầu và bãi miễn những đại biểu không xứng đáng”; đồng
thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của
Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho
công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá
nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô
hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà
nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật
cấm.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, có
sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng đảm bảo quyền lực là thống nhất
và sự chỉ đạo thống nhất của trung ương.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị trường, theo hướng Nhà nước
tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các
quan hệ kinh tế, đồng thời khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.

CHƯƠNG 5: CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Câu 9: Phân tích những biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Cơ cấu xã hội - giai cấp, sự biến đổi cơ cấu xã hội - giải cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam có những nét đặc thù sau:
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến và mang tính đặc thù
của xã hội Việt Nam . Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cơ cấu xã hội - giai
cấp cũng vận động, biến đổi theo đúng qui luật về sự chi phối bởi những biến đổi của cơ cấu
kinh tế. Từ Đại hội VI (1986), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với sơ cho tập trung quan liêu bao cấp dẫn chuyển sang -nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một cơ cấu xã hội -
giai cấp đa dạng. Sự biến đổi phức tạp, đa dạng của cơ cấu xã hội - giai cấp Việt Nam diễn ra
trong nội bộ từng giai cấp, tầng lớp cơ bản của xã hội; thậm chí có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa
các giai cấp, tầng lớp. Chính những biến đổi mới này cũng là một trong những yếu tố có tác động
trở lại làm cho nền kinh tế đất nước phát triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành động
lực to lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng văn minh, định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp ngày
càng được khẳng định
Cơ cấu xã hội - giai cấp của Việt Nam ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm những
giai cấp, tầng lớp cơ bản sau:
- Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến; giữ vị trí tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh và là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức.
- Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lựclượng xã hội quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị. đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái; là chủ thể của quá trình
phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát
triển đô thị theo quy hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp
- Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là lực lượng trong khối liên mình. Xây
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp năng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị
- Đội ngũ doanh nhân Việt Nam đang phát triển nhanh chóng cả về số lượng và qui mô với vai
trò không ngừng tăng lên. Đây là tầng lớp xã hội được Đảng ta chủ trương xây dựng thành một
đội ngũ vững mạnh của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đội ngũ doanh
nhân có các doanh nhân với tiềm lực kinh tế lớn, có những doanh nhân vừa và nhỏ thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Đội ngũ này đang đóng góp tích cực vào việc thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động và tham gia giải quyết các vấn
đề an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng
lực, trình độ và phẩm chất uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế...
- Tầng lớp tiểu chủ: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tầng lớp này ra đời, phát triển
ngày càng đông đảo và đang đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tầng lớp này còn
hoạt động mạnh mẽ hơn trong điều kiện đất nước mở cửa, hội nhập. Một bộ phận sẽ phát triển
trở thành doanh nhân. Do đó, cần có chính sách để phát triển tầng lớp tiểu chủ trong mối quan hệ
hài hòa với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
- Đội ngũ thanh niên: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước,
là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo, phát triển, thanh niên vừa là
mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.
CHƯƠNG 6: VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Câu 10: Phân tích cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin và
liên hệ đến quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng Cộng Sản
Việt Nam hiện nay.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác – Ph. Ăngghen về vấn đề dân tộc, dựa vào sự tổng kết kinh
nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga, phân tích hai xu hướng
khách quan của phong trào dân tộc, V.I. Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của
Đảng Cộng sản.
Nội dung “Cương lĩnh dân tộc” thể hiện trên 2 vấn đề sau:
Thứ nhất, các dân tộc được quyền tự quyết
– Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình:
quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự
do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc;
quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức
mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài.
Thứ hai, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại
– Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: Nó phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác – Lênin (của Đảng Cộng sản) là một bộ phận
trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Chính sách dân tộc của Việt Nam trong hơn 90 năm qua, có thể thấy một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Việc xác định vị trí chiến lược lâu dài của công tác dân tộc chính
là xuất phát từ đặc điểm của cộng đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề
giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của
một quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân
tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng trên mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong
thời kỳ đổi mới. Đảng ta chủ trương: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các
cấp, kết hợp với động viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo
vệ và phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy
mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào, trước hết ở các
vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”
Thứ tư, chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng
ta quan tâm cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng
bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của
từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với
điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc thiểu số
khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước.”

Câu 11: Phân tích quan điểm của chủ Nghĩa Mác LêNin về bản chất
của tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện
thực khách quan
+Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực
khách quan; thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tựnhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần
bí.
+Theo Ph.Ăngghen: "… tất cả một tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu,
óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản
ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế".
+Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội – các tôn giáo cụ thể (ví dụ: Công
Giáo, Tin lành, Phật giáo…), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu
nhiên, đấng tối cao, tin tôn giáo; có hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi); có hệ thống
cơ sở thờ tự có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo; có hệ thống tín đồ đông đảo và
được tôn giáo đó thừa nhận.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hoá do con người sáng tạo ra.
+Con người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện
vọng, suy nghĩ của họ.
+ Sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn giáo.
+Về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế
giới quan duy vật biện chứng, khoa học chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định.
+ Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể hiện niềm tin
của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh thiêng để cầu
mong sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại tín ngưỡng khác nhau như: thờ cúng tổ tiên, thờ anh
dùng dân tộc, thờ mẫu....
+ Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Dị đoan là sự
suy đoán, hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong cuộc
sống.
+Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần thánh đến mức độ
mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá mức, trái với các giá trị văn
hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.
Câu 12: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề
tôn giáo hãy nêu đặc điểm tôn giáo và quan điểm, chính sách giải
quyết vấn đề tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo:
Bản chất của tôn giáo Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo hiện thực khách
quan, thông qua hệ thống các biểu tượng siêu nhiên và niềm tin. Tôn giáo là sản phẩm của con
người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Tôn giáo là một hiện
tượng xã hội phản ánh sự yếu thế, bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên, xã hội và trước
các thế lực trong đời sống.
Nguồn gốc của tôn giáo Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Sự bất lực của con người trước
các thế lực tự nhiên, thế lực xã hội. Nguồn gốc nhận thức: do khả năng nhận thức của con người
về tự nhiên, xã hội và bản thân con người là có giới hạn nên đã thần thánh hoá những điều chưa
nhận thức được. Nguồn gốc tâm lý: đó là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý (cả tích cực và tiêu cực)
đến sự ra đời của tôn giáo. Đặc biệt là sự bất lực trong đời sống, trong nhận thức, tạo ra sự sợ
hãi, bi quan. Đó là những tình cảm làm nảy sinh và duy trì niềm tin tôn giáo.
Tính chất của tôn giáo Tính lịch sử: Tôn giáo chỉ xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất
định; trong từng thời kỳ lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã
hội của thời đại đó.
Đặc điểm của tôn giáo Việt Nam
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn
giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đã góp
phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc.
Dưới đây là 4 đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam:
Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không kỳ thị, tranh chấp
và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự
khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là
những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và người không có tôn giáo.
Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm
tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau
trên nền tảng làng, xóm, dòng họ. 
Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước ngoài. Các
nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có từ người
Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con Rồng. Hệ thống giáo lý của các
tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều
sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước. 
Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều hướng đến Chân -
Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền
văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín ngưỡng này đã có sự
giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín ngưỡng
ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam (dù không thuần
nhất).
Thứ 4, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc, phản động luôn tìm
mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm
lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý
đồ đen tối của chúng.
Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo như một thứ vũ khí
nhằm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với chiêu bài "tự do tôn giáo", "nhân quyền", chúng xuyên tạc, bóp méo đường lối, chính sách tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, âm mưu tạo ra lực lượng và xây dựng ngọn cờ
trong tôn giáo hòng lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo và giải quyết
vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
 Về Quan điểm chỉ đạo: Nghị quyết 25 đề ra 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về
tôn giáo, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang và sẽ tồn tại
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta hiện nay có khoảng
16 tôn giáo, với trên 13,2 triệu tín đồ, chiếm khoảng 13,7% dân số và nhiều tổ chức tôn giáo; hơn
80 hiện tượng tôn giáo mới; hơn 85% dân số có đời sống duy tâm. Tín ngưỡng tôn giáo hiện
đang là đứa con tinh thần của một bộ phận đông đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc và
cùng với chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, tín ngưỡng tôn giáo đang có những thay
đổi vô cùng mạnh mẽ trước biến động của thế giới và sự phát triển đi lên của đất nước. Vì
vậy,quán triệt quan điểm này cần khắc phụccác biểu hiện: Chủ quan, duy ý chí, phiến diệntrong
nhậnthức và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc: Đồng bào
các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, thực hiện quan điểm
này, một mặt phải đoàn kết đồng bào theo những tôn giáo khác nhau; mặt khác, phải đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, giải quyết tốt mối quan hệ người có tín
ngưỡng khác nhau với người theo chủ nghĩa vô thần. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục
các biểu hiện như phân biệt đối xử, đố kỵ, mặc cảm vì lý do tín ngưỡng tôn giáo và kiên quyết
chống ấm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng nhân dân. Đây là
tư tưởng chỉ đạo quan trọng nói lên bản chất của công tác tôn giáo gắn với mục tiêu là dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu trên chính là tiền đề để phát huy sự
tương đồng, khắc phục sự khác biệt của nhân dân có đạo. Đối tượng của công tác vận động quần
chúng nhân dân bao gồm: tín đồ, chức sắc, nhà tu hành và chức việc trong từng tôn giáo; đồng
thời cũng phải vận động quần chúng không có tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo. Công tác
vận động quần chúng trong công tác tôn giáo bao gồm: Công tác giáo dục, tuyên truyền, tổ chức
phong trào quần chúng, tổ chức các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống
chính trị ở địa phương, cơ sở. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Hành
chính, quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quần chúng.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo liên quan
đến tất cả lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã hội, mọi ngành nghề mọi cấp bậc từ Trung ương
đến cơ sở. Trong công tác tôn giáo, Đảng là nhân tố lãnh đạo, quyết định toàn bộ hệ thống chính
trị trong quá trình tiến hành công tác; Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo
theo quy định của Hiến pháp, pháp luật; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về vận động quần chúng thực hiện tốt
chính sách tôn giáo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: thiếu sự cộng tác,
phối hợp chặt chẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp hoặc buông lỏng quản lý, lấn sân lẫn
nhau. Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Đây cũng là một quan điểm quan trọng nhằm xác
định rõ các hoạt động tôn giáo (bao gồm: hành đạo, quản đạo và truyền đạo) đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước bảo hộ chính đạo, đồng thời bày trừ tà đạo. Quán triệt quan
điểm này cần khắc phục các biểu hiện như can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ tôn giáo;
buông lỏng quản lý trước các hành vi vi phạm các quy định của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt
động tôn giáo.
Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng từ X - XIII:
Sau Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 (khóa IX), quan điểm, chính sách tôn giáo tiếp tục
được thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng X, XI, XII, XIII. Thực ra, xuyên suốt các kỳ Đại hội
của Đảng cộng sản Việt Nam từ đại hội VII đến Đại hội XIII đều có hai quan điểm không thay
đổi đó là: tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; chống việc lợi
dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Các kỳ đại hội
trên đều thể hiện quan điểm:
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân. Mọi công dân dầu có quyền theo
tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo của mình. Mọi hành vi xâm phạm quyền tự do ấy đều bị xử
lý theo pháp luật; không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng trong những hoạt động xã hội. Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, thường xuyên củng cố tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào
không có đạo, giữa tín đồ các tôn giáo với nhau, "Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các
giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển. Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách tôn giáo; thực hiện tốt đoàn
kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc."; đồng thời "nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước".
CHƯƠNG 7: VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI.

Câu 13: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cơ sở
xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cơ sở kinh tế – xã hội
Cơ sở kinh tế – xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự phát
triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất
mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối
với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị
xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ
nữ trong trong xã hội.
V.I.Lênnin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về ruộng đất,
công xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con đường giải phóng
hoàn toàn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nô lệ gia đình” nhờ có việc thay thế
nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa quy mô lớn”.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị của
người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối
với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ông trong gia đình là kết quả sự thống trị của họ về
kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế của đàn ông không còn. Xóa
bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia
đình thành lao động xã hội trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia lao
động gia đình thì lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội.
Như Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá
thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao
động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị
bình đẳng với đàn ông trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm
cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã
hội hay một sự tính toán nào khác.
Cơ sở chính trị – xã hội
Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là việc thiết lập
chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được thực hiện quyền lực của mình
không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ
kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ
hạnh phúc gia đình. Như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền xô viết là chính quyền đầu tiên
và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp
luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho
nam giới… Chính quyền xô viết, một chính quyền của nhân dân lao động, chính quyền đầu tiên
và duy nhất trên thế giớ đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc
quyền của người đàn ông trong gia đình…”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật, trong đó có Luật
Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội đảm bảo lợi ích của công dân, các
thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm
xã hội… Hệ thống pháp luật và chính sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình
thành gia đình mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống
chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình
còn hạn chế.
Cơ sở văn hóa
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản trong đời sống chính
trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng biến đổi. Những giá trị văn hóa
được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân từng bước hình thành
và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố
văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.
Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng cao trình độ dân
trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung cấp cho các thành viên
trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự hình thành những giá trị, chuẩn
mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế, chính trị, thì việc xây
dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

Chế độ hôn nhân tiến bộ


– Hôn nhân tự nguyện
Hôn nhân tiến bộ là hôn nhân xuất phát từ tình yêu giữa nam và nữ. Tình yêu là khát vọng của
con người trong mọi thời đại. Chừng nào, hôn nhân không được xây dựng trên cơ sở tình yêu thì
chừng đó, trong hôn nhân, tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn chế.
Hôn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là bước phát triển tất
yếu của tình yêu nam nữ, như Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “…nếu nghĩa vụ của vợ và chồng là phải
thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau há chẳng phải là kết hôn với nhau và không
được kết hôn với người khác”. Hôn nhân tự nguyện là đảm bảo cho nam nữ có quyền tự do trong
việc lựa chọn người kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự
nguyện không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng, có
trách nhiệm trong việc kết hôn.
Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm cả quyền tự do ly hôn khi tình yêu giữa nam và nữ không còn
nữa. Ph.Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu mới hợp đạo đức thì
cũng chỉ riêng hôn nhân trong đó tình yêu được duy trì, mới là hợp đạo đức mà thôi… và nếu
tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay
cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy nhiên, hôn nhân tiến bộ không khuyến khích việc ly
hôn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất định cho xã hội, cho cả vợ, chông và đặc biệt là con cái. Vì
vậy, cần ngăn chặn những trường hợp nông nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền
ly hôn và những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.
– Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một chồng là kết quả tất
yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm
bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình
cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người, khi có sự thắng
lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên, trong các xã hội trước,
hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh
ra tự sự tập trung nhiều của cải vào tay một người, – vào tay người đàn ông, và từ nguyện vọng
chuyển của cải ấy lại cho con cái của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì
thế, cần phải có chế độ một vợ một chồng về phía người vợ, chứ không phải về phía người
chồng”. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng
là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và
chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc
sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng, chính đáng như nghề
nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác v.v.. Đồng thời cũng có sự thống nhất
trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái… nhằm xây
dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha xu thế mẹ với con
cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương con cái,
ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy bảo của cha mẹ. Tuy nhiên,
quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu thuẫn không thể tránh khỏi do
sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn
trong gia đình là vấn đề cần được mọi người quan tâm, chia sẻ.
– Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan
hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,
nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan
hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong
hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình tình yêu,
trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây
cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hôn để thảo
mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình. Thực hiện
thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng,
mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách đầy đủ nhất.

Câu 14: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về những
đặc điểm của chế độ hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân tự nguyện:
Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là hai bên nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn và
thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên không chịu tác động của bên
kia hay bất kì người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự tự nguyện
kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời
nhằm thảo mãn nhu cầu tình cảm của 2 người, đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình
cảm khi kết hôn. Đây là tính tất yếu trong điều kiện tư duy con người ngày càng phát triển vì một
điều tốt hơn cho cộng đồng, xã hội. Tự nguyện trong hôn nhân đem lại một mối quan hệ tốt nhất
xây dựng một xã hội tự do, phát triển.
Hôn nhân một vợ, một chồng
Hôn nhân một vợ một chồng là vào thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân, các bên kết hôn đang
không có vợ hoặc có chồng. Có nghĩa là vào một thời điểm, một người đàn ông chỉ có một người
vợ, một người đàn bà chỉ có một người chồng. Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm,
khi chế độ tư hữu chiến thắng chế độ công xã nguyên thủy. Tuy nhiên trong các xã hội trước,
hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ nữ. Người phụ nữ hoàn toàn không
có tiếng nói trong gia đình, người đàn ông được cho là có thể có “năm thê bảy thiếp” và thâu tóm
toàn bộ quyền lực trong gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ hôn nhân
một vợ một chồng được thực hiện. Điều đó giúp vợ chồng có trách nhiệm ngang bằng nhau trong
các vấn đề xã hội hay trong gia đình như nuôi dưỡng, giáo dục con trẻ một cách tốt nhất.
Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan
hệ xã hội. Tinh yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp,
nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan
hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong
hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân là thể hiện sự tôn trọng trong tỉnh tình yêu,
trách nhiệm giữa nam và nữ trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây
cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn tự do ly hôn để thảo
mãn những nhu cầu không chính đáng để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình.
Đảm bảo quyền tự do kết hôn và quyền tự do ly hôn
Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng,
nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh
phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến
bộ. Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh
nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu
sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy vợ lẽ.
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn. Nếu như không thể bắt
buộc người ta kết hôn thì cũng không thể bắt buộc họ tiếp tục chung sống cuộc sống vợ chồng,
khi cuộc sống đó hoàn toàn là sự dối trá và hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Tất
nhiên dự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn tùy tiện. Việc ly hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của
nhà nước.
Tóm lại: Gia đình là tế bào của xã hội, để một xã hội phát triển thì sự tiến bộ trong chế độ hôn
nhân là rất quan trọng để tạo nên một xã hội công bằng, văn minh, phát triển.

Câu 15: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề
gia đình hãy nên những biến đổi cơ bản của gia đình Việt Nam hiện
nay.
Khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề gia đình
Khái niệm về gia đình : gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, có vai trò quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên
cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định
về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình vì mục tiêu xây dựng gia đình bền vững.
Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế và thể chế chính trị-xã hội.
Vị trí và vai trò của gia đình đối với xã hội:
 Gia đình là tế bào của xã hội
+ Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
+ Gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Không có gia
đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể nào tồn tại và phát triển được. Vì vậy muốn có
xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “…nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình.”
 Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá nhân của
mỗi thành viên
+Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng
thành, phát triển.
+Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng trong sự hình thành,
phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội.
+Chỉ trong mỗi trường yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động
lực để phấn đấy trở thành con người tốt trong xã hội.
 Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
+Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành viên của xã hội. Gia
đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình
cũng chính là môi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.
+Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá nhân. Nhiều
thông tin, hiện tượng của xã hội thông qua lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực
đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách v.v..
Chức năng cơ bản của gia đình
 Chức năng tái sản xuất con người
+Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế. Chức năng
này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi
giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn
của xã hội.
+Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng không
chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện chức năng này quyết định
đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của
tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội.
 Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
+Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời
thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người.
+Gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là
những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người
thụ hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia
đình.
+Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời của mỗi thành
viên. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách
thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình.
+Giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn
với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục
của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không
lấy giáo dục của gia đình là nền tảng.
+Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến
thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo
dục.
 Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
+Tính đặc thù: gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động cho xã hội.
+Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về
lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình
+Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh
thần của các thành viên trong gia đình và không những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt
đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý và duy trì tình cảm gia đình
+Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn
hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người
ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là
nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người.
+Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và
phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng
có nguy cơ bị phá vỡ.
Ngoài những chức năng trên, gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng chính trị… Với
chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc người.
Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống
pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công
dân.

Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội
-Đó là việc xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển và
hoàn thiện dần phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
-Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị của
người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối
với phụ nữ.
-Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa
trên cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác.
Cơ sở chính trị - xã hội
-Sự xác lập và hoàn thiện dần của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - công cụ quan trọng để
xây dựng và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình mới. Cùng với nhà nước, các bộ phận hợp thành
của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa như: Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản,
liên Đoàn lao động,…. Ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng quan hệ hôn nhân
gia đình xã hội chủ nghĩa.
-Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và
Gia đình.
Cơ sở văn hóa
Những cải biến cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa nhằm phê phán, loại bỏ những tư
tưởng và lối sống lạc hậu, xây dựng tư tưởng và lối sống mới tiến bộ, nâng cao dân trí, ý thức
đạo đức và ý thức pháp luật của công dân,… là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Chế độ hôn nhân tiến bộ
-Hôn nhân tự nguyện: hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu tự nguyện của nam và nữ.
-Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng: Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ
được, nên hôn nhân một vợ một chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu.
Thực hiện hôn nhân một vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng
phù hợp với quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
-Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý: Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã
hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ
riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng
thủ tục pháp lý trong hôn nhân.
Xuất phát từ cơ sở lý luận (quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề gia đình) và cơ sở
thực tiễn (đặc điểm gia đình ở Việt Nam), Đảng và Nhà nước ta xác định những quan điểm,
chích sách giải quyết vấn đề gia đình.
-Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của xã hội về xây dựng và phát
triển gia đình Việt Nam.
-Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế hộ gia đình.
-Thứ ba, kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những tiến bộ của
nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
-Thứ tư, tiếp tục phát triển vả nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.

Sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Biến đổi về quy mô, cấu trúc của gia đình.
-Thu nhỏ: Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ biến thay thế cho
kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo trước đây.
-Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên trong
gia đình trở nên ít đi. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuộc sống riêng tư của con người
được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình truyền thống.
Biến đổi về thực hiện các chức năng của gia đình.
-Sự biến đổi chức năng tái sản xuất con người:
+Sự biến đổi chức năng tái sản xuất con người vai trò gia đình trong việc đáp ứng nhu cầu rõ
ràng là giảm đi trong bối cảnh xã hội đang hàng ngày thay đổi, kể cả trong nước và trên thế giới,
khi quan niệm về quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân không còn khắt khe như
trong các xã hội truyền thống.
+Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ không lấy chồng nhưng có con thường phải
chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình.
+Hiện nay, hôn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng
với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ,
người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hôn và có con. Quyền làm mẹ không chỉ
thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của sự nhân văn trong bảo vệ quyền của
phụ nữ.
-Sự biến đổi chức năng kinh tế, tổ chức tiêu dùng:
+Chức năng kinh tế của gia đình ở mỗi chế độ xã hội đều có nội dung khác nhau.Trong xã hội
phong kiến, mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế, còn hiện nay, gia đình không còn là một đơn vị
kinh tế nữa, mà chức năng kinh tế chủ yếu của gia đình là tổ chức đời sống của mọi thành viên
trong gia đình, thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia
đình, Với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường thì kinh tế gia đình
chiếm một tỷ trọng đáng kể và có vai trò quan trọng đối với đời sống gia đình, do vậy đây cũng
là một chức năng chủ yếu của gia đình.
-Sự biến đổi chức năng giáo dục
+Giáo dục gia đình hiện nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho giáo
dục con cái tăng lên.
+Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống giáo dục xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế hiện nay,
vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng sự gia tăng của các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội và trong nhà trường, làm cho sự kỳ vọng và niềm tin của các bậc
cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hội giảm đi rất nhiều so với trước đây.
+Hiện tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiện hút ma túy, mại dâm… cũng cho thấy
phần nào sự bất lực của xã hội và sự bế tắc của một số gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ
em.
- Sự biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
+Trong gia đình Việt Nam hiện nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng lên, do gia
đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn vị tình cảm.
+Hiện nay, các gia đình đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong tương
lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có một con tăng lên thì đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều
trẻ em và kể cả người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong
cuộc sống gia đình.
+Tác động của công nghiệp hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo sâu sắc,
làm cho một số hộ gia đình lao động làm thuê do không có cơ hội phát triển sản xuất. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ các hô nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng
ngày càng gia tăng.
+Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của con trai, tạo
dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc cha
mẹ già và thờ phụng tổ tiên.
Biến đổi trong các mối quan hệ gia đình
-Sự biến đổi quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng.
+Trong gia đình truyền thống, người chồng là trụ cột của gia đình, mọi quyền lực trong gia đình
đều thuộc về người đàn ông. Còn gia đình Việt Nam hiện nay, không còn một mô hình duy nhất
là đàn ông làm chủ gia đình. Ngoài mô hình người đàn ông - người chồng làm chủ gia đình ra thì
còn có ít nhất hai mô hình khác cùng tồn tại. Đó là mô hình người phụ nữ - người vợ làm chủ gia
đình và mô hình cả hai vợ chồng cùng làm chủ gia đình.
+Trong thực tế, hôn nhân và gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức, biến
đổi lớn. Dưới tác động của cơ chế thị trường, khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa… các
gia đình phải gánh chịu nhiều mặt trái như: quan hệ vợ chồng - gia đình lỏng lẻo; gia tăng tỷ lệ ly
hôn, ly thân, ngoại tình, quan hệ tình dục trước hôn nhân và ngoài hôn nhân, chung sống không
kết hôn. Đồng thời, xuất hiện nhiều bi kịch, thảm án gia đình, người già neo đơn, trẻ em sống ích
kỷ, bạo hành trong gia đình, xâm hại tình dục…
-Sự biến đổi quan hệ giữa các thế hệ, các giá trị, chuẩn mực văn hóa của gia đình
+Biến đổi về mâu thuẫn giữa các thế hệ, do sự khác biệt về tuổi tác, khi cùng chung sống với
nhau. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống, có xu hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức
của mình đối với người trẻ. Ngược lại, tuổi trẻ thường hướng tới những giá trị hiện đại, có xu
hướng phủ nhận yếu tố truyền thống. Gia đình càng nhiều thế hệ, mâu thuẫn thế hệ càng lớn.
+Ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng mà trước đây chưa hề hoặc ít có như: bạo lực gia đình, ly
hôn, ly thân, ngoại tình, sống thử... Chúng đã làm rạn nứt, phá hoại sự bền vững của gia đình,
làm cho gia đình trở nên mong manh, dễ tan vỡ hơn. Ngoài ra, các tệ nạn như trẻ em lang thang,
nghiện hút, buôn bán phụ nữ qua biên giới... cũng đang đe dọa, gây nhiều nguy cơ làm tan rã gia
đình.

Câu 16: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề
gia đình.
Khái quát những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề gia đình
Khái niệm: Gia đình là nơi tập hợp những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống sống trong
cùng một nhà.
Là 1 hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài.
Xuất phát nhu cầu bảo tồn và duy trì nồi giống. cộng đồng tổ chức đời sống gia đình đã xuất
hiện, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển.
Yếu tố cơ bản trong gia đình là hôn nhân và huyết thống.
Vị trí và vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội
a. Gia đình là tế bào của xã hội:
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố tồn tại và phát triển
của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Gia đình như một tế bào tự nhiên, là
đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn
tại và phát triển được. Chính vì vậy, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào bản chất của từng chế
độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan
hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
b. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia
đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát
triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư
xử với người xung quanh và xã hội.
c. Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi thành viên,
mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng
giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc gia đình là
tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội. Vì vậy muốn xây dựng
xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều
gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn
đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có những quan hệ xã hội.
Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Không thể có
con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã
hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá nhân. Mặt khác,
nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến
sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống
Những cơ sở xây dựng gia đình trong TKQĐ lên CNXH
Cơ sở kinh tế - xã hội
Đó là việc xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phát triển và hoàn
thiện dần phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng thống trị của
người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch đối
với phụ nữ.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên
cơ sở tình yêu chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác
Cơ sở chính trị - xã hội
Sự xác lập và hoàn thiện dần của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - công cụ quan trọng để
xây dựng và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình mới. Cùng với nhà nước, các bộ phận hợp thành
của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa như: Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản,
liên Đoàn lao động,…. Ngày càng có vai trò quan trọng đối với việc xây dựng quan hệ hôn nhân
gia đình xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ sở của việc xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và
Gia đình
Cơ sở văn hóa
Những cải biến cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa nhằm phê phán, loại bỏ những tư
tưởng và lối sống lạc hậu, xây dựng tư tưởng và lối sống mới tiến bộ, nâng cao dân trí, ý thức
đạo đức và ý thức pháp luật của công dân,… là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Chế độ hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân tự nguyện (hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ).
Tình yêu chân chính là cơ sở cho hôn nhân tự do. Hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu chân chính
có nghĩa là tình yêu là lí do, là động cơ duy nhất của việc kết hôn. Sự chi phốicủa yếu tố kinh tế,
tính toán về lợi ích kinh tế, về địa vị danh vọng trong hôn nhân sẻ mất đi. Theo Ph. Ăngghen tình
yêu chân chính có đặc điểm là: “một là, nó giả định phải có tình yêu đáp lại của người mình yêu;
và về mặt này người đàn bà là người ngang hàng với người đàn ông; hai là, tình yêu nam nữ có
một sức mạnh và sự bền bỉ đến mức khiến cho hai bên thấy không lấy được nhau và phải xa nhau
là một đau khổ lớn nhất”; ba là “ không thể chia sẻ”.
Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng.

Câu 17: Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề gia đình đối với sinh
viên.
Về kiến thức:
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu
dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định
về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
 Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, của các cấp chính quyền địa
phương đối với công tác gia đình.
 Thứ hai, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục, vận động nhằm nâng cao nhận thức
của cộng đồng và các thành viên trong gia đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
 Thứ ba, quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế gia đình, có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát
triển kinh tế gia đình cho các gia đình chính sách, gia đình có công với đất nước, gia đình thuộc
dân tộc thiểu số, hộ nghèo, khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, gia đình đang sinh sống ở vùng
sâu, vùng xa của Tổ quốc.
 Thứ tư, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và hệ tống dịch vụ
xã hội liên quan đến gia đình, đặc biệt ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, khu công
nghiệp, các nơi phát triển công nghiệp phải di dân.
Về kỹ năng:
Giúp cho bản thân hiểu rõ hơn về gia đình cũng như thực trạng, giải pháp xây dựng, phát triển
gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Để có thể đạt được mục đích nghiên
cứu thì cần phân tích rõ ràng, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về gia đình, nêu ra thực trạng của gia
đình Việt Nam hiện nay và đưa ra được giải pháp xây dựng gia đình trong thời kì mới.
Ví dụ: “Quan điểm cá nhân về tình trạng hôn nhân đồng tính”. Tôi ủng hộ tình yêu và hôn nhân
của những người cùng giới. Bởi vì hợp pháp hoá hôn nhân đồng giới thể hiện sự bình đẳng giữa
các cá nhân, đề cao nhân quyền. Việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới cho thấy sự tiến bộ của
đại bộ phận người dân trong xã hội trong việc nhìn nhận, đánh giá, chia sẻ, cảm thông với nhưng
người xung quanh. Yêu ai và kết hôn với ai là mong muốn riêng biệt của mỗi người, chúng ta
không thể tước đi quyền tự do đó của họ.

Về Tư tưởng:
Việc nắm vững những vị trí và chức năng của gia đình là rất quan trọng, sẽ có ý nghĩa thiết thực
hơn nếu biết vận dụng vào quá trình xây dựng gia đình mình trở thành gia đình văn hoá và góp
phần vào phong trào xây dựng gia đình văn hoá đang được triển khai ở địa bàn dân cư.
Ví dụ: Hãy biết trân trọng gia đình khi còn có thể. Thật may mắn cho ta nếu được ở trong một
gia đình tràn ngập tình yêu thương. Cho những gia đình chưa thực sự hạnh phúc, mỗi người hãy
cùng nhau trò chuyện, hóa giải mọi khúc mắc. Hãy cố gắng hết sức xây dựng, phát triển và bảo
vệ bến đỗ tuyệt vời nhất mang tên Gia Đình.

You might also like