You are on page 1of 29

Một số nội dung cải cách tư pháp trong thời gian tới

PGS, TS. NGUYỄN HÒA BÌNH


Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
ngày 08-03-2022

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ trọng tâm xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có cải
cách tư pháp. Để thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, đòi hỏi phải đẩy
mạnh cải cách tư pháp, phát huy những thành quả đạt được, khắc phục
những hạn chế, khó khăn, bất cập, xây dựng nền tư pháp nước nhà tương
đồng với trình độ chung của thế giới. Đây là con đường tất yếu để đạt được
các mục tiêu, yêu cầu của Đảng và đáp ứng sự mong đợi của nhân dân, hướng
tới xây dựng nền tư pháp ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Cải cách tư pháp trong hệ thống tòa án nhân dân (TAND) nhằm thực hiện có hiệu
quả những nguyên tắc căn cốt trong hoạt động xét xử; nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động và uy tín của TAND - cơ quan thực hiện quyền tư pháp; xây dựng
hệ thống TAND chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Để
đạt được mục tiêu trên, cần tập trung vào một số nội dung cải cách sau đây:

1- Làm rõ chủ thể thực hiện quyền tư pháp, nội hàm quyền tư pháp và đặc
trưng cơ bản của quyền tư pháp

Nhận thức đúng và đầy đủ về nội hàm quyền tư pháp, chủ thể thực hiện quyền tư
pháp và đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp là vấn đề quan trọng, không chỉ có ý
nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc.

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện quyền tư pháp.

Hiến pháp năm 2013 hiến định việc thực hiện quyền lực nhà nước: Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69); Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp (Điều 94); Tòa án thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc phân công thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp căn cứ vào những chức năng cơ bản
của từng cơ quan, chứ không căn cứ vào hoạt động mà cơ quan đó tham gia. Trên
thực tế, Chính phủ, TAND tối cao soạn thảo và trình Quốc hội một số dự án luật,
không có nghĩa Chính phủ, TAND tối cao là các cơ quan thực hiện quyền lập pháp.
Tương tự như vậy, để đưa một vụ án hình sự ra xét xử, cơ quan điều tra phải tiến
hành điều tra, viện kiểm sát phải quyết định truy tố nhưng không có nghĩa các cơ
quan này là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, ở tầm hiến định, chủ thể
thực hiện quyền tư pháp là tòa án và chỉ có tòa án.

Thứ hai, về nội hàm quyền tư pháp.

Nội hàm quyền tư pháp bao gồm:

- Quyền xét xử và đưa ra phán quyết đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp
luật hình sự. Những phán quyết này thực chất là hình phạt của Nhà nước đối với
các vi phạm pháp luật (tuyên bố tước tự do, tước một số quyền công dân, cấm cư
trú, trục xuất, quản chế, tịch thu tài sản...). Hiến pháp, pháp luật chỉ giao cho tòa án
được nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên phạt.

- Quyền phân định đúng - sai đối với các tranh chấp trong xã hội. Trên thực tế, có
nhiều thiết chế phân định đúng - sai đối với các tranh chấp, xung đột, như cơ quan
hành chính các cấp, thủ trưởng cấp trên, tổ chức hòa giải ở cơ sở... Nhưng tòa án
nhân danh quyền lực nhà nước phân định đúng - sai bằng một bản án có hiệu lực
pháp luật chứa đựng những đặc trưng khác biệt, buộc các bên phải thi hành.

- Quyền phán quyết, công nhận hoặc không công nhận các sự kiện pháp lý liên
quan đến quyền con người hoặc có ý nghĩa làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (như tuyên bố một người đã chết; tuyên bố một
người bị mất năng lực hành vi dân sự; xác định cha, mẹ cho con; hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; công nhận hoặc không công nhận bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài...).
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đa số các quốc gia, hiến pháp, pháp luật chỉ giao
cho tòa án áp dụng các biện pháp cưỡng chế và các biện pháp khác hạn chế quyền
con người (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm xuất cảnh...) và được tiến hành theo một
thủ tục tố tụng chặt chẽ, có tính độc lập cao.

- Quyền phán quyết tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm bảo đảm việc thực thi hiến pháp, pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước.
Ở nhiều nước trên thế giới, cơ chế bảo hiến thường được giao cho Tòa án hiến
pháp hoặc Tòa án tối cao đảm nhiệm. Thực hiện chức năng này, tòa án không chỉ
xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, mà còn xem xét, phán quyết về
các văn bản vi phạm hiến pháp, pháp luật. Ở nước ta, nhiệm vụ này được giao cho
nhiều cơ quan nên có những hạn chế: phân tán, thiếu chuyên nghiệp, kém hiệu lực,
không được quan tâm trên thực tế, dẫn đến vi phạm kéo dài xảy ra ở một số lĩnh
vực, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Thực hiện quyền tư pháp này, tòa án
còn có nhiệm vụ giải thích để áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ, ban
hành các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây cũng
chính là một phần của quyền lực nhà nước giao cho tòa án và chỉ có tòa án mới
thực thi được.

Thứ ba, về đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp.

Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp bao gồm: Quyền tài phán nhà nước được thực
hiện thông qua xét xử của tòa án; được thực hiện theo một quy trình tố tụng
nghiêm ngặt của pháp luật; phán quyết tư pháp có hiệu lực bắt buộc mà các tổ
chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành; phán quyết tư pháp khi đã tuân thủ
đầy đủ quy trình tố tụng nhưng có sai sót thì không bị tố cáo, chỉ bị kháng cáo,
kháng nghị; phán quyết tư pháp không bị thay đổi tùy tiện trừ khi bị chính tòa án
thay đổi, hủy bỏ theo đúng trình tự, thủ tục luật định; phán quyết tư pháp được bảo
đảm thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia và không bị giới hạn về thời gian theo
quy định của pháp luật; phán quyết tư pháp được cưỡng chế thi hành bằng sức
mạnh quyền lực nhà nước bởi một cơ quan thi hành án chuyên trách.

2- Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

“Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc căn cốt của tòa án và
được mọi quốc gia tuân thủ. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho tòa
án và thẩm phán không bị bất cứ sự can thiệp nào cả trên phương diện tổ chức và
hoạt động. Một số định hướng đổi mới để bảo đảm tính độc lập của tòa án được
các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn bàn đến trong nhiều diễn đàn là:

Một là, tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính; thành lập tòa án khu vực trên cơ sở sáp nhập các tòa án cấp huyện.

Hai là, tổ chức các tòa chuyên trách sơ thẩm khu vực tùy thuộc vào tính chất và
quy mô các vụ việc phải giải quyết. Theo đó bao gồm: Tòa sơ thẩm về sở hữu trí
tuệ (thông thường mỗi quốc gia chỉ có một tòa án này); tòa án sơ thẩm hành chính
khu vực...

Ba là, thực hiện quy trình phân công thụ lý án ngẫu nhiên, phân công ngẫu nhiên
thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử.
Bốn là, tổ chức hợp lý việc quản lý thẩm phán; điều kiện bảo đảm hoạt động của
tòa án và thẩm phán không phụ thuộc vào cơ quan hành chính.

Năm là, ban hành các quy định về việc tham gia các hoạt động xã hội và kinh
doanh của thẩm phán. Theo đó, thẩm phán không được tham gia bất cứ hoạt động
phát sinh lợi nhuận nào trừ giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật và nghiên cứu
khoa học với thời lượng hợp lý để không làm ảnh hưởng đến chuyên môn xét xử.

Sáu là, xây dựng cơ chế phòng ngừa sự can thiệp vào hoạt động xét xử bằng cách
công khai mọi văn bản can thiệp để các bên tham gia tố tụng có thể tra cứu.

Bảy là, kiện toàn cơ chế bảo vệ thẩm phán đã thực thi nhiệm vụ đúng pháp luật,
xây dựng các quy phạm để xử lý những hành vi xâm phạm sự tôn nghiêm của tư
pháp.

Tám là, đổi mới cơ chế quản lý, tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ của tòa án.

3- Thực hiện tốt nguyên tắc công khai, minh bạch và tạo thuận lợi cho nhân
dân tiếp cận thông tin tư pháp

Xây dựng chế độ tư pháp công khai, minh bạch, thuận lợi cho người dân đã trở
thành xu thế, yêu cầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là những nước có nền
tư pháp phát triển. Có quốc gia còn đưa ra phương châm “Công khai là nguyên
tắc, không công khai là cá biệt”. Trong quá trình giải quyết vụ án, phải bảo đảm
cho người dân thực hiện 6 quyền căn bản, gồm: Quyền được biết; quyền được trình
bày; quyền bào chữa; quyền được đề nghị; quyền được kháng cáo; quyền được
khiếu nại, tố cáo.

Những giải pháp thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của TAND bao gồm:
Thực hiện nghiêm quy định xét xử công khai, trừ trường hợp luật có quy định
khác; cải cách hành chính tư pháp, xây dựng tòa án một cửa khi cung cấp các dịch
vụ tư pháp cho nhân dân; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện
một số hoạt động tố tụng trên internet, như: nhận đơn, tống đạt giấy tờ, tài liệu,
thông báo kết quả giải quyết đơn, kiểm tra chứng cứ, xét xử trực tuyến, xây dựng
hồ sơ tố tụng điện tử để tăng tiện ích cho nhân dân, nâng cao hiệu quả hoạt động và
công khai tư pháp; quy định và bố trí phòng xét xử có sự tham dự của truyền
thông; tiến hành công khai trên cổng thông tin điện tử của tòa án các nội dung:
công khai tiến độ giải quyết vụ án; công khai kế hoạch đưa vụ án ra xét xử; công
khai các văn bản tố tụng; công khai các thủ tục tố tụng; công khai quá trình xét xử;
công khai các bản án, quyết định của tòa án; công khai quá trình thi hành án; công
khai quá trình giảm án...

4- Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử công bằng, bình đẳng, bảo đảm tranh tụng

Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng
định: “Mọi người đều bình đẳng trước các Tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người
đều có quyền được xét xử công bằng, công khai” (Điều 14). Ở nước ta, Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 16); “Người
bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng,
công khai” (Điều 31); “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều
103).

Như vậy, tiến trình phát triển của tư pháp tiến bộ ở Việt Nam đã tiếp cận “công
bằng, bình đẳng trong xét xử” là quyền cơ bản của con người và đã được hiến
định. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm quyền con người đã được Công ước của
Liên hợp quốc và Hiến pháp quy định. Bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xét xử
có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử đã được
hiến định là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động tòa án.

Cải cách tư pháp thời gian tới phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm tranh tụng
trong xét xử, đẩy mạnh hơn nữa tranh tụng tại tất cả các phiên tòa, không hạn chế
thời gian dành cho tranh tụng, mọi vấn đề nêu ra trong tranh tụng phải được giải
quyết đến cùng và ghi nhận trong bản án, căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra phán
quyết. Tòa án phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cho thẩm phán để nâng cao
kỹ năng điều hành phiên tòa có tranh tụng, đánh giá kết quả tranh tụng để ban hành
các phán quyết tâm phục, khẩu phục. Phải bảo đảm công bằng trong thủ tục và
trong phán quyết về vụ án. Thời gian qua, tòa án đã đổi mới mô hình phòng xử án,
theo đó, bố trí kiểm sát viên (bên buộc tội) và luật sư (bên gỡ tội) có vị trí ngồi
ngang nhau trong phòng xử án là thể hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong
tranh tụng. Không được và không cho phép bất cứ hành vi phân biệt, bất bình đẳng
nào trong quá trình xét xử, chỉ có như vậy, mới có được niềm tin của người dân
vào công lý và sự công minh của pháp luật.

5- Đổi mới chế định tham gia của nhân dân vào quá trình xét xử

Nhân dân tham gia vào hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói
riêng là đặc tính của Nhà nước dân chủ, tiến bộ. Tư tưởng xây dựng nền tư pháp
“lấy dân làm gốc” đã được quy định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp
năm 1946) và tiếp tục khẳng định trong các bản Hiến pháp sau này. Bản chất dân
chủ không chỉ thể hiện ở việc các công chức tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, mà còn thể hiện ở việc huy động nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát
hoạt động của Nhà nước. Nguyên tắc hiến định “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia” chính là cơ chế để nhân dân trực tiếp
thực hiện quyền lực nhà nước. Hội thẩm tham gia xét xử mang đến phiên tòa
những quan niệm đạo đức và sự đánh giá chung của xã hội về hành vi phạm tội và
các tranh chấp theo quan niệm về lẽ phải, sự công bằng. Với kinh nghiệm, hiểu biết
và kiến thức của mình, hội thẩm góp phần quan trọng xác định sự thật khách quan
của vụ án, làm tăng thêm niềm tin của thẩm phán trong việc đưa ra phán quyết.

Tư pháp nhân loại tồn tại phổ biến 3 mô hình nhân dân tham gia quá trình xét xử:
Mô hình Hội thẩm nhân dân (ở Việt Nam, Trung Quốc...); mô hình Hội thẩm đoàn
(tương tự Bồi thẩm đoàn ở châu Âu, châu Mỹ...); đan xen, kết hợp hai mô hình trên
(ở Nga...).

- Hội thẩm đoàn (bồi thẩm đoàn) gồm những người dân được lựa chọn theo luật để
tham gia xét xử và được trao quyền quyết định một số vấn đề trong vụ án. Phạm vi
tham gia của hội thẩm đoàn hầu như chỉ trong vụ án hình sự. Hội thẩm đoàn không
nghiên cứu trước hồ sơ vụ án, tại phiên tòa cũng không đặt câu hỏi với các bên, chỉ
nghe các bên tranh tụng. Hội thẩm đoàn có quyền phán quyết bị cáo có tội hay
không có tội và nếu có tội thì có đáng được hưởng khoan hồng hay không. Các vấn
đề còn lại của vụ án (như quyết định tội danh, hình phạt, áp dụng biện pháp tư
pháp, bồi thường thiệt hại...) do thẩm phán quyết định.

- Hội thẩm nhân dân gồm những người được bầu, cử hoặc bổ nhiệm tùy theo pháp
luật mỗi nước và tham gia xét xử sơ thẩm hầu hết các loại án (hình sự, dân sự,
hành chính). Hội thẩm nhân dân và thẩm phán hợp thành hội đồng xét xử, do thẩm
phán làm chủ tọa. Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử; về
nguyên tắc, ngang quyền với thẩm phán trong việc quyết định những vấn đề thuộc
thẩm quyền của hội đồng xét xử.

Trải qua thực tiễn hoạt động, hội thẩm nhân dân đã góp phần quan trọng hỗ trợ
thẩm phán làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đưa ra các phán quyết “thấu
tình, đạt lý”, phản ánh ý chí của nhân dân, giám sát từ bên trong quá trình xét xử.
Tuy nhiên, cơ chế này cũng bộc lộ một số bất cập: Hội thẩm cơ bản là những người
không chuyên về luật nhưng lại chiếm đa số trong thành phần hội đồng xét xử và
ngang quyền với thẩm phán dẫn đến “gánh nặng” rất lớn cho hội thẩm; khi bản án
bị hủy, sửa, việc thực hiện quy định về trách nhiệm và chế tài hiện nay chỉ đặt ra
với thẩm phán (cách chức, không bổ nhiệm lại...), mà không đặt ra với hội thẩm;
các vụ án dân sự, kinh tế có tính chuyên ngành rất cao trong khi hồ sơ phục vụ xét
xử là do các đương sự tự xây dựng và cung cấp, thường có lợi cho từng bên nên rất
khó khăn cho hội thẩm khi xét xử loại án này (với vụ án hình sự, hồ sơ do các cơ
quan nhà nước lập)...

Để khắc phục những bất cập nêu trên, thời gian tới, cần nghiên cứu đổi mới chế
định hội thẩm theo hướng: Hoàn thiện cơ chế hiện hành về hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử; nghiên cứu bổ sung cơ chế hội thẩm đoàn tham gia xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự; quy định rõ thẩm quyền, nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân; đổi
mới cơ cấu, thành phần hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử theo hướng phù
hợp với kiến thức chuyên môn của hội thẩm; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho
hội thẩm nhân dân và có chế độ, chính sách hợp lý; đổi mới cơ chế tuyển chọn, bầu
cử, quản lý hội thẩm nhân dân; quy định chặt chẽ quy trình lựa chọn ngẫu nhiên
hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng xét xử; xây dựng bộ quy tắc đạo đức, trách
nhiệm và quan hệ phối hợp của hội thẩm nhân dân; trình Quốc hội ban hành một
đạo luật độc lập về hội thẩm nhân dân.

6- Tìm kiếm và thực thi các giải pháp thay thế một số hoạt động tố tụng

Đánh giá hiệu quả hoạt động tư pháp, hiệu quả xét xử không chỉ căn cứ vào số
lượng vụ án, vụ việc được giải quyết, mà phải dựa trên chất lượng xét xử, sự tâm
phục, khẩu phục của các bên, sự đồng tình của dư luận xã hội, chi phí của Nhà
nước và xã hội... Để nâng cao hiệu quả của tư pháp, nhiều quốc gia đã thành công
trong việc tìm kiếm và thực thi các giải pháp thay thế. Lợi ích mà các giải pháp này
mang lại là giảm đáng kể thời gian, công sức tiến hành tố tụng, chi phí của cả Nhà
nước và xã hội, giảm số lượng vụ việc phải đưa ra tòa án xét xử và tăng thêm sự
đồng thuận xã hội. Quá trình cải cách tư pháp luôn là quá trình tìm kiếm và đổi
mới các giải pháp thay thế, bao gồm: Thay thế chứng minh, thay thế xét xử và thay
thế thi hành án. Những giải pháp thay thế này gắn liền với hoạt động của tòa án
nên phải được pháp điển hóa.

Về giải pháp thay thế chứng minh: Nhiều nước có chế định “thỏa thuận nhận tội”,
theo đó, đối với một số trường hợp nếu người phạm tội tự nguyện nhận tội và lời
nhận tội phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, tự nguyện khắc phục hậu quả,
chấp nhận hình phạt sẽ được xét xử rút gọn và hưởng một số chính sách hình sự
khoan hồng (như: giảm 1/2 hình phạt, những tội đi kèm tội chính sẽ được đình chỉ
điều tra). Nhiều nước cho phép công nhận “chứng cứ ngẫu nhiên” là loại chứng cứ
không được thu thập theo thủ tục do luật tố tụng quy định (ví dụ: công nhận chứng
cứ phạm tội được ghi nhận ngẫu nhiên từ trích xuất các camera công cộng). Ở Việt
Nam, do luật chưa cho phép nên tốn rất nhiều thời gian, công sức, thủ tục để
chuyển hóa chứng cứ. Nhiều nước công nhận tính hợp pháp của các “phần
mềm phục hồi dữ liệu số” để thu thập chứng cứ điện tử. Đây là những phần mềm
có tính năng phục hồi các dữ liệu đã bị xóa trong các thiết bị điện tử (điện thoại,
máy tính, máy ảnh, máy photocopy...) và chỉ cho phép áp dụng với những phần
mềm đã được quốc tế công nhận.

Về giải pháp thay thế xét xử: Hòa giải tại tòa án là một trong những giải pháp giải
quyết các xung đột xã hội nhưng không phải qua xét xử. Trên cơ sở kết quả thí
điểm và sáng kiến luật của TAND tối cao, Quốc hội đã thông qua Luật Hòa giải,
đối thoại tại tòa án. Hiện nay, Luật Hòa giải này đã đi vào cuộc sống và ngày càng
khẳng định là mô hình nhân văn, với phương thức thân thiện, cảm thông, chia sẻ đã
giúp giải quyết triệt để nhiều tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử. Trong
lĩnh vực hình sự, bước đầu nước ta đã cho phép hòa giải nhưng chỉ áp dụng với
một số trường hợp liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 94, Bộ luật
Hình sự). Tuy nhiên, nhiều nước, chế định hòa giải hình sự được áp dụng rộng hơn
nhằm tạo điều kiện cho bên có lỗi khẩn trương bồi thường, khắc phục hậu quả để
sớm kết thúc vụ án. Đây là một gợi ý hữu ích nên tham khảo.

Về giải pháp thay thế thi hành án: Pháp luật nước ta đã quy định một số chế định
thay thế thi hành án, như: tha tù trước thời hạn có điều kiện; không thi hành án tử
hình với người đã bị kết án về tội tham ô, tội nhận hối lộ mà đã nộp lại 3/4 tài sản
do phạm tội mà có và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng hoặc lập công lớn.
Ở nhiều nước, để giảm tải cho khâu thi hành án, đã mở ra nhiều biện pháp thay thế
như: thi hành hình phạt tù tại gia; cho phép quy đổi hình phạt tù thành hình phạt
tiền áp dụng với một số tội lấy đồng tiền làm phương tiện và mục đích phạm tội
(cho vay nặng lãi, sử dụng trái phép tài sản, đánh bạc...) và phải thỏa mãn thêm các
điều kiện chặt chẽ khác; không thi hành án phạt tù với người chưa thành niên và
cho áp dụng biện pháp khác để thử thách...

Tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế chứng minh, thay thế xét xử, thay thế thi
hành án là hướng đi của các nước có nền tư pháp phát triển. Cải cách tư pháp ở
nước ta thời gian tới cần tiếp cận cách làm này của các nước, đẩy mạnh nghiên
cứu, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm thêm các giải pháp mới để hướng đến đơn
giản hóa hợp lý nghĩa vụ chứng minh, giảm áp lực thi hành án, hạn chế mở phiên
tòa mà vẫn giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các vụ việc. Như thế mới thực hiện
được lời dạy của Bác Hồ: “Các chú xử hay là rất tốt, nhưng nếu không phải hay
xử còn tốt hơn”.

7- Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ thi cử, bổ nhiệm
thẩm phán; đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ
Xây dựng tòa án trong sạch, vững mạnh phải gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn
Đảng trong TAND. Trên cơ sở có được một đội ngũ đảng viên tốt, tòa án các cấp
mới có đội ngũ thẩm phán tốt. Xét cho cùng, chất lượng hoạt động xét xử và uy tín
của tòa án là do cán bộ tòa án, nhất là đội ngũ thẩm phán quyết định. Thời gian tới,
cần tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp theo
hướng thiết thực và sát với thực tiễn; bên cạnh kiến thức nền tảng, như kiến thức
pháp luật, kiến thức kinh tế - xã hội toàn diện, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao kỹ năng điều hành xét xử và tranh tụng; kỹ năng áp dụng pháp luật, gồm
cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng; kỹ năng xây dựng các văn bản của tòa
án, nhất là các bản án, quyết định bảo đảm đúng pháp luật, có sức thuyết phục.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cả thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
Hình thành hệ thống giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ và các tài liệu của Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao về án lệ, giải đáp pháp luật, tổng kết thực tiễn xét xử.
Tạo điều kiện cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án, hội thẩm nhân dân tiếp cận
những tài liệu này thuận lợi, miễn phí và không giới hạn. Tổ chức nghiêm và thực
chất các kỳ thi tuyển chọn, nâng ngạch thẩm phán quốc gia. Tổ chức thực hiện thật
tốt Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán. Tăng cường giáo dục chính trị tư
tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, niềm tự hào, tình yêu và bản lĩnh nghề
nghiệp của đội ngũ thẩm phán. Nâng cao chất lượng công tác cán bộ (bố trí, đánh
giá, quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm...). Quy định về xử lý trách
nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND và tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm.

8- Xây dựng thiết chế bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ tòa án; bảo đảm hợp lý
chế độ, chính sách đối với cán bộ tòa án

Xây dựng thiết chế bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ tòa án để đề cao địa vị chính trị
và trọng trách của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm cho tòa án xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều
nước ban hành đạo luật “bảo vệ quyền uy tư pháp”. Theo đó, quy định là tội phạm
đối với một số hành vi, như gây mất trật tự phiên tòa; cản trở hoạt động xét xử;
nhục mạ tòa án... Đồng thời, để thực hiện nghiêm nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ
thẩm, phúc thẩm), khắc phục tình trạng lạm dụng cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm
đang có nguy cơ trở thành cấp xét xử thứ ba, cần quy định loại trừ và xử lý nghiêm
các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến hoạt động xét xử như: Tố tụng giả (khởi
kiện giả, làm giả hồ sơ vụ án, chứng cứ giả...); cố ý đeo bám tố tụng (khiếu nại, tố
cáo nhiều lần và đã được nhiều cấp, nhiều ngành giải quyết độc lập và thống nhất,
nhưng vẫn cố ý lặp lại nội dung cũ và không có tài liệu, chứng cứ mới); tố tụng ác
ý (tạo tình huống để cài bẫy cán bộ tư pháp, sau đó tố cáo); tố tụng không nhất
quán (khai báo và cung cấp tài liệu vòng vo, bất nhất).

Quá trình hoàn thiện pháp luật ở nước ta thời gian qua đã tập trung hoàn thiện các
quy định phục vụ việc phát hiện, xử lý vi phạm và tội phạm. Tuy vậy, chưa quan
tâm nhiều đến vấn đề tôn trọng và bảo vệ tính tôn nghiêm của tư pháp, loại trừ các
hành vi xâm phạm sự tôn nghiêm tư pháp. Để bảo vệ tính tôn nghiêm của tư pháp,
bảo đảm sự an toàn cho các cán bộ tiến hành tố tụng khi thực thi nhiệm vụ, thời
gian tới, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Hình sự
theo hướng tội phạm hóa một số hành vi cản trở hoạt động tố tụng; xúc phạm các
cơ quan tố tụng; cố ý làm giả hồ sơ, tài liệu nhằm kéo dài tố tụng, gây tốn kém
nguồn lực, công sức của Nhà nước và xã hội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khác trong vụ án. Đồng thời, có các biện pháp để bảo đảm an
toàn cho cán bộ tiến hành tố tụng và thân nhân của họ, nhất là trong các vụ án
nghiêm trọng, nguy hiểm.

Xây dựng chế độ, chính sách đối với cán bộ tòa án. Hầu hết luật pháp các quốc gia
đều coi thẩm phán là một nghề đặc biệt, do đó, rất nhiều nước có thang bảng lương
riêng để phù hợp với tính chất đặc thù của công việc xét xử và bảo đảm độc lập của
thẩm phán. Thậm chí, Nhật Bản, Liên bang Nga còn có luật riêng về lương và điều
kiện bảo đảm cho thẩm phán. Ở nước ta, chế độ tiền lương của các chức danh tư
pháp trong tòa án nói chung và của thẩm phán nói riêng đang được quy định như
các công chức trong cơ quan hành chính nên không phù hợp với thực tế và thông lệ
quốc tế. Cải cách chế độ tiền lương tới đây phải có những đổi mới căn cơ để khắc
phục bất hợp lý hiện nay, có chính sách tiền lương và các điều kiện bảo đảm để
phù hợp với đặc thù công tác xét xử, nhất là với các chức danh tư pháp (thẩm phán,
thẩm tra viên, thư ký tòa án).

9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử là vấn đề có tính
nguyên tắc để TAND hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những giải pháp tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử bao gồm:

Thứ nhất, đổi mới tổ chức cơ sở đảng trong TAND phù hợp với đổi mới tổ chức
của hệ thống tòa án theo hướng độc lập, hợp lý với địa giới hành chính; tăng cường
chuyên môn sâu, đề cao kỷ cương, kỷ luật Đảng; bố trí chánh án các cấp tham gia
cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện tại và phù hợp với từng địa bàn.
Thứ hai, gắn chặt công tác xây dựng Đảng với công tác xây dựng TAND, tổ chức
thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là các nghị quyết về cải
cách tư pháp; nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; Chỉ thị số 05-CT/TWcủa
Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”; về trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu; nêu gương của lãnh
đạo cấp cao; về kiểm soát quyền lực...

Thứ ba, tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử và tổ chức chính trị - xã hội
đối với hoạt động của TAND; duy trì chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của
TAND tối cao và TAND các địa phương trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đề
cao kỷ cương, kỷ luật nội bộ.

Thứ tư, thực hiện phương châm “công khai là nguyên tắc, không công khai là cá
biệt”. Xây dựng các quy định về công khai, minh bạch hoạt động của tòa án để
nhân dân tiếp cận thông tin và giám sát tư pháp. Ứng dụng công nghệ thông tin
rộng rãi để tăng tính minh bạch của tòa án. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện
nguyên tắc công khai của tòa án các cấp. Tạo điều kiện để cơ quan truyền thông
tham gia đưa tin về các phiên tòa xét xử. Công khai tư pháp chính là liều thuốc hữu
hiệu để phòng, chống tiêu cực, xây dựng tòa án liêm chính.

10- Xây dựng tòa án điện tử

Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin vừa tạo cơ hội để tòa án làm tốt
công tác xét xử, vừa đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải có những thay đổi mạnh
mẽ. Tình hình mới nhưng vẫn hoạt động theo phương thức cũ và dựa trên công
nghệ cũ sẽ không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Vì vậy, phải nắm bắt các cơ hội do
sự phát triển của công nghệ thông tin mang lại để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi
số và hoàn thành việc xây dựng tòa án điện tử vào năm 2025 với những nhiệm vụ
chính, cần tập trung như sau:

Một là, xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị
tòa án trên nền tảng số. Theo đó, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để giúp
tòa án quản lý những lĩnh vực: Quản lý hoạt động tố tụng; quản lý nhân sự; quản lý
và lưu trữ hồ sơ số; hỗ trợ đắc lực công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; hỗ trợ công
tác thống kê và hình thành các kho dữ liệu lớn của tòa án; quản lý cơ sở vật chất,
trang thiết bị, tài chính.

Hai là, xây dựng tòa án điện tử cung cấp các dịch vụ tư pháp công hướng tới phục
vụ nhân dân tốt hơn. Đặc biệt là các loại dịch vụ công: Gửi, nhận đơn khởi kiện, tài
liệu, chứng cứ và thực hiện cấp, tống đạt, thông báo văn bản của tòa án qua
phương tiện điện tử; đăng ký trực tuyến cấp sao bản án và tài liệu trong hồ sơ vụ
án; nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến; tra cứu các thông tin về vụ án; cung cấp
các bản án đã được xét xử và phần mềm phân tích các tình huống pháp lý tương tự
để hỗ trợ người dân đưa ra các quyết định tư pháp, đoán định tư pháp; cung ứng
các dịch vụ tư vấn pháp lý.

Ba là, xây dựng tòa án điện tử hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và chất lượng
hoạt động. Hiện nay, TAND tối cao đã đưa vào sử dụng “Trợ lý ảo” cung cấp các
dịch vụ thông minh hỗ trợ thẩm phán thông qua các tính năng: Giới thiệu hệ thống
pháp luật liên quan; giới thiệu các tình huống pháp lý tương tự đã được Hội đồng
Thẩm phán TAND tối cao tổng kết thực tiễn xét xử; giới thiệu các án lệ liên quan;
giới thiệu các bản án tương tự đã có hiệu lực pháp luật; hỗ trợ lập kế hoạch giải
quyết án, lập và quản lý hồ sơ án điện tử; tự động tạo các tài liệu pháp lý theo mẫu;
hỗ trợ phân tích, xác minh thông tin và phát hiện các sai sót; mã hóa, đăng tải bản
án, quyết định lên Cổng Thông tin điện tử của tòa án...

Bốn là, xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến, bao
gồm: Nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ, khai báo trực tuyến; nộp án phí, lệ
phí, tiền phạt vi phạm trực tuyến; tổ chức trực tuyến các phiên hòa giải trong vụ án
dân sự và đối thoại trong vụ án hành chính; xét xử trực tuyến sơ thẩm và phúc
thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính; tổ chức trực tuyến các phiên họp để
giải quyết các việc dân sự; tống đạt, thông báo trực tuyến các văn bản tố tụng...

Năm là, xây dựng tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch
trong hoạt động của tòa án. Trên nền tảng số, tòa án phấn đấu thực hiện tốt 7 nội
dung công khai sau: Hệ thống pháp luật, các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao, các án lệ...; việc phân công cán bộ thụ lý án; tiến độ thụ lý và giải
quyết án; quá trình xét xử tại phiên tòa; kết quả xét xử; quá trình và kết quả thi
hành án; quá trình và kết quả xét miễn, giảm án.

Sáu là, xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác. Qua đó cho
phép tòa án khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ tốt hơn nhiệm vụ của
mình, đồng thời chia sẻ, phát huy tối đa hữu ích cơ sở dữ liệu của TAND để phục
vụ quá trình xây dựng xã hội số, kinh tế số, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia./.
Định hướng cải cách tư pháp ở Việt Nam
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói chung, cải cách tư pháp,
nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án nói riêng. Đảng đã ban hành nhiều văn
kiện(1); Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan có thẩm quyền ban hành
nhiều đạo luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện trên
thực tiễn(2). Nhờ đó, nền tư pháp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bài viết làm rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Chánh án giới thiệu cụ thể về 5 vấn đề lớn: Sự cần thiết phải cải cách tư pháp;
quan điểm mục tiêu cải cách tư pháp; nhiệm vụ và giải pháp; lộ trình thực hiện và
các nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Trong đó, Chánh án đặc biệt quan
tâm tới nội dung xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; vị trí, vai trò
của Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đảng và nhà nước ta đã có
những nghị quyết rất sớm về cải cách tư pháp, Nghị quyết chính là Nghị quyết số
49-NQ/TW được đánh giá là thành công.
Cải cách tư pháp giai đoạn 2005-2020
Những kết quả chủ yếu trong thực hiện chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2005-
2020 có thể thấy là hoàn thiện thể chế, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của
cơ quan công quyền: Đã đưa vào các nguyên tắc tư pháp rất tiến bộ, lần đầu tiên
được hiến định và dựa trên Hiến pháp ban hành trên 70 luật về tư pháp; Hoàn thiện
tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ cơ quan Tư pháp; Xây dựng đội ngũ chức
danh tư pháp; Hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp; Bảo đảm các điều kiện cho hoạt
động của cơ quan tư pháp; Hợp tác quốc tế; Giám sát của cơ quan dân cử và Nhân
dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên nhiều nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW vẫn chưa được thực hiện,
chưa đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn, đơn cử như Toà án khu vực...
Cải cách tư pháp đang là xu thế phổ biến của thế giới, nếu không tiếp tục cải cách
tư pháp thì sẽ trở nên lạc hậu, nhất là trong xu hướng hội nhập, phát triển khoa học
như hiện nay. Bên cạnh đó còn nhiều nhiệm vụ trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
chưa được thực hiện, nhiều bất cập của nền tư pháp cần được tháo gỡ.
Cải cách tư pháp đáp ứng sự thay đổi của tình hình mới như: Tình hình vi phạm,
tội phạm ngày càng gia tăng, phức tạp, nghiêm trọng hơn; trình độ dân trí ngày
càng cao, đặt ra yêu cầu cao với tư pháp; nền kinh tế số, kinh tế chia sẻ đòi hỏi sự
thay đổi trong tư pháp; phải đưa vào và áp dụng các nguyên tắc tư pháp tiến bộ của
thế giới; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin tạo thuận lợi cho người dân,
tăng cường minh bạch, nâng cao năng lực Tòa án; chuẩn bị các khung khổ pháp lý,
đào tạo cán bộ tư pháp đáp ứng giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Tổ chức và hoạt động của Toà án còn lạc hậu so với mặt bằng chung của thế giới,
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu và mong muốn của người dân (chưa thuận tiện; tốn
kém thời gian; chi phí xã hội còn cao ...); nhận thức về quyền tư pháp chưa đúng
(về chủ thể, nội dung, đặc trưng của quyền tư pháp)....
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án cũng còn nhiều tồn tại: Chưa thực sự
độc lập; tổ chức còn gắn với cấp hành chính; tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp
chưa cao; Cơ chế nhân dân tham gia xét xử chưa thực chất; Cơ sở vật chất, chế độ
chính sách, nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu...
Như vậy đặt ra sự tất yếu phải cải cách tư pháp, để học hỏi kinh nghiệm quốc tế,
hoàn thiện thể chế.
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, nền tư pháp nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng; vị thế, diện mạo, uy tín của Tòa án được nâng cao;
nhận thức về vai trò, vị trí của Tòa án có nhiều chuyển biến tích cực. Hiến pháp
năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, “Tòa
án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân” (3). Chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy của
tòa án nhân dân được đổi mới mạnh mẽ. Pháp luật về tư pháp từng bước được hoàn
thiện. Đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, thư
ký tòa án được nâng cao cả về chất lượng và số lượng (4); sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác tòa án, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong
lãnh đạo, chỉ đạo công tác tòa án được tăng cường...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền tư pháp nước ta cũng còn một số
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn của người dân. Thực tiễn vẫn
còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu như: chưa có sự thống nhất trong nhận
thức về nội hàm quyền tư pháp, chủ thể thực hiện quyền tư pháp; một số nhiệm vụ
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đề ra chưa được triển khai thực hiện hoặc đã triển khai nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu(5). Trong tổ chức và hoạt động của tòa án cũng còn những vấn đề
cần được tháo gỡ như: tòa án chưa thực sự độc lập; thẩm quyền của tòa án còn
nhiều bất cập; tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp chưa cao; mâu thuẫn giữa công
việc và biên chế; chế độ, chính sách chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; cơ
chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử chưa thực chất; kinh phí, cơ sở vật chất
chưa đáp ứng được yêu cầu chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ...
1. Quan điểm, mục tiêu cải cách tư pháp
* Cải cách tư pháp cần quán triệt các quan điểm sau:
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trung tâm và quan trọng để xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tuân
thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và do Đảng lãnh đạo; tăng cường quyền uy tư pháp.
Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; lấy nhân dân làm trung tâm; phù hợp
với đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN; được tiến hành đồng bộ, gắn liền với
đổi mới lập pháp, cải cách hành pháp, phù hợp với quy luật phát triển khách quan
của xã hội Việt Nam, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho tổ chức, cá nhân, qua
đó thúc đẩy phát triển đất nước, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Cải cách tư pháp trên cơ sở xác định cơ quan tư pháp là tòa án, thực hiện
đúng chức năng của cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; được giao đủ thẩm
quyền để xử lý, phán quyết bằng thủ tục tư pháp công khai đối với mọi vi phạm
pháp luật, mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Cải cách tư pháp phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc pháp quyền XHCN,
các nguyên tắc tư pháp cơ bản, kế thừa truyền thống và các giá trị pháp lý dân tộc,
những kết quả của cải cách tư pháp đã đạt được; tiếp thu có chọn lọc các thành tựu
của khoa học pháp lý tiên tiến, những kinh nghiệm của quốc tế phù hợp với điều
kiện nước ta.
Cải cách tư pháp phải được tiến hành với quyết tâm chính trị cao, khẩn
trương, đồng bộ; xác định rõ những nội dung trọng tâm, trọng điểm; có chương
trình, kế hoạch, lộ trình cải cách phù hợp; xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện cải cách tư pháp nhằm hướng
đến mục tiêu để nhân dân thụ hưởng thành quả cải cách tư pháp.
* Mục tiêu tổng quát của cải cách tư pháp là:
Xây dựng nền tư pháp Việt Nam độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, công
bằng, nghiêm minh, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân để tòa án hoàn thành sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Mục tiêu cụ thể:
Để hướng đến mục tiêu tổng quát, cần thực hiện được các mục tiêu cụ thể
sau:
Xây dựng nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, nghiêm minh. Tòa
án có đủ thẩm quyền và năng lực để xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các
tranh chấp xảy ra trong xã hội, bảo đảm quyền tài phán quốc gia.
Xây dựng nhân lực của tòa án, trước hết là thẩm phán trong sạch, liêm
chính, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và
bản lĩnh, kỷ cương và nhân ái; đổi mới và cơ cấu lại các chức danh tư pháp.
Đổi mới tổ chức bộ máy, thực hiện đầy đủ chức năng, quyền hạn tư pháp;
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín để tòa án thực sự là hiện thân
của lẽ phải và công lý.
Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất của tòa án, xây dựng tòa án điện tử.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
Một là, xây dựng cơ quan tư pháp vì nhân dân, phục vụ nhân dân để
nhân dân cảm thụ công bằng, lẽ phải qua mỗi phán quyết tư pháp, bảo vệ quyền
uy tư pháp, tăng cường tính nhân dân trong hoạt động tư pháp
* Xây dựng cơ quan tư pháp vì nhân dân, phục vụ nhân dân:
(1) Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân; bảo vệ cuộc sống thanh
bình của nhân dân, nâng cao niềm tin của người dân vào một nền tư pháp dân chủ,
công bằng, nghiêm minh;
(2) Tuân thủ nghiêm ngặt thời hạn tố tụng để hoạt động xét xử không chậm
trễ, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân;
(3) Tăng cường giải pháp hòa giải, đối thoại để giải quyết các xung đột xã
hội một cách thân thiện, giữ gìn hòa thuận trong nhân dân;
(4) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi cho nhân dân
trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa án;
(5) Thực hiện thực chất công khai tư pháp để nhân dân tiếp cận thông tin tư
pháp một cách đầy đủ và thuận tiện;
(6) Cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ nhân dân, tiết kiệm công
sức, thời gian, kinh phí của nhân dân.
* Đổi mới và nâng cao hiệu quả của cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa
án:
Xây dựng một đạo luật độc lập về hội thẩm, trong đó,
(1) Đổi mới tiêu chuẩn của hội thẩm;
(2) Mở rộng cơ cấu thành phần, đối tượng tham gia làm hội thẩm;
(3) Hoàn thiện các quy định về nhiệm kỳ, việc tuyển chọn, bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm, chế độ, chính sách đối với hội thẩm;
(4) Đổi mới cơ chế quản lý hội thẩm nhân dân;
(5) Thay đổi số lượng hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử;
(6) Đổi mới chức năng nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét
xử;
(7) Xây dựng cơ chế xử lý xung đột quan điểm giải quyết vụ án giữa thẩm
phán và hội thẩm khi xét xử;
(8) Quy định về lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm;
(9) Tăng cường hội thẩm nhân dân có chuyên môn sâu trong các vụ án
chuyên biệt, đặc thù;
(10) Nghiên cứu, xây dựng quy chế về hội thẩm;
(11) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho hội
thẩm.
Nghiên cứu, bổ sung chế định hội thẩm đoàn trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
* Tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư
pháp:
(1) Nâng cao hiệu quả, đổi mới cơ chế nhân dân tham gia xét xử để nhân dân
thực hiện quyền giám sát một cách thực chất, trực tiếp từ bên trong hoạt động của
tòa án;
(2) Xây dựng cơ chế để nhân dân góp ý và tiếp nhận ý kiến phản ánh của
nhân dân đối với hoạt động tư pháp;
(3) Đổi mới việc chất vấn, trả lời chất vấn, báo cáo hoạt động của tòa án
trước cơ quan dân cử để bảo đảm độc lập tư pháp;
(4) Tăng cường công tác giám sát theo chuyên đề, giám sát đột xuất của cơ
quan dân cử đối với công tác tòa án;
(5) Công khai kết quả giám sát để cử tri được biết;
(6) Quy phạm hóa hoạt động giám sát tư pháp.
Hai là, xác định đúng chức năng thực hiện quyền tư pháp, đặc trưng cơ
bản của quyền tư pháp và chủ thể thực hiện quyền tư pháp
Nội hàm của quyền tư pháp: Quyền tư pháp bao gồm:
(1) Quyền xét xử;
(2) Quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền
công dân;
(3) Quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm
pháp luật.
Quyền xét xử do tòa án thực hiện, bao gồm quyền phán xét, quyền phán
quyết đối với những hành vi vi phạm pháp luật, tranh chấp trên cơ sở pháp luật và
niềm tin nội tâm.
* Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp ở Việt Nam gồm:
(1) Tính độc lập trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
nhà nước do Đảng lãnh đạo;
(2) Quyền tư pháp được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt;
(3) Có hiệu lực bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp
hành;
(4) Được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước trong phạm vi toàn
quốc bởi cơ quan thi hành án chuyên trách;
(5) Phán quyết tư pháp không bị thay đổi tùy tiện trừ khi bị chính tòa án thay
đổi, hủy bỏ theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định;
(6) Phán quyết tư pháp khi đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng nhưng có sai
sót không phải do lỗi chủ quan thì được miễn trừ trách nhiệm; chỉ bị kháng cáo,
kháng nghị.
* Chủ thể thực hiện quyền tư pháp: Hiến pháp năm 2013 đã phân công rành
mạch việc thực hiện quyền lực nhà nước theo đó: Quốc hội là cơ quan thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp (Điều 94), tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc phân
công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải căn cứ vào những
chức năng cơ bản của từng cơ quan, không căn cứ vào một số hoạt động, nhiệm vụ
mà cơ quan đó thực hiện. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định tòa án là chủ
thể thực hiện quyền tư pháp, chỉ có tòa án là cơ quan tư pháp.
Ba là, hoàn thiện, đổi mới nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy của
cơ quan tư pháp
* Hoàn thiện, đổi mới nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án
Hoàn thiện nhiệm vụ của tòa án theo cấp xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, theo đó:
(1) Cấp xét xử sơ thẩm có nhiệm vụ xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu,
chứng cứ để xác định sự thật, tính có căn cứ của vụ án và áp dụng pháp luật. Bổ
sung và làm rõ nội hàm của nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án, theo đó, tòa án có
nhiệm vụ xác định các tình tiết, sự thật, tính có căn cứ của vụ án; loại trừ các yếu
tố không phải sự thật của vụ án; xem xét đủ hay không đủ điều kiện, tiêu chí để
khẳng định sự thật vụ án, trên cơ sở đó để ra phán quyết.
(2) Cấp xét xử phúc thẩm có nhiệm vụ chỉ giải quyết vướng mắc về xác định
sự thật và áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm.
(3) Giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ vừa sửa sai đối với bản án có vi
phạm vừa phải bảo vệ hoạt động xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật. Do vậy,
phải khắc phục tình trạng lạm dụng giám đốc thẩm, tái thẩm, bảo đảm tố tụng có
điểm dừng và không trở thành cấp xét xử thứ ba. Bỏ thủ tục xem xét lại quyết định
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Hoàn thiện thẩm quyền, thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến quyền con
người, nhất là: yêu cầu giải quyết việc dân sự, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời; việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc...
Bổ sung nhiệm vụ giải thích pháp luật thông qua hoạt động xét xử và tuyên
bố văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật; nghiên cứu, xem xét,
quyết định xử phạt vi phạm hành chính; bảo đảm việc hạn chế quyền con người
của đương sự, bị can, bị cáo... trong hoạt động tố tụng được thực hiện bởi phán
quyết của cơ quan tư pháp. Đổi mới nhiệm vụ ban hành án lệ, hướng dẫn áp dụng
án lệ và tăng cường bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Bỏ một số nhiệm vụ
của tòa án đối với những việc thuộc chức năng buộc tội của cơ quan công tố (nhất
là nhiệm vụ của hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa,
nhiệm vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của thẩm phán chủ tọa phiên tòa, hội đồng
xét xử...). Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm thu thập chứng cứ trong vụ án hình
sự thuộc về cơ quan điều tra và công tố; trong vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính thuộc về các bên đương sự, vì vậy
cần hạn chế thẩm quyền, trách nhiệm thu thập chứng cứ của tòa án.
Nghiên cứu chế định bảo vệ Hiến pháp bằng tòa án.
* Đổi mới tổ chức bộ máy của tòa án
Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy của tòa án khoa học, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị
hành chính; tăng cường tính độc lập giữa các cấp tòa án; các vụ án đặc thù phải
được xét xử tại tòa án chuyên biệt nhằm phát huy ưu thế chuyên môn trong việc
xét xử; mô hình, quy mô, tổ chức bộ máy phải phù hợp với khối lượng công việc
và đặc thù hoạt động của từng tòa án.
Tổ chức hệ thống tòa án có 04 cấp, gồm:
(1) Tòa án nhân dân tối cao;
(2) Tòa án nhân dân cấp cao;
(3) Tòa án nhân dân phúc thẩm;
(4) Tòa án nhân dân sơ thẩm.
Tòa án nhân dân tối cao: cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ vẫn giữ như hiện hành
nhưng có kiện toàn, tổ chức lại bộ máy giúp việc cho phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao.
Tòa án nhân dân cấp cao: có chức năng, nhiệm vụ chính yếu là giám đốc
thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
phúc thẩm, tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bị kháng nghị; xét xử phúc thẩm các
vụ án của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án
nhân dân cấp cao được tổ chức trên cơ sở các tòa án nhân dân cấp cao hiện tại, có
bổ sung, điều chỉnh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tòa án nhân dân phúc thẩm: chức năng, nhiệm vụ chính yếu là xét xử phúc
thẩm các vụ án của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân phúc thẩm được tổ chức tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, trên cơ sở bổ sung, điều chỉnh một cách thích hợp các tòa án nhân dân cấp
tỉnh hiện tại.
Tòa án nhân dân sơ thẩm: có hai hệ thống gồm tòa án nhân dân sơ thẩm khu
vực và tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt.
- Chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là xét xử sơ
thẩm các loại án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động, hành chính và các loại vụ việc khác, trừ các vụ việc thuộc thẩm quyền
xét xử của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt. Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực
được tổ chức tại một số huyện trên địa bàn từng tỉnh tùy thuộc vào quy mô dân số,
kinh tế - xã hội, khối lượng công việc và địa giới hành chính. Tòa án nhân dân sơ
thẩm khu vực bao gồm các tòa chuyên trách và tòa giản lược.
- Chức năng, nhiệm vụ chính của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là xét
xử sơ thẩm các loại vụ việc đặc thù theo từng lĩnh vực. Tòa án nhân dân sơ thẩm
chuyên biệt gồm: tòa án nhân dân sơ thẩm sở hữu trí tuệ, tòa án nhân dân sơ thẩm
hành chính, tòa án nhân dân sơ thẩm phá sản, tòa án nhân dân sơ thẩm môi trường
và các tòa án chuyên biệt khác. Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt được tổ chức
theo địa hạt pháp lý nhiều tỉnh, thành phố, tùy thuộc vào khối lượng công việc của
mỗi loại vụ việc.
* Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ của tòa án
Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ hiện tại của tòa án để nâng cao hiệu quả hoạt
động. Nghiên cứu hình thành cơ quan hành chính chuyên trách để thực hiện các
nhiệm vụ không liên quan trực tiếp quá trình xét xử, giải quyết vụ việc tại tòa án
như tuyển dụng, bổ nhiệm, trang bị cơ sở vật chất, tiền lương...
Nghiên cứu thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia có nhiệm vụ:
(1) Xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động của tòa án;
(2) Xây dựng chế độ chính sách;
(3) Tuyển chọn, giám sát, khen thưởng, kỷ luật thẩm phán.
Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao là Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên được giới
thiệu từ cơ quan tư pháp, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và các cơ quan, tổ
chức khác.
Bốn là, đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp
* Xây dựng chế định tố tụng lấy xét xử là trung tâm
Phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của từng thành viên tham gia
hội đồng xét xử, vai trò tổ chức xét xử của thẩm phán chủ tọa phiên tòa; đổi mới
việc xác định vị trí, vai trò của tòa án và các cơ quan khác tham gia vào quá trình
tố tụng.
Hoàn thiện thủ tục tố tụng tranh tụng, bảo đảm quyền thu thập chứng cứ,
bình đẳng trong quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ, mọi chứng cứ phải được làm
rõ tại phiên tòa, trách nhiệm trình bày chứng cứ, giải trình về chứng cứ tại phiên
tòa của các chủ thể liên quan. Hoàn thiện quy định về chứng minh, chứng cứ ngẫu
nhiên, quy tắc chứng minh, thủ tục loại trừ chứng cứ, phạm vi và việc xác định
chứng cứ không hợp pháp.
Hoàn thiện cơ chế tố tụng tư pháp bảo vệ quyền con người: Xác định rõ 06
quyền của người bị buộc tội bao gồm: quyền được biết, được trình bày, được bào
chữa, được đề nghị, được khiếu nại, tố cáo; luật sư bình đẳng với kiểm sát viên
thực hành quyền công tố; bổ sung thêm cơ chế giám sát chống bức cung, nhục
hình. Ban hành quy định pháp luật về quay phim, chụp ảnh tại phiên tòa. Nghiên
cứu phân định một cách hợp lý và khoa học về địa vị pháp lý của chủ thể tố tụng.
Bảo đảm quyền tranh tụng của các bên. Thực hiện quyền của bị cáo không buộc
phải khai báo về tội trạng của mình. Bảo đảm tôn trọng quyền tự quyết, tự thỏa
thuận của đương sự, người khởi kiện, bỏ việc tham gia của viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế hòa giải, đối thoại để tách biệt với hoạt
động tố tụng, tạo cơ chế thuận lợi và khuyến khích chuyển vụ án đang giải quyết
trong thủ tục tố tụng sang hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Nâng cao hiệu quả của thủ tục tố tụng bảo đảm khả thi, thống nhất, phù hợp:
(1) Xây dựng cơ chế phân loại vụ án để tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực tư
pháp: hoàn thiện quy định về chế độ khoan hồng đối với người nhận tội trong tố
tụng hình sự; bổ sung thủ tục thỏa thuận nhận tội; bổ sung thủ tục đối với vụ án có
giá trị tranh chấp nhỏ. Đổi mới, tăng cường áp dụng thủ tục rút gọn theo hướng
giảm thủ tục, đơn giản hóa phương thức, tiêu chí và tài liệu, chứng cứ.
(2) Xác định án lệ là nguồn luật trong tố tụng tư pháp.
(3) Nghiên cứu, ban hành quy định về tố tụng điện tử tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận công lý.
(4) Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên thống nhất và riêng biệt.
(5) Xây dựng cơ chế tố tụng riêng biệt trong thi hành án hình sự đối với tha
tù trước hạn có điều kiện, giảm án, miễn chấp hành án còn lại.
(6) Xây dựng cơ chế hỗ trợ tạm ứng án phí, chi phí tố tụng của Nhà nước đối
với những trường hợp đặc thù.
(7) Nghiên cứu, ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của tòa giản
lược.
* Hoàn thiện cơ chế phân quyền nội bộ
Cải cách quy định về thụ lý vụ án; quy định cụ thể về thủ tục phân án ngẫu
nhiên; ban hành quy định, điều kiện, phạm vi, thủ tục phân án vượt cấp trong một
số trường hợp cần thiết; cải cách cơ chế hoạt động của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
* Kiện toàn cơ chế thực thi quyền xét xử độc lập và nâng cao chất lượng xét xử
Xây dựng cơ chế phòng ngừa, xử lý việc can thiệp hoạt động xét xử. Quy
định công khai và lưu hồ sơ vụ án mọi văn bản can thiệp vào quá trình tố tụng để
các bên tra cứu, cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Đổi mới quy trình, tiêu
chuẩn bổ nhiệm thẩm phán. Cải cách chế độ hội thẩm nhân dân. Quy định trách
nhiệm tổ chức xét xử của chánh án, chánh tòa và các chức danh quản lý khác.
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền uy tư pháp. Đối với các vụ án bị hủy, sửa đang
trong quá trình tố tụng xem xét lại thì không thanh tra, kiểm tra, không báo cáo
trước cơ quan dân cử, không xử lý trách nhiệm thẩm phán nếu đã tuân thủ đầy đủ
quy trình tố tụng hoặc không vi phạm do lỗi chủ quan. Quy định rõ căn cứ truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với hành vi không thi hành bản án, quyết định của tòa án,
coi thường quyền uy tư pháp.
Hoàn thiện cơ chế giám sát liêm chính tư pháp, theo hướng:
(1) Cải tiến, tăng cường kiểm tra, giám sát;
(2) Xây dựng chế độ xử lý trách nhiệm đối với sai phạm;
(3) Ban hành quy định về quan hệ của thẩm phán đối với người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng, đặc biệt là luật sư;
(4) Nghiên cứu, xây dựng Luật Thẩm phán.
Xây dựng cơ chế hữu hiệu xử lý đối với hành vi xâm phạm và cản trở các
hoạt động tố tụng; quy định rõ chế tài (phạt, chịu chi phí tố tụng phát sinh, bồi
thường) đối với các hành vi cản trở tố tụng, hành vi làm giả, hủy hoại chứng cứ, hồ
sơ tài liệu (tố tụng giả), cố ý kéo dài tố tụng (khai báo, cung cấp tài liệu bất nhất),
đeo bám tố tụng (tố tụng ác ý). Nghiên cứu bổ sung, hình sự hóa các hành vi chống
lại tòa án (như vi phạm trật tự phiên tòa, nhục mạ, đe dọa, quấy nhiễu thẩm phán) -
tội “Cản trở xét xử”.
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng bản án, quyết định của
tòa án, nâng cao chất lượng văn bản tố tụng. Quy phạm hóa thủ tục xử lý tài sản
trong các vụ án, công khai thông tin về tài sản và thủ tục xử lý tài sản. Hoàn thiện
chế độ ghi âm, ghi hình phiên tòa, quy định cụ thể số hóa hồ sơ vụ án, chế độ lưu
trữ và quản lý hồ sơ.
* Xây dựng chế độ xét xử công khai, minh bạch
Tổ chức bộ phận hành chính tư pháp tại tất cả các tòa án; thực hiện quy chế
một cửa liên thông và đơn giản hóa việc tiếp nhận, hướng dẫn giải quyết các yêu
cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Công khai 07 nội dung trên Cổng thông tin điện tử, gồm:
(1) Công khai hệ thống pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, các án lệ, các văn bản hướng dẫn, các giải đáp pháp luật;
(2) Công khai việc phân công cán bộ thụ lý án;
(3) Công khai tiến độ thụ lý và giải quyết án;
(4) Công khai quá trình xét xử tại phiên tòa (trừ những trường hợp pháp luật
quy định cấm công khai);
(5) Công khai kết quả xét xử;
(6) Công khai quá trình và kết quả thi hành án;
(7) Công khai quá trình và kết quả xét miễn, giảm án.
Tăng cường hoạt động trao đổi nghiệp vụ bằng phương thức trực tuyến; hệ
thống cơ sở dữ liệu các hoạt động của tòa án liên thông với Cổng thông tin điện tử
quốc gia.
Năm là, nâng cao chất lượng nhân lực của tòa án, đặc biệt là đội ngũ
thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án, bảo đảm số lượng cần thiết tối thiểu, có
cơ cấu các chức danh tư pháp hợp lý, chế độ chính sách đặc thù
* Nâng cao chất lượng nhân lực của tòa án chuyên nghiệp và trí tuệ, bản
lĩnh và nhân ái; tận tụy và công tâm
Đổi mới cơ cấu chức danh tư pháp, tiếp tục hoàn thiện chế định thẩm phán:
(1) Đổi mới cơ cấu ngạch, bậc thẩm phán và việc phân bổ tại các cấp tòa án
phù hợp yêu cầu của hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán thực
hiện nhiệm vụ xét xử, nghiên cứu vụ việc để phục vụ xét xử, phát triển án lệ,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, giải quyết đơn và hòa giải. Thẩm phán
bao gồm thẩm phán tối cao, thẩm phán và thẩm phán dự bị. Thẩm phán tối cao do
Quốc hội phê chuẩn; thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, thẩm phán dự bị do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Thẩm phán bao gồm nhiều ngạch,
bậc. Thẩm phán dự bị là thẩm phán tập sự, thử thách trước khi bổ nhiệm thẩm
phán. Mỗi ngạch thẩm phán có tiêu chuẩn riêng.
(2) Thẩm phán các ngạch, bậc được bố trí ở tất cả các tòa án.
(3) Thực hiện chế độ trách nhiệm tư pháp trọn đời của thẩm phán, nâng tuổi
nghỉ hưu của thẩm phán.
(4) Nâng cao đạo đức thẩm phán; tách bạch cấp bậc thẩm phán và cấp bậc
hành chính, thực hiện cơ chế đề bạt kết hợp giữa ưu tiên tuyển chọn công chức ưu
tú và nâng ngạch cấp bậc theo thời hạn quy định.
(5) Hoàn thiện cơ chế xử lý vi phạm, cơ chế giám sát hoạt động của thẩm
phán.
(6) Cải cách chế độ hoạt động của ủy ban thẩm phán.
(7) Xây dựng cơ chế kiểm soát bắt buộc đối với một số loại án cụ thể như
chế độ truy xuất đối với án tương tự, báo cáo bắt buộc với loại án mới, giám sát
của chánh án, chánh tòa với loại án trọng điểm.
Đổi mới và tăng cường công tác tuyển chọn, bổ nhiệm: mở rộng nguồn để
bổ nhiệm thẩm phán; tiếp tục mở rộng nhiệm kỳ của thẩm phán, quy định chất
lượng xét xử là cơ sở quan trọng trong việc nâng ngạch, bậc thẩm phán.
Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng: tăng cường đào tạo ứng
dụng công nghệ thông tin, chú trọng kỹ năng điều hành tranh tụng, kỹ năng áp
dụng pháp luật và kỹ năng soạn thảo văn bản của thẩm phán. Nâng cao trình độ
ngoại ngữ, đào tạo thẩm phán chuyên sâu về sở hữu trí tuệ, phá sản, môi trường,
thương mại đầu tư...
* Bảo đảm số lượng biên chế và có cơ cấu hợp lý
Phân bổ số lượng thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án theo nguyên tắc
căn cứ vào
(1) vị trí việc làm;
(2) quy mô dân số, diện tích tự nhiên;
(3) quy mô phát triển kinh tế - xã hội;
(4) tình hình tranh chấp, vi phạm và tội phạm;
(5) chức năng, nhiệm vụ của tòa án. Tăng cường lực lượng hỗ trợ xét xử,
tập trung phần lớn nguồn nhân lực vào nhiệm vụ trực tiếp xử lý án.
* Bảo đảm chế độ chính sách phù hợp
Chế độ lương, chính sách đãi ngộ: xác định khung lương đối với từng chức
danh; việc bổ nhiệm vào ngạch công chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu
ngạch công chức. Thẩm phán là một nghề nghiệp đặc thù, tiến tới xây dựng chế độ
về tiền lương và các phúc lợi xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp, khen thưởng, vinh
danh của thẩm phán riêng biệt.
Xây dựng cơ chế bảo vệ thẩm phán: bổ sung chính sách người có công đối
với thẩm phán bị tổn hại sức khỏe, tính mạng vì lý do thực hiện công vụ; kiện toàn
cơ chế thông báo, giải thích xử lý đối với những vu cáo nhằm vào thẩm phán.
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực để xây dựng tòa án
hiện đại, hoạt động hiệu quả
* Hoàn thiện thể chế: xây dựng các quy định chế độ, chính sách đặc thù đối
với tòa án.
* Tăng cường cơ sở vật chất của hệ thống tòa án theo hướng đồng bộ, hiện
đại, xứng đáng với vị thế của cơ quan tư pháp: xây dựng và triển khai đề án tổng
thể về cải tạo, mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng xử án bảo đảm khang
trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xây dựng hệ thống tài chính chuyên biệt, bảo đảm nguồn lực tài chính đáp
ứng yêu cầu công tác của tòa án
Ngân sách hoạt động tư pháp do Nhà nước bảo đảm. Đổi mới cơ chế phân
bổ ngân sách cho tòa án: nghiên cứu, ban hành quy định Tòa án nhân dân tối cao
có trách nhiệm đề xuất dự toán ngân sách hằng năm của toàn hệ thống, trình Quốc
hội xem xét, thông qua. Toàn bộ ngân sách hoạt động của hệ thống tòa án do Quốc
hội phân bổ và Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm phân bổ cho tòa án các
cấp. Quy định định mức phân bổ ngân sách hoạt động thường xuyên cho các tòa án
nhân dân theo hướng mỗi cấp, mỗi loại tòa án có một định mức riêng. Quy định
riêng về kinh phí chi đặc thù bên cạnh định mức chi thường xuyên.
Xây dựng cơ sở pháp lý về cơ chế sử dụng nguồn ngân sách địa phương hỗ
trợ và nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Bảy là, xây dựng tòa án điện tử
Bản chất của tòa án điện tử là chuyển một phần hoạt động của tòa án từ
không gian thực lên không gian số. Định hướng xây dựng tòa án điện tử tại Việt
Nam, cụ thể như sau:
(1) Xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị
tòa án trên nền tảng số;
Quản lý, theo dõi các hoạt động tố tụng và cập nhật thông tin về tiến độ giải
quyết án theo thời gian thực; Quản lý nhân sự, đánh giá cán bộ gắn với việc thực
hiện nhiệm vụ được giao nhanh chóng.
Quản lý và lưu trữ hồ sơ, tài liệu trên cơ sở dữ liệu tập trung cho phép khai
thác hiệu quả nguồn thông tin; Phục vụ công tác thống kê, quản lý điều hành hệ
thống tòa án tức thời, giảm thời gian xử lý thông tin. Hỗ trợ hoạt động quản lý,
triển khai công tác nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả

(2) Xây dựng tòa án điện tử cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ
người dân tốt hơn;
Gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo văn bản
tố tụng qua giao thức điện tử; Đăng ký trực tuyến cấp sao bản án, tài liệu có trong
hồ sơ vụ án. Nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến; Cung cấp bản án đã được Tòa
án xét xử để người dân tham khảo, áp dụng cho tình huống tương tự; Dịch vụ tư
vấn pháp lý, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và máy tính để dần thay thế hoạt động của
con người.
(3) Xây dựng tòa án điện tử nhằm hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và
chất lượng hoạt động;
Giới thiệu hệ thống pháp luật có liên quan đến vấn đề đang cần giải quyết;
Cung cấp các tình huống pháp lý tương tự đã được HĐTP TANDTC giải đáp. Đưa
ra các án lệ có liên quan; Cung cấp các bản án về tính huống tương tự đã được các
Tòa án khác giải quyết. Hỗ trợ phát hiện các sai sót trong bản án, quyết định của
Tòa án trong phân tích, kiểm tra các chứng cứ, phát hiện các yêu cầu tố tụng bị bỏ
sót, các lỗi kỹ thuật về áp dụng pháp luật...
(4) Xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến;
Thực hiện Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về
tổ chức phiên tòa trực tuyến. Cho phép người dân thực hiện các quyền, nghĩa vụ
của mình trong tố tụng qua giao thức trực tuyến. Triển khai hệ thống công nghệ và
các ứng dụng chuyên ngành để tiến tới thực hiện toàn bộ các hoạt động tố tụng
bằng phương thức trực tuyến.
(5) Xây dựng tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch
trong hoạt động của tòa án;
Công khai hệ thống quy phạm pháp luật, án lệ, giải đáp pháp luật; Công khai
quá trình xét xử tại phiên tòa; Công khai kết quả xét xử và thi hành án
(6) Xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác như: Cổng
thông tin điện tử quốc gia; Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; Cơ sở dữ liệu của
Tổng cục Thống kê; Cơ sở dữ liệu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế
Trong thời gian tới, hệ thống tòa án cần tiếp tục thực hiện các giải pháp
nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế trên cả bình
diện đa phương và song phương trong các lĩnh vực cụ thể như sau: củng cố, kiện
toàn hệ thống pháp luật về hợp tác quốc tế; hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật
và phát triển án lệ; xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế; tăng cường trao đổi, tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong
lĩnh vực tư pháp; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân
sự, vụ án hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài, xây dựng tòa án điện tử; nâng
cao vai trò của tòa án trong việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
Chín là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và
tiến trình cải cách tư pháp
Nguyên tắc chung: Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp và tiến trình cải cách tư
pháp. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng bảo đảm sự thành công của cải cách tư
pháp tại tòa án nhân dân. Đảng lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức thông qua
việc đề ra chiến lược, chủ trương, chính sách và công tác cán bộ. Đảng lãnh đạo
nhưng bảo đảm tôn trọng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của quyền
tư pháp, không can thiệp vào quá trình tố tụng giải quyết vụ việc cụ thể làm ảnh
hưởng đến công bằng tư pháp.
Mô hình tổ chức đảng: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW và Kết
luận số 79/KL-TW của Bộ Chính trị về thành lập Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao.
Theo đó, Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao gồm các tổ chức đảng của Tòa án nhân
dân tối cao, các tòa án nhân dân cấp cao và các tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên
biệt. Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư. Thành lập đảng bộ tòa án nhân dân phúc thẩm trực thuộc
đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Đảng bộ tòa án nhân dân
phúc thẩm gồm các tổ chức đảng của tòa án nhân dân phúc thẩm và các tòa án
nhân dân sơ thẩm khu vực.
Nhân sự của các cấp ủy đảng:
Bố trí chánh án các cấp tham gia cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện
tại và phù hợp với từng địa bàn. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Chánh án các tòa án nhân dân phúc thẩm
tại thành phố trực thuộc Trung ương và các tỉnh có quy mô dân số đông, trung tâm
phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của đất nước là ủy viên ban thường vụ cấp ủy
tỉnh; chánh án tòa án nhân dân phúc thẩm các tỉnh còn lại là ủy viên ban chấp hành
đảng bộ tỉnh.
Chánh án tòa án nhân dân cấp cao và chánh án tòa án nhân dân sơ thẩm
chuyên biệt là ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án
tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là ủy viên ban chấp hành đảng bộ tòa án nhân dân
phúc thẩm. Việc bố trí nhân sự như vậy cần được Bộ Chính trị quy định tương tự
như đối với nhân sự cấp ủy của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Công an Trung
ương.
Định hướng cải cách tư pháp cần phải được tiến hành với quyết tâm chính trị
cao nhất, xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm, có chương trình, kế hoạch và
lộ trình cải cách tư pháp phù hợp; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ
quan liên quan. Thực hiện được những nhiệm vụ cải cách tư pháp nói trên sẽ là
một cuộc cách mạng làm biến đổi nền tư pháp nước nhà, nâng cao được hiệu lực,
hiệu quả hoạt động để tòa án hoàn thành sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Lộ trình từ nay đến năm 2030, tiến hành hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp
luật về tư pháp, tổ chức Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Hoàn thiện nhiệm
vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp; Đổi mới nhiệm vụ ban hành
án lệ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; Xây dựng chế độ xét xử công khai,
minh bạch; Nâng cao chất lượng nhân lực, đặc biệt là Thẩm phán; đảm bảo số
lượng cần thiết tối thiểu, cơ cấu phù hợp; Đảm bảo cơ sở vật chất, nguồn lực để
xây dựng Tòa án hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng Tòa án điện tử,
bước dầu hình thành phương thức tố tụng điện tử; Tăng cường hợp tác quốc tế.

__________________
(1) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 và các kết luận có liên quan; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng.
(2) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng
dân sự và Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án
năm 2020; Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12-11-2021 của Quốc hội về Tổ
chức phiên tòa trực tuyến.
(3) Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
(4) Tính đến ngày 30-6-2021, tổng số biên chế tòa án nhân dân các cấp có 13.573
người, còn thiếu 1.664 người so với biên chế được giao. Tính đến ngày 31-7-2022,
hệ thống tòa án có 6.381 thẩm phán, so với chỉ tiêu của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội phân bổ, đội ngũ thẩm phán toàn hệ thống chỉ còn thiếu 403 thẩm phán các
cấp.
(5) Như chủ trương tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị
hành chính, cơ chế để bảo đảm tính độc lập của tòa án.

You might also like