You are on page 1of 26

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI

===o0o===

TIỂU LUẬN MÔN HỌC


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài: 2
PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Bùi Tuấn Anh


STT : 01
Lớp : Vừa học vừa làm
MSV : 5108010002
Họ và tên giảng viên : Đỗ Thị Ngọc Ánh

HÀ NỘI – 2023

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................ 2
MỞ ĐẦU..................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................4
3. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................4
4. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................4
6. Kết cấu của đề tài................................................................................................4
CHƯƠNG 1 DÂN CHỦ VÀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. . .5
1.1 Dân chủ và sự ra đời phát triển của dân chủ.............................................5
1.1.1 Quan niệm về dân chủ..............................................................................5
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ........................................................6
1.2 Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.............................................................8
1.2.1 Quan niệm chung về dân chủ.........................................................................8
1.2.2 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.....................................9
1.2.3 Bản chất của phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa................................10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.............................................................................................................12
2.1 Những mặt đạt được........................................................................................12
2.2 Những mặt hạn chế..........................................................................................18
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM..........................................................................................20
KẾT LUẬN............................................................................................................25
DANH MỤC THAM KHẢO................................................................................26

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ nền dân chủ nhân dân là nhiệm vụ thông tường nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng dân chủ có nghĩa là "dân
là chủ" và "người dân làm chủ", cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần
chúng là động lực của cách mạng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ: "Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nền dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân là một
trong những nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.1
Về lý luận, Đảng đã kế thừa trên cơ sở của chủ nghĩa Marx - Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, từng bước nhận thức rõ và cụ thể hơn các vấn đề thực hành và
phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nền tảng pháp lý cho việc áp dụng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong cuộc sống xã hội cũng như nâng cao hiệu
quả và thực hiện trách nhiệm của hệ thống chính trị, nhất là cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực đời sống ở
nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Chẳng hạn, nhiều người dân vẫn chưa biết đến các
văn bản, chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. 13,54% người dân
được hỏi cho biết chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được bàn, quyết
định trực tiếp và 3,38% hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực
hiện dân chủ ở cơ sở. Mặt khác, việc triển khai, thực thi đường lối, chính sách kinh
tế có biểu hiện thiếu dân chủ, bất bình đối trong đối xử với các chủ thể kinh tế, các
thành phần kinh tế về thuế, vay vốn, lãi suất cho vay, về thủ tục xuất nhập khẩu; dẫn
đến môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh, động lực đầu tư kinh doanh, phát triển
kinh tế bị tổn thương.
1
PGS.TS Đỗ Thị Thạch. (20/05/2021). Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc xây dựng CNXH. Truy cập từ https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/dan-chu-la-ban-chat-
cua-che-do-xhcn-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-luc-c ua-cong-cuoc-xay-dung-cnxh-580982.html

3
Xuất phát từ tình hình trên, tôi chọn đề tài 2: "Phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam" để nghiên cứu và đề xuất giải pháp cho những khó khăn trong
thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam những năm gần đây.
2. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, dân chủ và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát huy nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đầu tiên, chúng ta cần làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin về
dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tiếp theo, ta sẽ đánh giá tình hình hiện tại về việc phát huy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam trong thời gian
gần đây.
Sau đó, ta sẽ đề xuất các giải pháp nhằm phát huy nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở Việt Nam trong tương lai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là các phương pháp: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp lịch sử - logic;...
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Dân chủ và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Thực trạng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay

4
Chương 3: Một số giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

CHƯƠNG 1 DÂN CHỦ VÀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1 Dân chủ và sự ra đời phát triển của dân chủ


1.1.1 Quan niệm về dân chủ
Quan niệm về dân chủ là sự hiểu biết và đánh giá về vai trò và ý nghĩa của
quyền lực dân chủ trong việc tham gia vào quyết định và điều hành công việc chung
của một cộng đồng, một tổ chức hoặc một quốc gia. Dân chủ coi trọng quyền của
người dân trong việc tham gia vào quyết định chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa,
và đồng thời ghi nhận và bảo vệ các quyền cơ bản của con người như tự do ngôn
luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp và quyền bầu cử.
Quan niệm về dân chủ thường phản ánh một hệ thống chính trị và xã hội nơi
quyền lực thuộc về nhân dân hoặc được lập pháp bởi nhân dân. Nguyên tắc cơ bản
của dân chủ là nguyên tắc chủ quyền của nhân dân, trong đó quyền lực thuộc về
nhân dân và được thực hiện qua các cơ chế dân chủ như bầu cử, tham gia vào quyết
định và kiểm soát quyền lực.
Dân chủ không chỉ ám chỉ một hệ thống chính trị mà còn là một giá trị văn
hóa và tư tưởng, đề cao sự công bằng, sự bình đẳng và sự tham gia của các thành
viên trong xã hội. Nó thúc đẩy sự thống nhất và sáng tạo, tạo điều kiện cho sự phát
triển cá nhân và xã hội, và làm nền tảng cho sự phát triển bền vững và tiến bộ của
một quốc gia.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ có những đặc trưng quan
trọng sau:
Thứ nhất, Quyền lực thuộc về nhân dân: Dân chủ đề cao quyền lực thuộc về
nhân dân, trong đó nhân dân là chủ nhân của quyền lực nhà nước. Dân chủ đại diện
cho quyền lợi của nhân dân, bao gồm quyền sở hữu quyền lực nhà nước và quyền
sở hữu xã hội. Nhà nước phải phục vụ nhân dân và xã hội.
Thứ hai, Hình thái chính trị và chế độ: Dân chủ là một hình thức hoặc hình
thái của nhà nước, đó là chế độ dân chủ. Nó là một hệ thống xã hội trong đó nhân

5
dân được công nhận quyền tự do và bình đẳng theo luật pháp, và được thừa nhận
tham gia vào quản lý công việc của nhà nước. Dân chủ được cụ thể hóa thành cơ
chế thực thi trong cuộc sống.
Thứ ba, Nguyên tắc cốt lõi của tổ chức và quản lý xã hội: Dân chủ là nguyên
tắc cốt lõi trong tổ chức và quản lý xã hội. Nó kết hợp với nguyên tắc tập trung để
hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong xã hội và tổ chức.
Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh rằng dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn
là phương tiện để con người đạt được tự do và giải phóng toàn diện, để bảo đảm và
thực hiện đầy đủ nhân quyền. Dân chủ là một hình thức thiết kế chính trị và là một
phạm trù lịch sử của nhà nước, liên quan chặt chẽ đến sự xuất hiện và biến mất của
các quốc gia. Tuy nhiên, dân chủ là một giá trị xã hội vĩnh viễn tồn tại và phát triển
cùng với sự tiến bộ của con người và xã hội, bất kể sự tồn tại của giai cấp và nhà
nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "chế độ của chúng ta là chế độ dân chủ, tức là
dân làm chủ". Quần chúng là động lực của cách mạng và quần chúng nhân dân là
lực lượng quyết định nhất, trực tiếp thực hiện đường lối cách mạng và biến đường
lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của
chế độ ở Việt Nam, nơi quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực cuộc sống xã hội thuộc về
nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua các hình thức trực tiếp và
gián tiếp, trong hệ thống chính trị và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với vai
trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh quyền cơ bản của con người.
Nó là hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền và có quá trình ra đời,
phát triển song song với lịch sử xã hội nhân loại.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của dân chủ
Nhu cầu về dân chủ đã xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của các
cộng đồng thị tộc và bộ lạc. Tại cuối thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy, dân chủ
có hình thức mạnh mẽ, được gọi là "dân chủ nguyên thuỷ" hoặc "dân chủ quân sự"
theo Ph.Ăngghen. Trong hình thức dân chủ này, thông qua "đại hội nhân dân", nhân
dân bầu ra thủ lĩnh quân sự và quyết định mọi vấn đề của thị tộc và bộ lạc.

6
Trong "đại hội nhân dân", mọi người có quyền phát biểu và tham gia quyết
định bằng cách giơ tay hoặc vỗ tay. Việc bầu ra những người đứng đầu và phế bỏ
những người này được coi là hình thức dân chủ sơ khai, chất phác trong xã hội chưa
có giai cấp. Tuy nhiên, sự ra đời của chế độ tư hữu và giai cấp đã làm tan rã dân chủ
nguyên thuỷ, và nền dân chủ chủ nô đã xuất hiện.
Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước, trong đó dân tham gia bầu
ra các quan chức nhà nước. Nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử là nhà nước
dân chủ của chủ nô. Nhà nước dân chủ chủ nô biểu hiện ở mức độ điển hình trong
nhà nước Aten của Hy Lạp. Trong nền dân chủ chủ nô, giai cấp cầm quyền quy
định "dân" gồm chủ nô và các công dân tư do như tăng lữ, thương gia và một số trí
thức. Phần lớn người khác không được coi là "dân" mà là "nô lệ" và không tham gia
vào công việc nhà nước. Do đó, dân chủ chủ nô chỉ áp dụng cho thiểu số. Khi chế
độ chủ nô lụi tàn, chế độ dân chủ chủ nô bị thay thế bằng chế độ độc tài chuyên chế
phong kiến.
Sự thống trị của giai cấp trong thời kỳ này được coi như một thực thể siêu
nhiên, và việc tuân thủ ý chí của giai cấp thống trị được coi là bổn phận trước sức
mạnh của đấng tối cao. Ý thức về dân chủ và cuộc đấu tranh để thực hiện quyền làm
chủ của người dân không có bước tiến đáng kể.
Vào cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV, giai cấp tư sản với tư tưởng tiến bộ
về tự do, công bằng và dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản.
Nền dân chủ này là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, mang đến các giá trị
quan trọng về quyền tự do, bình đẳng và dân chủ. Tuy nhiên, vì được xây dựng trên
nền tảng kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên thực tế nền dân chủ tư sản
vẫn chỉ là nền dân chủ của thiểu số người sở hữu tư liệu sản xuất, trong khi đại đa
số người lao động không có vai trò quyết định.
Khi Cách mạng XHCN thắng lợi vào năm 1917, người lao động ở nhiều
quốc gia đã giành được quyền làm chủ nhà nước và xã hội, thành lập nhà nước
XHCN và thiết lập nền dân chủ vô sản (nền dân chủ XHCN) để thực hiện quyền lực
của đại đa số người lao động. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN là thực hiện

7
quyền lực của nhân dân, tức là xây dựng một nhà nước dân chủ thực sự, nơi người
dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền lợi cho đại đa số người lao động.
1.2 Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1 Quan niệm chung về dân chủ
Theo nội dung dân chủ chính trị thì dân chủ là một phạm trù riêng lĩnh vực
chính trị. Còn chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái
của nhà nước. Dân chủ là một giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử. Theo C. Mác và Ph.Ăng-ghen, dân chủ là
phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực
vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy
đủ. Đặc trưng cơ bản của dân chủ là tất cả các công dân đều có quyền tham dự đời
sống chính trị, quyền lực cao nhất của đất nước thuộc về đại diện của nhân dân; mọi
công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật.
Dưới chế độ nô lệ và phong kiến, tư tưởng thần quyền và phân biệt đẳng cấp
hà khắc đã tước bỏ tự do, dân chủ của nhân dân. Giai cấp tư sản đã lật đổ chế độ
chuyên chế quân chủ, xác lập chế độ nghị viện, phổ thông đầu phiếu, hai đảng (hoặc
chế độ đa đảng), phân quyền, bình quyền..., đây là những nội dung chủ yếu của chế
độ dân chủ tư sản. Dân chủ tư sản được xây dựng trên cơ sở phủ định chế độ
chuyên quyền phong kiến, vì thế, trong sự phát triển chung của lịch sử, nó có những
đóng góp tích cực, thể hiện sự tiến bộ nhất định. Nhưng dân chủ tư sản xây dựng
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, chỉ những nhà tư bản lớn mới là
những người nắm giữ vai trò quyết định, cũng có nghĩa dân chủ không bao giờ
thuộc về quảng đại nhân dân. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thực sự là nền
dân chủ ưu việt, phát triển cao hơn dân chủ tư sản.
Lịch sử phát triển dân chủ trong xã hội nhân loại chứng minh, mỗi một quốc
gia có quyền lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết mô phỏng chế độ
dân chủ của quốc gia khác. Chế độ dân chủ của một quốc gia phù hợp với đặc điểm
lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị, kinh tế... của từng nước, đồng thời cần không
ngừng hoàn thiện và phát triển. Một nền dân chủ ưu việt và đích thực chỉ khi nó do
chính nhân dân lựa chọn và quyền làm chủ của nhân dân, các quyền con người,

8
quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ. Thực tiễn chứng minh, chế độ chính trị
phương Tây cũng đầy rẫy những bất công và tình trạng vi phạm dân chủ, không
“hoàn hảo”, khác với nhiều người vẫn ra sức tán dương, ca tụng (?!). Trái lại, một
số quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc bê nguyên xi mô hình dân chủ phương Tây,
dẫn tới những bất ổn, thậm chí rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng và nội chiến kéo
dài.
1.2.2 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dựa trên quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ trong lịch sử, đặc
biệt là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập Marx-Lenin nhận thấy rằng đấu tranh
cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp. Nền dân chủ tư sản không phải là
nền dân chủ hoàn thiện nhất, do đó, cần tồn tại một nền dân chủ mới, cao hơn là nền
dân chủ vô sản, còn được gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Công xã Paris năm 1871. Tuy nhiên, chỉ khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công và nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời (năm 1917), nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa mới chính thức được thiết lập. Sự ra đời của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa đánh dấu một bước phát triển mới về chất lượng của dân chủ. Quá
trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa diễn ra từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Trong quá trình này, giá trị của các nền dân chủ trước đó
được kế thừa, đồng thời giá trị của nền dân chủ mới được bổ sung và làm sâu sắc
hơn.
Theo quan điểm của Marx-Lenin, giai cấp vô sản không thể hoàn thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không chuẩn bị để tiến tới cách mạng đó thông qua
cuộc đấu tranh cho dân chủ. Chủ nghĩa xã hội không thể duy trì và thành công nếu
không thực hiện đầy đủ dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho người lao
động, thu hút họ tham gia tự giác vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội..

9
1.2.3 Bản chất của phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là
bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước".
Sự khẳng định trên đây đã chỉ rõ: Nước ta đi theo con đường XHCN, vì vậy,
xây dựng nền dân chủ XHCN là vấn đề quan trọng xuyên suốt quá trình cách mạng
của nước ta. 
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên đã nhất quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách mạng giải
phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt
lõi của nó là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thông
đầu phiếu trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN
dựa trên cơ sở kế thừa nền dân chủ nhân dân đã có, phải tiến hành ngay việc xây
dựng, phát triển nền dân chủ XHCN mà mục tiêu xuyên suốt là:”Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
So với các nước đi theo con đường dân chủ đầy sóng gió, sự phát triển dân
chủ XHCN ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Nguyên nhân chính là do Đảng và
Nhà nước ta luôn tuân thủ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Điều đó được thể
hiện ở những mặt sau đây:
Một là, tư tưởng chiến lược chỉ đạo phát triển nền dân chủ XHCN là dựa trên
lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nguyên tắc cơ bản.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò độc tôn lãnh đạo công cuộc phát
triển nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Ba là, cơ sở kinh tế cho việc xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN ở nước
ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN và
từng bước hoàn thiện tiến lên kinh tế thị trường XHCN, trong đó kinh tế nhà nước
với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu giữ vai trò chủ đạo.

10
Bốn là, phương thức thúc đẩy công cuộc phát triển dân chủ XHCN ở nước ta
là lấy dân làm gốc.
Năm là, trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ XHCN là thường xuyên
củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong đảng là “hạt nhân” của
dân chủ XHCN và lấy dân chủ trong Đảng thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội. Từ
đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngày càng cao dân chủ XHCN ở nước
ta, quán triệt sâu sắc quan điểm dân biết, dân bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
Dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đòi hỏi tất cả quyền lực nhà nước phải
thuộc về nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong
những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc VN xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã
ghi: Dân chủ XHCN là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm
1992 cũng khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được
thể chế hóa quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền
với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế
cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trải qua 25 năm đổi mới và
20 năm thực hiện cương lĩnh 1991 nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã có những
bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu
“tối thượng” của cách mạng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ XHCN vì nó là mục
tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ
XHCN được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã
hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến
chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát
triển.

11
Quá trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn định
chính trị, xã hội. Muốn duy trì ổn định chính trị, xã hội để tiến lên phải phát triển
nền dân chủ XHCN và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội
từ thấp đến cao.
Bản chất chính trị của giai cấp công nhân đòi hỏi phải dùng phương pháp
dân chủ để quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới
trong tiến trình lịch sử, dân chủ XHCN là thực hiện quyền nhân dân làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đây là bản chất tốt đẹp của nhà nước XHCN đã và đang tồn
tại, phát triển ở một số nước trên thế giới, trong đó có nước ta. Vì vậy, đòi hỏi
chúng ta cần tự giác tuân thủ quy tắc dân chủ, xây dựng và kiện toàn thể chế dân
làm chủ, hình thành trật tự dân chủ ổn định, bền vững.2

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1 Những mặt đạt được
Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận hành nền
kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế luôn gắn với bảo đảm
công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người, nhằm
mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa
trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Công bằng trong phân phối
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực
hành ngày càng rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả
phương thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, không có sự
đoàn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
2
PGS, TS. Cao Duy Tiến(Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh)

12
hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã
hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng -
nhân tố quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhân dân làm chủ là
bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thượng tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất
cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm.
Đảng vừa là bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị và Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo có chức
năng thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành các văn bản quy
phạm pháp luật đầy đủ và thống nhất. Nhân dân làm chủ thông qua các cơ quan đại
diện và làm chủ trực tiếp qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám
sát”.
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và sâu sắc.
Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con người được
đề cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện các công ước quốc tế
liên quan quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham gia; coi trọng dân chủ ở
cơ sở, coi trọng phản biện xã hội, đề cao thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con
người được pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực
hiện và thúc đẩy. Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và thiết chế bảo đảm
quyền con người, nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự,
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như
người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có
tín ngưỡng, tôn giáo. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu về quyền con
người có bước phát triển tích cực. Nhận thức về quyền con người được nâng cao
hơn. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người được đẩy mạnh. Đấu tranh phản
bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề nhân
quyền ở Việt Nam.

13
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao
chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở
đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh,
trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng và chất lượng đảng viên; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều
hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần
đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, uy tín của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể nhân dân.
Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân chủ, là
phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói quen thảo luận và
bảo đảm quyền tự do ngôn luận để khích lệ cá nhân, các tổ chức tham gia thảo luận
về các vấn đề quan trọng của quốc gia. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bao hàm hoạt động giám sát và phản
biện xã hội, nhất là phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về quyền giám sát của nhân dân,
cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của đảng viên,
cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước.
Trong nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn trọng,
mọi hành vi của tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật. Tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 lĩnh vực: xây dựng pháp luật, chấp hành
pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, công bằng..., phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã nêu lên bốn bài học lớn, trong đó có bài
học: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân  dân  lao  động”(1).  Văn 
kiện Đại  hội nhấn mạnh “xóa bỏ nhận thức sai lầm coi công tác quần chúng chỉ là
biện pháp để tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách. Đối
với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân trên phạm vi cả

14
nước cũng như ở các địa phương phải trưng cầu ý kiến nhân dân trước khi quyết
định”. Nội dung phát huy dân chủ tiếp tục được Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng từ khóa VII đến khóa X đề cập rõ nét.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) chỉ rõ: “Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành
tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân...
Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp... Phát
huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân...”(2). Đến Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (tháng 1-2016), vấn đề phát huy dân chủ
được khẳng định trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: “Tiếp tục tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền,
phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát
huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần phải
phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(3).
Về phát huy dân chủ trong Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định: Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng.
Đảng ta và Bác Hồ luôn xác định thực hành dân chủ trong Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cả hệ thống
chính trị gắn với dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội, có dân chủ mới có đồng
thuận xã hội, có đồng thuận xã hội mới tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung phát huy dân chủ được Đảng ta quy định rất rõ, bảo đảm thật sự tự do tư
tưởng trong sinh hoạt đảng, khuyến khích và tôn trọng sự suy nghĩ độc lập, sáng

15
tạo, thảo luận, tranh luận dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, của từng cán
bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết.
Trong đại hội đảng các cấp, trong các hội nghị của Đảng, mỗi đảng viên đều có
quyền thảo luận, bàn bạc, tham gia các công việc của Đảng, phê bình, chất vấn các
cán bộ, đảng viên khác, được trình bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý kiến
hoặc đề xuất ý kiến lên các cơ quan cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng. Các nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng được thảo luận tập thể và biểu
quyết theo đa số. Việc bầu cử trong Đảng đều được tiến hành dân chủ theo nguyên
tắc bỏ phiếu kín, không gò ép, áp đặt... Đặc biệt, trong các nhiệm kỳ gần đây, việc
thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được bổ sung bằng những quy chế, quy định
chặt chẽ hơn, như quy định Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động của mình
trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, ban thường vụ báo cáo công việc
và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy, cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng
hoặc cơ quan bầu ra mình; quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ
chức quần chúng phê bình và bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao
nhất đến tổ chức cơ sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến, tiến
bộ. Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn
thiện về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp,
công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội hoạt
động ngày càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật,
Quốc hội đã có nhiều hình thức để lấy ý kiến góp ý, như tổ chức hội thảo, tọa đàm,
phát phiếu...
Trước và sau mỗi kỳ họp Quốc hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri để nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri cả nước. Sau tiếp xúc đều tổng hợp, phân
tích những kiến nghị xác đáng để yêu cầu Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo thẩm
quyền. Nhiều khóa gần đây, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp
của Quốc hội, hội đồng nhân dân thật sự sôi nổi, dân chủ, phát huy được trách
nhiệm của đại biểu, được nhân dân cả nước ghi nhận. Định kỳ, Quốc hội, hội đồng
nhân dân tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội, hội đồng

16
nhân dân bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín. Phát huy dân chủ của Chính phủ tiếp tục
có những đổi mới trong hoạch định chính sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều hành tổ
chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị
quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật được đề cao. Đặc biệt, chính quyền các
cấp đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân, đối thoại với công dân và giải quyết
đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Đối với công tác tổ chức cán bộ diện quản
lý theo phân cấp của Đảng đều được tập thể ban cán sự đảng thảo luận dân chủ, bỏ
phiếu kín và quyết định theo đa số. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều
tạo điều kiện và phát huy chức năng tuyên truyền, định hướng dư luận của các
phương tiện truyền thông, như báo viết, báo nói, báo hình, báo mạng...
Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ
rõ, thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ
thể hóa. Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp
nhân dân được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật
Công đoàn, Luật Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... Những bảo đảm dân chủ về
quyền và nghĩa vụ, lợi ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội được luật hóa
cụ thể hơn và từng bước thực hiện có kết quả; nhiều chủ trương, biện pháp đã phát
huy vai trò tích cực, chủ động của nhân dân, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/PT/UBTVQH, ngày 20-4-
2007, “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP, ngày
24-1-2013, “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan hành chính nhà nước
và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-CP, ngày 19-6-2013, “Quy
định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực hiện Quy chế Dân chủ ở
cơ sở tại nơi làm việc” đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã
hội đang tích cực thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Trước các kỳ họp Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp khá đầy đủ các
kiến nghị của các tổ chức thành viên, ý kiến của cử tri cả nước để phản ánh đến

17
Quốc hội; hội đồng nhân dân các cấp đã thường xuyên giám sát chính quyền trong
việc tiếp thu và giải quyết các kiến nghị chính đáng của đoàn viên, hội viên, cử tri.
2.2 Những mặt hạn chế
Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn chế,
thực hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa hoàn toàn
được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân thực hiện
vai trò chủ thể của quyền lực.
Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số nơi
rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa quyền gây
phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa
các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định... Hệ thống pháp luật của Việt
Nam có mặt còn chưa đồng bộ, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành
pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội... Những
hạn chế đó cần sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và
thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực
chất.
Bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện phát huy dân chủ cũng còn nhiều
hạn chế, bất cập. Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều
vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật,
kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp. Hiện
nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân chủ còn
phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng. Có người cho rằng dân chủ trong
Đảng thì đảng viên được tự do phát ngôn và tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng quan điểm riêng của mình. Cá biệt, có người còn muốn tổ chức
đảng chỉ như “câu lạc bộ”, được tranh luận, bàn cãi bất kỳ vấn đề gì, không tôn
trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngược lại, có một bộ phận đảng viên lại hiểu
dân chủ trong Đảng một cách cứng nhắc, coi dân chủ như là phương tiện để đạt đến
sự tập trung, không muốn đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới độc lập suy nghĩ, tìm
tòi khoa học, đồng nhất khoa học với chính trị, đồng nhất ý kiến nghiên cứu, trao

18
đổi với quan điểm, đường lối của Đảng. Một số người đối lập dân chủ với tập trung,
tách rời việc phát huy sáng kiến, sáng tạo của đảng viên với việc thực hiện kỷ luật,
giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, để phát huy sáng kiến và tư duy độc lập của cán bộ, đảng
viên cần có quy định về chế độ cung cấp, cập nhật thông tin thường xuyên cho cán
bộ, đảng viên, bảo đảm quyền được thông tin của đảng viên. Là Đảng duy nhất cầm
quyền, một số cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ nguyên tắc tập trung dân
chủ đã dẫn đến lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đã có nhiều hình thức, phương
pháp tổ chức lấy ý kiến nhân dân, nhất là ý kiến của đội ngũ chuyên gia, các nhà
khoa học khi xây dựng văn bản pháp luật và một số đề án quan trọng khác, nhưng
có một số đề án chưa làm tốt việc đó dẫn đến chất lượng văn bản pháp luật không
cao, chưa được Quốc hội thông qua, như Đề án xây dựng đường sắt cao tốc Bắc -
Nam, ba đặc khu kinh tế... Một số văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý phát huy tốt
hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng kịp thời, như Luật Giám
sát và phản biện xã hội. Một số luật đã được ban hành, như Luật Trưng cầu ý dân là
văn bản pháp luật quan trọng để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong
việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường đoàn kết và
đồng thuận xã hội có hiệu lực từ ngày 1-7-2016, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ
chức triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính nhà nước, chính
quyền các cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh
vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù,
giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư...
Việc phát huy dân chủ ngoài xã hội còn nhiều hạn chế, một bộ phận nhân
dân còn bức xúc, khiếu kiện phức tạp. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các cơ quan chức năng, như Ban Dân nguyện của Quốc hội, Thanh tra
Chính phủ còn rất cao, nhưng tỷ lệ đơn, thư được giải quyết chưa được như mong
muốn. Theo số liệu của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tỷ lệ chính quyền không đối
thoại với công dân và không dự các phiên tòa đều tăng qua từng năm. Từ năm 2015

19
đến 2017, kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, cả nước có 11.180 quyết
định hành chính và hành vi hành chính bị tòa án hủy toàn bộ hoặc một phần. Các
nghị định và pháp lệnh về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại một số nơi chưa
được tổ chức thực hiện tốt. Những hạn chế, bất cập trên đây có cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Về khách
quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài và khó khăn, phức tạp, chưa có
tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá của các thế lực thù
địch tác động khá lớn vào quá trình phát huy dân chủ. Về chủ quan: Công tác
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hiện dân chủ trong Đảng, trong các
cơ quan nhà nước và ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chậm được lý
giải và thể chế hóa đầy đủ về mặt nhà nước.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để phát huy
tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Việc nghiên cứu, dự báo sự biến động về số
lượng, chất lượng, về tư tưởng các giai tầng xã hội để có các chủ trương, đường lối
lãnh đạo phát huy dân chủ sát, đúng, hiệu quả hơn chưa chủ động. Nhận thức,
phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát huy quyền làm chủ về chính
trị, kinh tế, xã hội, quyền dân sự còn những mặt hạn chế. Việc quản lý, giáo dục, rèn
luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa thường xuyên, đúng mức nên còn một bộ
phận vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở, không tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân.

CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Để phát huy dân chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn
nữa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh
công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về phát huy quyền làm chủ; giải

20
quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả. Tiếp tục
bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng.
Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Bổ sung quy định
về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ đi đôi với kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Bảo
đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyết định về công tác cán bộ phải được
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Công khai, minh bạch về chỉ tiêu, về kế
hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, thi nâng ngạch,  nâng 
bậc,  xét  danh  hiệu  thi đua, xét nâng hạng; tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, cơ cấu,
quy trình luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực hiện bỏ
phiếu kín đối với những nội dung cần biểu quyết trong công tác cán bộ, có quy chế
cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn
trong diện quy hoạch đều có cơ hội như nhau để thể hiện phẩm chất, năng lực của
mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện
bầu cử có số dư, bổ nhiệm cán bộ có cạnh tranh, thông qua thi tuyển hoặc bảo vệ
chương trình hành động. Đi đôi với phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có
quy định về kiểm soát, giám sát quan hệ lợi ích trong công tác cán bộ để công tác
cán bộ thực sự khách quan, công tâm. Tiếp tục thực hiện tốt chế độ Bộ Chính trị báo
cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung
ương; ban thường vụ báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp
cấp ủy; cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả quy định hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh hoạt
đảng, đưa hoạt động này thành chế độ nền nếp. Để thực hành dân chủ trong Đảng
đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm Quy định số 08-Qđi/TW, ngày 25-10-
2018, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước
hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng”. Trong nhiều nội dung về nêu gương phải coi trọng nêu gương về thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.

21
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối
của Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây
dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để thực hiện
đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Bộ máy phải được tổ chức
gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người dân tiếp
cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tài năng, trí tuệ, sáng tạo của
người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước phải bảo đảm và phát
huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng
chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp.
Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình
thức, tăng cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe nhân dân. Tăng cường dân chủ
ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc
của Nhà nước một cách thiết thực, phù hợp. Các cơ quan hành chính nhà nước,
chính quyền các cấp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm
chính sách, pháp luật được thực thi có hiệu quả. Tập trung chỉ đạo, điều hành thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các
thủ tục hành chính.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát
huy vai trò, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để
thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên
quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn viên,
hội viên.

22
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện
quyền giám sát và phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực phát huy dân chủ; vừa vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các
đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh, vừa tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sĩ, trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học tham
gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án phát triển kinh tế -
xã hội quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất, kiến nghị, nguyện
vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên, của cử tri để phản ánh cho Đảng, Nhà
nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Tham gia việc phát hiện, lựa chọn, giới
thiệu những người đủ đức, đủ tài, thật sự xứng đáng làm đại biểu nhân dân trong
Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, tăng
cường chức năng giám sát có trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ quan hành 
chính  nhà  nước,  chính  quyền  các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu. Trong tình hình hiện nay cần tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và
giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đối với chính quyền các cấp.
Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao đạo đức công vụ và tinh thần trách nhiệm
của công chức, viên chức với nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính
quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc phát huy dân chủ, chính là vai trò của
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, đơn vị trong cả hệ thống chính
trị. Ở đâu người đứng đầu có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền làm chủ của nhân
dân, về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và luôn luôn nêu gương về đạo đức, lối
sống, về thượng tôn pháp luật thì ở đó dân chủ được thực hiện tốt. Từng đồng chí bí
thư cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước, chính

23
quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, công
khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền, đề cao vai trò, tính tiên phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng
phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Trong thực tiễn việc lựa
chọn và bố trí người đứng đầu có đức, có tài, biết vận dụng một cách sáng tạo
những thành tựu của khoa học - công nghệ vào lãnh đạo, quản lý, biết tạo ra môi
trường dân chủ để phát huy trí tuệ, sáng tạo, đóng góp của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức là hết sức quan trọng gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Theo quy định của Đảng, người đứng đầu các cấp, các ngành phải định kỳ trực tiếp
tiếp công dân, đối thoại với công dân; có như vậy mới nắm được và đủ thẩm quyền
chỉ đạo giải quyết kịp thời những kiến nghị, đề xuất hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; đồng thời, chỉ đạo giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để
phát sinh các “điểm nóng”, vụ, việc phức tạp kéo dài.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các tầng
lớp nhân dân.
Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phổ biến, truyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân rất quan tâm đến
việc công khai các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến nhân dân, như các
chính sách an sinh xã hội (việc làm, lao động, tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm...).
Chính quyền các cấp phải công khai rộng rãi cho nhân dân biết các đề án quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất
đai... Công khai để nhân dân biết, góp ý và giám sát việc tổ chức thực hiện khi được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cấp ủy đảng, chính quyền phát huy vai trò của
báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng để phát động nhân dân đấu tranh
mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực của những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền mà
không sử dụng vũ khí công luận, không phát huy được vai trò làm chủ của quần

24
chúng thì khó có kết quả, hiệu quả. Từ đó, đấu tranh thực hiện dân chủ, kịp thời phê
phán những biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, lôi kéo
quần chúng phục vụ cho “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân vị kỷ...; đồng thời, phải
khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính dân chủ hình thức trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan
trọng của dân chủ trong việc phát triển xã hội và đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân. Việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam trong hơn 30 năm qua đã đạt được nhiều
thành tựu, đồng thời đối mặt với nhiều thách thức.
Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã có nhiều bước tiến quan trọng và ứng
dụng những sự đổi mới để khai thác tiềm năng kinh tế. Thành phần kinh tế tư nhân
phát triển mạnh mẽ và có đóng góp quan trọng, nhưng vẫn còn hạn chế cần khắc
phục.
Trong lĩnh vực chính trị, mặc dù còn tồn tại hạn chế về tham nhũng và tình
trạng chậm chạp trong thay đổi bộ máy nhà nước, nhưng Đảng và nhà nước đã từng
bước khắc phục những hạn chế này thông qua chính sách và chủ trương mới. Hệ
thống chính trị đã có những cải tiến về hiệu quả và hiệu lực, đồng thời dân chủ xã
hội được khuyến khích và phát huy hiệu quả.
Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội, dân chủ ngày càng được phát huy hiệu quả
hơn. Hệ thống pháp luật, chính sách, và giải pháp trong lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo
dục đã được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Trong khi hội nhập kinh
tế thế giới, người dân Việt Nam vẫn giữ được phẩm chất và truyền thống tốt, từ đó
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Để đạt được những mục tiêu này, tôi đề xuất một số giải pháp. Quan trọng
nhất là cải thiện thể chế và tạo điều kiện cho luật pháp minh bạch, công bằng, dân
chủ và văn minh. Chúng ta cần đoàn kết và đóng góp để đạt được sự phát triển bền
vững cho đất nước. Nhân dân cần phối hợp với Đảng và nhà nước để tìm ra mô hình
và thể chế phù hợp với Việt Nam. Điều này cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy khát
vọng của nhân dân về một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh và hạnh phúc.

25
DANH MỤC THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr.
515
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.
698
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1987, tr. 29
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85
(5) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, t.47, tr. 362, 363
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 238 – 239
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,
Hà Nội, 2016, tr. 217
(8) Nguyễn Thế Trung. (24/10/2019). Thực hiện phát huy dân chủ ở nước ta
hiện nay: Thực trạng và giải pháp. Truy cập từ https://daihoi.lamdong.dcs.vn/tin-
tuc-su-kien/ty pe/detail/id/6880/task/1862
(9) Nguyễn Phú Trọng. (16/05/2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ
https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-
nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
(10) Bùi Ngọc Thanh. (27/06/2021). Kinh tế thị trường và các vấn đề xã hội.
Truy cập từ https://daibieunhandan.vn/kinhte-thi-truong-va-cac-van-de-xa-hoi-
yridvk5jou-5938

26

You might also like