You are on page 1of 15

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN


Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Đề bài: Phân tích bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Liên
hệ với thực tiễn Việt Nam và hãy cho biết trách nhiệm của mỗi cá nhân trong
việc phát huy dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: Lê Nguyễn Thu An


Lớp: POHE Truyền thông Marketing 64
Mã sinh viên: 11220016

Hà Nội 2023
LỜI NÓI ĐẦU
Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng các
phương pháp khoa học biện chứng và tư duy hệ thống, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã phân tích, hệ thống hóa, có những quan điểm, tư tưởng, nhận
thức mới mang tính lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, trong đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những vấn đề
cốt lõi, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể Việt Nam, xây dựng một xã
hội tất cả là nhằm mục tiêu phát triển con người, vì cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc của nhân dân, sự phát triển bền vững. Thực hiện dân chủ
nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày
thành lập tới nay, Đảng luôn nhấn mạnh quyền làm chủ của nhân
dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước”. Sự khẳng định trên đây đã chỉ rõ: Nước ta chủ trương
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, vì vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là vấn đề quan trọng xuyên suốt quá trình cách mạng của nước
ta.
Với tư cách là một công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
việc nắm bắt rõ bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tình hình thực
tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tại nước ta hiện nay là vô cùng cần thiết.
Từ đó, mỗi cá nhân có thể tự đặt ra cho mình trách nhiệm trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam để cùng góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Xã hội chủ nghĩa
Hiện nay chưa có định nghĩa rõ ràng về xã hội chủ nghĩa là gì. Trong
định hướng của nước Việt Nam ta, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân

1
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đây có thể xem
là mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đặc trưng trong mô hình này
vừa phản ánh tinh thần của học thuyết Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vừa thể hiện tính dân tộc và có tính đến các đặc điểm của thời đại.
Qua phân tích trên có thể thấy, xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
2.1. Quan niệm về dân chủ
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, dân chủ là sản phẩm
và là thành quả của quá trình đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ
của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền,
là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã
hội.
Tựu trung lại, dân chủ có ba nội dung cơ bản:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Dân chủ là quyền lợi của
nhân dân – quyền dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân
chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước, là chính thể dân chủ hay chế
độ dân chủ.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức à quản lý xã hội, dân chủ là một
nguyên tắc – nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc
tập trung để hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
quản lý xã hội.
Có thể hiểu: Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ
bản của con người; là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm
quyền; có quá trình ra đời, phát triển cùng với lịch sử xã hội nhân loại.
2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền
dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm
trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

2
Để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân trong chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, ngoài yếu tố giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng Cộng
sản, đòi hỏi cần nhiều yếu tố như trình độ dân trí, việc tạo dựng cơ chế
pháp luật đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền
tham gia vào các quyết sách của nhà nước, điều kiện vật chất để thực thi
dân chủ.
2.3. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của dân chủ, dân
chủ xã hội chủ nghĩa có bản chất cơ bản sau:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai
cấp công nhân mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của
nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người,
thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu
xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát
triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công
nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và
tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ
đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời
nó kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu
những giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại
đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc… Trong nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng
cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này,
dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện
khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM


1. Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện cụ thể của Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển dân chủ theo hướng: (1) Dân chủ là
một giá trị nhân loại chung. Khi coi dân chủ là một giá trị xã hội mang
tính toàn nhân loại, Người đã khẳng định: Dân chủ là dân là chủ và dân
làm chủ. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”. (2) Dân chủ là một thể chế chính trị, một chế độ xã hội.

3
Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người
chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân” và “Dân
làm chủ thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì?
Làm đày tớ. làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách
mạng”.
Đảng ta đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ nước ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.
Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là dựa vào Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ
mà con người là thành viên trong xã hội với tư cách công dân, tư cách của
người làm chủ.
Dân chủ là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa (dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh).
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa (do nhân dân làm chủ,
quyền lực thuộc về nhân dân).
Dân chủ là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội (phát huy sức mạnh
của nhân dân, của toàn dân tộc).
Dân chủ gắn với pháp luật (phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương).
Dân chủ phải được thực hiện trong đời sống thực tiễn ở tất cả các cấp,
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội.
Cụ thể hơn như sau:
Thứ nhất, về bản chất chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về
Nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Mô hình chính trị
và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân là chủ”. Hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân,
do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một
thiểu số giàu có. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh toàn diện. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa,
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các
chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh
phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Sự khác nhau giữa Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là:
“pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ

4
và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.
Thứ hai, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường hiện
đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của
kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa đầy đủ, vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng cho rằng đó là “sự sáng tạo của Đảng ta”, vì kinh tế thị
trường là giá trị chung của nhân loại, chứ không phải là giá trị riêng của
giai cấp tư sản và chủ nghĩa xã hội kế thừa giá trị nhân loại để phát triển
hơn là hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, về bản chất tư tưởng – văn hóa – xã hội của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội phát triển hài hòa, tiến bộ, công
bằng vì con người. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định ở
những nước tư bản thường diễn ra: Những tình huống “phát triển xấu”,
những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn
sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội… Còn ở nước ta
thường xuyên đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất
lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời
sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết
tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây
dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng
trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

5
Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông
qua các hình thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Thông qua thực tiễn, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam càng ngày càng thể hiện giá trị lấy dân làm
gốc. kể từ khi khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay,
nhân dân thực sự trở thành người làm chủ, tự xây dựng, tổ chức quản lý xã
hội. Đây là chế độ bảo đảm quyền làm chủ trong đời sống của nhân dân từ
chính trị, kinh tế cho đến văn hóa, xã hội; đồng thời phát huy tính tích cực,
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Nói một cách khác, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ
thấm nhuần đầy đủ và sâu sắc nhất tính pháp lý và tính nhân văn. Khẳng
định điều này, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Chúng ta
cần một xã hội, mà trong đó, sự phát triển là thực sự vì con người, chứ
không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”.
2. Thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trên cơ sở những quan niệm về dân chủ, nhất là tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khi
nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động”.
Ba mươi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới, ba mươi năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nhận thức về dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước phát
triển mới: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn
liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động
của Nhà nước do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp
luật và được pháp luật bảo đảm”.
Nội dung cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

6
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận
hành nền kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng
kinh tế luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát
triển văn hóa, phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế
ngày càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Công bằng trong phân phối
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội. Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng
dân chủ chính trị, thực hành ngày càng rộng rãi và thực chất quyền lực
chính trị của nhân dân, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và
dân chủ trực tiếp.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Thượng tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất cả các thành viên xã hội
được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đảng vừa là bộ
phận cấu thành của hệ thống chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chính trị và Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo
có chức năng thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
thành các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ và thống nhất. Nhân dân
làm chủ thông qua các cơ quan đại diện và làm chủ trực tiếp qua cơ chế
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và
sâu sắc. Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền
con người được đề cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực
hiện các công ước quốc tế liên quan quyền con người mà Việt Nam đã ký
kết và tham gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở, coi trọng phản biện xã hội, đề
cao thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp,
nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân

7
bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng
viên; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan
nhà nước và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần đổi mới
phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, uy tín của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể nhân dân.
Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân
chủ, là phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói
quen thảo luận và bảo đảm quyền tự do ngôn luận để khích lệ cá nhân, các
tổ chức tham gia thảo luận về các vấn đề quan trọng của quốc gia. Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân bao hàm hoạt động giám sát và phản biện xã hội, nhất là phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần
tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về quyền giám sát của nhân dân, cơ
chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà
nước.
Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn
chế, thực hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân
chưa hoàn toàn được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo
đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
3. Định hướng xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một yêu cầu tất
yếu là không ngừng củng cố, hoàn thiện những điều kiện đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Các quy chế dân chủ từ cơ sở cho đến Trung ương và trong các tổ
chức chính trị - xã hội đều thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân hưởng thụ”. Đảng ta khẳng định:
“Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam nêu 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 với
nhiều nội dung quan trọng. Việc thực hiện thắng lợi các định hướng phát
triển mà Đại hội đã đề ra không chỉ đưa Việt Nam trở thành nước phát
triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao mà còn đưa nền

8
dân chủ xã hội chủ nghĩa lên một bước phát triển mới. Liên quan trực tiếp
đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới Đảng đã xác
định các định hướng lớn sau:
Một là, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh với
tư cách điều kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với
tư cách điều kiện để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản
biện xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Ngoài ra, cần nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho toàn thể xã hội
(cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, nhân dân,…). Khối đại đoàn kết
toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường trong bối cảnh
đất nước còn nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân… phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng
Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội; thường xuyên tổ chức các cuộc
vân động, phong trào thi đua yêu nước, góp phần tích cực vào những thành
tựu chung của đất nước.
Để thực hiện thành công các định hướng liên quan đến dân chủ xã hội
chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng xác định một số giải pháp chủ yếu sau:
Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh
thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội [bổ sung, phát triển năm 2011] và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt,
có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”. 
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng,
các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức,

9
viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo
đức xã hội.
Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm
chủ của nhân dân.
Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm
của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức.
Động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã
hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng và quản lý, thụ hưởng
văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao
nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân,
thế trận lòng dân.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ,
gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ,
làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
4. Trách nhiệm cá nhân trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
Ngày nay, mỗi công dân Việt Nam đều có trách nhiệm của bản thân
mình cũng như trách nhiệm của gia đình, xã hội và trách nhiệm cao hơn
hết đó là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ lãnh thổ của nước ta. Chính vì vậy, mỗi
cá nhân cần rèn luyện đạo đức ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
rèn luyện lối sống văn hóa, ứng xử văn minh với mọi người. Có tinh thần
trách nhiệm của một công dân mẫu mực, ý thức chấp hành pháp luật,
phòng chống tiêu cực, tệ nạn xã hội, hành vi pháp luật và đạo đức xã hội
Tích cực học tập nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng; tiếp cận, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tiễn. Chủ động tìm hiểu thị
trường lao động; lựa chọn nghề, việc làm phù hợp; trau dồi tinh thần trách
nhiệm, kỷ luật lao động và đạo đức nghề nghiệp; sáng tạo, cải tiến công
nghệ để tăng năng suất lao động.
Đào tạo, bảo vệ, điều dưỡng, nâng cao sức khỏe, phát triển thể chất,
tinh thần; trang bị kiến thức, kỹ năng sống, sức khỏe sinh sản, sức khỏe
tình dục, phòng, chống dịch bệnh; không lạm dụng rượu, bia; hạn chế sử

10
dụng thuốc lá; không sử dụng các chất gây nghiện và các chất kích thích
khác bị cấm theo quy định của pháp luật; phòng, chống tác hại của không
gian mạng.
Tích cực tham gia các hoạt động, phong trào văn hóa, thể dục, thể thao
lành mạnh; bảo vệ, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Trong xã hội ngày càng đổi mới đất nước, nâng cao tinh thần trau dồi
thực tiễn và vận dụng vào công việc để phát huy được đúng bản chất. Khi
có điều kiện và cơ hội, bản thân nên chủ động học hỏi, tiếp thu, cập nhật
kiến thức mới, sẵn sàng hội nhập quốc tế.
Đặc biệt, những năm gần đây, đại dịch Covid-19 trên toàn cầu đang là
một vấn đề được cả thế giới quan tâm gây ảnh hưởng nặng nề lên cả nền
kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam cũng không ngoại lệ. Là một công dân của
nước Việt Nam, các cá nhân cần giữ vững tâm thế, nêu cao tinh thần đoàn
kết toàn dân tộc, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, cùng
gây dựng lại một nền kinh tế vững mạnh.

KẾT LUẬN
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến
tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng.
Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự
nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Qua hơn
35 năm đổi mới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành một động lực
quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; dưới sự lãnh đạo của Đảng đang
tạo ra những nguồn lực mới cho việc tiếp tục tăng cường, phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong giai đoạn mới. Với bản
chất dân chủ đặc thù trong biểu hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước
ta, quan điểm về tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân không ngừng được hoàn thiện qua mỗi kỳ đại hội.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn cần tiếp tục được thực hiện, đánh
giá, rút kinh nghiệm và tiếp tục hoàn thiện nhằm hiện thực hóa quan điểm:
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chính vì thế, mỗi công dân cũng cần

11
có ý thức trách nhiệm cá nhân trong việc phát huy nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã cố gắng tìm tòi với tinh thần trách nhiệm, song do kiến thức
còn nhiều hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong cô góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện thêm kiến thức và rút kinh
nghiệm cho những bài tập tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Tuấn Nghĩa (Chủ tịch hội đồng biên soạn), Nguyễn Quang Thuấn,
Trần Kim Hải, Đoàn Xuân Thủy, Tô Đức Hạnh, Nguyễn Minh Khải,
Ngô Tuấn Nghĩa, Phạm Văn Dũng, Nguyễn Hồng Cử, Nguyễn Minh
Tuấn, Phạm Quang Phan (2019). Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác –
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, trang 114-115.
3. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam.
4. Nguyễn Văn Dương (2022). Lý luận về hàng hóa sức lao động của
C.Mác với thị trường sức lao động Việt Nam,
https://luatduonggia.vn/li-luan-ve-hang-hoa-suc-lao-dong-cua-c-mac-
voi-thi-truong-suc-lao-dong-thi-truong-lao-dong-o-viet-nam-hien-nay/,
truy cập ngày 13/04/2023.
5. Lê Phương Hòa (2021). Dịch chuyển lao động nông nghiệp Việt Nam:
Một số hàm ý chính sách,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/823349/dic
h-chuyen%20lao-dong-nong-nghiep-o-viet-nam--mot-so-ham-y-chinh-
sach.aspx, truy cập ngày 13/04/2023.
6. Lưu Hà Chi (2021). Xuất khẩu lao động là gì? Các hình thức xuất
khẩu lao động, https://luanvanviet.com/xuat-khau-lao-dong-la-gi-cac-
hinh-thuc-xuat-khau-lao-dong-hien-nay/, truy cập ngày 13/04/2023.
7. Thu Hằng (2023). Xuất khẩu lao động năm 2022 tăng cao nhất trong 3
năm trở lại đây, https://thanhnien.vn/xuat-khau-lao-dong-nam-2022-
tang-cao-nhat-trong-3-nam-tro-lai-day-1851539592.htm, truy cập ngày
13/04/2023.
8. Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2022,
https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2023/01/thong-cao-bao-chi-
12
tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-iv-va-nam-2022/, truy cập ngày
13/04/2023.
9. Hân Nguyễn (2023). Thị trường lao động năm 2022 vẫn có nhiều điểm
sáng, https://dangcongsan.vn/kinh-te/thi-truong-lao-dong-nam-2022-
van-co-nhieu-diem-sang-629640.html, truy cập ngày 13/04/2023.
10. Phạm Thị Thu Lan (2021). Thị trường lao động trong nền kinh tế thị
trường hiện đại, đầy đủ,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/821657/thi
-truong-lao-dong-trong-nen-kinh-te-thi-truong-hien-dai%2C-day-
du.aspx, truy cập ngày 13/04/2023.
11. Khánh Linh (2023). Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả
nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội, https://baochinhphu.vn/phat-
trien-thi-truong-lao-dong-linh-hoat-hieu-qua-nham-phuc-hoi-nhanh-
kinh-te-xa-hoi-10223011018520434.htm, truy cập ngày 13/04/2023.

Cnxh:
https://luatminhkhue.vn/chu-nghia-xa-hoi-va-xa-hoi-chu-nghia-khac-
nhau-nhu-the-nao.aspx#12-xa-hoi-chu-nghia

13
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-
te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-
phat-trien.aspx
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/dan-chu-la-ban-chat-cua-che-
do-xhcn-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-luc-cua-cong-cuoc-xay-dung-
cnxh-580982.html
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
ngày 16 tháng 5 năm 2021
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, tr.70
7), (8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, tr.27, 89
https://daihoi.lamdong.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/thong-tin-tong-hop/type/
detail/id/28328/task/1865
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/
2018/817155/phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-
nay.aspx
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/xay-dung-nen-dan-chu-xa-hoi-
chu-nghia-bao-dam-quyen-lam-chu-thuc-su-cua-nhan-dan-trong-cong-
cuoc-doi-moi-o-viet-nam.html
https://hcma2.hcma.vn/nghiencuukhoahoc/Pages/con-duong-di-len-
cnxh.aspx?ItemID=12199&CateID=0

14

You might also like