You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

BÁO CÁO TIỂU LUẬN


MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

CHỦ ĐỀ
Những nhân tố và giải pháp bảo đảm việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN

Thái Nguyên, tháng 07 năm 2022

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN & TRUYỀN THÔNG

1
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

BÁO CÁO TIỂU LUẬN


MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

CHỦ ĐỀ
Những nhân tố và giải pháp bảo đảm việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN

Sinh viên thực hiện : QUÀNG ĐỨC ĐẠT


Lớp : CNTT K20 CLC
Mã sinh viên : DTC2154802014011
Giảng viên : TRẦN THÙY LINH

Thái Nguyên, tháng 07 năm 2022

2
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:…………………………………………………………………4

- Thực trạng nên kinh tế nước ta hiện nay.


- Lý đo chọn đê tài.

B. NỘI DUNG:…………………………………………………………………….5

I. Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. Xã hội chủ nghĩa là gì? 5


2. Khái niệm về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 6
3. Việc phát triên nên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. 7

II. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
Nghĩa. ……………………………………………………………………………… 7

2.1. Tính tất yêu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. 7
2.2. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế. 9
2.3. Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phân kinh tế. 10
III. Những nhân tố và giải pháp bảo đảm việc phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa……………………………. 10
3.1. Giải pháp khắc phục khó khăn. 11
3.2. Tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. 11
3.3. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. 12

C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………….16

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..17

3
A .ĐẶT VẤN ĐỀ.

Đổi mới kinh tế Việt Nam là một cao trào của toàn dân ta do Đảng Cộng Sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1986.

Năm 1980 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự
cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác, do những sai lầm trong nhận
thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng
trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp.

Đứng trước bói cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới kinh
tế. Từ 1986, trên cơ sở quan điểm toàn điện nhận thức rõ về thực trạng đất nước cùng với những
thành tựu trong những năm đầu đổi mới đến năm 1991 tại Đại hội lần VI, Đảng ta đã tới quyết
định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyên sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.

Đường lối đó được thực hiện trên mười năm đối mới đã đem lại những thành tựu đáng
khích lệ chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía
sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và
hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Đây là việc làm thiết thực và rất cần thiết đối với vận
mệnh đất nước vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài: "Quan điểm toàn điện với việc phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay" để nghiên cứu.

Hơn nữa. đây là đề tài mang giá trị thực tiễn và giá trị khoa học lớn góp phần làm sáng tỏ
quan điểm toàn điện của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó sự tồn tại quá lâu của cơ chế kinh tế cũ đã
ăn sâu bám đễ duy nhận thức, vào quan điểm và cách thức điều hành, quản lý kinh tế của chính
phủ nên việc chuyền từ nền kinh tế nhỏ sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đòi hỏi phải
có sự xem xét một cách toàn diện, cụ thể những điều kiện của nước ta. Đây là bài tiểu luận của
em nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức, kính mong thầy cô
giáo sửa chữa và góp ý cho em để em có thể hoàn thành bài luận tốt hơn.

4
B. NỘI DUNG.

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VỚI VIỆC PHÁT TRIÊN
NÈN KINH TÉ HÀNG HOÁ NHIÈU THÀNH PHÀN THEO ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Nói đến quan điểm toàn điện với vấn đề trước hết ta phải hiểu được nền kinh tế hàng
hoá là gì? xã hội chủ nghĩa là gì? thế nào là thành phần kinh tế và tại sao phải phát triển nền
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một hướng khác.

1.1. Khái niệm về xã hội chủ nghĩa (XHCN)

Vào tháng 6 - 1996 tại Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định.

Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
chủ yếu có nền văn hoá đậm đà bản sắc đân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc
lột, mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động.
Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khỏ pháp luật, có
điều kiện đề phát triển toàn điện cá nhân các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp
đỡ lẫn nhau để cùng tiễn bộ, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân đân tắt cả các nước trên
thế giới.

Theo Mác, XHCN đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển
cao song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực dân, Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc đưa đất
nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Việt Nam - một nước kinh tế chưa phát triển còn nghèo
nàn, lạc hậu đã đi theo con đường XHCN, định hướng XHCN ở nước ta ngày càng được giữ
vững và không ngừng phát triển đặc biệt là định hướng về chính trị, xã hội và kinh tế.

5
1.2. Thể nào là nền kinh tế bằng hoá?

Nền kinh tế bàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm sản xuất ra để bán,
trao đổi trên thị trường, Trong kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối, trao
đổi - tiêu dùng sản xuất ra cái gì, cho ai đều thông qua mua bán và hệ thống thị tường và do
thị trường quyết định.

(Trích Đăng cộng sân Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lân thứ VII. Nhà XB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1996 tr79 ).

Do nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng kém hiệu quả, chưa làm tốt vai trò chủ
đạo. Kinh tế hợp tác chậm đối mới, số tổ chức hợp tác trước kia chỉ còn tổn tại 10%, Nhiều
hình thức hợp tác mới ra đời nhưng chưa được tổng kết, đánh giá. Nhà nước lại chưa có sự
giúp đỡ nên phương hướng hoạt động còn nhiều vướng mắc lúng túng. Để kinh tế hợp tác
hoạt động đúng hướng Nhà nước phải sớm hoàn thiện luật kinh tế hợp tác để tạo hành lang
pháp lý cho quá tình hoạt động của thành phần kinh tế này. Không có sự định hướng của Nhà
nước, nó sẽ không liên kết hợp tác với kinh tế Nhà nước, xa rời Nhà nước và xa dần định
hướng mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Do việc quản lý các đoanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở. Phần lớn kinh tế tư bản Nhà
nước chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Sự liên doanh của Nhà
nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản lý các liên doanh có vấn đầu tự của nước ngoài côn
nhiều sơ hở nghiệm trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như: Giao thông công nghệ lạc
hậu, khai man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biển. Những thành phẫn kinh
tế tiêu biêu cho lực lượng quyết định định bướng xã hội chủ nghe còn non kém. Chúng chưa
phát huy được tính việt so với sân xuất nhỏ, Sự non kém đó cùng với năng lực quản lý điều
hành yếu kém là nguy cơ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế - xã hội cần nhận thức tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là một tất yếu
khách quan từ đó có thái độ đúng đăn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo
định hướng XHCN.

6
1.3. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột. đi tới
chế độ công hữu các tư liệu sản xuất thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống
cao. Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một mặt kinh tế công bằng
không có nghĩa là bình quân. Đó là một quá trình tiệm tiến dần dần thông qua các biện pháp
kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế kinh tế của xã hội chủ nghĩa so
với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là là khả năng từng bước rút ngắn khoảng cách giàu -
nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thẻ dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta
thừa nhận còn có bóc lột. đây là hiện tượng không hợp lý cần xoá bỏ.

Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng
nhiều biện pháp không làm tôn hại đến lợi óch hợp pháp của công dân. Bước đầu chìa khoá
đề giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội.

Định hướng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
phát triền lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Vừa hình thành được cơ cấu đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình chuyên hướng và đổi
mới nền kinh tế theo định hướng XHCN là một nguyên tắc, một vấn đẻ chiến lược quan
trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta.

II. NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIÊU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

2.1. Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.

Sau khi giai cấp công nhân và nhân đân lao động giành chính quyền tiếp quản nền kinh
tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu: tư hữu lớn
bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp của các chủ tư bản trong và ngoài nước. Đó là kinh

7
tế tư bản chủ nghĩa, tư hữu nhỏ gồm những người nông dân cá thẻ, những người buôn bán
nhỏ. Đó là sản xuất nhỏ cá thể.

Đề xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới Nhà nước ta xây đựng và phát triển các thành
phần kinh tế mới. Đối với tư hữu lớn. Kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là
quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định không nền
quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giai đoạn và bằng hình thức,
phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể cho nên doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư
bản chủ nghĩa còn tồn tại như một tất yêu kinh tế đồng thời hướng chủ nghĩa tư bản và con
đường Nhà nước hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.

Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà
Lênin đã vạch ra là tự nguyện. dân chủ, cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy luật khách
quan. Do đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thê, tiếu chú.

Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với
sản xuất và đời sóng bởi vậy không thê bỗng chốc xoá bỏ ngay được. Trong xu thê quốc tế
hoá đời sóng kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa
có thê liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài làm hình thành kinh tế
tư bản Nhà nước.

Mặt khác sự phát triên kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điềm lịch sử, điều kiện chủ quan,
khách quan nên tắt yếu có sự phát triên không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các
ngành. các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước
hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ
sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại
các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn.

Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở
Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá là do: phần
công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chăng những không
mắt đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ở nước ta ngày càng có nhiều
ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay được

8
khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú. đa dạng chất lượng cao.
mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc
gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tòn tại
nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh
doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh
doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông
qua hình thái hàng hoá - tiền tệ đẻ thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi ích giữa các
tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tô chức kinh tế thuộc các thành
phần với nhau. Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan hay cản trở quá trình tiền tệ hoá
các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác nhau sẽ
kìm hãm sự phát triên của nền kinh tế nước ta.

Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không
phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tắt yêu khách quan rất cần thiết cho sự phát
triển của nền kinh tế nước nhà. Đề thấy được tính quan trọng bức thiết của vấn đề đó ta đi sâu
nghiên cứu từng thành phần kinh tế.

2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.

Các thành phần kinh tế nước ta có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, về cách
thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh
tế và xã hội ta vì vậy mỗi thành phần kinh tế đều là mộ bộ phận của nèn kinh tế quốc đân.
Chúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của
Nhà nước.

2.3Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phân kinh tế.
Thành phần kinh tế quốc doanh (kinh tế Nhà nước), thành phần kinh tế tập thể (hợp
tác), thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, thành phần kinh
tế cá thể tiểu chủ.
Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế được tóm tắt thành 3
điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân
dân.

9
Mục tiêu cũng chính đã thể hiện nhất quán từ hội nghị Trung ương lần thứ VI khiến Đảng ta
phải ban hành những chính sách để khuyến khích sản xuất trong chính sách phát triển 5 thành
phần kinh tế chúng ta vẫn thấy cần thiết thực sự lưu ý đến các thành phần mà trước đây gọi là
phi XHCN, là đối tượng phải cải tạo ngay khi bước vào thời kỳ xây dựng CNXH.

Chẳng hạn như chính sách khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, tạo
điều kiện thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài.

III. Những nhân tố và giải pháp bảo đảm việc phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3.1. Giải pháp khắc phục khó khăn.

3.1.1 Mở rộng phân công và phân công lao động xã hội

Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm.
Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh
tế với nước ngoài
3.1.2.Giải quyết vấn đề sở hữu

Thực chất của quan hệ sở hữu là qg lợi ích, mà lợi ích đó lại được thể hiện ở quyền sở
hữu, quyền sử dụng, quỳen làm chủ quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra.
Bảo đảm lợi ích không chỉ phản ánh ở nguyên tắc phan phối mà còn ở những hình thức phân
phối ehể hiện trong quan hệ sở hữu và phải được thể chế hoá.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hó của nền kinh tế.
Cần xây dựng các loại hình sở hữu, quy mô và cấp độ phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh
vực sản xuất kinh doanh.

3.1.3. Xây dưng cơ sở hạ tầng.

Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò quan
trọng cho sự phát triển kinh tế hàng hoá.

10
Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đòng bộ, cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở
nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài; cản trở phát triển
kinh tế hàng hoá ở mọi miền đất nước.

Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó.

3.2. Tránh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

“Chệch hướng” trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay không phải là “chệch hướng”
so những khái niệm trừu tượng vốn chưa có “sự thống nhất cao”, mà gắn với những mục tiêu
thực tế mà Đảng ta, với tư cách là một đảng phấn đấu vị lợi ích của nhân dân lao động và
toàn thể dân tộc, đã chỉ rõ trong Cương lĩnh, trong đường lối, chủ trương phát triển đất nước.
Nếu lấy tiêu chí để định vị “chệch hướng” hay không “chệch hướng” là lợi ích nhân dân, của
dân tộc, chúng ta dễ dàng nhận thấy nền kinh tế chúng ta thời gian qua đã “chệch” khá xa
sang hướng vì lợi ích của các “nhóm lợi ích” cục bộ, mà việc gọi tên, vạch rõ đặc điểm, bản
chất những “lợi ích nhóm” này cần phải có một nghiên cứu khác.

Sự “chệch hướng” biểu hiện khá rõ trong nhận thức, tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và trong rất nhiều hành vi cụ thể của nhiều cơ
quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, doanh nghiệp… Sự “chệch hướng” là
rõ ràng.
Cần có những giải pháp quyết liệt, nhanh chóng, toàn diện từ chính trị, kinh tế, xã hội;
từ trong nhận thức, trong hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện…để đưa con tàu kinh tế
đất nước vào đúng quỹ đạo “xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, phấn đấu cho một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn
minh.

3.3. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Tư tưởng chỉ đường đó đã thật sự trở thành ngọn nguồn cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam từ khi có Bác, có Ðảng và hiện nay đi lên chủ nghĩa xã hội là hiện thực cuộc
sống, là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết
quan trọng mới đây nhất "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", GS, TS Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban

11
Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam đã khái quát sâu sắc một nhận thức tổng
quát về con đường này: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân là chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".

Con đường đó cũng chính là những định hướng giá trị đích thực của xã hội phát triển
hài hòa, toàn diện mà Tổng Bí thư đã chỉ ra dứt khoát là "chúng ta cần một xã hội mà trong
đó sự phát triển là thực sự vì con người", là tầm nhìn phát triển của Việt Nam mà Ðại hội
XIII của Ðảng đã đề ra đến năm 2045
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu, xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến
thiết đất nước là một cuộc đấu tranh khổng lồ, khó khăn và phức tạp; do vậy cần phải được
chuẩn bị cẩn thận, kỹ càng và chu đáo để tránh rơi vào bị động, vấp váp và sai lầm. Vai trò
nhận thức vấn đề rồi giáo dục, tổ chức, tập hợp và dựa vào sức mạnh của quần chúng để thực
hiện công cuộc cách mạng đó trước hết phải là thuộc về Ðảng tiên phong. \
Bài viết của Tổng Bí thư cũng tiếp tục quán triệt và khẳng định: "Cả lý luận và thực tiễn đều
cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không
hề đơn giản, dễ dàng. Ðây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một
sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.
Như vậy, để hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó việc nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Ðảng có
vai trò đặc biệt quan trọng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng mới có thể bảo vệ vững chắc vị trí
lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Ðảng, mới có thể kiên định được vững vàng về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
. Ðại hội XIII của Ðảng đã đề ra 10 nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng,
chỉnh đốn Ðảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền
gồm: (I) tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị; (II) coi trọng xây dựng Ðảng về tư tưởng;
(III) tập trung xây dựng Ðảng về đạo đức; (IV) đẩy mạnh xây dựng Ðảng về tổ chức; tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị;

12
(V) củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; (VI) tăng cường
xây dựng Ðảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu; (VII) tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (VIII) thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; (IX)
kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; (X) tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương thức lãnh đạo của Ðảng trong điều kiện mới.
Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền của Ðảng, hiện nay cần coi trọng một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, nắm vững những yêu cầu căn cốt nhất đối với Ðảng cầm quyền. Là hạt
nhân chính trị của hệ thống chính trị và giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền, yêu cầu cốt lõi đối
với Ðảng cầm quyền đó là: (1) xác định được tầm nhìn và hoạch định được đường lối chính
trị đúng đắn trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh với đặc trưng sáng tạo, khoa học và cách mạng mà Tổng Bí thư khẳng định "là những
giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện"; (2) lãnh
đạo để xây dựng được một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân, làm cho nhà nước thật
sự là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; (3) xây dựng được đội ngũ cán bộ cầm
quyền có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn - nghiệp vụ cao, có kỹ năng lãnh
đạo và quản lý để làm cho đường lối đó thành hiện thực ở cơ sở.
- Thứ hai, nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Ðảng. Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân,
Ðảng dễ sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đi tới thành công. Mỗi cán
bộ, đảng viên, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào cũng phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ðó là sự lựa chọn duy nhất đúng và được thực tiễn kiểm
nghiệm; kiên quyết giữ vững nguyên tắc lãnh đạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và giữ gìn
sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng.
- Thứ ba, nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn
của Ðảng. Ðó cũng là điều kiện để Ðảng có bản lĩnh chính trị độc lập, vững vàng, không lúng
túng trước khó khăn, thử thách; không dao động trước sự tiến công, xuyên tạc từ bên ngoài;
là phương thức hiệu quả nhất để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bảo thủ và
xét lại. Yêu cầu cấp bách hiện nay là, Ðảng phải mau chóng khắc phục sự lạc hậu về nhận
thức lý luận, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nhằm bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh lên tầm cao mới. Trong đó, tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về nền kinh tế thị trường

13
định hướng xã hội chủ nghĩa; về vấn đề đảng cầm quyền; cơ sở lý luận và thực tiễn của
đường lối đổi mới trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu, rộng,...
- Thứ tư, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, phát huy sức mạnh, hiệu quả của hệ thống chính
trị, nhất là nhà nước. Ở nước ta, đặc thù của hệ thống chính trị được xác lập trên cơ sở mối
quan hệ mật thiết giữa các chủ thể trong cơ chế vận hành "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ". Cơ chế này phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ XHCN
ở Việt Nam, trong đó mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, phát huy
tính hiệu quả của nền dân chủ XHCN đã được chế định trong Hiến pháp, pháp luật. Mặc dù
vấn đề kiểm soát quyền lực đã có những quy định, quy phạm để thực hiện; tuy nhiên trong
quá trình thực hiện vẫn còn những vấn đề mới, phức tạp, cần tiếp tục làm sáng tỏ cả về lý
luận và thực tiễn trong điều kiện Ðảng duy nhất cầm quyền, nhằm kiểm soát tốt quyền lực,
phục vụ sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa
mối quan hệ "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ", nhất là nội dung Nhân
dân làm chủ và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân
thụ hưởng". Ðảng phải xác định đúng đắn mục tiêu, quan điểm, lộ trình và các giải pháp đổi
mới thông qua xây dựng các nghị quyết, chiến lược đổi mới hệ thống chính trị; mặt khác,
Ðảng phải trực tiếp tổ chức các quá trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quan điểm,
chủ trương và phương hướng đổi mới của từng thành tố trong hệ thống chính trị.

14
C. KẾT LUẬN.
Tăng trưởng là điều kiện cần, là phương tiện, còn phát triển là động lực, là mục
tiêu của nền kinh tế.
Bền vững về môi trường là giữ gìn được không gian sinh tồn của con người
cung cấp được tài nguyên, chứa đựng, xử lý được các phế thải, bền vững về xã hội là
mở rộng cơ hội lựa chọn, nâng cao năng lực lựa chọn, mọi người cùng được tham gia
và hưởng lợi từ quá trình phát triển.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Trần Đình Mạnh, Trần Đình Hùng (2018), Phát triển kinh tế Việt Nam
theo hướng bền vững, Tạp chí Tài chính, Kỳ 2 tháng 6/2018.
2. Tổng cục Thống kê (2019), Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm
2019.
3. Thanh Hằng (2019). Kỷ lục mới của kinh tế Việt Nam,
http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Ky-luc-moi-cua-kinh-te-Viet-Nam/382604.
vgp
4. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/nang-cao-nang-luc-lanh-dao-cam-
quyen-cua-ang-de-phat-trien-ben-vung-dat-nuoc-646997/
5. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/1833-
nhan-to-chu-quan-trong-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu-nghia-o-nuoc-ta-hien-nay.html#:~:text=Nh%C3%A2n%20t%E1%BB
%91%20ch%E1%BB%A7%20quan%20trong%20ph%C3%A1t%20tri

15
%E1%BB%83n%20kinh,%E1%BB%9F%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
%20ta%20l%C3%A0%20kh%C3%B4ng%20th%E1%BB%83%20ph
%E1%BB%A7%20nh%E1%BA%ADn.
6. Giáo trình triết học Mác-Leenin (2012).

16

You might also like