Professional Documents
Culture Documents
+ Trong thời kì này lãi suất,.. chỉ được dùng để đo lường và thống kê 1 cách
hình thức mà không mang lại giá trị trao đổi
+ Thể chế, chính sách thiếu thống nhất, các thủ tục hàng chính còn rườm rà
+
3. Quá trình chuyển đổi nhận thức từ nền KTBC sang nền KTTT của
Đảng
- Vấn đề được đặt ra ở đây là: Kinh tế bao cấp có nhiều hạn chế (điều này thể hiện
thông qua cơ chế quản lí) nhưng tại sao Việt Nam vẫn chọn áp dụng mô hình này?
Đây là thời gian sau năm 1975, Việt Nam phải khắc phục hậu quả nặng nề của
chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc và xây dựng lại miền Nam.
Nhà nước muốn tiếp tục sử dụng mô hình kinh tế bao cấp là vì nó đã từng phát
huy tác dụng tốt trong giai đoạn chiến tranh trước đó.
Sau năm 1975, hoàn cảnh của Việt Nam rất khó khăn, phải chi tiêu rất nhiều
cho quốc phòng; trong khi đó sự giúp đỡ của các nước đồng minh cũng không
còn như trước, do vậy việc phân phối hàng hóa thiết yếu theo chế độ tem phiếu
bao cấp vẫn cần tiếp tục duy trì trên phạm vi cả nước.
Nhóm 5 xin kết luận lại vấn đề trên bằng 1 câu hỏi là: Tại sao ĐCSVN lại quyết
định thay đổi tư duy kinh tế từ TTBC sang KTTT
Thời kì bao cấp đã để lộ ra rất nhiều những hạn chế sau khi thời chiến qua đi và đã
để lại nhiều hậu quả nặng nề cho không chỉ có nền kinh tế mà cả giáo dục và văn hóa
như là…
Nảy sinh cơ chế “xin – cho”, tăng gánh nặng đối với ngân sách.
Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ .Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế
độ “cấp phát – giao nộp”.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, cấp trung gian kém năng động,đội ngũ quản lý kém
năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao
hơn người lao động.
Không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã triệt tiêu động lực tăng
trưởng đến mức “cả nước làm không đủ ăn” là đặc trưng kinh tế Việt Nam 11 năm
sau khi đất nước thống nhất. Có thể nói những áp lực nêu trên đã để lại cho Đảng
một ảnh hưởng tâm lý vô cùng nặng nề buộc kinh tế Việt Nam phải đổi mới và
chính thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người
dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, bãi
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng
đắn tập trung dân chủ.
II. Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT.
1. Khái niệm “KTTT”, “CCTT”
KTTT: là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu
cùng tham gia, cùng vận động và phát triển, cạnh tranh bình đẳng và ổn định
CCTT: là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường cùng các mối quan
hệ cơ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường trong môi
trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận
- Tại sao phát triển kinh tế đất nước lại phải thúc đẩy kinh tế thị trường ?
Khác với nền KTBC thì nền KTTT mở ra một nền kinh tế mở
Chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh, lỗ, lãi tự chịu. Khác với TTBC là nhà nước cấp vốn và giao chỉ tiêu,
lãi, lỗ nhà nước chịu
Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ
và hoàn hảo. Ở kinh tế TTBC, giá cả do nhà nước quy định để khống chế sức
mua của nhân dân, khiến nhiều mặt hàng có giá trị thập hơn giá trị thực của nó
Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của KTTT.
Rõ ràng, việc xuất hiện đa dạng của các thành phần kinh tế làm xuất hiện sự
cạnh tranh giữa chúng, tạo động lực to lớn để phát triển nền kinh tế đất nước.
Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Phát
triển nền kinh tế theo khuôn khổ pháp luật, chứ không còn tình trạng các cơ
quan hành chính can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất nhưng lại không chịu
trách nhiệm với các quyết định của mình như ở kinh tế TTBC
2. Sự hình thành tư duy đổi mới về KTTT của ĐCSVN
Quá trình này diễn ra qua 2 giai đoạn chính:
+ Giai đoạn 1: Từ ĐH VI – VIII (Hình thành tư duy ban đầu về nền
KTTT)
Từ ĐH VI (1986) đã chỉ ra: kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng ta đã thừa nhận nền
sản xuất hàng hóa tức là thừa nhận cơ chê thị trường
ĐH VII (1991) khẳng định: Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tham
gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có sự can thiệp và quản lý của nhà nước vào sự
vận hành theo cơ chế thị trường bằng pháp luật
Đại hội VIII (1996) kết luận: Sản xuất hàng hóa là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại không có sự đối lập với CNXH, điều này là tiền đề cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phấn đấu để đến năm 2020 đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp. Đại hội còn chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới.
Từ chỗ thừa nhận sự tồn tại, tới việc xác định tầm quan trọng của nền
KTTT. Đây là tiền đề để đưa đất nước ta thoát khỏi cảnh lạc hậu, nghèo
nàn.
+ Giai đoạn 2: Từ ĐH IX – Nay (Khẳng định nền KTTT định hướng XHCN là điều
tất yếu)
ĐH IX (2001) xác định: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quả độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Rút ra được nhiều bài học sau 15 năm thực hiện đổi mới và đưa ra chính sách phát
triển trong 2 thập niên đầu thế kỉ 21
ĐH X (2006) kết luận: Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được
phát triển tới trình độ cao dưới CNTB. Nhưng việc đồng nghĩa giữa KTTT và TBCN
là SAI. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử
dụng kinh tế thị trường làm phương tiện chủ chốt xây dựng chủ nghĩa xã hội
ĐH XI (2011) : Khái quát thực tiễn, cụ thể hóa hơn nữa mô hình phát triển nền KTTT,
hướng tới xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và nhân dân làm chủ
Đại hội XII (2016): Đảng Làm rõ hơn khái niệm nền KTTT định hướng XHCN: tiếp
cận với xu hướng hiện đại của thế giới, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực
cũng như trên thế giới; phù hợp với từng giải đoạn phát triển của đất nước
Đại hội XIII (2021): Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của nền KTTT định hướng
XHCN, hướng tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tự do phát triển, tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động của quốc gia
Khẳng định vai trò và tầm quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN
và là nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững sau này