You are on page 1of 29

Quan điểm của Đảng về kinh tế thị trường qua

các kỳ đại hội thời kỳ đổi mới


I. Lý do tại sao phải đổi mới kinh tế (khái quát sơ mô hình bao cấp, hạn chế của mô hình
này,

1. Thời bao cấp là gì?

Người dân xếp hàng mua đồ thời bao cấp. (Ảnh tư liệu)

Người dân mua sắm tết theo chế độ tem phiếu. Ảnh: TTXVN.
Bao cấp hay thời bao cấp là khái niệm mà người Việt dùng để đặt tên cho một thời kỳ
lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 - 1986 diễn ra ở Việt Nam, là thời điểm sau khi
kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt của nhân dân ta với các đế quốc hùng
mạnh nhất thế giới như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và nhiều quân đội của các nước
đồng minh khác.
Theo đó, thời bao cấp là thời kỳ mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước chi
trả, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế các nước
thuộc khối xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó. Trong đó, nền kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường
chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.
Ở thời kỳ này, nước ta đã xây dựng theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như Liên Xô
(cũ). Thời bao cấp ở nước ta có hoạt động kinh tế diễn ra với nền kinh tế kế hoạch hóa
theo tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đồng thời xóa bỏ nền kinh tế tư nhân để thay
vào đó là kinh tế do Nhà nước làm chủ. Mặc dù trước đó, khi miền Bắc được giải phóng
vào năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ thì nền kinh tế chỉ huy đã được
áp dụng, nhưng thời kỳ bao cấp mới đầy đủ và thể hiện rõ nhất ở giai đoạn từ đầu năm
1976 – 1986 trên phạm vi toàn quốc.

2. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là gì?
Trước tiên, cần phải hiểu rằng, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp là một
chính sách, trong đó nền kinh tế hoạt động dưới sự trấn áp của Nhà nước về những
yếu tố sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Nhà nước đã can thiệp sâu vào các
hoạt động của nền kinh tế mà không coi trọng những quy luật thị trường. Kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ yếu trong thời kỳ bao cấp, còn những thành
phần kinh tế khác lại phần đông không được chú trọng. Như vậy, có thể kết luận sơ bộ
rằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này tuy có những ưu điểm thích
hợp cho thực trạng của nước ta thời kỳ đó, nhưng đồng thời cũng có nhiều hạn chế
ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam sau này.

3. Đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp mang những đặc trưng cơ bản như
sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý, định hướng nền kinh tế đa phần bằng mệnh lệnh hành
chính dựa trên mạng lưới hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh cụ thể được áp từ trên xuống
dưới. Nhà nước đã thiết kế xây dựng những chỉ tiêu một cách chủ quan, sau đó đưa
xuống cho những doanh nghiệp, thậm chí còn cả hợp tác xã thực thi. Và việc cấp phép
vốn, vật tư, giao nộp mẫu sản phẩm cho Nhà nước cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước giao cho. Điều này, buộc những doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ chăm
sóc đến một yếu tố duy nhất đó là hoàn thành xong chỉ tiêu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. Những thiệt hại về vật chất do những quyết
định hành động không đúng gây ra thì Nhà nước phải hoàn toàn phải gánh chịu. Mặt
khác, Nhà nước chỉ coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, điều
này làm hạn chế sự tăng trưởng và góp phần vào nền kinh tế của những thành phần
kinh tế, nhất là thành phần kinh tế tư nhân khác.
Thứ ba, mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ trao đổi
bằng hiện vật là chủ yếu. Trong thời kỳ này, lãi suất vay, tiền lương, … chỉ được dùng
để đo lường và thống kê một cách hình thức, mà không mang lại giá trị trao đổi. Giá cả
cũng không phản ánh quan hệ cung và cầu. Mặt khác, tiền lương không được tính theo
cấp bậc hành chính và thâm niên, mà tính theo trung bình và cũng không tính theo
năng suất lao động của mỗi người. Điều này đã dẫn đến thực trạng khan hiếm hàng
hóa khiến đời sống trở nên vất vả, chất lượng và số lượng các sản phẩm, hàng hóa
cũng không cao.
Thứ tư, bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều cấp trung gian. Thể chế, chính sách của
Nhà nước còn chồng chéo, thiếu thống nhất, các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức
tạp, trật tự, kỷ cương chưa nghiêm. Việc tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh nhiều
cấp, cách thức quản lý hành chính vừa tập trung quan liêu vừa phân tán chưa thống
nhất. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều thiết sót về cả phẩm chất,
năng lực cũng như có trách nhiệm chưa cao.
Chính vì mang những đặc trưng như vậy, nên khi áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp vào nước ta thời kỳ đó, ngành kinh tế thương nghiệp tư nhận
dường như đã bị loại bỏ hoàn toàn, thậm chí còn được coi là không hợp pháp trong
nền kinh tế chính thống. Hàng hóa được phân phối tới người dân theo chế độ tem
phiếu do Nhà nước điều hành và nắm toàn quyền. Ở thời kỳ này, việc vận chuyển hàng
hóa tự do giữa các địa phương, mua bán trên thị trường cũng bị xóa bỏ hoàn toàn.
Hàng hóa do Nhà nước phân phối độc quyền cũng như hạn chế trao đổi bằng tiền mặt.
Việc phân phối lương thực, thực phẩm đều dựa theo đầu người, xét theo hộ khẩu.
Từ đây dẫn đến việc chế độ hộ khẩu hình thành. Nổi bật nhất là sổ gạo, trong đó có ấn
định số lượng và các mặt hàng được phép mua dựa trên số khẩu trong một gia đình.
Khi cả nước vừa mới thoát khỏi chiến tranh, toàn dân bắt tay vào công cuộc xây dựng
đất nước nhưng trong xã hội, hàng hóa lại khan hiếm, không đủ phục vụ đầy đủ nhu
cầu của mọi người dân. Lương đi làm của người lao động cũng được quy ra lương
thực. Song, chợ đen vẫn hoạt động nhỏ lẻ, bị xem là bất hợp pháp nên hàng hóa ở chợ
không nhiều và có giá rất cao. Nhiều người lĩnh hàng tem phiếu nhưng không dùng tới
sẽ thường đem bán ở chợ đen. Nói chung, đồng tiền vào thời kỳ này ở nước ta không
có nhiều giá trị sử dụng. Qua từng giai đoạn áp dụng và phổ biến chế độ tem phiếu
rộng khắp thì đồng tiền cũng mất giá dần dần. Nền kinh tế - xã hội nước ta dậm chân
tại chỗ, không có sự đột phá, phát triển.

4. Đánh giá về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
Từ những phân tích về khái niệm, đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp, có thể rút ra một số đánh giá như sau:
Về ưu điểm:
- Đối với kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ
chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào
mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công
nghiệp hóa của đất nước theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Đối với văn hóa: Biểu hiện rõ nhất của chính sách này là tuy những văn nghệ sĩ được
tập hợp trong những hội sáng tác, nhưng cơ cấu tổ chức và cách thao tác của những
hội này đa phần vẫn giống như mọi cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước. Văn
nghệ sĩ chuyên nghiệp là những cán bộ trong biên chế, những viên chức ăn lương để
sáng tác. Điều này có những mặt tốt, góp phần phát huy văn hóa truyền thống với hiệu
quả cao.
- Đối với xã hội: Chính sách này sinh ra trong thời kỳ đất nước vừa bước qua những
năm tháng đau thương của cuộc chiến tranh. Tình hình xã hội còn nhiều rối ren, phức
tạp. Vì vậy, nó đã góp phần duy trì đời sống xã hội cũng như trật tự xã hội.
Về hạn chế:
- Đối với kinh tế: Theo thời gian, chính sách này ngày càng không tương thích với tình
hình lúc bấy giờ của đất nước. Nó làm thủ tiêu cạnh tranh trong thị trường, làm trì trệ
việc áp dụng khoa học - công nghệ tiên bộ, triệt tiêu động lực kinh tế của người lao
động, không kích thích tính năng động, phát minh sáng tạo của những đơn vị có chức
năng sản xuất kinh doanh thương mại. Chính điều này đã làm cho nền kinh tế rơi vào
tình trạng ngưng trệ, khủng hoảng cục bộ.
- Đối với văn hóa: Quy luật sàng lọc không phát huy được tác dụng. Số lượng văn nghệ
sĩ chuyên nghiệp đến một lúc nào đó sẽ vượt quá tỷ lệ cần thiết so với số dân, đồng
thời cũng quá tải so với khả năng hỗ trợ của nền kinh tế đất nước.
Mặt khác, do bị “viên chức hóa”, nên văn nghệ sĩ không sống đa phần bằng sáng tác.
Một số người trở thành quan chức đầu ngành, ngoài những quyền lợi và nghĩa vụ của
những viên chức cấp cao, nếu vẫn sáng tác, họ còn được mặc nhiên hưởng độc quyền
của lối “khen chê theo chức vụ”, dẫn tới quan liêu hóa, xa rời đời sống nhân dân. Một
số khác, dần dà tỏ rõ không có kỹ năng đặc biệt quan trọng, nhưng không bị luật sàng
lọc gạt bỏ để chuyển nghề, cho nên vì thế rất dễ tìm đến những đề tài nhất thời, cục bộ,
dễ chạy theo xu hướng, chủ trương vốn chỉ có ý nghĩa nhất thời, tạo ra một số lượng
quá lớn những tác phẩm xoàng xĩnh, nhạt nhẽo, vô thưởng vô phạt, hạ thấp trình độ
chung của nền văn nghệ nước nhà.
- Đối với xã hội: Sản xuất công - nông nghiệp bị đình đốn. Việc lưu thông, phân phối
ách tắc. Lạm phát ở mức cao. Đời sống của những tầng lớp nhân dân sa sút chưa từng
thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ ăn trong ít ngày. Ở
nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn. Tệ nạn xã hội
lan rộng. Từ đó dẫn tới lòng tin của nhân dân với Nhà nước giảm sút trông thấy.

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV


- Đặc điểm kinh tế nước ta giai đoạn này là: nước đang ở trong quá trình từ một xã hội mà
nền kinh tế còn phổ biến là sản suất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Đại hội xác định đường lối xây dựng,phát kinh tế,trong đó nỏi bật là: Đẩy mạnh công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng ưu tên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý
trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp;kết
hợp kinh tế địa kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
- Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế (1976 - 1980) nhằm mục
tiêu cơ bản và cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân, tích lũy để xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
- Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế về mặc kinh tế: không áp dụng
đầy đủ quy luật kinh tế,không thể hoạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính
sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu “ tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; chưa phát
hiện được những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh.
Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ
quá độ, việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu
kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương
nóng vội, thực tế không thực hiện được.
- Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột phát đầu tiên đổi mới kinh tế của
với chủ trương khác phục những khuyết điểm,sai lầm trong quản lý kinh cải tạo xã hội
chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “ sản xuất bung ra”. Theo đó tháng 10/1979,Hội
đồng Chỉnh phủ râ quyết định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục
hóa, được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xáo bỏ
những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài
thị trường.
⟹ Kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren,
giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4 - 5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán công nhân
viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miềm Bắc đã xuất
hiện hiện tượng “ xe rào”, “ khoán chui”. Ở miền Nam việc Thí điểm hợp tác xã diễn ra phức
tap, lúng túng...
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nệ liên tiếp xẩy
ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch.
Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng,Nhà nước về lãnh đạo và quản
lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn trên. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
tự phê bình về những khuyết điểm và sai lầm đó trước Đại hội V của Đảng.

2. Đại hội V của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ ngày 27 - 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội

(Ảnh: Báo Nhân dân)


- Đại hội đã khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội
thứ IV đề ra.
- Đại hội chỉ rỏ: và chỉ ra chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá
trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung, bước đi, cách để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh
sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng;
kết hợp nông, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công - nông
nghiệp hợp lý.
⟹Đại hội vẫn chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định
được những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị về công tác quản lý lưu thông,phân phối; vẫn
tiếp tục chủ trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm;
vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phất triển công nghiệp nặng một cách trèn
lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng
tiêu dùng.
⟹Tổng kết lại mục tiêu kinh tế do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra đã không hoàn
thành. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn
định; nề kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài.
Đất nước bị bao vây, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng Nhà nước, chế đôj giảm sút
nghiêm trọng.
⟹Đặt ra nhu cầu đổi mới nền kinh tế, tại Hội nghị Trung ương 8 (6/1985), Trung ương chủ
trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, láy giá - lương - tiền là khâu đột
phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã
nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân.

Tại Đại hội VI ta sẽ được tìm hiểu kỹ những quan điểm khắc phục cho cuộc khủng hoảng kinh tế
- xã hội và những định hướng phát triển.

II. Quan điểm của Đảng về KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa từ Đại hội VI đến XII

2.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI

 4 nhiệm vụ
 Nêu 4 bài học kinh nghiệm sau 10 năm phát triển kinh tế XHCN
 Vạch ra phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1986 - 1990
 Đề ra 3 chương trình kinh tế lớn ( lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, xuất khẩu)
 Bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong điều lệ Đảng
 Dấu mốc quan trọng
 1986: Độc canh lúa nước, thiếu lương thực, tăng trưởng GDP 3,4%
 8/ 1987: Hội nghị Trung ương 3 ra nghị quyết về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Từng bộ
phận của kinh tế cũ được xóa bỏ, cơ chế mới từng bước hình thành.
 1988: Trong nông nghiệp nghị quyết 10 (khoán 10) của bộ chính trịnh nhanh chóng đi
vào cuộc sống, ngành dầu khí bắt đầu khai thác những tấn dầu đầu

 1989 - 1980: Việt Nam lần đầu tiên xuất khẩu gạo( 1,4 triệu tấn). giá trị sản lượng công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng năm 1990 tăng khoảng 60% so với năm

 1991: Tăng trưởng GDP 5,8%, lương thực đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu. Lực lượng sản
xuất xã hội bước đầu được giải phóng, động viên nhân dân tích cực tham gia sản xuất
kinh doanh các mặt xã hội và đời sống nhân dân có nhiều tiến bộ
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp
kế kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm,mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng dường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế
lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội
dung công nghiệp hóa trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ.Thực hiện cải tạo xã hội chủ
nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng
sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách
về phân phối lưu thông.

- Phương hướng
 Bố trí lại cơ cấu sản xuất
 Điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
 sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế phát huy mạnh mẽ động lực khoa học
- kỹ thuật
 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Đại hội VI nhấn mạnh: Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và chính sách kinh tế là giải phóng mọi
năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả
sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

- Thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Trung ương Đảng đã hộp nhiều lần, chỉ đạo
đổi mới toàn diện, trong đó nỗi bật trên các lĩnh vực
 Về kinh tế - xã hội: Hội nghị Trung ương 2 (4/1987) đề ra một số biện pháp cấp bách về
phân phối, lưu thông, trọng tâm là thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm
nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống nhân dân; mở rộng giao lưu
hàng hóa, giải thể trạm kiểm soát hàng hóa trên các đường giao thông; thực hiện cơ chế
một giá và chế độ lương thống nhất cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền
mặt, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực; chuyển các đơn vị kinh tế kinh doanh quốc doanh
sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa;đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế. Quyết
định số 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (14/11/1987) trao quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp.
 Trong nông nghiệp: đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp ( gọi tắt là Khoán 10)
 Trong công xóa bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế
quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ
 Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhân sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần
kinh tế. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng tích cực
của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về quyền lợi, nghía vụ
pháp luật.

Kết quả:Đến năm 1991, lạm phát giảm từ trên 774% năm 1986 còn 67,1%. Cuối năm 1988, chế
độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ thiếu triền miên, năm 1988
phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm1989 đã đáp ứng được nhu cầu, có dự trữ và xuất khẩu.
Hàng tiêu dùng đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành. Kinh tế đối
ngoại phát triển nhanh hơn trước.

Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và
cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc.

2.2 Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII

 3 Nhiệm vụ
 Thông qua cương, vạch ra những phương hướng cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
 Xác định các nhiệm vụ chủ yếu cho kế hoạch 5
 Thông qua điều lệ Đảng(sửa đổi)
 Dấu mốc quan trọng
 6/1991: Lần đầu tiên trong lãnh đạo cách mạng XHCN, Đảng đã thông qua cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; trong đó xác định mô hình xã hội
XHCN ở Việt Nam với những đặc trưng cơ bản nhất
 1991 - 1997: Thực hiện chính sách xóa bỏ chỉ tiêu pháp lệnh và tiếp tục xóa bỏ chế độ
Nhà nước độc quyền ngoại thương, thoát dần ra khỏi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
từng bước theo cơ chế thị trường
 1992: Cổ phần hóa DNNN bắt đầu được thực hiện thí điểm
 1995: Lạm phát ở mức 12,7% (năm 1991 ở mức 67,1%) Lũy kế đến cuối năm 1995, tổng
vốn đăng ký của các dự án FDI đạt hơn 19 tỷ USD
 1997: Dầu tư tăng mạnh nhờ nguồn tiếp kiệm trong nước và nước ngoài, chiếm 35%GDP

a. Phương hướng:

 Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa


 Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất theo hướng hiện đại gắn liền với phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm.
 Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu
- Đại hội VII thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000,
trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là rời khỏi khủng hoảng, ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP
năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990.
- Quan điểm chỉ đạo chiến lược:Phát triển kinh tế - xã hội theo con đường củng cố độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu nước
mạnh, tiến lên hiện đại trong một hội nhân dân làm chủ, nhân ái,có văn hóa có kỹ cương,
xóa bỏ áp bức, bất tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức
kinh doanh, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

b. Mục tiêu: vì con người, do con người, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của
mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng động dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho
mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra
sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp được bảo
hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
- Tổng kết lại bài học bước đầu qua 5 năm đổi mới về kinh tế là phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII trong những năm 1991 - 1995, Ban chấp hành Trung
ương đã họp nhiều lần, chỉ đạo tiếp tục đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật trên những
lĩnh vực chủ yếu:
 Nông nghiệp:
1. Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành
mạnh,có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông
dân, có hệ thống chính trị vững mạnh
2. Phát huy dân chủ, bảo đảm cân bằng xã hội
3. Tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc
quốc phòng, an ninh.
 Công nghiệp:
1. Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,phù hợp với trình độ phát triển của sức sản
xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công
2. Xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính
trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công
nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mạnh
lịch sử của mình.
3. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

c. Kết quả, sau 5 năm 1991 - 1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn thành
vượt mức, GDP đạt 8,2% ( kế hoạch 5,5% - 6,5%); đã bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế.Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vân hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.

2.3: Đại hội đại biểu lần thứ VIII :

a. Chính sách, phương hướng, chủ trương phát triển kinh tế:

· Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo hướng định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo
vệ môi trường sinh thái.

b. Mục tiêu, nhiệm vụ :

Sau Đại hội VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp nhiều lần, chỉ đạo thực hiện những
nhiệm vụ trọng tâm, nổi bật là :

· Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất,
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hướng mạnh về xuất khẩu, nhưng không được coi nhẹ
sản xuất và thị trường trong nước. Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng nhà nước phải quản lý và
điều tiết theo hướng xã hội chủ nghĩa.

· Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu
đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác
hóa, dân chủ hóa. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh
nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hóa hệ thống tài chính - tiền tệ; thực hành triệt để tiết
kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội.

C. Kết quả :

Với các chủ trương trên về kinh tế, nước ta đã vượt qua khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu
vực từ tháng 7/1997. Đến năm 2000, kinh tế đất nước tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng bình quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương
thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm tăng 13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu
và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được coi như tuyên ngôn văn hóa của Đảng trong thời kỳ
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, phong trào thì đua “Toàn dân đoàn kết, xây dựng
đời sống văn hóa được phát động rộng rãi trên cả nước trên nhiều lĩnh vực góp phần làm chuyển
biến phong phú thêm đời sống tình thần toàn xã hội.

2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

a. Chính sách, phương hướng và chủ trương phát triển kinh tế

· Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra chiến lược phát triển đất nước trong hai
thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, với mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện đại, công
nghiệp hoá, đa dạng hoá, có năng lực cạnh tranh, hội nhập quốc tế.

· Đại hội đã nhấn mạnh vai trò của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
sinh học, trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng
cao chất lượng đời sống xã hội.

· Đại hội cũng đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện chính sách kinh tế như:
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đổi mới toàn diện, đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
sự phối hợp hài hòa giữa các thành phần kinh tế, giữa các lĩnh vực, giữa các vùng, giữa kinh tế và
xã hội, giữa phát triển và bảo vệ môi trường, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế.

b. Mục tiêu, nhiệm vụ

· Đại hội đã đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho giai đoạn 2001-2005 và 2001-2010,
bao gồm:

§ Đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế,
tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

§ Phát triển nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng, khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế và bảo hiểm xã hội, văn hoá, bảo vệ môi trường.
c. Kết quả

· Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, vượt qua nhiều khó khăn và thách thức, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong
thời kỳ mới.

· Một số kết quả nổi bật như:

§ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,5% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 640
USD, tỷ lệ nghèo giảm từ 17% xuống 8,2%.

Tháng 11/2006, sau hơn 10 năm đàm phán,Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới( WTO). Đây là một dấu mốc quan trọng trên con đường hôi nhập
kinh tế quốc tế, mở ra nhiều thuận lọi cho đất nước.

§ Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, nông nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực, công
nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh, thị trường tiêu thụ mở rộng, xuất khẩu tăng cao, đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng mạnh, tài chính, ngân hàng ổn định, giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, du lịch
phát triển, đời sống nhân dân cải thiện, an sinh xã hội được đảm bảo.

2.5 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X

 3nhiệm vụ
 Nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá thành tựu và những yếu kém.
 Tổng kết 20 năm thực hiện đường lối đổi mới và rút ra những bài học kinh nghiệm
 Thông qua Nghị quyết cho phép đảng viên của Đảng được làm kinh tế tư nhân, kể cả kinh
tế tư bản tư nhân
 Dấu mốc quan trọng
 2006:

Lần đàu tiên, Đảng đề ra riêng Nghị quyết về “ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng chống tham nhũng, lãng phí”, một nghị quyết có tầm quan trọng đặc
 2006-2010:

Doanh nghiệp tăng>2,3 lần về số lượng và 7,3 lần về số vốn so với giai đoạn 2001-2005. Doanh
nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến

 2007:

TW Đảng phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hò Chí Minh”
nhảm mục đích tạo chuyển biến về nhận thức,hình thức phong trào tu dưỡng, rèn luyện và làm
theo gương đạo đức Bác Hồ trong đảng viên và quần chúng

 2008-2009:
Lần đầu tiên Việt Nam đảm vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ khóa 2008-2009

 1/2011:

Đảng nhận định “ đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước và nhóm nước đang phát
triển có thu nhập trung bình”; Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP)năm 2010 tính theo giá
thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000

a. Chính sách, phương hướng và chủ trương phát triển kinh tế

· Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chiến lược phát triển đất nước trong hai
thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, với mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hiện đại, công
nghiệp hoá, đa dạng hoá, có năng lực cạnh tranh, hội nhập quốc tế.
· Đại hội đã nhấn mạnh vai trò của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
sinh học, trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng
cao chất lượng đời sống xã hội.

· Đại hội cũng đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong việc thực hiện chính sách kinh tế, như:
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đổi mới toàn diện, đồng bộ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
sự phối hợp hài hòa giữa các thành phần kinh tế, giữa các lĩnh vực, giữa các vùng, giữa kinh tế và
xã hội, giữa phát triển và bảo vệ môi trường, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế

Chính sách, phương hướng và chủ trương phát triển kinh tế tương tự như đại hội thứ IX.

b. Mục tiêu, nhiệm vụ

· Đại hội đã đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho giai đoạn 2001-2005 và 2001-2010,
bao gồm:

§ Đại hội X đặt mục tiêu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, nâng cao chất lượng,
hiệu quả và năng suất kinh tế, phát triển nền kinh tế theo hướng xã hội hóa, hiện đại hóa, có năng
lực cạnh tranh.

§ Phát triển nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch, tài chính, ngân
hàng, đầu tư, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế và bảo hiểm xã hội, văn hoá và
thông tin, thể thao và du lịch, bảo vệ môi trường.

§ Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số,
phụ nữ và trẻ em.

§ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phát triển quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, góp phần duy trì hoà
bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và thế giới.

Đại hội X có sự bổ sung, phát triển về một số mục tiêu so với Đại hội IX, như: tăng trưởng kinh
tế bền vững, nền kinh tế theo hướng xã hội hóa, hiện đại hóa, có năng lực cạnh tranh.

c. Kết quả

· Đại hội X (2006) đã khẳng định toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã vượt qua nhiều khó
khăn và thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát
triển trong thời kỳ mới.

· Một số thành tựu nổi bật:

§ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,5% mỗi năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 720
USD, tỷ lệ nghèo giảm từ 8,2% xuống 6,6%.
Có thể thấy, Đại hội X có sự tiếp nối và phát triển so với Đại hội IX về mặt kết quả đạt được,
như: tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng suất kinh tế, phát triển
nền kinh tế theo hướng xã hội hóa, hiện đại hóa, có năng lực cạnh tranh.

2.6 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

a, Chính sách và phương hướng, chủ trương phát triển kinh tế

Phương hướng:

- Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế
hình thức sở hữu,, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối . Các hoạt đọng
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh bình
đẳng trước pháp luật, cùng phapts triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được cũng cố và phát
triển.Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế tập thể quốc dân;kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặc chẽ công nghiệp, dịch vụ.
- Xây dựng nền kinh tế đọc lập tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế.

Nhằm thực hiện tốt mục tiêu đề ra, Đại hội đã nhất trí thông qua những định hướng phát triển
được nêu ra trong Chiến lược như: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; phát triển
mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền
tảng cho một nước công nghiệp; phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả,
bền vững; phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và
có sức cạnh tranh; phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông...

b, Mục tiêu, nhiệm vụ

Cương lĩnh năm 2011 yêu cầu giải quyết tốt: giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giũa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.

Hướng đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa

c, Kết quả
-GDP tăng bình quân 5,9%, bình quân thu nhập 2.109 USD..

-Lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định.

- Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn
năm trước; chất lượng tăng trưởng được nâng lên.

- Ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt kết quả tích cực.

- Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực bước đầu.

T2.7 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
 4 nhiệm vụ
 Đánh giá kết quả 30 năm đổi mới
 Kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội XI của Đảng (2011 - 2015)
 Quyết định phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ 5 năm 2016 – 2020
 Bầu BCH TW khóa XII nhiệm kỳ 2016 – 2020
 Dấu mốc quan trọng
 2017:

Với triển vọng tươi sáng, Việt Nam là một trong những nền kinh tế lớn nhất ở châu Á
- Tăng trưởng GDP đạt 6,81%, cao nhất kể từ năm 2009. Lần đầu tiên sau nhiều năm,13/13 chỉ
tiêu phát triển KTXH đặt ra hoàn thành và vượt kế hoạch

- TW Đảng ban hành Nghị quết các định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trở thành động
lức của kinh tế thị trường định hướng XHCN

- Hoạt động đối sôi động, tiếp tục đưa đất nước hội nhập sâu rộng với quốc tế

 2018-2019: 2 năm liên tiếp hoàn thành 12/12 chỉ tiêu phát triển KTXH đất nước
- Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai quyết liệt từ TW đến
cơ sở.NHiều vụ tham nhũng có quy mô gây hậu quả nghiêm trọng được đưa ra xét xử.
Nhiều tổ chức Đảng, cán bộ cấp cao có sai phạm bị kỷ luật, xét xử nghiêm minh; khẳng
định quan điểm của Đảng là không có “vùng cẩm” trong đấu tranh phòng chống tham
nhũng, tiêu cực.
 2020:

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh khẳng định Việt Nam cam kết cùng các nước hợp tác đẩy lùi
đại dịch Covid-19. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Với sự đòng lòng, quyết tâm của cả hệ thống chính trị và người Việt Nam cơ bản kiểm soát được
dịch COVID-19, Việt Nam đảm nhận thành công trọng trách Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch
Hội liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA 41) và Ủy viên không thường trực
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Năm 2020, Việt Nam là một trong số ít
quốc gia có GDP tăng trưởng dương 2,91%...

a, Chính sách và phương hướng, chủ trương phát triển kinh tế

Chính sách Chủ đề của Đại hội là "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy
sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Phương hướng
Chủ trương phát triển kinh tế Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm
lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế
được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực
hiện bước đầu đạt kết quả tích cực.

b, Mục tiêu, nhiệm vụ

Thực hiện 3 đột phá chiến lược

1. Hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và cân
đối lớn của nền kinh tế;cải thiện môi trường đầu tưkinh doanh hấp dẫn, thuận lợi cho khởi
nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học công nghệ, nâng
cao chất lượng ngồn nhân lực, trọng dụng nhân tài.
2. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu lại đầu tư công; cơ cấu
lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng;cơ cấu lại ngân sách nhà
nước và nợ công; cơ cấu lại đơn vị sự nghiệp công
3. Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nề kinh tế là
nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với thực hiện mục tiêu phát triển
nhanh và bền vững đất nước.

c, Kết quả

năm 2021, tăng trưởng GDP đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm;
năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021. Việt Nam
tiếp tục nằm trong nhóm 25 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thương mại. Dự báo năm 2023, tăng
trưởng GDP đạt khoảng trên 5%, mặc dù thấp hơn chỉ tiêu đề ra (khoảng 6,5%) nhưng vẫn là
mức khá cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

III. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam sau các
kỳ đại hội và mối liên hệ với thực tiễn phát triển kinh
tế ở nước ta hiện nay
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh

Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất
với thị trường
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày
càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế
vĩ mô cơ bản ổn định

Trong sáu tháng đầu năm 2023, nền kinh tế - xã hội Việt
Nam đã đối mặt với nhiều thách thức và sự bất ổn từ kinh
tế toàn cầu:
● Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 3,72% so với
cùng kỳ năm ngoái
● Lĩnh vực dịch vụ đang dẫn đầu về quá trình phục hồi
kinh tế nhờ các chính sách kích thích tiêu dùng trong nước
phát huy hiệu quả, nền kinh tế mở cửa trở lại từ ngày
15/3/2022 và từ sự phục hồi của du lịch lưu trú sau
COVID.
● Mặc dù tăng trưởng mạnh 11% vào năm 2022, nhưng
giá trị xuất khẩu đang giảm (khoảng 12% so với nửa đầu
năm 2022) do tiêu thụ tại các thị trường xuất khẩu lớn
(bao gồm Hoa Kỳ và EU) bị thu hẹp.
● Thị trường chứng khoán chịu tác động bất lợi từ chính
sách của Chính phủ (kiểm soát lạm phát) và các sự kiện
tiêu cực trên thị trường tài chính quốc tế (sự sụp đổ của
các ngân hàng).
● Tình hình thương mại nửa đầu năm 2023 chưa có nhiều
dấu hiệu tích cực khi cả kim ngạch xuất khẩu và nhập
khẩu đều giảm (giảm lần lượt 11% và 18% so với cùng kỳ
năm trước).
● Việt Nam có thặng dư thương mại với các thị trường
phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản, trong khi thâm hụt
thương mại được quan sát thấy trong thương mại với các
nước/ khu vực mới nổi bao gồm Trung Quốc và ASEAN.
Trong khi tỷ trọng thặng dư thương mại lớn với EU là từ
điện thoại & linh kiện và máy móc thiết bị, thì xuất siêu
với Hoa Kỳ chủ yếu do nông sản đóng góp

Sau 34 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu và vị thế được nâng cao rõ rệt.
Sau 30 năm đổi mới (1986-2016) về kinh tế, Việt nam đã và đang phát triển ổn định, từ một nước
đói nghèo vươn lên trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về nông thủy sản, bước vào
ngưỡng thu nhập trung bình và hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên Nghị
quyết của Đảng đã xác định việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (hội nhập
KTQT) nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh “xây
dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu”,
"Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn
lực bên ngoài", "tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế".

Giai đoạn sau này (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế song vẫn phải đảm bảo độc lập tự chủ. Khác với giai đoạn
trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực của giai đoạn này
không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn ở các lĩnh vực khác, thể hiện tinh thần hội nhập
toàn diện với khu vực và thế giới5.

Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thể hiện
trên những mặt chính sau:
Thứ nhất, tác động tới phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế về cơ
bản đã tác động tích cực và dài hạn , góp phần thực hiện thành công các
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước trong thời gian qua: HNKTQT đã
thúc đẩy tăng trưởng giá trị thương mại hai chiều giữa Việt Nam với các
đối tác, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn FDI, ODA cho phát triển kinh
tế đất nước. Trong đó:
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu không ngừng
được tăng lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP.
Nếu năm 1986, tổng kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm
2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ USD và kể từ sau khi gia nhập WTO, kim
ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, đạt trên 170 triệu USD năm 2016.
Không chỉ xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng lên tương ứng cho
thấy mức độ mở cửa của nền kinh tế là tương đối lớn với tỷ lệ tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu đã lên đến trên 150% GDP.
Hình 1: Diễn biến xuất nhập khẩu qua 30 năm đổi mới giai đoạn 1986-2016

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm hàng
“chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch
đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng nào
xuất khẩu trên 200 triệu USD thì hiện này đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1 tỷ
USD, 5 tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng
hàng thô hoặc mới sơ chế giảm.

Đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn FDI đã trở thành
một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt kể từ sau
khi Việt nam gia nhập WTO. Nếu như những năm đầu của thời kỳ mở cửa, vốn FDI vào
Việt Nam không đáng kể thì kể từ sau năm 2007, lượng vốn FDI không ngừng tăng lên.
Số vốn đăng ký và cấp mới có năm (2007) còn lên đến trên 70 tỷ USD. Nếu xét về vốn
thực hiện, xu hướng tăng lên cũng xuất hiện rõ rệt kể từ năm 2007. Vốn FDI thực hiện
đạt 15,8 tỷ USD, tương đương 23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng 9,4% so với
cùng kỳ năm 2015.
Hình 2: Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 30 năm đổi mới 1986-2016

(đơn vị tính: triệu USD)

Thứ hai, tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản
phẩm. Thông qua những cam kết minh bạch, rõ ràng, HNKTQT đã góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động nguồn vốn và các nguồn lực
khoa học – công nghệ cho phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng thông
qua tính minh bạch và hấp dẫn của môi trường đầu tư, đơn giản hóa các
thủ tục hành chính, hài hòa hóa các quy trình,…HNKTQT đã góp phần hỗ
trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm của Việt
Nam tại các thị trường trong và ngoài nước.
Thứ ba, thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong
khu vực và thế giới, Việt Nam đã tiếp thu được khoa học - công nghệ mới
và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã
hội… góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh… Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế
cũng đã góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực
có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý. Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách thể chế kinh
tế thị trường, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, tác động tới việc xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thông
qua hoàn thiện môi trường kinh doanh, HNKTQT đã góp phần nâng cao
năng lực canh tranh quốc gia. Việc thực hiện các cam kết trong các khuôn
khổ hợp tác, đặc biệt là trong khuôn khổ Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ (BTA) và việc gia nhập WTO đã giúp Việt Nam hoàn thiện được
một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ và đồng bộ với quy định của
WTO, tạo ra môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng và thông thoáng
hơn. Ngoài ra, thông qua quá trình đàm phán và ký kết các hiệp định
thương mại tự do các đối tác đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị
trường đầy đủ.
Thứ năm, tác động tới xã hội, văn hóa, môi trường, chính trị, an ninh quốc
phòng. Trong quá trình HNKTQT, Việt Nam đã chú trọng thực hiện các vấn
đề an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã mở rộng đối tượng và
tăng mức trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội, hệ thống bảo hiểm xã
hội và bảo trợ xã hội cũng ngày càng được hoàn thiện. thêm nữa, các
chính sách bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc cũng tăng
cường thực hiện. Các vấn đề về môi trường cũng được để ý và giải quyết.
Ngoài ra, HNKTQT đã góp phần nâng cao các thiết chế dân chủ, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đi đôi với đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua HNKTQT, đặc biệt là thông qua việc
tham gia ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do, Việt Nam đã mở
rộng, tăng cường, liên kết và hợp tác với các nước, điều này cũng tạo điều
kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội. Song song với đó, hoạt động
an ninh quốc phòng tiếp tục được đảm bảo, chính trị được giữ ổn định góp
phần bảo vệ vững chắc tổ quốc.
Sau 30 năm đổi mới (1986-2016) về kinh tế, Việt nam đã và đang phát triển
ổn định, từ một nước đói nghèo vươn lên trở thành nước xuất khẩu hàng
đầu thế giới về nông thủy sản, bước vào ngưỡng thu nhập trung bình và
hội nhập ngày càng sâu rộng với kinh tế thế giới.

Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được
mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên
đáng kể: Năm 2016, GDP đầu người đạt hơn 2.200 USD so với 86 USD
vào năm 1988.

You might also like