You are on page 1of 20

Bài làm

1. Người mẹ trong câu chuyện phải xếp hàng cả buổi để mua lương thực vì trong khoảng
thời gian đó mọi thứ được phân phối qua tem phiếu và lương thực không được cung cung
cấp như bây giờ mà chỉ cung cấp vào những ngày nhất định và chỉ diễn ra nửa tháng hoặc
một tháng một lần nên muốn mua được lương thức phải xếp hàng đợi đến lượt, song dần
hình thành “văn hóa xếp hàng”.
2. Việc mất tem phiếu thì cả nhà nhịn ăn nhịn mặc cả tháng vì trong khoảng thời gian đó
xuất hiện hình thức bao cấp 1 qua tem phiếu trong đó tem phiếu quy định loại hàng và số
lượng người dân được phép mua chiếu theo một số tiêu chuẩn như cấp bậc và niên hạn,
tùy thuộc vào số người trong gia đình thì sẽ được phát số tem tương ứng đối với người
dân lao động vậy nên mất hết tem phiếu thì sẽ không có để trao đổi lấy lương thực và
quần áo.
3. Trong nghị quyết Đại hội IV đã đưa ra bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, hội đồng
chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang
phục hóa được miễn thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa
bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi
ngoài thị trường. Và trong hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) đã xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền khâu đột phá để chuyển sang cơ
chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
4. Sau khi tổng kết kết quả đạt được sau 10 năm (1975-1986) đã thấy được những khuyết
điểm nổi bật là không hoàn thành được các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và V
của đảng đề ra. Trong khoảng thời gian này đất nước lâm vào khủng hoảng kéo dài, đất
nước bị bao vây, cô lập, đời sống khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
giảm sút nghiêm trọng. Xét về tính khách quan nguyên nhân của những khủng hoảng đến
từ việc chúng ta xây dựng đất nước trên 1 nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sự ảnh hưởng
nặng nề của 30 năm chiến tranh, xét về tính chủ quan thì do những sai lầm của Đảng
trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, hướng đi và phát triển. Đứng trước tình hình
như vậy cố tổng bí thư Trường Chinh đã nói rằng “Tình hình lúc này không thể kéo dài
được nữa, không thể duy trì cách nghĩ, cách làm cũ cũng như những chủ trương chính
sách và cơ chế quản lý như trước được nữa”. Và với tình hình khủng hoảng trầm trọng
như vậy, đất nước ta không còn cách nào khác phải thay đổi phải đổi mới toàn bộ nếu
không sẽ không còn con đường nào có thể bước tiếp được nữa. Vì vậy năm 1986, đổi mới
toàn diện đất nước là yêu cầu bức thiết sống còn của Việt Nam “đổi mới hay là chết”.

Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt
kinh tế đều được Nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của
nền kinh tế các nước thuộc Khối xã hội chủ nghĩa thời kỳ đó. Theo đó thì kinh tế tư nhân bị xóa
bỏ, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế do nhà nước chỉ huy. Thời kỳ bao cấp thường
được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm  1976 đến cuối
năm 1986 trên toàn quốc, là trước Đổi Mới.

Trong nền kinh tế kế hoạch,phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối
theo tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế việc người dân tự do mua bán
trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước
độc quyền phân phối hầu hết các loại hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ
khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu
biểu nhất là sổ gạo ấn định bắt buộc và mặt hàng mà một gia đình nào đó được phép mua.

Bối cảnh lịch sử

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, nước Việt Nam thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ
nhất Đảng Lao động Việt Nam là Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả
tình hình kinh tế. Ông công nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của kinh tế thị
trường ở miền Nam. Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ông đã phát biểu: “Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa
ngay lập tức. Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy… Phải có tư sản, phải cho nó
phát triển phần nào đã… Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần
kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này…”
Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn tiếp tục áp dụng mô hình kinh tế
kế hoạch hóa. Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với tư sản dân tộc, xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công
nghiệp và thương nghiệp nhỏ.

Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ từ chối bình thường hóa quan hệ và thực hiện cấm vận Việt Nam,
trong khi những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin vào hiệu quả của kinh tế kế hoạch hóa
mô hình Xô viết, bởi khi đó Liên Xô vẫn đang rất hùng mạnh

Ngoài ra, ở miền Nam thời kỳ đó, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan
trọng, đặc biệt là kiểm soát 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối
năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt
may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại. Thêm vào đó là
xung đột với Khmer Đỏ (đồng minh của Trung Quốc) nổ ra, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa,
người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc, những điều này khiến cho
chính phủ Việt Nam lo ngại rằng Hoa kiều sẽ tiếp tay cho Trung Quốc để phá hoại. Việc quốc
hữu hóa tài sản, thực hiện kinh tế bao cấp đã chấm dứt việc người Hoa kiểm soát nền kinh tế tại
miền Nam.

Thời kỳ 1976-1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp

Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn những
cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở
miền Nam bị chiến tranh tàn phá.

Cơ chế quản lý kinh tế

Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu
pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động dựa trên cơ sở các
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả
phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.

Mô hình nền kinh tế


Nền kinh tế khép kín, chủ yếu dựa vào nguồn lực của đất nước, tự cung, tự cấp, tự lực cánh sinh;
chưa chú trọng đến sự hợp tác, giao lưu; chưa quan tâm đến việc áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất.

Hình thức sở hữu

Nền kinh tế chỉ có hai thành phần sở hữu về tư liệu sản xuất là Sở hữu Nhà nước và sở hữu tập
thể, được thể hiện dưới dạng Quốc doanh và Hợp tác xã

Thành phần kinh tế

Nền kinh tế chỉ có 2 thành phần trung tâm và giữ vai trò chủ đạo đó là kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể (hợp tác xã). Nhà nước quản lý, làm chủ và chịu trách nhiệm về mọi mặt.

Quan hệ trao đổi

Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản
lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Được thực hiện chủ yếu dưới 3 hình thức sau:
bao cấp qua giá, bao cấp theo chế độ cấp phát vốn, bao cấp qua chế độ tem phiếu.

Hình thức phân phối

Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định
mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã
biến chế độ tiền lương thành hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.

Cơ cấu nền kinh tế

Chú trọng chủ yếu vào nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đã xuất hiện nhưng chưa phát triển.

Nền kinh tế nói chung

Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977-1985 tăng 4,65%, trong đó:
nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm.
Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư
nhân, cá thể tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu
quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này),
nhưng chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức
tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP),
chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.

Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ đầu xây dựng,
nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn chế được nạn đầu cơ, tích
trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng
61,6%/năm.

Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác
động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ
tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.

Văn hóa

Người dân ít được tiếp xúc văn hóa phương Tây, văn học, phim, nhạc... đều được kiểm soát,kiểm
duyệt trước khi phát hành tới người dân. Văn chương chủ yếu tuyên truyền cho chủ nghĩa xã hội
- cộng sản, tinh thần yêu nước, tinh thần tập thể, yêu lao động, tinh thần quốc tế.

Phim chỉ có phim nhựa, chưa có phim truyền hình, chủ yếu chiếu rạp, lưu động và phát một số
buổi nhất định trên truyền hình. Ngoài ra còn có phim các nước Pháp, Mỹ, Anh, Ấn Độ,...

Nhà nước chú trọng chống mê tín dị đoan, phổ biến khoa học. Báo chí không có quảng cáo
thương mại. Các tờ báo rất giống nhau về quan điểm, tư tưởng, chỉ khác là phục vụ cho các đối
tượng khác nhau, không chạy theo lợi nhuận, được bao cấp. Các văn nghệ sĩ sinh hoạt trong các
cơ quan tổ chức của nhà nước, được nhà nước trả lương như công chức.

Xã hội
Vào thời bao cấp, xã hội Việt Nam gần như không giao lưu với phương Tây vì tư tưởng và vấn
đề an ninh. Xã hội ít có sự phân hóa giàu nghèo như hiện nay nhưng mức sống của người dân
thấp. Tất cả sinh viên ra trường đều được nhà nước phân công công việc nên không lo thất
nghiệp nhưng không được tự chọn cơ quan làm việc cho mình. Thi đậu đại học thời đó rất khó,
ngoài học lực, tiêu chuẩn cao và xét cả lý lịch. Xã hội có tính cộng đồng cao, sống có người làng
nghĩa xóm thân thiết, tối lửa tắt đèn có nhau. Đời sống tinh thần không có nhiều loại hình giải trí,
cuộc sống bình an nhưng còn nghèo nàn, khó khăn.

Giáo dục và y tế
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa, xem đó là
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản
xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ, có 1.323,7
nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy nghề phát triển cũng mạnh mẽ. Năm 1977, trên cả
nước chỉ có 260 trường trung học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo
viên. Đến năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với quy mô 128,5 nghìn
sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về số giáo viên so với năm
1977).

Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường bệnh
thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn giường năm 1985. Số
nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985, trong đó số
bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người. Về mặt y tế, người dân không mất tiền khám chữa
bệnh nhưng điều kiện còn nhiều thiếu thốn. Người dân đi khám chữ bệnh, mua thuốc sau đó
mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viên thanh toán. Nhà nước viện trợ trang thiết bị y tế, thuốc
men... Các bệnh viện có các nhà một tầng hoặc 3 tầng, vớiquy mô nhỏ. Bệnh viện cũng được Bộ
y tế phân chỉ tiêu để thực hiện.

Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức
tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu người một
tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng
do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.

Tác động

Nền kinh tế trở nên trì trệ, khủng hoảng, không có cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, triệt tiêu động lực kinh tế của người lao động

Trong 10 năm bao cấp, Việt Nam thực hiện hai kế hoạch: 5 năm lần thứ II (1976-1980) và 5 năm
lần thứ III (1981-1985). Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà nước
Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân
bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.

Các hình thức bao cấp

Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa[sửa | sửa mã nguồn]


Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa, nhưng thường thấp hơn nhiều lần
so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.

Công nhân lao động nặng được cấp 20 kg gạo mỗi tháng, trong khi cán bộ công chức chỉ được có
13 kg. Do gạo ít nên thường ăn độn thêm ngô, khoai, sắn, bo bo, phần gạo do trung ương cấp còn
phần độn do địa phương phụ trách tăng gia thêm vào, như 13 kg gạo thì có 10 kg là độn khoai,
sắn...Cho dù có tiền, hàng hóa rất khan hiếm, mà dù có tem phiếu người mua có thể xếp hàng
vào mua nhưng đến lượt mình thì không còn hàng, đành về tay không. Hàng hóa thì ngoài phẩm
chất kém, lượng hàng rất hạn chế, chỉ đủ dùng một thời gian ngắn, đến cuối tháng thì đã cạn kiệt,
phải mua ở chợ đen.[11]

Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Tiêu
chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông.[1] Những khu nhà tập thể giống như ở Liên Xô được xây
lên trong thành phố và cấp cho cán bộ trung cấp và công nhân nhưng quản lý kém khiến khu đất
công cộng bị lấn chiếm khiến khó nhận ra đâu là của chung, đâu là của riêng. Nhà cửa hư hỏng
thì có Sở nhà đất lo sửa.[14] Đời sống trong những khu tập thể này càng tồi tệ với việc chăn nuôi
gia súc trong những căn hộ chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là một khía cạnh của thời bao cấp
trong thành phố.[15] Giá nhà ở các thành phố tương đối rẻ, nhưng công nhân viên chức vẫn không
mua nổi vì thu nhập quá thấp.

Bao cấp qua chế độ tem phiếu

Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định
mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã
biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá
vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu áp dụng sổ gạo vào
khoảng năm 1960, lúc đầu là lương thực, sau thêm tem phiếu cho tất cả các mặt hàng nhu yếu
phẩm.[16] Trọng tâm của thời bao cấp là tem phiếu quy định loại hàng và số lượng người dân
được phép mua, chiếu theo một số tiêu chuẩn như cấp bậc và niên hạn. Có diện được ưu đãi, cho
phép ưu tiên mua dùng; diện khác thì không. Ví dụ như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua
1,5 kg/tháng nhưng cán bộ cao cấp có quyền mua 6 kg/tháng.[16] Pin, Vải vóc, phụ tùng xe
đạp, đường cát, sữa đặc, chất đốt, nước mắm, mỡ, muối, tất cả đều có tem phiếu.[17]

Tùy thuộc vào vị trí công việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công chức nhà nước cũng như
người dân lao động được phát tem phiếu mua lương thực, thực phẩm với chế độ riêng.
Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B;
trưởng các cục, vụ, viện được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông
Đản, Nhà thờ, Vân Hồ (Hà Nội)... Lúc bấy giờ dân gian có câu Tông Đản là của vua quan/ Nhà
thờ là của trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân là của thương nhân/ Vỉa hè là của nhân dân anh
hùng.[18]

Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách

Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa
làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ
chế "xin - cho".

Những bước tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới nền kinh tế qua 2 nhiệm kỳ Đại hội
IV, V

Sau năm 1975, đất nước còn vô vàn những khó khăn. Đó là: Hậu quả của 30 năm chiến tranh đối với cả nước và
chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam phải giải quyết vô cùng nặng nề; miền Nam hậu quả của chiến tranh và chính
sách thực dân kiểu mới của Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến tranh phá hoại năm 1964-1968 và năm 1972; Nền kinh tế quốc dân
mất cân đối một cách gay gắt, nhất là cung-cầu lương thực, sản xuất không đủ tiêu dùng. Trong khi đó, Mỹ và các
thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta. Nhân dân VN phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc. Các nước XHCN gặp nhiều khó khăn, đã bộc lộ trì trệ, đòi hỏi
phải cải cách, cải tổ....

Từ những khó khăn đó, Đảng ta đã tìm thấy những bất cập của cơ chế, đồng thời phát hiện những điểm sáng của
thực tiễn đặt ra. Do vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V, Đảng ta đã chỉ ra những đột phá lớn, mà cụ thể:
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (15-23/8/79) “tìm kiếm lối thoát” cho nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng, trì trệ với
những chủ trương, biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm đẩy mạnh sản xuất,
ổn định đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”; tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển…; đồng thời được tự
do lưu thông hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ”. Đặc biệt là Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư ngày
13/01/1981 về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp
tác xã nông nghiệp...

Về Quyết định 25/CP ngày 21/01/1981 là phát huy quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính
của các xí nghiệp quốc doanh và Nghị quyết 26/CP của Hội đồng Chính phủ về mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước.

Hội nghị Trung ương 8 khóa V (1-7/6/85) đã quyết định dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính,
bao cấp chuyển sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa lấy “Giá-lương-tiền” làm khâu đột phá. Bên
cạnh đó, còn có Kết luận Bộ Chính trị (20/9/86) về thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cho phép sở hữu
các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý, xóa cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp thực hiện hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa…; đổi mới cơ cấu kinh tế, phải “thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu”.

Trên đây là 3 đột phá về tư duy nhằm mở đường cho phát triển kinh tế, xã hội, cơ sở quan trọng để Đảng ta đổi mới
toàn diện, trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế.

Từ năm 1986 đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện
bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của
đất nước. Những thắng lợi bước đầu đó được Đảng ta từng bước hoàn thiện, cụ thể hóa đường lối đổi mới mà nội
dung cơ bản, cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các
kỳ Đại hội.

Nền kinh tế nước ta trong gần 35 năm trở lại đây đã đạt được nhiều thành tựu rất lớn (1986-2017), tốc độ tăng
trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức cao hơn trung bình khu vực và thế giới với
mức tăng bình quân cả thời kỳ gần 7%/năm. Nếu như giai đoạn 1986-1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta chỉ
đạt 4,4%/năm, thì đến giai đoạn 1991-1995 là 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 là 7,6%/năm; giai đoạn 2001-2005 là
7,34%; giai đoạn 2006-2010 là 6,32%/năm; năm 2016 là 6,21% và năm 2017 là 6,81% , năm 2018 là 7,08%, năm
2019 tốc độ tăng trưởng 7,02%. Đặc biệt là quy mô GDP năm 2019 đạt kỷ lục từ trước tới nay là 266,5 tỷ USD. Thu
nhập (GDP) bình quân đầu người 2800 USD, bội chi ngân sách ở mức 3,4% GDP, thấp hơn mức kế hoạch (3,6%).

Với những kết quả ấn tượng như vậy, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong lễ kỉ niệm 90
năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam
trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam”, “Với tất cả sự khiêm tốn của người cách
mạng, có thể nói rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay. Đất nước
hòa bình thống nhất, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững”.

Tóm lại, thay lời kết của toàn bộ nội dung bài viết này, tác giả không thể sử dụng lời lẻ nào chân lý và khoa học hơn
như lời đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trong lễ kỉ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam: “Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong
quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang
mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi
ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”./.

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta có tư
tưởng chủ quan, nóng vội muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một
thời gian ngắn. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó về quản lý kinh tế, những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp bộc lộ ngày càng gay gắt, dẫn tới đất nước dần dần lâm vào
khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn
là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi
mạnh mẽ cách nghĩ, cách làm. Từ đó có những tìm tòi thử nghiệm và cách
làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp mới cho những vấn đề đặt ra.

Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách "làm
cho sản xuất bung ra", là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử
nghiệm đó. Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm,
phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích mọi
người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc
dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến
khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ
lối phân phối theo định suất, định lượng, v.v... Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6 đã nhanh chóng được nhân dân cả nước đón nhận và biến thành
hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trong cả
nước đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa
năm 1980 đã thí điểm mô hình theo cơ chế "mua cao, bán cao", "bù giá vào
lương" thay đổi cho cơ chế "mua cung, bán cấp". Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ
Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Từ thực tế các thí điểm đó, Chỉ thị 100 CT/T.Ư
(ngày 13-1-1981) của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ra đời.
Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của cơ sở trong
sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp theo các Quyết
định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Các nghị quyết Trung ương 6,
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng
Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai,
chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt những
cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.

Ðại hội toàn quốc lần thứ V của Ðảng (3-1982) phát triển thêm một bước,
đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh
tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Ðể góp phần khắc
phục tư tưởng nóng vội, Ðại hội đưa ra khái niệm về "chặng đường trước
mắt" của thời kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội dung chính
của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là "coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng
trong một cơ cấu hợp lý". Ðại hội cũng khẳng định sự tồn tại 5 thành phần
kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền nam.

Tuy nhiên, sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12-1983) lại cho rằng sự
chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân
của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội, từ đó, chủ trương để ổn định tình
hình, phải đẩy mạnh hơn nữa sự cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải
nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải
sản quan trọng, thống nhất quản lý giá, v.v...

Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) lại là bước đột phá thứ hai với chủ
trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ
chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa... Tháng 9 năm 1985, cuộc tổng điều chỉnh giá lương - tiền được bắt
đầu bằng việc đổi tiền, xóa bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng
vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều
diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Ðầu năm 1986, lại phải
lùi một bước: Quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...

Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8-1986) là bước đột phá thứ ba với "Kết luận
đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế". Nội dung là: (1) Trong bố
trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu;
ra sự phát triển công nghiệp nhẹ; phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng. (2)
Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. (3) Trong
cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng
đúng quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp,
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một
giá.

Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo
lại  một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội VI của Ðảng.

Đại hội IV

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc 1976-1981 Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà
Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn
đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế tham dự.

Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế
hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định đổi tên Đảng
Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm
Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nýớc, khẳng ðịnh thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nýớc mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX,
một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc,
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và nêu lên ba đặc điểm lớn của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới: Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh
tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội
với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư
của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong
hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực
phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt”.

Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
nhưng đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải phát huy
cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên, đặc
điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước
ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng, khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xãhội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên
củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc
Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”'. Trong
đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4 đặc
trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hoá
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; kết hợp
kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường
quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với
các nước khác.

Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976-1980) nhằm hai mục
tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở
vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và
phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các
đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng, cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã h oi trọng
nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, củng c quan hệ đặc biệt với Lào và
Campuchia, đây mạnh hợp tác với Liên Xô: nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng.

Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ
vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Đ¿ chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là hậu phương, vừa là tiền
tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam và làm nhiệm vụ
quốc tế. Trong điều kiện đó không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh tế, không thể hạch toán
kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả để đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện đó, chưa phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa
xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh. Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa
nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm
để kết thúc thời kỳ quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra
các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương
nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều lần, tập
trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đâu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng Chính phủ ra
quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được miễn
thuế, trả thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa bỏ những trạm kiểm soát để
người sản xuất có quyền tự do đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.

Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ
chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức
khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác
do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ
trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng.
Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tắn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu
tắn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp
giảm đi đáng kể.

Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở Thành phố Hồ
Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết
định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình
thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ trương trên đã
tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản xuất công, nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp
địa phương vượt kế hoạch 7,5%.

Tháng 9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo thảo luận Dự thảo Hiến pháp mới
của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những biện pháp bảo đảm việc thi
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua.

Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng, thiết tha của
nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng đất nước. Song chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá, buộc Việt Nam phải
tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Đại hội V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội

Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình và thể giới
trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới.

Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện Việt
Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông
Dương. Trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta ngày càng trầm trọng.

Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn I,7 triệu đảng viên cả nước, có 47 đoàn đại biểu
của các đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức. Đồng
chí Lê Duẫn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích nguyên nhân
thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới; khẳng định tiếp tục
thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra. Ngoài thông qua
những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối
ngoại, xây dựng Đảng... Đại hội V đã bổ sung đường lối chung do Đại hội IV đề ra những quan
điểm mới:

Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với với
những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đó là thời kỳ khó khăn, phức tạp, lâu dài,
phải trải qua nhiều chặng đường. Hiện nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên với nội dung
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội rất nặng nề. Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm
1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến lên cải thiện một bước đời sống, vật chất và
văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu
nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của công
cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an nỉnh, trật tự xã hội. “Kinh nghiệm
của 5 năm 1976-1980 cho thấy phải cụ thể hoá đường lối của Đảng-đường lối chung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. vạch ra
chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa”'. Chặng đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện một bước đời sống
vật chất, văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của quốc phòng,
giữ vững an ninh, trật tự xã hội.

Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật
thiết với nhau. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cốquốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”'.

Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cầu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận
thức đó phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước
về lao động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường
đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.

Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, chính sách đối ngoại. Tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của
Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn giữ vững
bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đầu cao, gắn bó chặt
chẽ với quần chúng.

Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm là
trong khâu tổ chức thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết. Đại
hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan
điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ
trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng một cách tràn lan; không dứt
khoát dành thêm vốn và vậttư cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng...

Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế

Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại hội.
Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp
bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu mua
nắm nguồn hàng, quản lý chặt chế thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền
lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch
năm 1985 phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng, đầu, trước hết là sản
xuất lương thực, thực phẩm. Nồi bật nhất là

Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình
tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế
hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp trong giá và lương là tính đủ chỉ phí hợp lý trong giá
thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chỉ phí thực tế hợp lý, người sản xuất có lợi nhuận thoả
đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù
lỗ; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục tình trạng thả nổi trong việc định
giá và quản lý giá. Thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp,
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh doạnh xã hội chủ nghĩa. Giá,
lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá
bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ các
khoản chi của ngân sách trung ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng
chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng, hoá và những
quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tổ chức thực hiện lại mắc
những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị
đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm
trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về
quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là bước
quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá
là:

Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương
quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Đây là một
nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại chỗ, năng
suất lao động giảm sút, chỉ phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế-xã hội ngày
càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng chậm giải quyết căn bản
các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Cần tiến hành một cuộc diều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự
lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công
nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực
hiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và hàng xuất khẩu.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đây mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trọng ø suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nên chúng ta đã pham nhiều khuvết điểmđộ lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm
nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình
thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước
trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải
nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có
cơ cấu nhiều thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng
các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần
kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế
độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng
sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.

Về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất
phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế
hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa,
đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá- tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh
tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức năng quản lý hành chính của Nhà
nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp
bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ
động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.

Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa
quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được trình
bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị trước
đó vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không phù hợp với yêu cầu trước mắt là khắc phục cho
được khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện thắng lợi chủ
trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu quan trọng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến
lên. Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV
và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâmvào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất
tăng chậm và không, ổn định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm
phát tăng cao và kéo dài. Đắt nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng
tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.

Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây dựng đất nước từ nền kinh
tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ
từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh ở biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới. Về chủ quan là do những
sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu
kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá
lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẫn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị bắt thường bầu đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí thư của Đảng và
chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI của Đảng

Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát triển nhận thức
từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân
để hình thành đường lối đổi mới.

You might also like