You are on page 1of 9

ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ Ở VIỆT NAM - NHỮNG BƯỚC ĐI

ĐẦU TIÊN (1979-1986)


Phạm Thị Tuyết
TS, Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Từ khóa: đổi mới, tư duy kinh tế, bước đột phá, nghị quyết.

MỞ ĐẦU
Bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, do tác động bởi nhiều yếu
tố, nền kinh tế Việt Nam đứng trước những khó khăn, thiếu hụt ngày càng lớn. Tình
hình đó ảnh hưởng không nhỏ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Yêu cầu đặt ra trước
mắt là cần phải tìm cách tháo gỡ những cản trở, ách tắc trong cơ chế, chính sách kinh
tế. Trong bối cảnh đó, hiện tượng “phá rào”, vi phạm cơ chế trong quản lý và xây dựng
kinh tế đã diễn ra ở nhiều nơi, với nhiều cách thức khác nhau. Về bản chất, đó là những
sáng kiến hay, những cách làm mới, thể hiện tư duy sáng tạo của một bộ phận những
người lãnh đạo vốn có sự nhạy bén, năng động cùng với mong muốn sớm tìm cách tháo
gỡ khó khăn, ách tắc của nền kinh tế, giải quyết nhu cầu đời sống của nhân dân, người
lao động. Kết quả mà hiện tượng này mang lại không chỉ là hiệu quả kinh tế, giải
quyết khó khăn trước mắt về đời sống cho nhân dân và cán bộ công nhân viên ở
chính đơn vị đó, mà còn tạo ra phản ứng dây chuyền, kích thích tư duy đổi mới ở
cấp lãnh đạo Trung ương, dẫn tới đòi hỏi cần phải xem xét lại lý luận, các quan điểm
và chính sách kinh tế. Cũng từ đó, một số quyết định quan trọng liên quan đến việc sửa
đổi cơ chế, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đã lần lượt
ra đời, thể hiện sự tìm tòi, thử nghiệm đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, tạo cơ sở, tiền đề
quan trọng cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986. Đó chính là những
bước đi đầu tiên trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 1979-
1986. Bài viết sẽ tập trung làm rõ những tư tưởng, nhận thức mới về mô hình, cơ cấu,
cơ chế quản lý, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong một số văn kiện của Đảng và quyết định của
Nhà nước những năm 1979-1986.
NỘI DUNG
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa IV (8-1979) chính là mốc khởi đầu đánh
dấu bước đi đầu tiên, đồng thời cũng là bước đột phá thứ nhất của quá trình đổi mới tư
duy kinh tế ở Việt Nam. Ban đầu, Hội nghị được triệu tập với chủ đề và nội dung đã
được chuẩn bị là bàn về sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương. Tuy nhiên,
trong quá trình chuẩn bị Hội nghị, các ý kiến phản ánh từ các địa phương đều nêu lên
1
những ách tắc của cơ chế trên nhiều lĩnh vực kinh tế. Thông tin từ các địa phương dội
về rằng hàng rào cơ chế ở nhiều nơi đã bị vi phạm. Ví dụ như hiện tượng Công ty Lương
thực thành phố Hồ Chí Minh đã tự ý xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mua bán
thóc với giá 1,5 đồng, rồi 2,0 đồng trong khi giá thóc nghĩa vụ do Nhà nước quy định là
0,52 đồng; hay trường hợp tự ý áp dụng cơ chế khoán ở Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo –
Vũng Tàu; cách “làm chui” của tỉnh Long An trong việc thực hiện mua cao, bán cao
theo giá thị trường… Trước tình hình đó, Hội nghị đã buộc phải “xé rào” chương trình
nghị sự, điều chỉnh chủ đề, bên cạnh việc bàn về sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp
địa phương còn bàn thêm về một chủ đề lớn hơn là cơ chế chính sách kinh tế. Kết quả
là Hội nghị đã cho ra đời hai bản Nghị quyết đột phá, một Nghị quyết “Về sản xuất hàng
tiêu dùng và công nghiệp địa phương” và một Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ
cấp bách’’, với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”, “cởi trói” sản
xuất. Tư tưởng của hai bản Nghị quyết này được đánh giá “là điểm đột phá không những
về tư duy kinh tế mà cả về đường lối kinh tế, mở đầu cho một loạt biện pháp và chính
sách của Nhà nước liên tiếp sau đó”1. Đó cũng chính là cú hích từ trên xuống, dẫn tới
hàng loạt sự đột phá tiếp theo ở các địa phương, các đơn vị kinh tế ở cấp dưới.
Tư tưởng đổi mới của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 được thể hiện trên một số
điểm cụ thể sau đây:
Hội nghị đã thẳng thắn nhìn nhận rằng, những mục tiêu và dự kiến của Đại hội
Đảng lần thứ IV (12-1976) là quá lạc quan, không hiện thực, đồng thời chỉ ra nguyên
nhân của sự duy ý chí đó là do chưa quán triệt đầy đủ về những bước đi ban đầu của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội2.
Hội nghị thừa nhận thực trạng khó khăn về kinh tế và đời sống: “sản xuất phát
triển chậm, năng suất thấp, đời sống thiếu thốn, nhất là đời sống của những người ăn
lương ở thành thị và các khu công nghiệp…, người lao động sản xuất thiếu hăng hái sản
xuất, bọn làm ăn bất chính và phi pháp vẫn ngang nhiên hoạt động…”3.
Hội nghị cũng chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó là do “Các chính sách cụ thể
có nhiều thiếu sót…, kế hoạch thường không xuất phát từ thực tiễn, chưa kết hợp được
kế hoạch với thị trường. Chính sách cụ thể thì gò bó, cứng nhắc, không khuyến khích
được sản xuất phát triển, nhiều chính sách không hợp lý hoặc lạc hậu rồi không được
sửa đổi bổ sung kịp thời...”4.
Do đó, để khắc phục những hạn chế, yếu kém trên đây, Hội nghị đưa ra một số
quan điểm, chủ trương như sau:

1
Đặng Phong (2014), “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr.49.
2
Đặng Phong (2014), “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr.49.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.358.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.227.
2
1- Thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phê phán những lệch
lạc, tả khuynh trong việc thực hiện cải tạo công thương nghiệp và cải tạo nông nghiệp;
có cách nhìn nhận mới về các thành phần kinh tế: “Phải tận dụng các thành phần kinh
tế: quốc doanh, công tư hợp doanh, tập thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp
pháp)”5, chủ trương sử dụng kinh tế tư nhân và cả tư bản tư nhân trong phát triển kinh
tế, có sự kiểm soát của Nhà nước.
2- Thừa nhận yếu tố thị trường, khẳng định sự cần thiết phải kết hợp giữa kế
hoạch với những quy luật của thị trường, phê phán cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, phê phán cách nghĩ, cách làm trước đây, chỉ muốn gò tất cả vào kế hoạch, có thành
kiến với thị trường và muốn dẹp bỏ càng sớm càng tốt. Cụ thể là sự thừa nhận “bên cạnh
thị trường có tổ chức, có kế hoạch, còn tồn tại một cách khách quan thị trường ngoài kế
hoạch’’6, đồng thời chỉ ra cách thức quản lý đối với thị trường: “Chúng ta phải biết quản
lý thị trường tự do, chủ yếu bằng các biện pháp kinh tế, các hình thức kinh doanh mua
bán thích hợp, không nên chỉ dùng biện pháp hành chính đơn thuần, như kiểm tra, bắt
bớ… Không sử dụng thị trường thì không khuyến khích lưu thông, gây khó khăn cho
đời sống”7.
3- Thực hiện cơ chế phân phối lưu thông tự do hơn, sửa đổi hệ thống giá cả và
cơ chế quản lý giá, phê phán cơ chế thu mua dựa trên những biện pháp hành chính cưỡng
bức. Cụ thể là: cho phép nông dân bán lương thực thừa ra thị trường tự do; sửa lại biểu
thuế lương thực nhằm khuyến khích thâm canh tăng vụ; sửa lại giá lương thực và giá
các nông sản khác để khuyến khích sản xuất và mở rộng nguồn thu mua của Nhà nước;
Nhà nước và nông dân thực hiện mua bán lương thực hàng hóa theo giá thỏa thuận; điều
chỉnh giá một số mặt hàng cần thiết để nhằm phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống, xuất
khẩu và tích lũy, tiến tới sớm chấm dứt tình trạng bù lỗ không hợp lý; sửa đổi chế độ
phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định xuất, định
lượng, thay vào đó là hình thức phân phối theo lao động…
4- Về cải tạo nông nghiệp ở miền Nam, phải quán triệt phương châm tích cực
nhưng vững chắc, “phải theo đúng ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân
chủ…; chống tư tưởng chủ quan, nóng vội, cưỡng ép mệnh lệnh, làm ồ ạt, gây thiệt hại
cho sản xuất và đời sống nhân dân” 8.
Tư duy đổi mới của Hội nghị Trung ương 6 ngay sau đó đã được cụ thể hóa và
triển khai vào thực tiễn trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Trong lĩnh vực nông
nghiệp là Chỉ thị số 100-CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác

5
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.381.
6
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.310.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.343-344.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.364.
3
khoán, mở rộng “khoán sản phẩm” đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp” (gọi tắt là “Khoán 100”). Mục đích của chính sách “Khoán 100” là: phát triển
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế; củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nông thôn; nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên9. Theo tinh thần của
“Khoán 100”, toàn bộ quá trình sản xuất nông nghiệp được chia thành 8 khâu, trong đó
hợp tác xã quản lý 5 khâu (làm đất, thủy lợi, giống, phân bón, thuốc trừ sâu), còn 3 khâu
(gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch) giao cho xã viên đảm nhiệm. Do quy định mới là nếu
thu hoạch vượt mức khoán thì xã viên được hưởng nên chính sách “Khoán 100” đã phát
huy được tinh thần lao động tích cực của nông dân, chấm dứt tình trạng rong công phóng
điểm kéo dài nhiều năm trong hợp tác xã trước đây. “Khoán 100” đã thực sự tạo ra động
lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Trong lĩnh vực công nghiệp là Quyết định 25/CP ngày 21-1-1981 của Hội đồng
Chính phủ về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất
– kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Với chủ trương
“ba phần kế hoạch” cùng những nguyên tắc, biện pháp cải tiến công tác kế hoạch hóa
và hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh, những quy định về tiêu thụ sản phẩm,
về giá cả đối với các sản phẩm do ba phần kế hoạch tạo ra, Quyết định 25/CP đã giúp
cho các xí nghiệp quốc doanh có phương hướng tháo gỡ khó khăn, bế tắc trong sản xuất,
kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển và cải thiện đời sống
công nhân.
Cùng với Quyết định 25/CP, Quyết định 26/CP ngày 21-1-1981 của Hội đồng
Chính phủ về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng
hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước cũng góp
phần tạo động lực cho người lao động, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh trong
các đơn vị kinh tế quốc doanh.
Trong lĩnh vực phân phối lưu thông là những thử nghiệm của chủ trương cải tiến
cơ chế thu mua, thực hiện mua cao, bán cao theo giá thỏa thuận, tiến tới chế độ bù giá
vào lương của mô hình Long An những năm 1979-1980, để rồi sau đó lan tỏa và được
nhân rộng, trở thành một hướng đi mới cho cả nước.
Chính nhận thức mới của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 và những tìm tòi,
thử nghiệm ban đầu trên các lĩnh vực kinh tế theo tinh thần của Nghị quyết này đã đặt
những viên gạch đầu tiên cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-1982)
là một bước đi tiếp theo, dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận về

9
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.26.

4
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội này, tư
duy đổi mới được thể hiện ở một số điểm cụ thể như sau:
Thứ nhất, Đại hội đã thẳng thắn thừa nhận những khó khăn của tình hình đất
nước, nhất là về kinh tế và đời sống. Đại hội cũng chỉ ra nguyên nhân chủ yếu gây ra
hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội là do những khuyết
điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý, do “Chúng ta chưa thấy hết những khó khăn, phức
tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ
biến; … chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá
cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất… Mặt khác, chúng ta lại hết sức
bảo thủ, trì trệ… Chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao
cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ kìm hãm sản xuất. Trong hoạt động sản xuất
và quản lý kinh tế, tư tưởng ỷ lại rất nặng” 10.
Thứ hai, Đại hội đã bước đầu khắc phục tư tưởng nôn nóng, nêu lên nhận thức
mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với những quan niệm bước đầu
về chặng đường trước mắt và chặng đường tiếp theo. Đại hội xác định: “Chặng đường
trước mắt của thời kỳ quá độ bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến năm
1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt”11. Nhiệm vụ, mục tiêu của chặng
đường trước mắt là “tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng
cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục
khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ các biểu hiện
tiêu cực, đạt những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo thế cân đối mới của nền
kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn trong chặng
đường tiếp theo.”12
Thứ ba, Đại hội đã nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của kinh tế nông nghiệp
trong chặng đường trước mắt, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chủ trương kết hợp
nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công
– nông nghiệp hợp lý và xem đó là nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường trước mắt 13.
Đây là những nhận thức hoàn toàn mới mẻ so với trước đây, bước đầu thể hiện
sự thừa nhận đối với những sai lầm trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như trong chủ trương, chính sách kinh
tế. Đặc biệt, chủ trương coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đã thể hiện một bước tiến
lớn trong tư duy kinh tế, trái ngược với tư tưởng nóng vội trước đây ưu tiên phát triển

10
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.49-50.
11
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.59.
12
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.61.
13
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.71.
5
công nghiệp nặng, muốn nhanh chóng công nghiệp hóa một nền kinh tế nông nghiệp
vốn nhỏ bé, lạc hậu. Nhận thức này có ý nghĩa rất lớn đối với việc xem xét, bố trí lại
một cách hợp lý cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, những bước tiến trong tư duy lý luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V của Đảng đã không được cụ thể hóa và biến thành hành động trong thực tiễn
mà chỉ dừng lại ở nhận thức. Một trong những vấn đề quan trọng mà Đại hội lần thứ V
đã thông qua là cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu đã không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Điều này sau đó đã
được Đại hội lần thứ VI thẳng thắn thừa nhận như sau: “Nông nghiệp chưa thật sự được
coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều kiện cần thiết để phát triển,
nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích” 14. Thậm chí, một số chỉ thị,
nghị quyết sau đó đã thể hiện sự phục hồi của tư duy cũ, làm cho tiến trình đổi mới bị
chậm lại. Do đó, tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng trầm
trọng hơn, và mục tiêu mà Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế -
xã hội, ổn định đời sống của nhân dân đã không thực hiện được.
Trong bối cảnh đó, cuộc đấu tranh giữa hai lối tư duy cũ và mới vẫn đang ở thế
giằng co và chưa có hồi kết, làm cho tình hình kinh tế lâm vào tình cảnh “tiến thoái
lưỡng nan”. Nhưng có một thực tế là, trong khi một bộ phận giới lãnh đạo ở cấp Trung
ương còn đang do dự, chưa quyết tâm đổi mới thì ở dưới các ngành, các địa phương, các
cơ sở, hiện tượng “xé rào”, “làm chui” vẫn diễn ra phổ biến dưới nhiều cách thức khác
nhau. Đổi mới là một yêu cầu không thể cưỡng lại được. Thực tế đó đòi hỏi Trung ương
phải có thái độ dứt khoát, quyết đoán “để mở những khâu đột phá giải quyết những khó
khăn, ách tắc cho nền kinh tế”15. Đó chính là lý do dẫn đến những quyết định quan trọng
mang tính đột phá tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa V (6-1985). Hội nghị này
đã cho ra đời một nghị quyết lịch sử, được coi là bước đột phá thứ hai của quá trình đổi
mới tư duy kinh tế ở Việt Nam bởi những chủ trương đổi mới mạnh dạn và quyết đoán
sau đây:
1- Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, phân
công, phân cấp hợp lý trong cơ chế quản lý giá và tăng cường kỷ luật quản lý
giá;
2- Thực hiện trả lương bằng tiền, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp,
thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước;

14
Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X,
XI), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.16.
15
Đặng Phong (2014), “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989”, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr.274.
6
3- Chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa;
4- Nhanh chóng chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa 16.
Như vậy, Nghị quyết này đã thể hiện sự dứt khoát từ bỏ đối với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, chủ trương thực hiện một cuộc tổng điều chỉnh về giá – lương – tiền,
đồng thời chính thức thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng
hóa. Việc bao cấp qua giá bị xóa bỏ, đưa về cơ chế một giá theo thị trường. Thị trường
đóng vai trò điều tiết giá cả theo quy luật cung cầu. Cách làm này sẽ chấm dứt được tình
trạng Nhà nước phải bù lỗ rất nhiều khoản bất hợp lý, chấm dứt tình trạng ăn chệnh lệch
theo giá như trước đây 17.
Tinh thần của Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 đã được triển khai trong thực tiễn
bằng cuộc cải cách giá – lương – tiền lần thứ hai và bắt đầu bằng việc đổi tiền vào ngày
4-9-1985. Tiếp theo đó là việc xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp, xóa bỏ tem phiếu, chỉ giữ
lại sổ gạo cho người làm công ăn lương trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, do
những sai lầm trong việc triển khai vấn đề giá – lương – tiền và đổi tiền nên cho đến tận
những tháng cuối năm 1986, nền kinh tế vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt, lạm
phát vẫn ở mức phi mã (ba con số), nhiều vấn đề nóng bỏng đặt ra nhưng chưa được giải
quyết, thậm chí có mặt còn trầm trọng hơn.
Trong tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị Bộ chính trị khóa V (9-1986) với kết
luận về ba quan điểm kinh tế được coi là bước đột phá thứ ba trong quá trình đổi mới tư
duy kinh tế ở Việt Nam. Hội nghị diễn ra trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI (12-1986) ba tháng, với nội dung bàn về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế. Chủ
trì Hội nghị là Tổng Bí thư Trường Chinh (Trường Chinh được cử làm quyền Tổng Bí
thư từ tháng 5-1986 và chính thức được cử là Tổng Bí thư từ tháng 7-1986, sau khi Tổng
Bí thư lê Duẩn từ trần). Cho đến thời điểm này thì dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại
hội lần thứ VI về cơ bản đã được soạn thảo xong, nhưng vẫn chưa thể hiện rõ tinh thần
đổi mới, chưa đáp ứng được những nhu cầu bức bách của cuộc sống. Việc soạn thảo lại
Báo cáo Chính trị đang được gấp rút tiến hành bởi một nhóm biên soạn mới, dưới sự chỉ
đạo của Tổng Bí thư Trường Chinh, với mục đích đưa những tư tưởng đổi mới vào Báo
cáo Chính trị. Vì vậy, những vấn đề được bàn luận và quyết định tại hội nghị này sẽ là
căn cứ quan trọng cho việc điều chỉnh các quan điểm và nội dung của dự thảo Báo cáo

16
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 46, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.117-119.
17
Đức Vượng (2006), “Đổi mới ở Việt Nam – những chặng đường đáng ghi nhớ”, in trong Việt Nam 20 năm đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.79.
7
Chính trị đã soạn thảo trước đó. Sau khi thảo luận, Bộ Chính trị đã nhất trí kết luận về
ba quan điểm kinh tế cơ bản trong tình hình mới như sau:
Một là: Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có
chọn lọc.
Hai là: Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là: Trong quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải
sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp;
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá 18.
Đây là những kết luận có ý nghĩa rất lớn trong đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm này có vai trò định hướng
cho việc soạn thảo lại một cách căn bản Báo cáo Chính trị trình Đại hội VI của Đảng
theo tinh thần đổi mới. Và cũng nhờ đó mà Đại hội lần thứ VI của Đảng mới mang tầm
vóc là Đại hội chính thức mở đầu công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Với bước đi dứt khoát
này, Đảng được đánh giá là đã vượt lên được chính mình, và cơ hội bám rễ của những
quan điểm bảo thủ đã phải lùi bước.
KẾT LUẬN
Như vậy, quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam đã chính thức bắt đầu từ
năm 1979, với sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV. Đổi mới được
nảy sinh và hối thúc bởi chính những yêu cầu của thực tiễn cuộc sống mà kinh tế là lĩnh
vực nóng bỏng nhất và đòi hỏi trước tiên. Từ những tìm tòi, thử nghiệm ban đầu, từ
những bước đi đầu tiên mang tính đột phá với những quyết sách táo bạo và cả những
bước đi còn ngập ngừng, lưỡng lự, tất cả đã vạch ra một hướng đi mới với triển vọng
thành công, tạo đà và tiếp tục kích thích tư duy đổi mới, sáng tạo. Tuy nhiên, nếu chỉ
đổi mới trên một lĩnh vực kinh tế sẽ chỉ giải quyết được vấn đề khó khăn về đời sống
mà không thể giải quyết triệt để các vấn đề còn tồn tại trong thực tế. Những chủ trương,
chính sách đổi mới kinh tế trong giai đoạn này cũng mới chỉ được triển khai ở một số
bộ, ngành, lĩnh vực, địa phương, còn mang tính cục bộ, phân tán, chưa tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng, nhận thức, công tác tổ chức, phương thức lãnh
đạo và phong cách hoạt động của toàn thể cán bộ lãnh đạo và nhân dân. Đổi mới đôi khi
còn gặp những cản trở và chưa dành được sự đồng thuận cao trong toàn xã hội. Chính
vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ VI đã quyết định tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
toàn diện, triệt để và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực./.

18
Đức Vượng (2006), “Đổi mới ở Việt Nam – Những chặng đường đáng ghi nhớ”, in trong Việt Nam 20 năm đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.80.
8
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập - Tập 40, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập - Tập 42, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập - Tập 43, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập - Tập 46, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội
nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Đặng Phong (2014), “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
7. Đặng Phong (2014), “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989”, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
8. Đức Vượng (2006), “Đổi mới ở Việt Nam – Những chặng đường đáng ghi nhớ”,
in trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.64-98.

You might also like