You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI

KHOA CHÍNH TRỊ-


QUỐC PHÒNG AN NINH-GIÁO DỤC THỂ CHẤT

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày nội dung Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986) của Đảng? Liên hệ vấn đề giải quyết việc làm ở nông
thôn ở Việt Nam hiện nay?”

SINH VIÊN THỰC HIỆN : Đinh Thị Lan Phượng


MÃ SINH VIÊN: 70DCKT21291
LỚP : 70DCKT24
KHÓA: 70
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Thơm

HÀ NỘI, 6-2022

MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..3
NỘI DUNG……………………………………………………………………..4
Chương 1: Nội dung Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng
……4
1. Hoàn cảnh lịch sử Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng…………4
2. Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng……....5

2.1. Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội Đại biểu lần thứ VI đề ra…………
5

2.2. Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI………………..7

Chương 2: Liên hệ thực tiễn về vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn ở
Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………..13

1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến giải quyết việc làm…………………
13

2. Vị trí của chính sách việc làm………………………………………………14

3. Vai trò của giải quyết việc làm cho người lao động đối với sự phát triển kinh
tế-xã hội ở nông thôn…………………………………………………………..14

4. Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn……………
15

5. Một số giải pháp thúc đẩy giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn ở Việt Nam
hiện nay…………………………………………………………………………
18

6. Trách nhiệm của sinh viên……………………………………………….


…..19

2
KẾT LUẬN…………………………………………………………………....20

TÀI LIỆU THAM


KHẢO…………………………………………………….21

I . MỞ ĐẦU
Đã trải qua rất nhiều năm kể từ Đại hội VI (15 – 18/12/1986) của Đảng,
công cuộcxây dựng và bảo vệ đất nước đã có sự chuyển biến rõ rệt, vượt qua
tình trạng khó khăn, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nhiệp hóa - hiện đại
hóa, thế và lực được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. Nước ta không
còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển. Nước ta từ quan liêu bao
cấp đã trởthành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu VI đã thay đổi cơ bản phương thức phát triển của đất nước,
mở đầu cho hàng loạt những đổi mới toàn diện sau này trên tất cả các lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa, xã hội… Việc gia nhập WTO là thách thức
nhưng cũng là cơ hội lớn để nước ta phát triển, nó cũng khẳng định được những
thay đổi đúng hướng của Đảng mà Đại hội Đảng VI đã mở đầu cho côngcuộc
đổi mới này.
Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử to lớn của Đại hội VI với sự
đổi mới và phát triển của đất nước, em đã chọn đề tài “ Trình bày nội dung Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng? Liên hệ vấn đề giải quyết
việc làm ở nông thôn ở Việt Nam hiện nay?” cho tiểu luận của mình. Tiểu luận
sẽ phân tích rõ hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản cũng như ý nghĩa lịch sử của
Đại hội để làm rõ sự tiến bộ, đúng đắn trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra
trong Đại hội, đồng thời nêu bật những tác động to lớn của đường lối đó trong

3
côngcuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Từ đó cũng liên hệ
đến vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn hiện ở Việt Nam hiện nay.

Do kiến thức còn nhiều hạn chế nên tiểu luận của em vẫn còn nhiều thiếu
sót, hy vọng nhận được sự góp ý để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn cô!

II . NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Nội dung Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của
Đảng
1. Hoàn cảnh lịch sử Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986,
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế
đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới đã trở thành xu
thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù
địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 lên
774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép
diễn ra khá phổ biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất
nước.

Đại hội VI của Đảng diễn ra giữa bối cảnh có nhiều chuyển biến trong tình hình
thế giới và trong nước:
* Thế giới:
- Các nước đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách chốngphá hệ thống
xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4
- Mặt khác, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và Trung Quốc đang
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước vào cái cách, cải tổ
với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, có nước thất bại.
Bối cảnh đó cho Đảng ta những bài học để định hướng được con đường đổi mới
đúng đắn nhất cho nước nhà.
*Trong nước:
- Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội:sản xuất
tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài
nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có
việc làm,
hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân
đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa
chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu.
- Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều
khó khăn.
- Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quần chúng
giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn
tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã
hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ
trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và
của Nhà nước: Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta,không
coi trọng khôi phục kinh tế làm nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực
sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội
chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ
hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối,
lưuthông. Những sai lầm nói trên chỉ là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương,
chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết
là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn
5
định tình hình kinh tế- xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến
lên.
Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 2 triệu đảng viên cả nước và
có 32 đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị
quan trọng, khởi xướng đường lối toàn diện, bầu Ban Chấp hành Trung ương
gồm 124 ủy viên chính thức; Bộ Chính trị có 13 ủy viên chính thức; đồng chí
Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
2. Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
2.1. Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội Đại biểu lần thứ VI đề ra

Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh
giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của
Đảng trong thời kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về
chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa
“tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng.

Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi
mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp
lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực-thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công
nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực hiện cải tạo xã hội
chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
6
giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng
và tổ chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo
đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là:

-Bố trí lại cơ cấu sản xuất;

-Điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa

-Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế;

-Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật;

-Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.

Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh
thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt
chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.

2.2. Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI

− Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ
trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế
làbệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng quản lý kinh tế, xã
hội,5 không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư
tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh.

− Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng“lấy dân
làm gốc”.

7
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành độngtheo
quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điềukiện
mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những
nămcòn lại của chặng đường đấu tranh là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã
hội,tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp
hoá-hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con
người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù
hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã
hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện
công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi
lĩnh vực xã hội.
Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe
của nhân dân. Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.

Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất
nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm
chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.

Đối ngoại góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp
tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan
hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á
và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn
đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng
cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
8
Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác
tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng
cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là
điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng.

Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện,
đánh dấu ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các
Văn kiện của Đại hội mang tính chất khoa học và cách mạng, tạo bước ngoặt
cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Song Đại hội VI cũng có những hạn
chế, đó là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối lưu thông.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình hình thế giới biến
chuyển nhanh chóng. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn (12-
1991). Sự sụp đổ đó gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt
Nam. Viện trợ và quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu với nước
ta bị thu hẹp nhanh. Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ
quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục bao vây, cấm
vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt Nam. Họ còn dung dưỡng các tổ chức phản
động người Việt từ nước ngoài trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ . Từ sau
năm 1979, quân đội Trung Quốc vẫn còn bắn pháo, gây hấn trên một số vùng
biên giới phía Bắc, nhất là mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang). Cao điểm nhất, tháng
3-1988, Trung Quốc cho quân đội chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên,
Chữ Thập, Tư Nghĩa, ... trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc vốn căng thẳng từ những năm 1974, 1979 đến thời điểm này
càng căng thẳng hơn.
Ở trong nước, những năm 1987-1988, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn
ra nghiêm trọng. Lương thực, thực phẩm thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, lạm
9
phát cao, đời sống nhân dân rất khó khăn. Sự dao động về tư tưởng chính trị,
giảm sút niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa ngày càng lan rộng. Thực
hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần, chỉ
đạo đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật là ở các lĩnh vực sau:

Trong công nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của
các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra
động lực mạnh mẽ, giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa
học-kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với
năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Nhà máy thủy điện Hòa Bình
phát điện tổ máy số 1. Liên doanh dầu khí Việt-Xô khai thác những thùng dầu
thô đầu tiên.

Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) đề ra những chủ trương, biện pháp cấp
bách về phân phối lưu thông, thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm
nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân. Mở
rộng giao lưu hàng hoá, giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các đường
giao thông. Thực hiện cơ chế một giá; thực hiện chế độ lương thống nhất trong
cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt bằng cách tăng thu, tiết
kiệm chi tiêu, chống tiêu cực. Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc
doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về
kinh tế.

Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của
nhiều thành phần kinh tế. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh,
phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần
kinh tế bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.

Các chủ trương trên thể hiện tư duy đổi mới quan trọng về kinh tế của
Đảng và đã có kết quả nhanh chóng. Cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem
phiếu đã được xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ thiếu triền miên, năm 1988 phải nhập
hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm 1989 đã đáp ứng được nhu cầu, có dự trữ và xuất

10
khẩu. Hàng tiêu dùng đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước bước đầu hình thành. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh hơn trước.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công cuộc cải tổ ở Liên
Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn
diện, gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt Nam. Hội nghị
Trung ương 6 (3-1989) chính thức dùng khái niệm hệ thống chính trị, đề ra
những chủ trương cụ thể và xác định sáu nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới:

Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta, là sự lựa chọn
sáng suốt của Bác Hồ, là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho mục tiêu đó được
thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi
thích hợp.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới vận dụng sáng tạo và phát triển chứ
không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của
các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ; dân chủ với
nhân dân, nhưng phải chuyên chính với kẻ địch. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.

11
Để chỉ đạo công tác tư tưởng trong bối cảnh tác động xấu từ sự khủng
hoảng ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; kịp thời ngăn chặn các
hoạt động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch hòng xoá bỏ Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hội nghị Trung ương 8 (3-1990) đã kịp thời phân tích tình hình
các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc, đề ra nhiệm vụ
của Đảng ta. Trung ương chỉ rõ cần nhận rõ nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng
hoảng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do việc xây dựng mô
hình chủ nghĩa xã hội còn một số nhược điểm điểm và khuyết điểm: cải tạo xã
hội chủ nghĩa nóng vội, hình thức sở hữu thiếu đa dạng; cơ chế quản lý tập trung
nặng về hành chính mệnh lệnh và bao cấp; phủ nhận hoặc coi nhẹ kinh tế hàng
hoá; hệ thống chính trị tập trung quan liêu làm suy yếu nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân...; Những nhược điểm và khuyết
điểm của mô hình nói trên kéo dài quá lâu và ngày càng nặng nề, cộng với nhiều
sai lầm khác ở nước này hay nước khác tích tụ dẫn đến khủng hoảng nói trên.

Hai nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng:

Một là, những quan điểm, khuynh hướng sai lầm, hữu khuynh của một số người
lãnh đạo Liên Xô trong quá trình cải tổ.

Hai là, các thế lực đế quốc và phản động quốc triệt để khai thác những sai lầm,
khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa để tăng cường can thiệp, phá hoại, thực
hiện diễn biến hoà bình.

Cuộc khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động tiêu
cực đến cách mạng nước ta, làm một số người hoài nghi đối với chủ nghĩa xã
hội, giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Một số ít phần tử cơ hội, bất mãn
đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa
đảng, gây mất ổn định tình hình. Những người cộng sản Việt Nam cần rút ra
những bài học cần thiết từ sự khủng hoảng đó, đổi mới nhận thức về mô hình và
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đảng phải tích cực đổi mới, nâng cao
trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu của mình; cần cảnh giác và kiên quyết chống

12
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch.

Bắt đầu từ năm 1990, Đảng và Nhà nước có những chủ trương đổi mới về
quan hệ đối ngoại. Đó là việc ưu tiên giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế;
kiên quyết thực hiện chính sách “thêm bạn, bớt thù”; mở rộng quan hệ hữu nghị
và hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vì hoà
bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Trước hết là bình thường hoá quan
hệ Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Hoa Kỳ; từng bước xây dựng quan hệ hữu
nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á, thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam
và các nước Châu Âu. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam là sớm tiến
hành những bước đầu tiên giải quyết bất đồng với các nước nhưng luôn kiên trì
giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để thực hiện chủ
trương đó, từ tháng 5-1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh
quân tình nguyện ở Campuchia về nước và rút hết quân tình nguyện về nước
vào tháng 9-1989, sớm hơn một năm theo kế hoạch đã định.

Nhằm thực hiện đổi mới tư duy của Đảng, Hội nghị Trung ương 6 (3-1989)
và Hội nghị Trung ương 8 (3-1990) tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng .Điểm nổi bật yêu cầu Đảng phải đổi mới tư duy,
nhất là tư duy kinh tế; tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đúc
kết kinh nghiệm nhằm phục vụ thiết thực việc đổi mới tư duy, cụ thể hoá kịp
thời, đúng đắn các nghị quyết của Đảng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
kinh tế-xã hội. Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tăng cường công
tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ vững
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc đổi mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng.

CHƯƠNG 2: Liên hệ thực tiễn về vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn ở
Việt Nam hiện nay.
13
1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến giải quyết việc làm

- Việc làm là một trong những vấn đề xã hội rất đáng được quan tâm của mỗi
quốc gia và là mối quan tâm trực tiếp của Đảng, Nhà nước và hàng triệu người
lao động thiếu việc làm hiện nay. Vì thế, chính sách việc làm và phát triển thị
trường lao động có một vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
của nền kinh tế, của mối quan hệ cung cầu trong lao động, việc thu hút đầu tư và
sức cạnh tranh kinh tế. Do vậy, các chính sách việc làm của Chính phủ càng có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và việc thực hiện chính sách việc làm như cứu cánh
của đời sống, là yếu tố đảm bảo điều kiện sống còn của con người trong xã hội.

- Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động. Dân số biến động có tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố theo
không gian của dân số trong độ tuổi lao động.

2. Vị trí của chính sách việc làm

Ở Việt Nam hiện nay, trong thời đại công nghệ 4.0, nền kinh tế thị trường
phát triển nhanh và mạnh, hệ quả thất nghiệp là điều không thể tránh khỏi, vấn
đề đặt ra ở đây là phải giải quyết tình trạng thất nghiệp như thế nào. Nhìn từ góc
độ của chính sách việc làm, để hạn chế tình trạng thất nghiệp, một mặt phải tạo
ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo cơ hội, khả năng cho người lao động tự tạo ra
việc làm hoặc gia nhập thị trường lao động, thông qua chính sách hỗ trợ đào tạo,
đào tạo lại tay nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng
phải có chính sách trợ cấp thất nghiệp cho người lao động, nhất là người lao
động ở nông thôn.
Chính sách việc làm thực chất là một bộ phận trong hệ thống chính sách
chung, có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực
lượng lao động của toàn xã hội, như các chính sách: khuyến khích phát triển
những lĩnh vực, những ngành, nghề có khả năng thu hút nhiều lao động, chính
14
sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt (người khuyết tật, đối tượng tệ
nạn xã hội, người hồi hương...); chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi
nước ngoài.

3 . Vai trò của giải quyết việc làm cho người lao động đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội ở nông thôn

Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Bởi vì, con người là mục tiêu, động lực của sự
phát triển kinh tế và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế – xã hội.
Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố
khách quan của người lao động. Con người tồn tại phải được tiêu dùng một
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định như: Thức ăn, đồ mặc, nhà ở, học tập, phương
tiện đi lại… Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản xuất với quy
mô ngày càng mở rộng. Như vậy, để tồn tại và phát triển con người bằng sức lao
động của mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản
nhất tạo ra giá trị hàng hoá dịch vụ. Sự phát triển kinh tế – xã hội, suy cho cùng,
là nhằm mục tiêu phục vụ con người làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng
tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, sản xuất nông nghiệp đã phát
triển tương đối toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và đạt được tốc độ tăng
trưởng cao. Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhiều vùng nông
thôn biến thành đô thị, nhiều diện tích đất nông nghiệp biến thành các khu công
nghiệp, đường giao thông, trung tâm thương mại và đất khu dân cư. Tính chung,
trong 10 năm 1995-2005 trung bình mỗi năm cả nước mất khoảng 50 nghìn ha
đất nông nghiệp cho các nhu cầu phi nông nghiệp. Trong khi đó lao động nông
nghiệp đã dư thừa trên 23% và số lượng cứ tăng dần với tốc độ 2%/năm. Năm
2001, lao động nông thôn, nông nghiệp có 24,72 triệu người, chiếm 80% lao
động nông thôn; năm 2005 tăng lên gần 27 triệu người. Như vậy, trung bình mỗi
năm lao động nông nghiệp tăng thêm khoảng 45 vạn người. Trong khi đó diện
15
tích đất nông nghiệp lại giảm xuống kéo theo giảm việc làm cho nông dân.
Ruộng đất ít, lao động thừa, việc làm thiếu và thu nhập thấp, đời sống nông dân
còn nghèo, khoảng cách chênh lệch nông thôn và thành thị có xu hướng gia
tăng. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo việc làm mới cho lao
động nông thôn nói chung, nông dân nói riêng là mối quan tâm hàng đầu trong
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

4.Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn. Điều đó được thể hiện ở nhiều chính sách như
chính sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách phát triển nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp,
chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn...

Thứ nhất, chính sách đất đai: Người nông dân luôn gắn với đất đai bởi đó là
tư liệu sản xuất trực tiếp của họ. Hiện nay, để nông nghiệp phát triển cao hơn
cần dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất tạo điều kiện phát triển mạnh kinh tế
trang trại. Trên phạm vi cả nước, xu hướng này đang được khuyến khích phát
triển mạnh mẽ.

Thứ hai, chính sách tín dụng nông thôn: Vốn là yêu cầu thiết yếu cho phát
triển sản xuất nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Đặc biệt nông dân
nước ta còn nghèo nên yêu cầu về vốn ngày càng cần thiết.

Thứ ba, phát triển nông nghiệp hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp
và nông thôn: Thực chất của chính sách này là thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn và trang trại, phát triển
các ngành phi nông nghiệp trong nông thôn.

Thứ tư, chương trình đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Trong
những năm qua nước ta đã đưa hàng chục vạn lao động đi làm việc ở nước
16
ngoài. Chương trình này có ý nghĩa to lớn trong giải quyết việc làm và tăng thu
nhập cho lao động. Điều đó góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo và tạo việc
làm mới trong nước. Về lâu dài hơn, chương trình cũng tạo ra một đội ngũ công
nhân lành nghề do học được kỹ thuật và kinh nghiệm từ các nước mà họ đến làm
việc.

Thứ năm, chương trình quốc gia giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn: Để chính sách giải quyết việc làm đi vào cuộc sống, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chương trình giải quyết việc làm cụ thể như: Nghị quyết 120/HĐBT
ngày 11/4/1992 về những chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết
việc làm trong những năm tới. Với nông nghiệp nông thôn, quỹ hỗ trợ áp dụng
khoa học kỹ thuật vào phát triển nông lâm ngư nghiệp, mở mang và phát triển
các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn.

Thứ sáu, chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Ngày
27/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê
duyệt Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020" (gọi tắt là Đề
án 1956). Trong Quyết định này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định: "Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các
ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước tăng cường
đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo
đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông
thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo
nghề cho lao động nông thôn

Công tác đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn thực sự là một trong những
bước đột phá đáng kể trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông
thôn. Trước đây, người lao động ở nông thôn hầu như không được đào tạo, họ
chủ yếu chỉ lao động bằng kinh nghiệm cá nhân, không có nhiều điều kiện tiếp
cận với những kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất nên hiệu quả sản xuất không

17
cao, lao động manh mún, nhỏ lẻ. Ngày nay, nhờ có công tác đào tạo nghề, một
bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp đã có thể tiếp cận được với kỹ thuật
và công nghệ tiên tiến, có định hướng phát triển nghề nghiệp, sản xuất theo
hướng bền vững. Đây là một bước đột phá trong việc giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở nước ta thời gian qua.

Trong những năm qua, mặc dù vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở
nông thôn đã được tiến hành nhưng nhìn chung vẫn còn chậm và còn nhiều bất
cập. Do nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng còn chậm phát
triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm nên chưa tạo ra nhiều việc
làm cho lao động nông thôn. Do quá trình đô thị hóa đang diễn ra ngày càng
nhanh chóng nên ở nhiều vùng nông thôn nước ta, nông dân bị thu hồi đất nông
nghiệp; trong khi đó, trình độ của lao động nông nghiệp còn hạn chế tỉ lệ lao
động nông thôn không có việc làm, thiếu việc làm đang có xu hướng gia tăng.
Hơn nữa, công tác đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn được triển khai còn
chậm. Ở nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ
về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh, có
tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ
thống. Những hạn chế đó đang làm cản trở đến việc tạo việc làm cho lao động
nông thôn nước ta thời gian qua.

5. Một số giải pháp thúc đẩy giải quyết vấn đề việc làm ở nông thôn ở Việt
Nam hiện nay

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước tiếp tục có những chính sách kịp thời, nhằm đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều cơ hội về việc làm cho lao động
nông thôn. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, mỗi địa
phương cũng cần có những chính sách thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đến mở rộng sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng, tận dụng thế mạnh của
địa phương để phát triển kinh tế du lịch, thương mại nhằm chuyển dịch cơ cấu

18
kinh tế theo hướng hiện đại, đa dạng hóa các hình thức sản xuất, kinh doanh
nhằm thay đổi những tập quán sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu của nông dân.

Thứ hai, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của giáo dục và
đào tạo trong việc nâng cao dân trí cho nhân dân và đào tạo nghề cho lao động
nông thôn; cần coi việc nâng cao trình độ cho lao động nông nghiệp là một điểm
đột phá nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Việc đào tạo
nghề cho lao động nông thôn cần thiết thực, hiệu quả, gắn với thực tiễn sản xuất
của địa phương để nông dân vừa có thể học nghề, vừa có thể áp dụng ngay vào
sản xuất canh tác.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ giới hóa trong
nông nghiệp. Trước hết, cần tăng quy mô tích tụ ruộng đất theo hộ. Có như vậy
mới áp dụng được các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, lao động nông
thôn sẽ ngày càng tiến dần đến nền sản xuất hiện đại. Trong nông thôn, lao động
trồng trọt có tính thời vụ rất rõ rệt, do đó hiện tượng thiếu việc làm thể hiện rất
rõ. Để hạn chế vấn đề này, cần phải đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, lựa chọn công
thức luân canh hợp lý và đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp. Ngoài ra, cần
chuyển lao động từ nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
bằng cách phát triển kinh tế phi nông nghiệp với sự bổ sung của ngành chăn
nuôi và các ngành nghề phi nông nghiệp. Đó là những ngành nghề góp phần giải
quyết nguồn lao động nhàn rỗi ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động.

Thứ tư, cần kết hợp hài hòa giữa việc thu hồi đất nông nghiệp của nông dân
với việc chuyển đổi mô hình sản xuất, phát triển sản xuất hàng hóa, dựa vào thế
mạnh của từng vùng để phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Ngoài
ra, cũng cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng trong sản xuất, đầu tư khoa học -
công nghệ, tích cực hỗ trợ nông dân về vốn, kiến thức về thị trưòng, về hội nhập
để nông dân có thể sản xuất ra những mặt hàng theo nhu cầu của thị trường, vừa
đáp ứng nhu cầu tại chỗ, vừa thúc đẩy sản xuất hàng hóa. Đây cũng là một trong

19
những cách tích cực góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nước
ta trong thời gian tới.

6. Trách nhiệm của sinh viên

Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta cần phải:

- Ra sức học tập văn hóa, khoa học kỹ thuật, tu dưỡng đạo đức, tư tưởng chính
trị

- Có lối sống lành mạnh, rèn luyện kỹ năng, phát triển năng lực

- Tham gia các hoạt động sản xuất

- Xác định lý tưởng sống đúng đắn

- Có kế hoạch học tập rèn luyện, lao động để phấn đấu trở thành chủ nhân tương
lai của đất nước trong thời kỳ mới.

- Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn
luyện vì lợi ích chung của toàn xã hội và vì chính sự phát triển của bản thân

III. KẾT LUẬN

Đại hội thể thao VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang gặp rất
nhiều khó khăn và tình thế giới gây nhiều bất lợi cho công ty xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tuy còn những thiếu sót không tránh khỏi cũng như những sai lầm
nhưng Đại hội đại biểu VI đã tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của nước
ta, đã đạt được những thành tựu đáng kể cho công cuộc phát triển đất nước với
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.

Sau Đại hội đại biểu VI của Đảng nước, cùng với sự đi lên của đất nước,
nước ta phải đối mặt với rất nhiều thách thức, việc Việt Nam gia nhập WTO,
đánh dấu sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc tìm tới đường lối phát triển

20
đất nước một cách đúng đắn. WTO được coi là “cơ hội vàng” cho sự phát triển
kinh tế của nhà nước, không những thế còn đặt ra những khó khăn trước mắt
Đảng, Nhà nước và nhân dân trước những thách thức của thời kỳ hội nhập.

Đại hội VI của Đảng là minh chứng lịch sử quan trọng cho vai trò của đổi
mới cho sự phát triển, và khẳng định trong thời đại này muốn phát triển, chúng
ta phải không ngừng đổi mới trong tư tưởng cũng như phương thức sản xuất mới
có thể đưa nước đi lên Chủ nghĩa xã hội cũng như cùng sánh vai với các cường
quốc năm châu.

Từ đó liên hệ đến vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn ở Việt Nam hiện
nay. Chính sách việc làm và phát triển thị trường lao động có một vị trí, vai trò
vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, của mối quan hệ cung
cầu trong lao động, việc thu hút đầu tư và sức cạnh tranh kinh tế. Do vậy, các
chính sách việc làm của Chính phủ càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và việc
thực hiện chính sách việc làm như cứu cánh của đời sống, là yếu tố đảm bảo
điều kiện sống còn của con người trong xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử ĐCSVN, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng Lý luận Trung ương, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, 2011.

3. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 49
4. Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 50

21
22
23

You might also like