You are on page 1of 9

Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết;

là Đại hội
lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
1. Bối cảnh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp.
a. Bối cảnh thế giới
Đó là sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng
Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hồng xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người
cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân Việt Nam.
b. Bối cảnh trong nước
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực hiện
công cuộc Đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI và đạt được
những thắng lợi bước đầu, được nhân dân và quốc tế ủng hộ, nhờ đó mà nước ta đã
đứng vững và tiếp tục phát triển. Bản báo cáo được nêu ra trong đại hội chỉ rõ công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu nhất định, đó là:
+ Tình hình chính trị của đất nước ổn định.
+ Nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong
việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, huy động được nguồn lực sản xuất của xã hội, tốc độ
lạm phát được kiềm chế, đời sống của một bộ phận nhân dân đã được cải thiện.
+ Nền dân chủ của nhân dân ngày càng được phát huy.
+ Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm.Song bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, đất nước ta cũng phải đương đầu với nhiều yếu
kém và khó khăn: các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả trong
và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn khó khăn,
đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
c. Thông tin chung về đại hội
+ Thời gian, địa điểm: Đại hội diễn ra trong 3 ngày từ 24 - 27/6/1991 tại Hội
trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội
+ Thành phần tham gia: Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022
đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước hoặc
đang công tác ở nước ngoài về dự Đại hội. Đến dự Đại hội còn có các đoàn đại
biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân
dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba. Dự khai mạc Đại hội còn có
đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản thường trú tại Hà Nội và các đơn vị trong
đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc tế, đại diện các tổ chức
phi chính phủ tại Hà Nội.
+ Chủ trì: Đồng chí Võ Chí Công đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn
Văn Linh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội
VII. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn
Văn Linh đọc tại Đại hội đã đánh giá việc thực hiện hơn 4 năm đổi mới trên các
lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm
(1991-1995).
+ Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 ủy viên.
+ Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
2. Mục tiêu của Đại hội
3. Nhiệm vụ chính của Đại hội
4. Nội dung Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII

5. Thành tựu đạt được và ý nghĩa


6. Tổng kết

2. Mục tiêu
Báo cáo chính trị xác định: “mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử
thách ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu
cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện
nay”.
3. Nhiệm vụ chính
Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, đánh giá những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm được,
những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và
những kinh nghiệm tiến hành đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội,
đề ra phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu cho 5 năm tới, đó là tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới
1. Nội dung của Đại hội Đảng lần thứ VII
(1)Nội dung chính của Đại hội Đảng lần thứ VII
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đánh giá
những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm được, những vấn đề
mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh
nghiệm tiến hành đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội, đề ra
phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu cho 5 năm tới.
( Tách ý nhỏ thành các gạch đầu dòng theo nội dung chi tiết)
(2)Nội dung chi tiết của Đại hội Đảng lần thứ VII
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã đánh giá việc
thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo cáo chỉ rõ sau gần 5
năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống, công cuộc đổi mới đã đạt được
những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đó là:
- Tình hình chính trị của đất nước ổn định.
- Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực; đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong
việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế lớn, bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm
phát được kiềm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân
có phần được cải thiện.
- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế
bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận
lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
 Những thành tựu đã giành được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là
đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở rất quan
trọng để đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
Đại hội VII thông qua đã tổng kết được hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng VN
chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm của Đảng cộng sản:
- Sau khi thảo luận Đại hội đã tiến hành biểu quyết, 80,3% số đại biểu đã nhất trí ghi
vào Cương lĩnh như sau: "Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan (với những biểu hiện như đã trình bày trong dự thảo Cương lĩnh).
 Cương lĩnh cũng đã chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình
lâu dài, trải qua nhiều năm, trải qua nhiều chặng đường với những định hướng lớn
về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh... Cương lĩnh nêu rõ quan điểm
về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
vì nhân dân, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội đến năm 2000, trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi
khủng hoảng, ổn định nền kinh tế - xã hội, phấn đấu tình trạng nước nghèo và kém
phát triển.
Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước, Đại hội VII đã rút ra năm bài học kinh
nghiệm bước đầu về đổi mới:
- Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp
sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược,
nhạy cảm nắm bắt cái mới. Phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo trong việc đề ra
đường lối đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích
và nguyện vọng của nhân dân ta. Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được
định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng
phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
- Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đồng thời, trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt
để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác. Phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về
đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong
lĩnh vực chính trị. Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy
cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở
nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn
đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính
trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện
dân chủ.
- Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
- Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để
phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt,
có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội nói chung. Có như vậy
mới thực sự bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, động viên toàn dân hăng hái
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện
và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận
về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi mới càng đi vào
chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và
sáng tạo, bớt được sai lầm và bước đi quanh co, phức tạp.
Kế hoạch 5 năm 1991-1995
Xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Đại hội VII đề ra Kế hoạch 5 năm 1991-1995 và
quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế hoạch là:
-Đẩy lùi và kiểm soát lạm phát.
-Ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội.
-Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân lao động.
-Bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
2. Thành tựu đạt được và ý nghĩa Đại hội Đảng lần thứ VII
(1)Thành tựu đạt được
-Đây là Đại hội đầu tiên sau khi đất nước đã tiến hành công cuộc Đổi mới. Kế hoạch 5
năm 1991-1995 do Đại hội đề ra đã đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của sự
nghiệp đổi mới:
-Nhịp độ phát triển kinh tế cao, những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch hoàn thành vượt
mức. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,2%/năm. Công nghiệp tăng 13,3%/năm. Sản
lượng lương thực tăng 26%. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Dịch vụ tăng 80%. Vận tải tăng 62%. Lạm phát từ 67.1% (1991) giảm còn 12.7%
(1995).
-Kinh tế đối ngoại phát triển. Xuất khẩu đạt 17 tỉ USD. Nhập khẩu 21 tỉ USD. Có
quan hệ buôn bán với hơn 100 nước. Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho tư
nhân.
-Vốn đầu tư nước ngoài tăng 50%, đạt trên 19 tỉ USD.
-Khoa học công nghệ, văn hóa xã hội phát triển. Thu nhập quốc dân tăng và giải quyết
được nạn đói.
-Chính trị xã hội, quốc phòng an ninh được củng cố.
-Mở rộng quan hệ đối ngoại, không còn bị bao vây do đã rút quân khỏi Campuchia từ
năm 1988. Bình thường quan hệ với Mỹ và gia nhập ASEAN năm 1995.
(2)Ý nghĩa
 Đại hội VII là cột mốc mới trong tiến trình CM Việt nam, đánh dấu bước
trưởng thành của Đảng ta.
 Đại hội đã thực sự làm tròn trách nhiệm trọng đại mà lịch sử đã giao phó, đó là
“ Đại hội của trí tuệ đổi mới, dân chủ kỷ cương đoàn kết”.
 Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của
miền nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội,
đặt cơ sở và quyết định những bước đi tới cho sự phát triển mạnh mẽ của đất
nước.
 Đại hội đã củng cố thêm niềm tin tưởng của cán bộ, Đảng viên và nhân dân đối
với công cuộc đổi mới của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-
6-1991 trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp:
– Tình hình quốc tế: có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta. Đang diễn
ra cuộc tấn công quyết liệt của các thế lực thù địch đế quốc và phản động vào các lực
lượng hoà bình, độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội nhằm tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc; cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu (1989
– 1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đang đứng trước những thử thách nghiêm
trọng và dẫn tới sự thất bại vào nửa cuối năm 1991. So sánh lực lượng diễn ra bất lợi
cho lực lượng cách mạng trên thế giới.
– Ở trong nước, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế – xã
hội có những chuyển biến tích cực, song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác,
trước sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động không nhỏ
tới lập trường, tư tưởng và niềm tin vào chủ ng hội nghĩa xã hội của một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Bối cảnh trên đây đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đề ra
đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nội dung cơ bản của Đại hội VII:
– Đại hội đã đánh giá quá trình thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội và nhận định: Sau hơn 4 năm đưa Nghị quyết Đại hội
VI vào cuộc sống, các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại những kết quả
nhất định: Tình hình chính trị của đất nước: ổn định; nền kinh tế có những bước phát
triển, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba
chương trình kinh tế (lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu); kinh
tế đối ngoại phát triển nhanh, mở rộng hơn về quy mô, hình thức, góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế – xã hội; bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quyền dân chủ của
nhân dân ngày càng được phát huy. Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc giađược
bảo đảm, từng bước phá thế bao vây về kinh tế, chính trị. Quan hệ quốc tế ngày càng
mởrộng, tạo ra môi trường thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì những yếu kém và khó khăn còn rất
lớn: Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhiều vấn đề kinh tế –
xã hội nóng bỏngchưa được giải quyết như lạm phát cao, lao động thiếu việc làm,
nhiều cơ sở sản xuất đình đốnkéo dài. Số lao động thiếu việc làm tăng. Chế độ lương
bất hợp lý. Tốc độ dân số còn quá cao;tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều; văn hoá
xã hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tìnhtrạng tham nhũng, tiêu cực, bất công
trong xã hội tăng thêm, an ninh trật tự và an tòan xã hội còn phức tạp, vẫn còn nhân tố
gây mất ổn định chính trị, bộ máy nhà nước, Đảng và các đoàn thể nhân dân cồng
kềnh, quan liêu, hoạt động kém hiệu quả.
Đại hội đã làm rõ nguyên nhân của khuyết điểm, yếu kém, đồng thời bước đầu
rútra năm kinh nghiệm trong tiến hành công cuộc đổi mới:
Một là: Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới.
Hai là: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và
cáchlàm phù hợp.
Ba là: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản
lýcủa Nhà nưóc về kinh tế – xã hội.
Bốn là: Phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là: Quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những
vấnđề mới nảy sinh, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận
về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
– Trên cơ sở kiểm điểm việc thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra và căn
cứvào đặc điểm tình hình đất nước, Đại hội tiếp tục đưa ra phương hướng, nhiệm vụ
chủ yếu trong5 năm 1991 – 1995.
+ Về mục tiêu: "… mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách,
ổnđịnh và phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và
bất công xãhội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay”.
+ Đại hội nêu lên bốn phương châm chỉ đạo là: tăng cường hơn nữa khối đoàn kết
toàndân; kết hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, thực hiện hài hoà lợi ích cá
nhân với lợi íchtập thể và xã hội; tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ, đưa công
cuộc đổi mới đi vào chiều sâuvới bước đi vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời thúc đấy mạnh mẽ việc đổimới các lĩnh vực khác; tạo ra môi trường
quốc tế thuận lợi để mở rộng và tăng cường quan hệquốc tế về mọi mặt.
+ Đại hội nêu lên một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra như:
ổnđịnh và phát triển kinh tế trên cơ sở tập trung đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu; xây
dựng nềnkinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế; kết hợp hài
hoà phát triển kinh tếvới phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ xã hội, giữa đời sống vật chấtvà đời sống tinh thần của nhân dân. Củng cố nền
quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranhnhân dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
+ Đại hội VII của Đảng đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác
–Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hoạt động của Đảng.
+ Đại hội khẳng định đường lối đối ngoại rộng mở, Việt Nam muốn là bạn với tất cả
cácnước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
– Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xãhội.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỷ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tổng kết
cáchmạng Việt Nam từ năm 1930, nêu lên những bài học và đặc biệt là xác định sáu
đặc trưng cơ bảncủa xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng do nhân dân lao
động làm chủ: có một nềnkinh tế phát triển cần dựa trên lực lượng sản xuất, hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sảnxuất chủ yếu: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc: con người được giải phóng khỏiáp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kếtvà giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nướctrên
thế giới.
+ Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
phải trảiqua nhiều chặng đường. Do vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốccần nắm vững bảy phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy
liên minhcông nhân – nông dân – trí thức làm nền tảng lãnh đạo.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền vớiphát triển mội nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao dộng xã hội và cảithiện đời sống nhân dân.
Ba là, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa
dạng hoá về hình thức sở hữu, phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển
liền kinh tế hànghoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành
theo cơ chế thị trường có sựquản lý của Nhà nước.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm
cho thế giớiquan Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thầnxã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa vănhoá nhân loại.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thốngnhất. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả
các nước.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng ViệtNam. Nâng cao tinh thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toànxã hội.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệmvụ.
"Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ
bản nhữngcơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng, văn hoáphù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 là
mốc đánh dấu sự phát triển tư duy chính trị của Đảng ta, thể hiện nhận thức sâu sấc về
thời kỳ quá độ lênchủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới

You might also like