You are on page 1of 11

Tên đề tài : giá trị lịch sử và thời đại từ quan điểm :"đảng phải đổi mới về nhiều mặt,

trước hết là đổi


mới tư duy " được đảng đưa ra tại đại hội VI(12/1986)

I. mở đầu
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam do nhiều yếu tố tạo nên xong yêu tố kiên quyết là sự lãnh
đạo của Đảng. Ngay từ khi thành lập đảng, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ quan điểm rằng :
“Điều cốt yếu cho sự cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng cộng sản cần
có một đường lối chính trị đúng”. Trải qua hơn nửa thập kỉ hoạt động, Đảng ta luôn đặt ra
những cuộc đổi mới thông qua các cuộc đại hội từ năm 1945 đến nay.
Đặc biệt từ đại hội VI(12/1986) với đường lối đổi mới toàn diện theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của Đảng đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa
ở Việt nam. Sau Đại hội, Đảng đã chọn và tập trung chỉ đạo giải quyết thành công nhiều vấn
đề nóng bỏng và cấp bách của nhà nước : chống lạm phát, đổi mới công tác tư tưởng và
công tác quần chúng trước sự khủng hoảng và sụp đổ Chủ nghĩa xã hội ở cacsc nước Đông
Âu và Liên Xô, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,…nhờ đó
mà VN mặc dù trong bối cảnh hết sưc phức tạp nhưng vẫn giữ được sự ổn định về kinh tế,
chính trị và đại được những thành tựu quan trọng.Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới của vn,
là cột mốc mở ra cục diện mới của nước ta trên con đường quá độ đi lên CNXH. Là một
người dân VN tôi hết sức lấy làm tự hào về thành tựu trên nhưng cũng vô cùng tò mò về các
quan điểm, chủ trương của Đảng trong đại hội VI, ngoài việc đưa ra sự đổi mới về các mặt
kinh tế, đối nội, đối ngoại thì Đảng còn nhấn mạnh sự đổi mới về tư duy là việc vô cùng cấp
thiệt . Muốn được làm rõ hơn về quan điểm đổi mới tư duy của Đảng ta trong thời điểm đó
nên tôi quyết định chọn đề tài : “ giá trị lịch sử và thời đại từ quan điểm :"đảng phải đổi mới
về nhiều mặt, trước hết là đổi mới tư duy " được đảng đưa ra tại đại hội VI ” làm báo cáo
kết thúc môn học Lịch sử Đảng với sự hướng dẫn của cô Cao Thị Thu Trà.

II. Nội dung


1. Cơ sở lí luận
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sách giáo trình từ “’đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội ” trang 103 đến “đổi mới
đã trở thành đòi hỏi bức thiết của trình hình đất nước ” trang 104
1.2. Nội dung cơ bản của Đại hội
Từ tiếp theo đến “bốn là,…tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa” trang 104
1.3. Các chủ trương của Đảng
Từ “chủ trương đổi mới kinh tế ”đến “ dân làm, dân kiểm tra ” trang 105
1.4. Ý nghĩa của đại hội VI
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng
Việt Nam..
- Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, là Đại hội kế thừa và
quyết tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường
cho đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tiếp tục đi lên chủ
nghĩa xã hội.
- Đại hội đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế nước
ta phát triển, làm thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh
mẽ mới của lịch sử Cách mạng Việt Nam.
- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của
Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới
theo xu thế mới của thời đại mới.
-Là đại hội ; “trí tuệ -dân chủ- đoàn kết và đổi mới”.
- Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ những tình
trạng rối ren trong phân phối, lưu thông.

2. ý nghĩa của quan điểm :"đảng phải đổi mới về nhiều mặt, trước hết là đổi mới tư duy "

Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI đã chỉ rõ: “Đảng phải đổi mới về nhiều
mặt, trước hết là đổi mới tư duy”.
Kiểu tư duy mới có 6 đặc trưng:
- Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật .
- Phải quán triệt tư tưởng : “ Lấy dân làm gốc”.
- Phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan
- Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc vơi sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới.
- Chuyển tư duy chiều dọc sang tư duy chiều ngang
- Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Đại hội lần thứ VI xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN
trong chặng đường tiếp theo. Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm
phát triển sản xuất.Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bố trí lại cơ cấu sản xuất,
điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng
và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.Phát huy
mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật.Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại.

3. Vận dụng
3.1. Vận dụng các kinh nghiệm vào đại hội Đảng VI
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội nêu lên bốn bài học
kinh nghiệm có tính thời sự chính trị nóng hổi:
"Một, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "Lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Hai,
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Ba, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới. Bốn, phải chăm lo xây dựng đảng ngang tầm với một đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Về nhiệm vụ chiến lược cách mạng, Đại hội khẳng định: "Toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội".
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: "Nhiệm vụ bao trùm, mục
tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo".
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, Đại hội vẫn khẳng
định phải "đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất
nước, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ
động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc".
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành công
những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu...
- Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên với những
hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất...
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các chính sách
xã hội.
- Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
- Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
- Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo
toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
- Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà nước.
3.2. giá trị lịch sử và thời đại từ quan điểm :"đảng phải đổi mới về nhiều mặt, trước
hết là đổi mới tư duy " được đảng đưa ra tại đại hội VI(12/1986)
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đặt vấn đề đổi mới gắn liền với chỉnh đốn
Đảng vừa để thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa để đáp ứng những yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng mới. Đổi mới là từ bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời hay sai trái, để
đi đến những cái đúng hơn, tiến bộ hơn trong các mặt xây dựng Đảng.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình
độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Như vậy, lý luận về xây dựng Đảng của Đảng ta đã
được phát triển, bao gồm: một là, công tác xây dựng Đảng không phải chỉ có đổi mới
Đảng, mà còn phải chỉnh đốn Đảng; hai là, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; ba là,
việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải là công việc thường xuyên, lâu dài của Đảng.
Đảng xác định tự đổi mới, tự chỉnh đốn là để chỉ rõ ý thức tự đổi mới, tự chỉnh
đốn phải là ý thức thường trực của mỗi cán bộ, đảng viên và của toàn đảng, trước
hết là sự tự ý thức của các cấp lãnh đạo của Đảng. Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, vì không ai có thể làm thay cho Đảng.
Đảng tự đổi mới không phải chỉ tiến hành một lần, trong một thời gian ngắn
là đủ. Bởi lẽ, công cuộc đổi mới đất nước càng được đẩy mạnh, nhiều vấn đề mới
xuất hiện, do đó, đòi hỏi Đảng phải vượt lên phía trước, để không rơi vào tình trạng
bất cập. Hơn nữa, còn phải kịp thời ngăn chặn những suy thoái, biến chất đã và
đang xảy ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Phải thường xuyên, lâu dài do việc đổi mới, chỉnh đốn là hết sức khó khăn.
Chỉnh đốn đã khó, đổi mới lại càng khó hơn. Việc khắc phục được những hạn chế,
khuyết điểm, sai lầm là không đơn giản vì thường đụng chạm đến cách làm cũ đã trở
thành thói quen không dễ vượt qua, những động cơ cá nhân không dễ từ bỏ. Vấn đề
lại còn phức tạp hơn khi đổi mới để tìm ra được những quan niệm mới, cách làm
mới, tiến bộ, hợp quy luật nhằm thay thế những quan điểm, cách làm cũ, lạc hậu,
trái quy luật. Chìa khóa giải quyết vấn đề đổi mới là phải nâng cao tầm tư tưởng,
tầm trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên. Hơn nữa, còn phải kiểm nghiệm những quan
niệm và cách làm mới trong thực tiễn. Nếu không sẽ rơi vào tình trạng nói đổi mới
mà không đủ tầm tư tưởng, trí tuệ của đổi mới và không tìm ra được cách nghĩ, cách
làm mới; muốn đổi mới nhanh nhưng lại làm đổi mới chậm; hoặc đổi mới đến mức
nào đó lại e ngại, chập chờn giữa cũ và mới.
Thường xuyên tự đổi mới là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Là quy luật -
nghĩa là được thực hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại ở trình độ ngày một cao hơn
như một tính tất yếu trong quá trình phát triển của Đảng.
Nhưng trước hết Đảng ta chỉ ra việc cần đổi mới cấp bách nhất tại thời điểm đó
chính là đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy chính là lựa chọn được thực hiện hàng đầu
với sự chỉ đảo của Đảng và nhà nước. Tư duy là nền tảng của những tư tưởng, lý
thuyết, học thuyết về sự phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là những tư tưởng, lý
thuyết, học thuyết kinh tế và các trường phái kinh tế. Trong thực tiễn, tư duy phát
triển kinh tế - xã hội thể hiện ở những mục tiêu, định hướng phát triển thông qua
các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, được thể hiện bằng luật pháp, chính sách
cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội là nói tới
những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý. Tư duy mới sẽ có
chính sách mới, chính sách mới sẽ tạo ra phong trào mới, phong trào mới sẽ tạo ra
kết quả mới. Vì thế, đổi mới tư duy là khởi đầu cho quá trình phát triển mới .Tư duy
mới hay đổi mới tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng, mở đường và tạo không gian
cho sự phát triển.
Đổi mới tư duy, chính là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại... Trong đó, trước hết phải tập trung vào lĩnh vực kinh
tế, phải tháo gỡ những vấn đề kinh tế trước, từ đó giải quyết những vấn đề được
đặt ra trong các lĩnh vực khác.
Để đổi mới tư duy cần tạo điều kiện thuận lợi, như bầu không khí dân chủ trong
xã hội, nhất là trong sinh hoạt đảng, trong nghiên cứu khoa học; tinh thần tôn trọng
sự thật, tôn trọng chân lý; hệ thống thông tin chính xác; tự phê bình và phê bình
được tiến hành một cách thường xuyên và nghiêm túc;... Yêu cầu đặt ra là phải coi
trọng công tác lý luận, nhằm cung cấp nội dung khoa học cho đổi mới tư duy.
Nghiên cứu lý luận lại phải gắn với tổng kết thực tiễn theo tinh thần nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, từ đó rút ra được những kết luận
đúng để bổ sung cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và phát triển lý
luận của Đảng.

3.3. Các lĩnh vực cần đổi mới tư duy, tạo bước đột phá về kinh tế-xã hội
bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, mà một trong những nguyên nhân là tư duy về
phát triển kinh tế - xã hội đã tới hạn, nhiều chủ trương, chính sách không còn phát
huy được tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu. Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển đất
nước toàn diện và đồng bộ hơn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trong đó phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm. Vì thế, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát
triển kinh tế - xã hội, tạo động lực mới cho sự phát triển đột phá kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thứ nhất, tư duy mới về nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển mới, cần có tư duy, nhận thức mới về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
- Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, có thể được xây
dựng ở các nước có thể chế chính trị khác nhau, với mô hình riêng, phù hợp với các
điều kiện và mục tiêu cụ thể của từng nước.
- Nền kinh tế thị trường thực sự và đầy đủ, bỏ hết các yếu tố bao cấp, “xin - cho”
để tạo ra thị trường cạnh tranh và sôi động.
- Nhờ ứng dụng một cách nhanh chóng và mạnh mẽ các thành tựu mới của khoa
học và công nghệ vào nền kinh tế (kể cả về mặt kỹ thuật - công nghệ, tổ chức, quản
lý), kinh tế thị trường đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới - nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Vì thế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng phải
là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế theo chuẩn mực quốc tế.
Thuộc tính mới này của nền kinh tế đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể
chế phát triển; đổi mới mô hình tăng trưởng... tham gia chuỗi giá trị và mạng sản
xuất toàn cầu. Phát triển kinh tế tri thức; chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng
khoa học - công nghệ hiện đại..., phát triển hệ thống an sinh xã hội, thúc đẩy và
hoàn thiện những chuẩn mực văn minh trong sản xuất, tiêu dùng và quan trọng hơn
là tuân thủ các cam kết quốc tế, các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu mà Việt
Nam đã ký kết. Bên cạnh đó, Đảng ta khẳng định mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn về
vai trò của kinh tế tư nhân - một động lực quan trọng của nền kinh tế. Điều này xuất
phát từ thực tiễn phát triển hết sức năng động của khu vực kinh tế tư nhân, hàng
trăm ngàn doanh nghiệp tư nhân đã tạo nên sự phát triển sôi động, góp phần quan
trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, mạnh dạn đi đầu trong nhiều lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh mới; lực lượng doanh nhân Việt Nam đông đảo đang có
tiếng nói và vai trò ngày càng quan trọng trong các quyết sách phát triển đất nước.

Kinh tế thị trường ở Việt Nam có đặc trưng riêng - định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường là một thể thống nhất, không tách
rời nhau, những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố nội sinh bên
trong kinh tế thị trường. Phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu: “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì lợi ích tối đa của đa số nhân
dân, hướng vào con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm của sự phát
triển, mọi người được tham gia, mọi người được hưởng lợi chính là tính nhân văn,
đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên nhiều phương diện: 1- Trong mục
tiêu phát triển kinh tế thị trường - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phát triển
xã hội và con người; thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”; 2- Trong phương thức phát triển, phát triển nền kinh tế đa sở hữu, đa
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo để góp phần khắc
phục những khuyết tật, thất bại của cơ chế thị trường; để bảo đảm thực hiện thành
công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; 3- Trong phương thức phân phối, phân
phối chủ yếu dựa trên hiệu quả kinh tế, đồng thời thông qua phúc lợi xã hội, thực
hiện chế độ bảo hiểm xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển; 4- Trong phương thức quản lý và quản trị nền kinh tế, đó
là việc thực hiện dân chủ hóa trong đời sống kinh tế, phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phù
hợp với quy luật phát triển và định hướng chính trị của Đảng.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế
nhà nước luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và là
một trong các yếu tố quan trọng bảo đảm cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát
triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan điểm được xác định nhất
quán trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, từ Hiến
pháp đến các đạo luật và văn bản dưới luật có liên quan.

Tuy vậy, tư duy và nhận thức về bản chất, nội hàm và vai trò của kinh tế nhà
nước chưa phù hợp với lý luận và thực tiễn. Vì thế cần có bước đột phá mới về tư
duy, phải nhận diện đúng về thành phần kinh tế nhà nước, từ đó kiên trì quan điểm
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo’’.
Có thể hiểu kinh tế nhà nước là tập hợp sức mạnh kinh tế mà nó thể hiện trên
các ngành, lĩnh vực trọng yếu, từ các định chế pháp luật, định chế tài chính đến hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của ‘’lực lượng nòng cốt” - khu vực doanh nghiệp nhà
nước, không chỉ đóng khung trong khối tài sản đăng ký của doanh nghiệp nhà nước,
ở quy mô sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Hiểu như vậy, rõ ràng kinh tế nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách của
mình... giữ vai trò trọng yếu trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng
cơ bản để phát triển các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp. Vì thế, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển, giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế: trong định hướng và điều tiết nền kinh tế; bảo đảm các
cân đối lớn của nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược; phát triển
kết cấu hạ tầng và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận
không cao, nhưng rất cần thiết cho nền kinh tế - xã hội mà khu vực tư nhân không
sẵn sàng đảm nhận, các doanh nghiệp nhà nước - lực lượng nòng cốt của kinh tế
nhà nước phải đi tiên phong, mở đường ở những ngành, lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn,
công nghệ cao, một số hoạt động đầu tư mạo hiểm... tạo nền tảng cơ bản cho
những ngành sản xuất với công nghệ cao, tiên tiến, hiện đại và giá trị gia tăng cao.

Thứ ba, tư duy mới về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập trung
bình”.

Công cuộc chuyển đổi tư duy phát triển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đáng tự hào. Tuy vậy, nhiều nhà nghiên
cứu lo ngại Việt Nam có nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”, tức là tình trạng
một nước thoát nghèo, đứng vào nhóm các nước có thu nhập trung bình (GDP trong
khoảng 1.025USD - 9.385USD/người/năm) nhưng trải qua nhiều thập niên vẫn
không thể trở thành quốc gia phát triển (nước có GDP trên 9.385 USD/người/năm
và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ, kinh tế - xã hội).

Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập trung bình”
là phải có tư duy đúng về mô hình tăng trưởng kinh tế, hướng tới mô hình hiện đại,
tức là mô hình đặt các mục tiêu chất lượng (cơ cấu, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, vị
thế của nền kinh tế trong hệ thống phân công lao động quốc tế và khu vực...) lên vị
trí ưu tiên hàng đầu so với mục tiêu tăng trưởng sản lượng (tốc độ tăng GDP, tiết
kiệm, đầu tư, xuất khẩu và nhập khẩu...).

Theo đó, phải đổi mới tư duy phát triển, tư duy chính sách, nghĩa là phải
chuyển nhanh và triệt để tư duy “coi tốc độ tăng trưởng cao là ưu tiên hàng đầu và
phải đạt được bằng mọi giá” sang tư duy, trước hết, nhấn mạnh đến hiệu quả, năng
lực cạnh tranh và vị thế của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Nói một
cách cô đọng là điều chỉnh tư duy phát triển từ theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng
mọi giá sang phát triển hiệu quả và bền vững.
3.4. Những bài học rút ra từ công cuộc đổi mới tư duy nói riêng và đại hội Đảng VI nói
chung
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội và trong tám thập kỷ qua, Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó.Trong hơn 20
năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp. Cuối những năm 80, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô
sụp đổ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực bị lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng thế
giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy.Tình hình đó đã tác động đến cách
mạng nước ta. Đứng trước tình thế hiểm nghèo đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng,
Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã chọn - con đường hợp quy luật
phát triển của cách mạng Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh, phù hợp với con đường phát triển của nhân loại.
Trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 Đảng ta
đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho cách mạng nước ta.
Trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đảng ta đặt vấn đề xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới đã
khẳng định giá trị , sức sống của chủ nghĩa Mác-leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là kiên định tính biện chứng,
là điều kiện cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong bối cảnh mới vơ cùng phức tạp của tình hình thế giới.
Hai là, Đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp
Công cuộc cải tổ, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa cho thấy, nếu xác định
đúng mục tiêu, song khơng xác định đúng phương hướng, bước đi thì vẫn có thể
khơng thành cơng.Đối với nước ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách
mạng, tồn diện, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, tuy nhiên phải xác
định trọng tâm, trọng điểm và phải có các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp,
phải nắm lấy khâu then chốt trong mỗi thời kỳ, phải nắm vững các mối quan hệ biện
chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và quốc phịng - an ninh, trong đó
xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong quá trình đổi mới, nước ta kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ
nước của lịch sử dân tộc, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn
hóa nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những giá trị tư
tưởng về nhà nước pháp quyền.
Ba là, Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện về bản
chất mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính những sáng kiến của nhân dân, của
cơ sở nảy sinh từ cuộc sống thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc để hình thành chủ trương
đổi mới của Đảng. Đường lối đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, thể
hiện ý Đảng lịng dân nên được tồn dân ủng hộ và thực hiện một cách sáng tạo đã
giải phóng được mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát
triển xã hội, khơi dậy được tài sức của nhân dân để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn
mà Đảng ta phải nghiên cứu giải quyết.Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn. Những bài học rút ra trong sự nghiệp đổi mới vừa qua sẽ góp phần
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi tới thành cơng, nhất là phải đối phó với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu và nhiều vấn đề cấp bách khác như biến đổi khí hậu, dịch
bệnh,…
Do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, nạn quan lieu, tham nhũng, lãng phí
đang tiếp tục diễn ra ở một số cán bộ và một số cơ quan quan trọng làm cho quan
hệ giữa Đảng và nhân dân bị giảm sút. Vì vậy. phải củng cố và tăng cường mối quan
hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân.
Bốn là , Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới Trong quá trình đổi mới,
Đảng ta luôn coi trọng việc phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước
nhanh và bền vững, trong đó phát huy nội lực là nhân tố quyết định, khai thác nhân
tố ngoại lực là quan trọng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão,
kinh tế tri thức ngày càng phát triển, chúng ta phải chủ động sử dụng những thành
tựu khoa học và công nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới...) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát triển kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề để phát triển và ứng dụng khoa học - cơng nghệ hiện đại của thế
giới.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, tác
động tất cả các quốc gia trên thế giới. Đảng ta đã đề ra chủ trương chủ động hội
nhập hóa kinh tế quốc tế. Vì thế chúng ta đã thiết lập ngoại giao với 167 nước, có
quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, chúng ta đã gia nhập AFTA,
ASEM, APEC và năm 2006 đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhờ vậy,
chúng ta đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài FDI và ODA. Chúng ta
cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế,
tranh thủ được số lượng vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ kinh nghiệm
quản lý của nước ngoài, mở rộng thị trường để phát triển đất nước.
Sự khai thác ngoại lực làm tăng lên sức mạnh của nội lực. Việc phát huy nội lực
tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Trong việc khai thác ngoại lực,
sử dụng sức mạnh của thời đại, chúng ta phải đứng vững trên các nguyên tắc tơn
trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc. 5. Phải nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân Thực tiễn công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới. Nhờ có đường lối đổi mới đúng
đắn, ngày càng hồn thiện, vai trị lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng được
tăng cường, do đó, công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xuất được nhân dân hưởng
ứng ứng biến thành hành động sôi nổi, rộng khắp của quần chúng. Trong quy trình
đổi mới, Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong
điều kiện mới là nhiệm vụ sống cịn trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng. Trong quá
trình đổi mới, Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Dân
chủ hóa đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng của con người được phát huy,
tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào
quá trình sáng tạo ra xã hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trị của Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, lấy
việc giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng. Phải tạo điều kiện và cơ chế
cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt chức năng giám sát và
phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trên đây là những bài học lớn được rút ra từ công cuộc đổi mới.Những bài học
này có ý nghĩa chỉ đạo tiếp tục cho cơng cuộc đổi mới đi vào chiều sâu.Vì vậy, nắm
vững và quán triệt chúng để đẩy mạnh tồn diện công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là yêu cầu quan trọng hiện nay và sắp tới.

III. Kết luận


Có thể nhận thấy rằng, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới,
bắt đầu từ đổi mới tư duy . Tư duy đổi mới của Đại hội đã đi vào thực tiễn đời sống
kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội, là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất
nước, mà thành tựu nổi bật là nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, và hiện đã trở thành
nước có thu nhập trung bình, đang trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức...
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển kinh tế - xã hội ở
nước ta còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, mà một trong những nguyên nhân là tư
duy về phát triển kinh tế - xã hội đã tới hạn, nhiều chủ trương, chính sách khơng cịn
phát huy được tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu. Thời kỳ mới đòi hỏi phát triển
đất nước toàn diện và đồng bộ hơn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm. Vì thế, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy
phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực mới cho sự phát triển đột phá kinh tế - xã
hội của đất nước. Thời kỳ phát triển mới của đất nước đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồnng bộ hơn nữa.
Với tư cách là một sinh viên và Đảng viên đang học tập và làm việc theo sự chỉ
đạo của Đảng, tôi tự rút ra được bài học cho bản thân rằng : Để vượt qua khó khăn,
thách thức, đưa đất nước tiến lên phải đổi mới toàn diện, đồng bộ, đặc biệt là đổi
mới tư duy . Chính nhờ đổi mới mạnh mẽ tư duy mà chúng ta đã giành được những
thành tựu to lớn trong những năm qua. Mặt khác, thực tiễn của phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế cũng cho chúng ta bài họcvề đổi mới phải có nguyên tắc,
đúng định hướng. Đổi mới mà xa rời nguyên tắc, chệch choạc về định hướng thì sẽ
dẫn đến đổ vỡ, thất bại. Chúng ta cần kiên định và sáng tạo trong vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vững vàng trên con đường xây
dựng Tổ Quốc Xã hội chủ nghĩa.

Tài liệu tham khảo


1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đổi mới tư duy là yếu tố quyết định, mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội
có tính đột phá ở nước ta trong thời kỳ mới (tạp chí tổ chức nhà nước)
3. Vận dụng sáng tạo lý luận về xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới (cổng thông
tin điện tử viện kiểm soát nhân dân tối cao)
4. Các nguồn thông tin internet khác…

You might also like